Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học theo pháp luật sở hữu trí tuệ từ thực tiễn đại học y dược thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ THANH TÂM

QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
THEO PHÁP LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ TỪ THỰC TIỄN ĐẠI HỌC
Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – NĂM 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ THANH TÂM

QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
THEO PHÁP LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ TỪ THỰC TIỄN ĐẠI HỌC
Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành : Luật Kinh Tế
Mã số

: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LÊ MAI THANH

HÀ NỘI – NĂM 2017


LỜI CAM KẾT

Tôi: Lê Thị Thanh Tâm
Học viên Cao học - Khóa VI.1 (2015 - 2017)
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, dữ liệu và một số kiến thức của các tác giả khác trong luận văn này được
sử dụng trung thực, có đầy đủ nguồn dữ liệu đáng tin cậy theo quy trình của
một công trình khoa học. Kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực.


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC .....................................5
1.1. Khái niệm và đặc điểm quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu
khoa học ...........................................................................................................5
1.1.1. Khái niệm quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học.............5
1.1.2. Đặc điểm quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học..............7
1.2. Hình thức và tiêu chí xác lập quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu
khoa học ...........................................................................................................9
1.2.1. Hình thức xác lập quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học 9
1.2.2. Tiêu chí xác lập quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học .10

1.3. Nội dung và thực thi quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học .11
1.3.1. Nội dung Quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học ..........11
1.3.2. Thực thi quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học ..............20
1.4. Cơ sở pháp lý về bảo hộ quyền tác giả. ..........................................................23
1.4.1. Pháp luật Việt Nam ..................................................................................23
1.4.2. Pháp luật quốc tế......................................................................................25
Chương 2 THỰC TRẠNG QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI CÔNG TRÌNH
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TỪ THỰC TIỄN ĐẠI HỌC Y DƯỢC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ...........................................................27
2.1. Đặc điểm các công trình nghiên cứu khoa học tại Đại học Y Dược thành phố
Hồ Chí Minh và các yêu cầu bảo hộ quyền tác giả đối với công trình nghiên
cứu khoa học...................................................................................................27
2.1.1. Đặc điểm các công trình nghiên cứu khoa học tại Đại học Y Dược Thành
phố Hồ Chí Minh .....................................................................................28
2.1.2. Các yêu cầu bảo hộ quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu
khoa học...................................................................................................31


2.2. Thực trạng xác lập quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học tại
Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh ......................................................34
2.3. Thực trạng khai thác quyền của chủ sở hữu, của tác giả đối với công trình
nghiên cứu khoa học tại Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh ...............36
2.4. Thực trạng thực thi quyền quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa
học theo pháp luật sở hữu trí tuệ từ thực tiễn Đại học Y Dược thành phố Hồ
Chí Minh .........................................................................................................43
Chương 3 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
KHOA HỌC .........................................................................................53
3.1. Định hướng, hoàn thiện pháp luật về quyền tác giả đối với công trình nghiên
cứu khoa học...................................................................................................53

3.1.1. Bảo hộ quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học trên cơ sở
cân bằng lợi ích của chủ sở hữu công trình khoa học và sự thụ hưởng
của xã hội ................................................................................................53
3.1.2. Bảo hộ quyền tác giả đáp ứng các điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên ................................................................................................58
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu
khoa học .........................................................................................................60
3.2.1. Kiến nghị cụ thể sửa đổi bổ sung pháp luật quyền tác giả đối với công
trình nghiên cứu khoa học .......................................................................62
3.2.2. Kiến nghị nâng cao năng lực cơ chế thực thi quyền tác giả đối với công
trình nghiên cứu khoa học .......................................................................64
KẾT LUẬN ..............................................................................................................72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................74


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt

Từ/cụm từ được viết tắt

CƯ Berne

Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và
nghệ thuật năm 1886

CSH

Chủ sở hữu

ĐHYD TP.HCM


Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh

Hiệp định TRIPs

Hiệp định TRIPs về những khía cạnh liên quan tới
thương mại của quyền sở hữu trí tuệ

Luật SHTT

Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 số 50/2005/QH11 ngày
29 tháng 11 năm 2005, được sửa đổi, bổ sung bởi
Luật số 36/2009/QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2009

NCKH

Nghiên cứu khoa học

Nghị định

Nghị định số 100/2006/NĐ-CP/2006 ngày 21/9/2006

100/2006/NĐ- CP

của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Bộ luật dân sự, Luật Sở hữu trí
tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan được sửa đổi
bổ sung bằng Nghị định số 85/2011/NĐ-CP/2011
ngày 20/9/2011 của chính phủ


Nghị định

Nghị định 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của

105/2006/NĐ- CP

Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của luật SHTT về bảo vệ quyền SHTT và
quản lý nhà nước về SHTT được sửa đổi bổ sung
Nghị định số 119/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010

QTG

Quyền tác giả

PMMT

Phần mềm máy tính

PLVN

Pháp luật Việt Nam


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các quốc gia trên thế giới đều tạo điều kiện cho mỗi cá nhân được thỏa sức
sáng tạo và thể hiện ý tưởng của mình ra cộng đồng. Quyền tác giả (QTG) là một
công cụ pháp lý quan trọng để bảo hộ sự sáng tạo. Thông qua việc trao cho tác giả,
chủ sở hữu (CSH) các quyền và lợi ích hợp lý, sẽ khuyến khích sáng tạo, phát triển

và phổ biến các sáng tạo khoa học. Như vậy, công chúng được tạo điều kiện để
được hưởng thụ, tiếp cận các sáng tạo đó. Đối với Việt Nam, cần kích thích được
hoạt động sáng tạo thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) nhất là ở các
trường đại học. Cần đẩy mạnh việc thương mại hoá các công trình NCKH của các
giảng viên đại học và sinh viên.
Có thể nói, chưa bao giờ vấn đề bảo hộ QTG đối với công trình NCKH
trong trường đại học lại được quan tâm như thời gian gần đây. Lý do là bởi trong
thời đại công nghệ, việc vi phạm bản quyền các công trình NCKH trong trường đại
học và sử dụng trái phép các tài sản trí tuệ này trở nên đa dạng và phức tạp. Công
tác bảo hộ QTG của các trường đại học trong nhiều năm qua chưa được chú trọng,
nhiều công trình NCKH của các cán bộ, giảng viên trong các trường đại học bị xâm
hại.
Chức năng chính của trường đại học là giáo dục, đào tạo và NCKH. Nhưng
hiện nay sở hữu trí tuệ (SHTT) một trong những vấn đề không kém phần quan trọng
của trường đại học là chuyển giao công nghệ, đưa các kết quả nghiên cứu áp dụng
vào thực tiễn sản xuất kinh doanh. Đây là một phần không thể thiếu trong công tác
NCKH, song tại Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHYD TP.HCM) hoạt
động này vẫn chưa được nhà trường quan tâm.
Vì vậy cần phải xây dựng một nền văn hóa SHTT, một quy chế về SHTT
trong ĐHYD TP.HCM. Xuất phát từ những lý do đó nên học viên chọn đề tài
“Quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học theo pháp luật sở hữu trí tuệ
từ thực tiễn Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài Luận văn cao học.

1


2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Liên quan đến quyền tác giả, Việt Nam đã có không ít đề tài nghiên cứu
khoa hoc, luận văn thạc sĩ, bài viết nghiên cứu thể hiện qua các công trình như sau:
- Luận văn thạc sĩ “ Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc giải quyết

tranh chấp về quyền tác giả ở Việt Nam’, của tác giả Châu Huy Quang, Tp. Hồ Chí
Minh, 2003.
- Luận văn thạc sĩ “ Bảo hộ quyền tác giả trong hợp đồng sử dụng tác phẩm
theo pháp luật Việt Nam”, của tác giả Nguyễn Hoàng Giao, 2004.
- Luận văn thạc sĩ “Nâng cao hiệu quả thực thi quyền liên quan đến quyền
tác giả tại Việt Nam”, của tác giả Trương Thế Hào Kiệt, 2007.
- Luận văn thạc sĩ “Bảo hộ quyền tác giả của tổ chức phát sóng truyền hình
theo pháp luật sở hữu trí tuệ ở Việt Nam.”, của tác giả Phạm Như Gái 2011
- Luận văn thạc sĩ “ Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm
nhạc được khai thác trên tàu bay.” của tác giả Nguyễn Thị Hà Linh 2012
- Luận văn thạc sĩ “Giới hạn quyền tác giả theo hiệp định TRIPs và pháp
luật Việt Nam”, của tác giả Nguyễn Thị Tuyết Nga, 2012.
- Luận văn thạc sĩ “ Pháp luật về quyền tác giả ở Việt Nam thực trạng và
hướng hoàn thiện”, của tác giả Phạm Hùng,, 2012.
Các đề tài NCKH
- Bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan ở Việt Nam trước yêu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội, Vũ Thị Hải Yến chủ nhiệm đề
tài, Hà Nội, 2010.
- Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường số tại Việt Nam, Viện Công nghệ
phần mềm và Nội dung số Việt Nam, Tp. Hồ Chí Minh, Trường Đại học Luật Tp.
Hồ Chí Minh, 2014.
- Quyền tác giả trong hoạt động thư viện tại các trường đại học, TS. Lê Thị
Nam Giang, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, 2016.
Tuy nhiên, trên đây là những công trình, bài viết tiếp cận từ góc độ nghiên
cứu chung về quyền tác giả, hoặc nghiên cứu QTG dưới góc độ khác, chưa có công

2


trình nào nghiên cứu QTG dưới góc độ đối với công trình NCKH trong trường đại

học chính vì vậy, đề tài “Quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học theo
pháp luật sở hữu trí tuệ từ thực tiễn Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh.” là đề
tài tiếp cận từ đặc điểm thực tiễn ĐHYD TP.HCM để từ đó đưa ra định hướng và
giải pháp hoàn thiện pháp luật QTG đối với công trình NCKH Việt Nam nói chung
và công trình NCKH ở ĐHYD TP.HCM nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu của Luận văn là xác định phương hướng và giải pháp góp phần
hoàn thiện pháp luật về QTG đối với công trình NCKH tại ĐHYD TP.HCM.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về quyền tác giả đối với công
trình NCKH và cơ sở pháp luật của Việt Nam bảo hộ quyền này.
Luận văn đánh giá thực trạng pháp luật về quyền tác giả đối với công trình
NCKH tại ĐHYD TP.HCM.
Trên cơ sở thực trạng nói trên Luận văn đề xuất phương hướng và kiến nghị
hoàn thiện pháp luật về QTG đối với công trình NCKH nói chung, tại ĐHYD
TP.HCM nói riêng.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu, phân tích, đánh giá pháp luật về QTG đối với công
trình NCKH thông qua thực tiễn tại ĐHYD TP.HCM
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu pháp luật bảo hộ QTG đối với công trình
NCKH mà không bao gồm các đối tượng khác của QTG
Luận văn giới hạn đánh giá thực trạng pháp luật thông qua thực tiễn bảo hộ
QTG đối với các công trình NCKH tại ĐHYD Tp.HCM từ khi luật SHTT có hiệu
lực.

3



5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và chủ
nghĩa Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật làm phương pháp luận nghiên cứu về
QTG đối với công trình NCKH.
- Để đạt được mục đích nghiên cứu, thì các phương pháp NCKH chuyên
ngành đều được áp dụng như: phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp hệ
thống, phương pháp thống kê, phương pháp điều tra…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Hệ thống hóa lý luận chung về QTG đối với công trình NCKH.
Qua thực trạng về QTG đối với công trình NCKH tại Đại học Y Dược
Tp.HCM đưa ra kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả về QTG
đối với công trình NCKH
7. Cơ cấu của luận văn
Trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu luận văn có cơ cấu
gồm:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
có 3 chương :
- Chương 1: Những vấn đề pháp lý về quyền tác giả đối với công trình
nghiên cứu khoa học.
- Chương 2: Thực trạng quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa
học qua thực tiễn tại Đại học Y Dược TP.HCM.
- Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền tác giả
đối với công trình nghiên cứu khoa học.

4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI CÔNG TRÌNH

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
1.1. Khái niệm và đặc điểm quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu
khoa học
1.1.1. Khái niệm quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học
Quyền tác giả (QTG) hiểu một cách đơn giản là những quyền mà pháp luật
thừa nhận và bảo hộ đối với tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả (CSH QTG) cũng như
các chủ thể khác được phép sử dụng các công trình NCKH. QTG cho phép các chủ
thể quyền được độc quyền khai thác các công trình NCKH chống lại việc sao chép
bất hợp pháp. Ví dụ, tác giả đồng thời là CSH một công trình NCKH được làm chủ
thành quả lao động trí tuệ của mình, được bảo đảm quyền nhân thân, độc quyền
công bố, xuất bản công trình NCKH của mình. Việc sao chép, phổ biến nội dung
của công trình NCKH mà không có sự đồng ý của tác giả đồng thời là CSH QTG là
xâm phạm QTG.[31 tr.49]
Quyền tác giả là độc quyền của tác giả, của CSH QTG đối với công trình
NCKH của mình. QTG là quyền mà pháp luật cho phép người đã sáng tạo ra công
trình NCKH dùng để bảo vệ các sáng tạo của mình. Quyền này bảo vệ các quyền lợi
cá nhân và lợi ích kinh tế của tác giả, CSH QTG trong mối liên quan với công trình
NCKH này. QTG thông thường chỉ được công nhận khi sáng tạo này mới, có một
phần công lao của tác giả và có thể chỉ ra được là có tính chất duy nhất [50]. QTG
không cần phải đăng ký, tự động phát sinh từ thời điểm công trình NCKH được
định hình dưới một hình thức vật chất nhất định, bất kể công trình NCKH đã công
bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký và thuộc về tác giả khi công
trình NCKH được ghi giữ lại ít nhất một lần trên một phương tiện lưu trữ. (việc
đăng ký công trình NCKH theo thủ tục luật định không có giá trị thiết lập, chỉ có giá
trị làm giảm nhẹ nghĩa vụ chứng minh của người đăng ký công trình NCKH trong
trường hợp có tranh chấp, nếu không có chứng cứ ngược trở lại).

5



Quyền tác giả là một trong các nội dung của quyền SHTT, là một chế định
tương đối quan trọng. Việc quy định và hoàn thiện hơn QTG hiện nay là việc làm
cần thiết thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với hoạt động sáng tạo khoa học
ngay trong Điều 62 Hiến Pháp 2013 đã khẳng định cho thấy sự quan tâm của nhà
nước đối với hoạt động SHTT nói chung QTG nói riêng.
Đối tượng của QTG là những công trình NCKH - thành quả lao động trí óc.
Trong thời đại mà sự phát triển bùng nổ như vũ bão về hoạt động công nghệ thông
tin, thì các phương tiện truyền thông đa dạng trở thành công cụ chủ yếu để chuyển
tải kiến thức, thành tựu đến khắp nơi trên thế giới đây là vấn đề khó khăn, phức tạp
trong công tác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người sáng tạo và tạo điều kiện
khuyến khích cho hoạt động NCKH. QTG là một quyền năng rất quan trọng có liên
quan thiết thực đến lợi ích của những người sáng tạo khoa học nói riêng và tác động
đến cả xã hội nói chung.[2],[20]
Luật SHTT khoản 2 Điều 4 Luật SHTT quy định: “Quyền tác giả là quyền
của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”, tại điều 18
quy định: “Quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác
phẩm”, (tác phẩm trong luận văn là công trình NCKH) của chủ thể với tư cách là tác
giả hoặc CSH QTG. Như vậy, QTG được trao cho, nếu chủ thể là cá nhân thì có thể
đóng vai trò là tác giả hoặc CSH hoặc cả hai. Còn chủ thể là tổ chức thì có QTG với
tư cách là CSH [24, tr.18]. Với điều kiện công trình NCKH là sự tư duy độc lập, là
hệ thống ý tưởng và cụ thể hóa ý tưởng dưới hình thức nhất định. Luật bảo vệ
những ý tưởng được vật chất hóa, những hành vi sáng tạo xuất phát từ ý tưởng của
kết quả nghiên cứu đó cũng được thừa nhận. Pháp luật về QTG bảo vệ sự thể hiện
kết quả nghiên cứu, không bảo vệ những ý tưởng.
Quyền tác giả là quyền dân sự cụ thể (quyền tài sản và quyền nhân thân) của
chủ thể quyền đối với công trình NCKH. Công trình NCKH được sáng tạo ra thể
hiện dưới hình thức khách quan và được các quy phạm pháp luật điều chỉnh, theo
đó quan hệ về QTG được xác lập.

6



Một là, chủ thể của QTG (có thể là một cá nhân hay tập thể tác giả) là người
trực tiếp sáng tạo toàn bộ hoặc một phần công trình NCKH và CSH QTG có những
quyền nhất định đối với công trình NCKH khi đã được thể hiện dưới hình thức vật
chất nhất định.
Hai là, đối tượng của QTG là các công trình NCKH do tác giả sáng tạo ra
bằng lao động trí tuệ.
Ba là, nội dung QTG là tổng hợp các quyền nhân thân và quyền tài sản của
các chủ thể quyền. Các quyền này phát sinh từ khi công trình NCKH đó được pháp
luật ghi nhận và bảo hộ.
Vậy, Quyền tác giả đối với công trình NCKH là tập hợp các quyền được
pháp luật thừa nhận gồm quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả, CSH QTG
hoặc chủ thể được phép sử dụng công trình NCKH do mình sáng tạo hoặc sở hữu và
được định hình dưới dạng vật chất nhất định không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký
bảo hộ hoặc đã công bố hay chưa công bố.
1.1.2. Đặc điểm quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học
Ngoài các đặc điểm chung của quyền SHTT là tính lãnh thổ triệt để, tính vô
hình cũng như tính hữu hạn trong thời hạn bảo hộ của quyền tài sản này, QTG đối
với các công trình NCKH còn những đặc điểm riêng sau:
Quyền tác giả chỉ được công nhận khi công trình NCKH là sản phẩm của lao
động trí tuệ, sáng tạo mới, có một phần công lao của tác giả (không đơn thuần chỉ là
sao chép từ các nguồn đã biết) và có tính chất duy nhất. Đối tượng của QTG là công
trình NCKH phải là sự sáng tạo, luôn mang tính sáng tạo trực tiếp từ con người cụ
thể mang dấu ấn cá nhân thông qua hoạt động trí não, kinh nghiệm bản thân và các
yếu tố hổ trợ khác tạo ra thành quả chính là công trình NCKH và được thể hiện dưới
hình thức nhất định. Mọi cá nhân đều có quyền sáng tạo khoa học và khi cá nhân
tạo ra công trình NCKH đó phải do tác giả trực tiếp thực hiện hoạt động lao động trí
tuệ của mình mà không phải sao chép từ công trình NCKH của người khác, ( khoản
3 điều 14 luật SHTT). Cá nhân làm các công việc hỗ trợ đóng góp ý kiến hoặc cung

cấp phương tiện kỹ thuật, tư liệu, cung cấp tài chính, đưa ra ý tưởng để người khác
sáng tạo không phải là tác giả.

7


Quyền tác giả có thể bị giới hạn về thời gian theo quy định của pháp luật
như: quyền công bố, phổ biến công trình NCKH cũng như quyền cho người khác
hoặc không cho người khác sử dụng công trình NCKH của tác giả đồng thời là CSH
QTG đối với công trình NCKH và chỉ được bảo hộ trong thời hạn suốt cuộc đời tác
giả và 50 năm tiếp theo năm tác giả chết. QTG có thể bị giới hạn về không gian,
một công trình NCKH có thể được bảo hộ ở nước ngoài, nhưng không được bảo hộ
ở Việt Nam vì không đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ theo pháp luật Việt Nam
(PLVN), hoặc ngược lại, một công trình NCKH có thể được bảo hộ ở Việt Nam,
nhưng không được bảo hộ ở nước ngoài vì không đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ
theo pháp luật nước ngoài. QTG có thể bị giới hạn về phạm vi như quyền của tác
giả đồng thời là CSH QTG có thể bị giới hạn trong trường hợp người khác sử dụng
công trình NCKH nhằm mục đích trích dẫn để bình luận hoặc minh họa trong
nghiên cứu của họ mà không làm sai lệch ý của tác giả. QTG có thể không được
thừa nhận, bảo hộ đối với một số công trình NCKH vi phạm đạo đức, trật tự công
cộng…[7, tr. 47- 48]
Phải đảm bảo tính nguyên gốc điều đó không có nghĩa là đòi hỏi ý tưởng của
công trình NCKH phải mới mà là hình thức thể hiện của ý tưởng phải do chính tác
giả sáng tạo ra. Tính nguyên gốc không có nghĩa là không có tính kế thừa [26, tr.
50] nhưng mang đặc trưng riêng biệt có tính sáng tạo với tính cách riêng của tác giả
là công trình nghiên cứu được tác giả sáng tạo độc lập.
Quyền tác giả thiên về việc bảo hộ hình thức thể hiện công trình NCKH.
Pháp luật về QTG chỉ bảo hộ hình thức chứa đựng công trình NCKH khi nó được
tạo ra và thể hiện dưới hình thức nhất định, mà không bảo hộ ý tưởng sáng tạo khoa
học, không bảo hộ nội dung ý nghĩa gíá trị của ý tưởng khoa học. Sự định hình của

một công trình NCKH được hiểu là khi công trình NCKH xác nhập trên một đối
tượng vật chất nào đó, ở trạng thái đủ ổn định hoặc bền vững để có thể nhận biết
trực tiếp, thông qua các giác quan của con người hoặc gián tiếp thông qua máy móc
thiết bị hỗ trợ mà con người có thể sao chép, nhân bản công trình NCKH và truyền
đạt cho người khác [7, tr.32].

8


Hình thức xác lập quyền theo cơ chế bảo hộ tự động. QTG được xác lập dựa
vào chính hành vi tạo ra công trình NCKH của tác giả, không phụ thuộc vào thể
thức, thủ tục nào. QTG không được bảo hộ một cách tuyệt đối mà có giới hạn. Chủ
thể khác được phép sử dụng công trình NCKH được bảo hộ nếu việc sử dụng đó
không nhằm mục đích kinh doanh, không ảnh hưởng đến việc sử dụng, khai thác
bình thường của công trình NCKH, không xâm hại đến các quyền, lợi ích hợp pháp
khác của tác giả và CSH QTG [45].
1.2. Hình thức và tiêu chí xác lập quyền tác giả đối với công trình nghiên
cứu khoa học
1.2.1. Hình thức xác lập quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa
học
Quyền tác giả được xác lập một cách tự động nghĩa là QTG được phát sinh
một cách mặc nhiên từ thời điểm công trình NCKH đó được thể hiện dưới hình thức
khách quan mà người khác có thể nhận biết được mà không phụ thuộc vào bất kỳ
thủ tục đăng ký nào. QTG được bảo hộ tự động bất chấp các yếu tố chất lượng hay
giá trị của một công trình NCKH, ví dụ như: một công trình NCKH của sinh viên
được bảo hộ QTG đầy đủ và cũng không cần đáp ứng bất kỳ tiêu chuẩn nào về độ
chính xác hay số điểm của công trình nghiên cứu đó.
Về nguyên tắc, nhà nước bảo hộ các công trình NCKH mà không có sự phân
biệt về hình thức, ngôn ngữ thể hiện của công trình NCKH và cũng không có sự
phân biệt về chất lượng, giá trị và mục đích sử dụng của công trình NCKH đó, giá

trị hoặc ý nghĩa khoa học của công trình NCKH được đánh giá theo cách chủ quan
của mỗi cá nhân, có thể có sự khác biệt giữa những người đánh giá và ngay cả đối
với một người thì sự đánh giá đó cũng có thể thay đổi theo thời gian hoàn cảnh
khách quan, trạng thái tâm lý.
Vì Quyền tác giả được pháp luật bảo vệ ngay từ khi công trình NCKH hình
thành dù có đăng ký hay không đăng ký, điều đó có nghĩa là công trình NCKH
không đăng ký bảo hộ và có đăng ký bảo hộ đều có cơ chế bảo hộ giống nhau. Do
việc thực thi QTG ở Việt Nam trong thời gian qua chưa có hiệu quả, có rất nhiều

9


trường hợp công trình NCKH bị chiếm đoạt, khó khăn trong việc xác định CSH
QTG thực sự, nên việc đăng ký QTG hiện nay được coi là một cơ chế hỗ trợ không
bắt buộc để bảo vệ QTG, nghĩa là CSH QTG có thể lựa chọn việc đăng ký, điều này
không ảnh hưởng đến quyền được bảo hộ của CSH QTG. Việc đăng ký chỉ mang ý
nghĩa xác nhận đối với công trình NCKH, chứ không có ý nghĩa chứng minh QTG
thuộc về người đăng ký, người đứng tên trong Giấy chứng nhận, vì nếu có cá nhân,
tổ chức khác có bằng chứng, chứng minh được việc người đã đăng kí đứng tên
không phải CSH QTG, thì người đăng ký, đứng tên đó cũng không được bảo hộ
QTG đối với công trình NCKH. CSH QTG có thể đăng ký bảo hộ QTG tại cục bản
quyền, dù không bắt buộc thì vẫn nên đăng ký bảo hộ. Trong trường hợp khi phát
sinh tranh chấp QTG, tác giả, CSH QTG phải có nghĩa vụ chứng minh quyền của
mình đối với công trình NCKH đó, tức phải cung cấp các tài liệu, chứng cứ, chứng
minh quyền sở hữu hợp pháp của mình. Văn bằng bảo hộ QTG là một căn cứ hợp
pháp, là cơ sở tốt nhất, là bằng chứng rõ ràng nhất chứng minh quyền sở hữu của
tác giả, của CSH QTG đối với công trình NCKH mà họ sáng tạo ra hoặc sở hữu.
Tại khoản 1 điều 49 luật SHTT quy định: “ Đăng ký quyền tác giả, quyền
liên quan là việc tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan nộp
đơn và hồ sơ kèm theo (sau đây gọi chung là đơn) cho cơ quan nhà nước có thẩm

quyền để ghi nhận các thông tin về tác giả, tác phẩm, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ
sở hữu quyền liên quan”. Việc QTG được bảo hộ hay không, không phụ thuộc vào
việc nộp đơn. Công trình NCKH được bảo hộ kể từ thời điểm được định hình. Hơn
nữa, thủ tục đăng ký QTG không quá phức tạp và chi phí nhỏ so với lợi ích thiết
thực mang lại. Do vậy, khi sáng tạo ra công trình NCKH, đặc biệt các công trình
NCKH có giá trị kinh tế, thương mại cao, có nhiều khả năng bị xâm phạm, thủ tục
nộp đơn đăng kí là cần thiết.
1.2.2. Tiêu chí xác lập quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa
học
Để được bảo hộ QTG, công trình NCKH phải có tính nguyên gốc. Khái niệm
“nguyên gốc” là khái niệm rất quan trọng nhưng không được quy định cụ thể trong

10


luật mà được hiểu tính nguyên gốc liên quan đến hình thức thể hiện ý tưởng chứ
không liên quan đến bản thân ý tưởng hay ý nghĩa bên trong nó. Tính nguyên gốc
có nghĩa là công trình NCKH được sáng tạo ra một cách độc lập, trực tiếp từ lao
động tri thức, thể hiện phong cách riêng của tác giả và không sao chép từ bất kỳ một
công trình NCKH nào khác. Việc bảo hộ QTG chỉ được áp dụng đối với những
đóng góp mang tính nguyên gốc của công trình NCKH và không được áp dụng với
bất cứ yếu tố nào vay mượn từ công trình NCKH khác.Việc phân định công trình
NCKH gốc thì chính tác giả hoặc người có chuyên môn sâu về lĩnh vực liên quan
mới có thể thực hiện được.
Để được bảo hộ QTG, công trình NCKH phải được định hình dưới một dạng
vật chất nhất định, bất chấp các yếu tố sáng tạo của chúng, chất lượng hay giá trị
khoa học. Công trình NCKH không được bảo hộ dưới dạng ý tưởng chỉ bảo hộ cách
thức thể hiện ý tưởng dưới một dạng cụ thể (khoản 1 điều 6 luật SHTT) mà thông
qua đó công chúng biết đến sự tồn tại của các công trình NCKH đó bằng hình thức
trực tiếp hoặc gián tiếp.

1.3. Nội dung và thực thi quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu
khoa học
1.3.1. Nội dung Quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học
Nội dung QTG bao gồm các quyền của các chủ thể như tác giả, CSH QTG
và các chủ thể được phép khai thác quyền tác giả. QTG đối với công trình NCKH là
một tập hợp các quyền của các chủ thể quyền đối với công trình NCKH do họ sáng
tạo ra hoặc sở hữu, các quyền này được pháp luật bảo hộ và thừa nhận gồm: quyền
nhân thân được quy định tại điều 19 Luật SHTT, Điều 22 Nghị định 100/2006/NĐ –
CP và quyền tài sản được quy định tại điều 20 Luật SHTT, Điều 23 Nghị định số
100/2006/NĐ – CP .
Quyền nhân thân gồm có quyền nhân thân không gắn liền với tài sản và
quyền nhân thân gắn với tài sản. Các quyền nhân thân không gắn với tài sản là
những quyền gắn liền với các giá trị nhân thân của tác giả và không thể chuyển giao
không thể thừa kế và được bảo hộ vô thời hạn, thậm chí, có hệ thống pháp luật còn

11


quy định những quyền này không thể khước từ được, chỉ có tác giả mới có đặc
quyền này cho dù tác giả đồng thời hoặc không đồng thời là CSH QTG, bao gồm
các quyền:
Một là, quyền được đặt tên công trình NCKH, có ý nghĩa trong việc cá biệt
hóa công trình NCKH thông qua đó thường phản ảnh nội dung ý tưởng của tác giả
giúp công chúng dễ dàng tiếp cận với ý đồ của tác giả trong công trình NCKH và
không có ý nghĩa pháp lý với việc bảo hộ QTG vì công trình NCKH có thể bảo hộ
khi nó không có tên và quyền đặt tên không áp dụng cho trường hợp tác giả dịch
công trình NCKH từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Quyền đặt tên cho công
trình NCKH là quyền nhân thân chỉ thuộc về tác giả của công trình NCKH kể cả khi
tác giả sáng tạo ra công trình NCKH theo nhiệm vụ được giao hay theo hợp đồng.
Hai là, đứng tên tác giả trong công trình NCKH khoa học. Nếu như ví công

trình NCKH là đứa con tinh thần của tác giả thì các quyền nhân thân này cũng
tương tự quyền của cha mẹ được đặt tên cho con, nhận con và bảo vệ con cái. Để
khẳng định công trình NCKH là kết quả hoạt động sáng tạo của mình tác giả thường
đứng tên trên công trình NCKH đó (có thể dùng tên thật hoặc bút danh). Việc ghi
tên trên công trình NCKH được công bố có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác
định chủ thể được hưởng các quyền nhân thân và quyền tài sản đối với công trình
NCKH. Kể cả trong trường hợp tác giả không đề tên thật hoặc bút danh trên công
trình NCKH đã được công bố ( khuyết danh) thì quyền này vẫn thuộc về tác giả và
tác giả có thể chứng minh tư cách chủ thể của mình bất cứ thời điểm nào. Tác giả có
quyền yêu cầu được nêu tên hoặc bút danh khi công trình NCKH được sử dụng [ 5,
tr.34].
Quyền nhân thân không gắn liền với tài sản ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín
và danh dự của tác giả, tồn tại một cách độc lập đối với quyền tài sản, gắn liền với
tác giả kể cả khi quyền sử dụng, định đoạt công trình NCKH đã được chuyển giao.
Sau khi tác giả chết, việc bảo vệ các quyền này được thực hiện thông qua Nhà nước
hoặc cộng đồng nhân dân. (điều 27 luật SHTT và điều 26 Nghị định
số100/2006/NĐ-CP).

12


Ba là, quyền công bố công trình NCKH hoặc cho phép người khác công bố
công trình NCKH đây là quyền nhân thân duy nhất gắn với các quyền tài sản và có
thể chuyển giao quy định tại khoản 3 điều 19 luật SHTT. Thực chất, quyền này
không hoàn toàn là quyền nhân thân mà là quyền tài sản, vì thông qua việc công bố
công trình NCKH của mình, tác giả thu được những lợi ích kinh tế nhất định.Vì
vậy, quyền này thuộc về tác giả, nếu tác giả đồng thời là CSH QTG và thuộc về
CSH QTG, nếu tác giả không đồng thời là CSH QTG và quyền này chỉ đươc bảo hộ
có thời hạn trong suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả chết, có thể được
chuyển giao và có thể được thừa kế. Tuy nhiên, quyền được nhận giải thưởng đối

với công trình NCKH của mình không chỉ mang ý nghĩa vật chất, mà cả yếu tố tinh
thần trong đó yếu tố tinh thần nổi trội hơn, vì vậy quyền này thuộc về tác giả đồng
thời hay không đồng thời là CSH QTG [7, tr.51].
Bốn là, quyền bảo vệ sự toàn vẹn của công trình NCKH, không cho người
khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc công trình NCKH dưới bất kì hình thức nào
gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả, bảo vệ sự toàn vẹn công trình
NCKH tránh bị sai lệch nội dung kể cả việc làm tăng giá trị công trình NCKH.
Trong các quyền nhân thân không thể chuyển giao thì quyền bảo vệ sự toàn vẹn của
công trình NCKH được coi là quan trọng nhất và trong thực tiễn nó cũng thường bị
xâm phạm nhất. Công trình NCKH là một thể thống nhất thể hiện nội dung, tư
tưởng của tác giả vì vậy, việc sửa chữa, cắt xén công trình NCKH dưới bất kỳ hình
thức nào có thể làm ảnh hưởng đến giá trị nội dung cũng như giá trị khoa học của
công trình NCKH, làm sai lệch, thậm chí bóp méo tư tưởng, chủ ý mà tác giả muốn
thể hiện trong công trình NCKH của họ. Vì vậy, không có chủ thể nào khác ngoài
tác giả có quyền thay đổi nội dung của công trình NCKH kể cả trong trường hợp
việc thay đổi nhằm làm tăng giá trị khoa học, giá trị thực tiễn của công trình NCKH,
trừ trường hợp tác giả cho phép.Tuy nhiên, cũng cần lưu ý một số ngoại lệ của
quyền này:
-Trường hợp trích dẫn hợp lý các công trình NCKH vì mục đích giảng dạy,
NCKH không bị coi là xâm phạm quyền bảo vệ sự toàn vẹn của công trình NCKH.

13


- Trường hợp sau khi công trình NCKH được công bố, những người khác
làm phái sinh, có những thay đổi, sáng tạo mới về nội dung, hình thức thể hiện hay
truyền đạt so với ban đầu cũng không được coi là xâm phạm quyền bảo vệ sự vẹn
toàn của công trình NCKH [5,tr.35],[45].
Cụm từ “gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả” tại khoản 4 Điều
19 Luật SHTT có thể làm cho quyền bảo vệ sự toàn vẹn của công trình NCKH được

hiểu là nếu một người thực hiện hành vi sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc công trình
NCKH của người khác nhưng lại chứng minh được là hành vi đó không gây phương
hại đến danh dự và uy tín của tác giả hoặc chứng minh là hành vi đó đã làm cho
công trình NCKH có giá trị hơn thì không vi phạm. Để tránh việc hiểu như vừa
phân tích thì tại khoản 3 điều 22 Nghị định số 100/2006/NĐ-CP đã quy định:
“Quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén
tác phẩm quy định tại khoản 4 điều 19 của Luật SHTT là việc không cho người
khác sửa chữa, cắt xén tác phẩm trừ trường hợp có thỏa thuận với tác giả”.
Quyền tài sản của tác giả tại điều 20 Luật SHTT là một bộ phận của QTG.
Quyền tài sản là tập hợp các quyền nhằm bảo vệ lợi ích được khai thác, tham gia
vào quá trình sử dụng và khai thác các giá trị kinh tế công trình NCKH của tác
giả.Trong trường hợp tác giả đồng thời là CSH QTG, thì phạm vi các quyền tài sản
của tác giả sẽ rộng hơn so với trường hợp tác giả không đồng thời là CSH QTG.
Các quyền tài sản của tác giả đồng thời là CSH QTG có thể chuyển giao cho người
khác thông qua các giao dịch pháp lý hoặc thông qua thừa kế và có thể bị tịch biên
để thi hành nghĩa vụ. Các quyền tài sản này đều được bảo hộ có thời hạn (trong thời
gian tác giả còn sống và 50 năm sau khi tác giả chết).
Tác giả đồng thời là CSH QTG được độc quyền sử dụng các công trình
NCKH của mình, được cấm mọi hành vi sử dụng công trình NCKH của mình thông
qua người thứ ba. Điều này cũng có nghĩa tác giả đồng thời là CSH QTG là người
có quyền cho phép người khác sử dụng công trình NCKH của mình và hưởng lợi
ích phân chia từ việc cho người khác sử dụng công trình NCKH đó và thường được
thực hiện thông qua hình thức hợp đồng sử dụng công trình NCKH.

14


Khái niệm “sử dụng” ở đây được hiểu là việc khai thác giá trị kinh tế của
công trình NCKH bằng một hoặc nhiều hành vi sử dụng khác nhau (tùy thuộc vào
loại hình công trình NCKH ) như: nhân bản, phổ biến, triển lãm, thuyết trình…

Trường hợp tác giả đồng thời là CSH QTG tự khai thác giá trị kinh tế của công trình
NCKH thì tác giả đồng thời là CSH QTG thu lợi ích từ hoạt động sử dụng đó.
Trong trường hợp tác giả đồng thời là CSH QTG cho người thứ ba khai thác các giá
trị kinh tế của công trình NCKH, thì tác giả đồng thời là CSH QTG có quyền được
hưởng một phần giá trị kinh tế của công trình NCKH thu được từ các hoạt động sử
dụng, tức là được hưởng thù lao, nhuận bút, lợi ích kinh tế từ việc khai thác giá trị
kinh tế của công trình NCKH thông qua người thứ ba.
Vì các quyền được hưởng nhuận bút, hưởng thù lao và những lợi ích vật chất
khác là hệ quả của quyền cho người khác sử dụng công trình NCKH của mình, nên
pháp luật của nhiều nước quy định quyền được độc quyền sử dụng công trình
NCKH, cho hoặc không cho người khác sử dụng công trình NCKH là quyền tài sản.
PLVN quy định quyền này là quyền tinh thần (quyền nhân thân) nhưng lại áp dụng
cách điều chỉnh như các quyền tài sản, tức là quyền này có thể chuyển giao được và
chỉ được bảo hộ có thời hạn.
Đối với trường hợp tác giả không đồng thời là CSH QTG thì quyền nhân
thân của tác giả hẹp hơn so với trường hợp tác giả đồng thời là CSH QTG gồm: các
quyền nhân thân không gắn với tài sản và không thể chuyển giao và quyền bảo vệ
sự toàn vẹn của công trình NCKH, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc
xuyên tạc công trình NCKH dưới bất kì hình thức nào gây phương hại đến danh dự
và uy tín của tác giả.
Quyền tài sản của tác giả không đồng thời là CSH QTG:
Được hưởng nhuận bút; Được hưởng thù lao khi công trình NCKH được sử
dụng; Nhận giải thưởng đối với công trình NCKH mà mình là tác giả. Người có
nghĩa vụ trả nhuận bút trong trường hợp này là CSH QTG bất kể CSH QTG trực
tiếp sử dụng công trình NCKH hay cho phép người thứ ba sử dụng công trình
NCKH và CSH QTG có thu được tiền sử dụng công trình NCKH từ người thứ ba

15



hay không, thì CSH QTG vẫn luôn là người có nghĩa vụ trả tiền nhuận bút cho tác
giả.Trường hợp công trình NCKH được khai thác theo nhiều cách thức sử dụng
khác nhau, thì tác giả được hưởng nhuận bút từ tất cả các hành vi sử dụng theo thỏa
thuận với CSH QTG trên cơ sở các quy định. Trường hợp công trình NCKH được
trao giải thưởng, thì tác giả trực tiếp nhận giải thưởng (kể cả danh hiệu lẫn tiền
thưởng, nếu có) từ cơ quan tổ chức trao giải thưởng, không qua người trung gian là
CSH QTG vì giải thưởng chứa đựng yếu tố tinh thần chiếm ưu thế cao hơn yếu tố
vật chất, nên quyền này thuộc về tác giả.
Trường hợp CSH QTG không đồng thời là tác giả có quyền nhân thân ít hơn
so với trường hợp CSH QTG đồng thời là tác giả gồm: Quyền công bố, phổ biến
hoặc cho người khác công bố, phổ biến công trình NCKH do mình sở hữu và quyền
cho hoặc không cho người khác sử dụng công trình NCKH mà mình sở hữu. Quy
định này mang tính chất bổ trợ, tức là nó chỉ được áp dụng nếu các bên không thỏa
thuận. Nếu các bên có thỏa thuận khác, thì áp dụng theo thỏa thuận của các bên.
Chủ sở hữu quyền tác giả không đồng thời là tác giả có quyền tài sản: được
hưởng lợi ích vật chất từ việc sử dụng công trình NCKH tại điều 36 luật SHTT quy
định: “Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân nắm giữ một, một số hoặc toàn
bộ các quyền tài sản quy định tại điều 20 của Luật này”. CSH QTG có độc quyền
hoặc cho phép người khác thực hiện quyền này và sẽ được hưởng lợi ích từ việc cho
phép người khác thực hiện quyền đó gồm:
- Làm công trình NCKH phái sinh như: dịch, phóng tác, biên soạn, chú giải
tuyển chọn…Người không phải là CSH QTG khi làm công trình NCKH phái sinh
phải trả tiền nhuận bút, thù lao …cho CSH QTG gốc.
- Quyền sao chép công trình NCKH tại khoản 10 điều 4 Luật SHTT: “là việc
tạo ra một hoặc nhiều bản sao của tác phẩm hoặc bản ghi âm, ghi hình bằng bất kì
phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc tạo ra bản sao dưới hình thức điện
tử ’’. Quyền sao chép thuộc QTG một lần nữa được hướng dẫn tại khoản 5 điều 1
Nghị định số 85/2011/NĐ-CP theo đó “quyền sao chép quyền tác giả là một trong
các quyền tài sản độc quyền thuộc quyền tác giả, do chủ sở hữu thực hiện hoặc cho


16


phép người khác thực hiện việc tạo ra bản sao tác phẩm bằng bất kì phương tiện hay
hình thức nào, bao gồm cả việc tạo ra bản sao dưới hình thức điện tử”. Nếu như
trước đây, sao chép thường được hiểu là việc làm các bản sao dưới các hình thức
vật chất hữu hình như văn bản, đĩa…thì quy định này đã mở rộng phạm vi quyền
sao chép đến cả các hình thức điện tử. Quy định này hoàn toàn phù hợp với khái
niệm sao chép trong điều 9 Công ước Berne (CƯ Berne) “tác giả được hưởng độc
quyền cho phép sao in các tác phẩm đó dưới bất kì hình thức nào’’.[32]
Quyền sao chép có một số đặc điểm:
Một là, quyền sao chép theo đúng nghĩa là việc làm bản sao công trình
NCKH ở bất kỳ hình thứ vật chất nào, không phụ thuộc vào việc hành vi đó được
thực hiện ở đâu, khi nào, những bản sao sẽ được đưa ra công chúng hay không. Bên
cạnh đó hành vi sao chép không đòi hỏi phải có một số lượng bản sao nhất định để
đáp ứng nhu cầu hợp lý của công chúng. Sao chép có thể là hành vi chỉ làm một bản
sao công trình NCKH. Như vậy, sao chép khác với công bố công trình NCKH. Tuy
nhiên, cũng có những trường hợp hai quyền năng này được thực thi đồng thời với
nhau.Trong hoạt động xuất bản, thông thường quyền công bố công trình NCKH
được thực hiện đồng thời với quyền sao chép [45], [2].
Hai là, pháp luật về QTG không quy định cụ thể những phương thức sao
chép công trình NCKH mà thừa nhận sao chép công trình NCKH là bất kỳ hình
thức tái tạo lại công trình NCKH trên những vật thể nhất định, trong đó có thể hình
thức bản in hoặc thông qua truyền thông kỹ thuật số như CD-ROM, ghi chép dữ
liệu vào máy tính, tạo ra công trình NCKH trên không gian 2 chiều, không gian 3
chiều ….
Ba là, sao chép công trình NCKH chỉ là việc tái tạo ra một lần nữa công trình
NCKH ở dạng hình thức mà nó đã được tạo ra lần đầu tiên mà còn có thể là việc tái
tạo ra công trình NCKH ở dạng hình thức khác. Luật SHTT chỉ đặt ra một số ngoại
lệ đối với quyền sao chép (điều 25 Luật SHTT) như tự sao chép một bản nhằm mục

đích nghiên cứu, giảng dạy của cá nhân hay sao chép một bản để lưu trữ trong thư
viện (việc sao chép này cũng không áp dụng đối với chương trình máy tính). Như

17


vậy, hành vi sao chép ngoài những trường hợp nêu trên dù thực hiện dưới bất kỳ
hình thức nào (có thể là bản in, sao chép lên đĩa, thông qua các phương tiện kĩ thuật
số, ghi chép vào dữ liệu máy tính ….) thực hiện ở đâu, các bản sao có được phát
hành đến công chúng hay không … đều có thể bị xem là hành vi xâm phạm QTG.
- Quyền phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao công trình NCKH;
Quyền phân phối công trình NCKH được coi là một trong những phương thức sử
dụng công trình NCKH một cách độc lập. Phân phối công trình NCKH là việc đưa
những vật thể hiện hoặc sao chép công trình NCKH vào giao lưu dân sự thông qua
các hợp đồng như mua bán, trao đổi, tặng cho…..Đối tượng phân phối có thể là bản
gốc hoặc bản sao của công trình NCKH.
- Quyền truyền đạt công trình NCKH đến công chúng bằng phương tiện hữu
tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác.
Pháp luật về quyền tác giả ghi nhận những đóng góp về khoa học của tác giả,
CSH QTG bằng cách dành cho họ những độc quyền khai thác, sử dụng những thành
quả sáng tạo, đầu tư của họ. Tuy nhiên những độc quyền đó cũng có khả năng ngăn
cản sự tiếp cận khoa học của đông đảo công chúng, và vô hình chung kìm hãm các
giao lưu dân sự liên quan tới loại quyền tài sản đặc biệt này. Nhằm hài hòa lợi ích
của chủ thể QTG và lợi ích cộng đồng trong việc tiếp cận, sử dụng công trình
NCKH. PLVN quy định các ngoại lệ của độc quyền hay còn gọi là các hạn chế của
QTG đối với một số hành vi sử dụng, khai thác QTG. Việc giới hạn thể hiện trong
những trường hợp nhất định thì cá nhân, tổ chức khác có quyền sử dụng công trình
NCKH được công bố mà không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù
lao hoặc không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ thể
quyền khi sử dụng công trình NCKH được công bố. (điều 25, 26 Luật SHTT). Tuy

nhiên, việc sử dụng quyền này phải tuân theo những điều kiện và cách thức hợp lý
do Luật SHTT và văn bản khác liên quan quy định. Do đó, bên cạnh việc quy định
độc quyền sao chép cho CSH, pháp luật còn quy định những hạn chế QTG đối với
quyền sao chép sao cho phù hợp với khoản 2 điều 9 CƯ Berne quy định: “Luật pháp
quốc gia thành viên có quyền cho phép sao in tác phẩm trong một vài trường hợp

18


đặc biệt, miễn là sự sao in đó không phương hại đến việc khai thác bình thường tác
phẩm hoặc không gây thiệt hại bất chính cho những quyền lợi hợp pháp của tác giả”
Các trường hợp sử dụng công trình NCKH đã công bố không phải xin phép,
không phải trả tiền nhuận bút thù lao theo quy định tại điều 25 Luật SHTT gồm:
- Tự sao chép nhằm mục đích NCKH, giảng dạy của cá nhân hoặc sao chép
để lưu trữ trong thư viện. Việc sao chép này là sao chép không quá một bản. Thư
viện không được sao chép và phân phối bản sao công trình NCKH tới công chúng
kể cả bản sao kỹ thuật số. Tuy nhiên, nếu người mượn sách của thư viện sau đó tự
sao chép một bản để phục vụ việc nghiên cứu, giảng dạy được xác định là hợp pháp.
Quy định này nhằm mục đích phổ biến công trình NCKH đến công chúng thông qua
hoạt động giảng dạy, NCKH, sử dụng có hiệu quả các tài sản trí tuệ của nhân loại,
song việc khai thác không nhằm mục đích thương mại (Phi lợi nhuận).Việc xác định
thế nào là “mục đích thương mại”còn mơ hồ vì sao chép hoặc sao chụp (photocopy)
bán lại để thu lợi nhuận trực tiếp ( bán giá thấp hơn giá bìa thì người sao chụp lẫn
người sử dụng đều có lợi ). Về lợi cá nhân, có thể thu lợi nhuận gián tiếp như cơ sở
kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục đã thu toàn bộ tiền của người học, có nghĩa vụ
phải cung cấp tài liệu cho người học nhưng không thực hiện nghĩa vụ trả tiền QTG
hoặc tài liệu xuất bản mà lại sao chụp sách cho người học hoặc đánh máy lại in để
sao chụp cho người học sử dụng nhằm giảm chi phí. Trường hợp này cũng được
xác định là có mục đích lợi nhuận mang tính chất gián tiếp.Trong thực tế, nhiều
trường hợp sao chụp bán cho người học thấp hơn giá in trên bìa hoặc phát miễn phí

cho người học là xâm phạm QTG, có mục đích thương mại (trực tiếp hoặc gián
tiếp). Quy định của Luật SHTT và Nghị định hướng dẫn “tự sao chép” nghĩa là
người cần nghiên cứu, giảng dạy sao chép một bản phục vụ cho chính mình. Khi ý
thức thực thi bảo hộ QTG kém thì việc xác định mục đích sử dụng rất khó minh
bạch cần phải quy định cụ thể rõ ràng hơn về vấn đề sao chép cho mục đích cá nhân
- Trích dẫn hợp lý để bình luận hoặc minh họa trong công trình NCKH của
mình hoặc để viết báo dùng trong ấn phẩm định kỳ hoặc để giảng dạy trong nhà
trường, mà không làm sai ý tác giả, không nhằm mục đích thương mại [45].

19


×