Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học theo pháp luật sở hữu trí tuệ từ thực tiễn đại học y dược thành phố hồ chí minh (tóm tắt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (547.25 KB, 22 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ THANH TÂM

QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
THEO PHÁP LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ TỪ THỰC TIỄN ĐẠI HỌC
Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60.38.01.07

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – NĂM 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học Xã hội

Người hướng dẫn khóa học: TS. Lê Mai Thanh

Phản biện 1: …………………………………………………………
……………………………………………………..
Phản biện 2:………………………………………………………….
……………………………………………………..

Luận văn này sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn
thạc sĩ tại: Học viện khoa học xã hội ………..giờ……….ngày
……..tháng ………năm


Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các quốc gia trên thế giới đều tạo điều kiện cho mỗi cá nhân
được thỏa sức sáng tạo và thể hiện ý tưởng của mình ra cộng đồng.
Quyền tác giả (QTG) là một công cụ pháp lý quan trọng để bảo hộ sự
sáng tạo. Thông qua việc trao cho tác giả, chủ sở hữu (CSH) các
quyền và lợi ích hợp lý, sẽ khuyến khích sáng tạo, phát triển và phổ
biến các sáng tạo khoa học. Như vậy, công chúng được tạo điều kiện
để được hưởng thụ, tiếp cận các sáng tạo đó. Đối với Việt Nam, cần
kích thích được hoạt động sáng tạo thông qua hoạt động nghiên cứu
khoa học (NCKH) nhất là ở các trường đại học. Cần đẩy mạnh việc
thương mại hoá các công trình NCKH của các giảng viên đại học và
sinh viên.
Có thể nói, chưa bao giờ vấn đề bảo hộ QTG đối với công
trình NCKH trong trường đại học lại được quan tâm như thời gian
gần đây. Lý do là bởi trong thời đại công nghệ, việc vi phạm bản
quyền các công trình NCKH trong trường đại học và sử dụng trái
phép các tài sản trí tuệ này trở nên đa dạng và phức tạp. Công tác bảo
hộ QTG của các trường đại học trong nhiều năm qua chưa được chú
trọng, nhiều công trình NCKH của các cán bộ, giảng viên trong các
trường đại học bị xâm hại.
Chức năng chính của trường đại học là giáo dục, đào tạo và
NCKH. Nhưng hiện nay sở hữu trí tuệ (SHTT) một trong những vấn
đề không kém phần quan trọng của trường đại học là chuyển giao
công nghệ, đưa các kết quả nghiên cứu áp dụng vào thực tiễn sản
xuất kinh doanh. Đây là một phần không thể thiếu trong công tác


1


NCKH, song tại Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHYD
TP.HCM) hoạt động này vẫn chưa được nhà trường quan tâm.
Vì vậy cần phải xây dựng một nền văn hóa SHTT, một quy
chế về SHTT trong ĐHYD TP.HCM. Xuất phát từ những lý do đó
nên học viên chọn đề tài “Quyền tác giả đối với công trình nghiên
cứu khoa học theo pháp luật sở hữu trí tuệ từ thực tiễn Đại học Y
Dược thành phố Hồ Chí Minh.” làm đề tài Luận văn cao học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Liên quan đến quyền tác giả, Việt Nam đã có không ít đề tài
nghiên cứu khoa hoc, luận văn thạc sĩ, bài viết nghiên cứu thể hiện
qua các công trình như sau:
- Luận văn thạc sĩ “ Những vấn đề lý luận và thực tiễn của
việc giải quyết tranh chấp về quyền tác giả ở Việt Nam’, của tác giả
Châu Huy Quang, Tp. Hồ Chí Minh, 2003.
- Luận văn thạc sĩ “ Bảo hộ quyền tác giả trong hợp đồng sử
dụng tác phẩm theo pháp luật Việt Nam”, của tác giả Nguyễn Hoàng
Giao, 2004.
- Luận văn thạc sĩ “Nâng cao hiệu quả thực thi quyền liên
quan đến quyền tác giả tại Việt Nam”, của tác giả Trương Thế Hào
Kiệt, 2007.
- Luận văn thạc sĩ “Bảo hộ quyền tác giả của tổ chức phát
sóng truyền hình theo pháp luật sở hữu trí tuệ ở Việt Nam.”, của tác
giả Phạm Như Gái 2011
- Luận văn thạc sĩ “ Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với
tác phẩm âm nhạc được khai thác trên tàu bay.”, của tác giả Nguyễn
Thị Hà Linh 2012
- Luận văn thạc sĩ “Giới hạn quyền tác giả theo hiệp định Trips

và pháp luật Việt Nam”, của tác giả Nguyễn Thị Tuyết Nga, 2012.
2


- Luận văn thạc sĩ “ Pháp luật về quyền tác giả ở Việt Nam
thực trạng và hướng hoàn thiện”, của tác giả Phạm Hùng,, 2012.
Các đề tài NCKH
- Bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan ở Việt Nam trước
yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội, Vũ
Thị Hải Yến chủ nhiệm đề tài, , Hà Nội, 2010.
- Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường số tại Việt Nam,
Viện Công nghệ phần mềm và Nội dung số Việt Nam, Tp. Hồ Chí
Minh, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, 2014.
- Quyền tác giả trong hoạt động thư viện tại các trường đại học,
TS. Lê Thị Nam Giang, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, 2016.
Tuy nhiên, trên đây là những công trình, bài viết tiếp cận từ
góc độ nghiên cứu chung về quyền tác giả, hoặc nghiên cứu QTG
dưới góc độ khác, chưa có công trình nào nghiên cứu QTG dưới góc
độ đối với công trình NCKH trong trường đại học chính vì vậy, đề tài
“Quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học theo pháp luật
sở hữu trí tuệ từ thực tiễn Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh.”
là đề tài tiếp cận từ đặc điểm thực tiễn ĐHYD TP.HCM để từ đó đưa
ra định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật QTG đối với công
trình NCKH Việt Nam nói chung và công trình NCKH ở ĐHYD
TP.HCM nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu của Luận văn là xác định phương hướng và giải
pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về QTG đối với công trình
NCKH tại ĐHYD TP.HCM.


3


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về quyền tác giả
đối với công trình NCKH và cơ sở pháp luật của Việt Nam bảo hộ
quyền này.
Luận văn đánh giá thực trạng pháp luật về quyền tác giả đối
với công trình NCKH tại ĐHYD TP.HCM.
Trên cơ sở thực trạng nói trên Luận văn đề xuất phương
hướng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về QTG đối với công trình
NCKH nói chung, tại ĐHYD TP.HCM nói riêng.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu, phân tích, đánh giá pháp luật về QTG
đối với công trình NCKH thông qua thực tiễn tại ĐHYD TP.HCM
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu pháp luật bảo hộ QTG đối
với công trình NCKH mà không bao gồm các đối tượng khác của QTG
Luận văn giới hạn đánh giá thực trạng pháp luật thông qua
thực tiễn bảo hộ QTG đối với các công trình NCKH tại ĐHYD
Tp.HCM từ khi luật SHTT có hiệu lực.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử và chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật làm
phương pháp luận nghiên cứu về QTG đối với công trình NCKH.
- Để đạt được mục đích nghiên cứu, thì các phương pháp
NCKH chuyên ngành đều được áp dụng như: phương pháp phân tích
- tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê, phương

pháp điều tra…

4


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Hệ thống hóa lý luận chung về QTG đối với công trình
NCKH.
Qua thực trạng về QTG đối với công trình NCKH tại Đại học
Y Dược Tp.HCM đưa ra kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện và
nâng cao hiệu quả về QTG đối với công trình NCKH
7. Cơ cấu của luận văn
Trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu luận
văn có cơ cấu gồm :
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
phần nội dung có 3 chương :
- Chương 1: Những vấn đề pháp lý về quyền tác giả đối với
công trình nghiên cứu khoa học.
- Chương 2: Thực trạng quyền tác giả đối với công trình
nghiên cứu khoa học qua thực tiễn tại Đại học Y Dược TP.HCM.
- Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật
về quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC.
1.1. Khái niệm và đặc điểm QTG đối với công trình

NCKH
1.1.1. Khái niệm quyền tác giả đối với công trình NCKH
Quyền tác giả (QTG) hiểu một cách đơn giản là những quyền
mà pháp luật thừa nhận và bảo hộ đối với tác giả, chủ sở hữu quyền
tác giả (CSH QTG) cũng như các chủ thể khác được phép sử dụng
các công trình NCKH. Vậy, Quyền tác giả đối với công trình NCKH
là tập hợp các quyền được pháp luật thừa nhận gồm quyền nhân thân
và quyền tài sản của tác giả, CSH QTG hoặc chủ thể được phép sử
dụng công trình NCKH do mình sáng tạo hoặc sở hữu và được định
hình dưới dạng vật chất nhất định không phụ thuộc vào thủ tục đăng
ký bảo hộ hoặc đã công bố hay chưa công bố.
1.1.2. Đặc điểm quyền tác giả đối với công trình NCKH
Là tính lãnh thổ triệt để, tính vô hình cũng như tính hữu hạn
trong thời hạn bảo hộ của quyền tài sản Quyền tác giả chỉ được công
nhận khi công trình NCKH là sản phẩm của lao động trí tuệ, sáng tạo
mới, có một phần công lao của tác giả (không đơn thuần chỉ là sao
chép từ các nguồn đã biết) và có tính chất duy nhất.
Quyền tác giả có thể bị giới hạn về thời gian theo quy định
của pháp luật QTG có thể bị giới hạn về không gian, QTG có thể bị
giới hạn về phạm vi QTG có thể không được thừa nhận, bảo hộ đối
với một số công trình NCKH vi phạm đạo đức, trật tự công
cộng…[7, tr. 47- 48]

6


Phải đảm bảo tính nguyên gốc điều đó không có nghĩa là đòi hỏi ý
tưởng của công trình NCKH phải mới mà là hình thức thể hiện của ý
tưởng phải do chính tác giả sáng tạo ra. Tính nguyên gốc không có
nghĩa là không có tính kế thừa [26, tr. 50]

1.2. Hình thức và tiêu chí xác lập QTG đối với công trình
NCKH
1.2.1. Hình thức xác lập QTG đối với công trình NCKH
Quyền tác giả được xác lập một cách tự động nghĩa là QTG
được phát sinh một cách mặc nhiên từ thời điểm công trình NCKH
đó được thể hiện dưới hình thức khách quan mà người khác có thể
nhận biết được mà không phụ thuộc vào bất kỳ thủ tục đăng ký nào.
1.2.2. Tiêu chí xác lập QTG đối với công trình NCKH
Để được bảo hộ QTG, công trình NCKH phải có tính nguyên
gốc, phải được định hình dưới một dạng vật chất nhất định, bất chấp
các yếu tố sáng tạo của chúng, chất lượng hay giá trị khoa học.
1.3. Nội dung và thực thi quyền tác giả đối với công trình
nghiên cứu khoa học.
1.3.1. Nội dung QTG đối với công trình NCKH
Quyền nhân thân: gồm có quyền nhân thân không gắn liền
với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản. Các quyền nhân thân
không gắn với tài sản là: quyền được đặt tên công trình NCKH; đứng
tên tác giả trong công trình NCKH khoa học;
Quyền công bố công trình NCKH hoặc cho phép người khác
công bố công trình NCKH đây là quyền nhân thân duy nhất gắn với
các quyền tài sản và có thể chuyển giao.
Quyền bảo vệ sự toàn vẹn của công trình NCKH, không cho
người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc công trình NCKH dưới
bất kì hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác
giả, tuy nhiên, cũng cần lưu ý một số ngoại lệ của quyền này:
7


- Trường hợp trích dẫn hợp lý các công trình NCKH vì mục
đích giảng dạy, NCKH; Trường hợp sau khi công trình NCKH được

công bố, những người khác làm phái sinh, có những thay đổi, sáng
tạo mới về nội dung, hình thức thể hiện hay truyền đạt so với ban
đầu [5,tr.35],[45].
Quyền tài sản là tập hợp các quyền nhằm bảo vệ lợi ích được
khai thác, tham gia vào quá trình sử dụng và khai thác các giá trị kinh
tế công trình NCKH của tác giả.
Tác giả không đồng thời là CSH QTG thì quyền nhân thân
gồm: các quyền nhân thân không gắn với tài sản và không thể chuyển
giao và quyền bảo vệ sự toàn vẹn của công trình NCKH, không cho
người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc công trình NCKH dưới
bất kì hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
Quyền tài sản của tác giả không đồng thời là CSH QTG:
Được hưởng nhuận bút; Được hưởng thù lao khi công trình NCKH
được sử dụng; Nhận giải thưởng đối với công trình NCKH mà mình
là tác giả.
Trường hợp CSH QTG không đồng thời là tác giả có quyền
nhân thân gồm: Quyền công bố, phổ biến hoặc cho người khác công
bố, phổ biến công trình NCKH do mình sở hữu và quyền cho hoặc
không cho người khác sử dụng công trình NCKH mà mình sở hữu.
Quyền tài sản: được hưởng lợi ích vật chất từ việc sử dụng công trình
NCKH tại điều 36 luật SHTT gồm: Làm công trình NCKH phái sinh;
Quyền sao chép công trình NCKH; Quyền phân phối, nhập khẩu bản
gốc hoặc bản sao công trình NCKH; Quyền truyền đạt công trình
NCKH đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng
thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác.
Việc giới hạn thể hiện trong những trường hợp nhất định thì
cá nhân, tổ chức khác có quyền sử dụng công trình NCKH được công
8



bố mà không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao
hoặc không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho
chủ thể quyền khi sử dụng công trình NCKH được công bố. (điều 25,
26 Luật SHTT).
1.3.2. Thực thi quyền tác giả đối với công trình NCKH
Pháp luật hiện hành của nước ta quy định ba loại phương
thức được áp dụng để thực thi QTG. Cụ thể là phương thức dân sự,
phương thức hành chính và phương thức hình sự.
1.4 Cơ sở pháp lý bảo hộ quyền tác giả.
1.4.1. Pháp luật Việt Nam
Theo PLVN, bảo hộ QTG được điều chỉnh bởi một hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật bao gồm:pháp luật chuyên ngành Luật
Sở hữu trí tuệ, pháp luật liên quan và một số nghị định thông tư liên
quan đến QTG.
1.4.2. Pháp luật quốc tế
Ngoài các quy định của PLVN, việc bảo hộ QTG đối với các
công trình NCKH còn có thể được điều chỉnh bởi các điều ước quốc
tế đa phương, song phương quan trọng mà Việt Nam đã là thành viên
trong lĩnh vực này.
Kết luận chương 1
Những vấn đề lý luận về QTG, bảo hộ QTG nói chung đối
với công trình NCKH nói riêng được trình bày trong chương này sẽ
là những tiền đề cho việc đánh giá thực trạng về quyền tác giả đối với
công trình NCKH tại Đại học Y Dược Tp.HCM tại chương 2 và sẽ
gợi mở cho những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về QTG ở Việt
Nam nói chung và QTG đối với công trình NCKH tại ĐHYD
TP.HCM nói riêng trong bối cảnh hội nhập toàn cầu tại chương 3.

9



Chương 2
THỰC TRẠNG QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TỪ THỰC TIỄN
ĐẠI HỌC Y DƯỢC TP.HCM
2.1. Đặc điểm, yêu cầu bảo hộ QTG công trình NCKH
Nghiên cứu khoa học (NCKH) cũng là công cụ quan trọng để định
hướng cho công tác giáo dục. Ở Việt Nam phần lớn NCKH không
xuất phát từ trường đại học. Đây được xem là điểm yếu của các
trường đại học trong việc đóng góp vào sáng tạo tri thức.
2.1.1. Đặc điểm các công trình NCKH tại ĐHYD TP.HCM
Đặc điểm các công trình NCKH như: đề tài NCKH, đề
cương, đề án, báo cáo, tham luận… tại ĐHYD TP.HCM chủ yếu là
nghiên cứu mô tả thuần túy nên chưa thể đào sâu phân tích về bệnh
lý, lâm sàng, chẩn đóan bệnh hay nghiên cứu thuốc thảo dược nên giá
trị khoa học không cao không ứng dụng được trên thực tế, làm hạn
chế khả năng thương mại. Về bài giảng, sách giáo trình, sách chuyên
khảo đây là những công trình NCKH được hình thành theo hình thức
đặt hàng hoặc thực hiện nghĩa vụ lao động của nhà trường nên CSH
vẫn là nhà trường, nhưng việc phân định quyền và nghĩa vụ của tác
giả và CSH không rõ ràng chồng lấn xâm phạm lẫn nhau.
2.1.2. Các yêu cầu bảo hộ QTG đối với công trình NCKH
Nhu cầu về SHTT nói chung QTG nói riêng tại ĐHYD có
thể được xem xét dưới nhiều góc độ: Nâng cao nhận thức về hoạt
động bảo hộ SHTT nói chung QTG nói riêng đối với công trình
NCKH tại trường; Khai thác các tiềm năng SHTT nói chung QTG
nói riêng tại trường hướng tới chuyển giao công nghệ cho đơn vị có
nhu cầu.
10



Lực lượng thanh tra, kiểm tra hoạt động về SHTT nói chung,
QTG nói riêng trong nhà trường chưa được hình thành.việc tổ chức
tham mưu, tư vấn đăng kí QTG và hỗ trợ hướng dẫn bảo vệ QTG
chưa có đơn vị phòng ban nào đảm trách.
2.2. Thực trạng xác lập QTG đối với công trình NCKH
Công trình NCKH tại ĐHYD TP.HCM thuộc quyền sở hữu
nhà trường vì đây là đơn vị hành chính sự nghiệp, nhà nước cấp kinh
phí cho hoạt động nghiên cứu từ ngân sách nhà nước và công trình
NCKH được sáng tạo ra theo nhiệm vụ được giao nên trường là đơn
vị tiến hành các hoạt động xác lập QTG và lưu giữ bảo vệ chứng cứ
phát sinh QTG.
2.3. Thực trạng khai thác QTG đối với công trình NCKH
Các công trình NCKH bao gồm:Công trình NCKH, giáo
trình, bài giảng… của giảng viên, nghiên cứu viên;Công trình
NCKH, khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ… của
người học (bao gồm sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh).
Đối với trường hợp có sử dụng ngân sách Nhà nước, QTG
đối với công trình NCKH được phân định:
– Quyền nhân thân không thể chuyển giao của tác giả bao
gồm đặt tên cho công trình NCKH, đứng tên đối với công trình
NCKH và bảo vệ sự toàn vẹn của công trình NCKH.
– Quyền nhân thân có thể chuyển giao thuộc của Trường bao
gồm quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố công trình
NCKH và toàn bộ nhóm quyền tài sản đối với công trình NCKH.
Như vậy quyền cho phép xuất bản, sao chép, quyền cho dịch công
trình NCKH … thuộc về Trường chứ không thuộc về tác giả. Ở
ĐHYD TP.CHM với đặc điểm CSH QTG là nhà trường. Nhưng trên
thực tế vấn đề CSH QTG và tác giả đang bị chồng lấn lên nhau về
quyền và nghĩa vụ chưa phân định rõ ràng. Tác giả và CSH có những

11


ứng xử nhầm lẫn khi tác giả không đồng thời là CSG QTG lại có
hành vi như thể mình là CSH QTG và ngược lại khi CSH QTG
không đồng thời là tác giả lại hành động như thể mình là tác giả.
2.4. Thực trạng thực thi QTG đối với công trình NCKH
Tại ĐHYD TP.HCM nhu cầu thực thi QTG xuất phát từ
nguyên nhân sau: Ý thức bảo hộ cũng như vấn đề thực thi QTG rất
kém;Không nắm rõ giới hạn QTG trong việc cho phép sinh viên sử
dụng giáo trình bài giảng dùng vào mục đích học tập. Vấn đề trả thù
lao và xin phép khi tái bản sách giáo trình.
Chế tài đối với vi phạm còn chưa có và người vi phạm không nhận
thức được hành vi của mình cũng như chủ thể quyền không muốn
khởi kiện, yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc quyền yêu cầu chấm dứt
khắc phục hậu quả.[50]
Cũng như Hiệp định TRIPs, pháp luật hiện hành của nước ta
quy định các loại phương thức được áp dụng để thực thi QTG. Cụ thể
là phương thức tự bảo vệ QTG (phương thức dân sự), bảo vệ QTG
thông qua các cơ quan quản lý nhà nước (phương thức hành chính),
bảo vệ QTG thông qua các cơ quan tư pháp (phương thức hình sự)
Kết luận chương 2
Theo tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới WIPO khoảng 1/3 các
hoạt động nghiên cứu khoa học ở các nước công nghiệp được tiến
hành bởi các viện và trường đại học. Vì vậy cần nhận thức rõ thực
trạng những ảnh hưởng của SHTT cũng như hành vi xâm phạm
quyền tác giả đến quá trình NCKH tại ĐHYD TP.HCM để từ đó định
hướng phát triển cho hoạt động NCKH, bảo vệ QTG góp phần
thương mại hóa kết quả NCKH có ứng dụng cao kích thích hoạt động
NCKH. Việc bảo hộ và thực thi QTG thành công sẽ thúc đẩy hoạt

đông NCKH đồng thời bảo vệ QTG tránh bị xâm phạm tràn lan như
hiện nay.
12


Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI CÔNG TRÌNH
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
3.1. Định hướng, hoàn thiện pháp luật về QTG đối với
công trình NCKH
3.1.1. Bảo hộ quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu
khoa học trên cơ sở cân bằng lợi ích của chủ sở hữu công trình
khoa học và sự thụ hưởng của xã hội
Nếu nhà nước không có một cơ chế bảo hộ thích hợp về
QTG thì không thể khuyến khích sáng tạo cho sự phát triển của khoa
học, kỹ thuật. Tuy nhiên, nếu chỉ hướng tới mục đích bảo vệ các tác
giả, các CSH QTG thì có thể dẫn đến, sự lạm dụng độc quyền của các
chủ thể quyền và ảnh hưởng đến việc tiếp cận tri thức, tiếp cận thành
quả khoa học kỹ thuật của đông đảo công chúng chưa kể đến nếu bảo
hộ quá lâu, quá rộng sẽ dẫn đến sự cản trở giao lưu, khoa học giữa
các quốc gia với nhau. Về thời hạn bảo hộ, về bản chất việc quy định
hợp lý thời hạn bảo hộ các công trình NCKH chính là cách thức hữu
hiệu nhằm thực hiện nguyên tắc cân bằng lợi ích của tác giả CSH
QTG và lợi ích của xã hội.
Theo Hiệp định TRIPs, các quốc gia thành viên có thể,
nhưng không bắt buộc, áp dụng trong pháp luật quốc gia mức bảo hộ
cao hơn so với các yêu cầu của Hiệp định, miễn là việc bảo hộ đó
không trái với các điều khoản của Hiệp định.
Một trong những điểm thể hiện rất rõ nội dung của nguyên

tắc cân bằng lợi ích của tác giả CSH QTG và lợi ích của xã hội, là

13


quy định về các trường hợp sử dụng công trình NCKH không phải
xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, trả thù lao.
3.1.2. Bảo hộ quyền tác giả đáp ứng các điều ước quốc tế
mà Việt Nam là thành viên
Luật SHTT năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) được xây
dựng trên những nguyên tắc cơ bản là: Pháp điển hoá, kế thừa có chọn
lọc, bổ sung các quy định còn thiếu, các quy định mới về (SHTT) đảm
bảo tính thống nhất, đồng bộ giữa các quy định pháp luật SHTT và
giữa các quy định liên quan đến SHTT của các ngành luật khác, đảm
bảo sự tương thích giữa các quy định SHTT của Việt Nam và các công
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, các Hiệp định song phương,
đa phương khác mà Nhà nước ta đã ký kết; đảm bảo các quy định về
quyền SHTT phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
3.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về QTG đối với công
trình NCKH
3.2.1. Kiến nghị cụ thể sửa đổi bổ sung pháp luật quyền tác
giả đối với công trình NCKH
Trước hết, pháp luật SHTT phải có tính hệ thống, tính thống
nhất; tương thích với các Công ước quốc tế liên quan đến quyền
SHTT mà chúng ta đã là thành viên. Thứ hai, hệ thống pháp luật
SHTT nói chung, pháp luật QTG nói riêng đã bộc lộ những khó khăn,
vướng mắc, bất cập, chồng chéo, không còn thích hợp khi quy định
ghép các đối tượng chuyên ngành độc lập cùng trong Luật SHTT, đòi
hỏi sớm được sửa đổi, bổ sung hoàn thiện theo hướng xây dựng, ban
hành các chuyên ngành luật độc lập.

Đơn giản hóa tổ chức và hoạt động của cơ quan giám sát,
thanh tra vi phạm QTG. Có như vậy mới tránh khỏi tình trạng chồng
chéo trong quá trình giám sát hoạt động lĩnh vực này.
14


Cần xây dựng cơ chế quản lý và bảo hộ quyền SHTT trong
trường Đại học một cách hiệu quả hơn. Tăng cường lực lượng thanh
tra, giám sát chặt chẽ vấn đề bản quyền theo Luật SHTT.
3.2.2. Kiến nghị nâng cao năng lực cở chế thực thi quyền
tác giả đối với công trình NCKH
Pháp luật Việt Nam phải ban hành những quy định rõ ràng về
vấn đề photocopy công trình NCKH không thuộc các trường hợp giới
hạn quyền tác giả.
Cần quy định rõ thêm khái niệm đồng tác giả, cần phân định
rõ ràng về quyền tài sản đối với công trình NCKH của sinh viên khi
nghiên cứu có nhận hỗ trợ tài chính từ nguồn ngân sách nhà nước
Kiến nghị nâng cao năng lực cơ chế thực thi quyền tác giả
đối với công trình NCKH.
Hệ thống cơ quan quản lý và thực thi QTG bao gồm nhiều cơ
quan từ Trung ương đến địa phương cần có sự phối hợp chặt chẽ,
nâng cao hiệu quả thực thi. Đội ngũ cán bộ quản lý và thực thi QTG
cần bổ sung và hạn chế kiêm nhiệm nhiều công việc sẽ giúp mức độ
chuyên môn hóa, chuyên sâu của nhân lực quản lý và thực thi QTG
được nâng lên. Hoạt động thanh, kiểm tra, xử lý vi phạm phải thật
nghiêm, mới đủ sức răn đe, ngăn chặn tình trạng xâm phạm QTG.
Nâng cao nhận thức và ý thức pháp luật khai thác và bảo hộ
quyền tác giả đối với công trình NCKH nói chung và tại Đại học Y
Dược thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Bộ Giáo dục và Đào tạo phải có những hành động cụ thể

như đưa vào giảng dạy bắt buộc môn học Pháp luật SHTT ở trường
đại học. Giới thiệu về nguyên tắc bảo vệ SHTT, phương thức trích
dẫn đúng luật, hình thức xử phạt nếu vi phạm QTG. Nhà trường tạo

15


điều kiện cho giảng viên tiếp cận với công nghệ phần mềm phát hiện
vi phạm QTG…
Ở trường ĐHYD TP.HCM nên tích cực phối hợp tổ chức các
hội nghị triển khai thi hành, tuyên truyền, hướng dẫn, phổ biến pháp
luật về QTG dưới nhiều hình thức, cách thức đa dạng, phù hợp với
điều kiện tại trường.
Tại ĐHYD TP.HCM cũng nên quy định cụ thể về vấn đề
phân chia lợi ích nhằm phân định rõ về quyền và nghĩa vụ các bên
tham gia chia theo tỉ lệ. Theo tỉ lệ 30% cho trường, 30% cho đơn vị
công tác trực tiếp của tác giả và 40% cho tác giả.
Thành lập bộ phận chuyên trách về SHTT của Trường là một cơ
quan đầu mối thực hiện chuyển giao công nghệ, xúc tiến việc thương
mại hoá các sản phẩm công nghệ của Trường, liên hệ tìm đầu ra, tìm
nguồn tài trợ NCKH và phân chia lợi nhuận cho các bên tham gia
KẾT LUẬN
Trí tuệ của con người là nguồn gốc của mọi sự sáng tạo. Con
người bằng tư duy sáng tạo của mình đã tạo ra biết bao công trình
NCKH có giá trị. Bảo hộ quyền SHTT nói chung, QTG nói riêng
đồng nghĩa với việc bảo vệ, khuyến khích các thành quả lao động
sáng tạo bằng cách dành cho tác giả, CSH QTG một khoảng thời gian
để có thể độc quyền khai thác nhằm thu hồi vốn đã bỏ ra và thu lợi
nhuận từ sáng tạo của họ. Một thực tế hiển nhiên là khi đã hoạt động
trong lĩnh khoa học ai cũng biết vấn đề bản quyền và tác quyền vốn

rất nhạy cảm và luôn được đặt lên hàng đầu. Thế nhưng những vụ
việc xâm phạm quyền tác giả trong lĩnh vực khoa học xảy ra thường
xuyên trong thời gian qua đã cho thấy, ý thức về tôn trọng quyền tác
16


giả ở một số bộ phận những người hoạt động khoa học chưa cao. Đặc
biệt trong thời điểm mà sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa
học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin và internet cũng như
thương mại điện tử đã và đang tác động lớn đến những nỗ lực bảo hộ
QTG.
Khuyến khích sáng tạo khoa học đồng thời bảo hộ QTG là
chính sách nhất quán của Việt Nam. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5
Ban chấp hành Trung ương khóa VIII đã khẳng định “ làm tốt công
tác bảo vệ quyền tác giả” để phát triển sự nghiệp khoa học góp phần
xây dựng hội nhập và phát triển Pháp luật bảo hộ QTG ở Việt Nam
đã đạt được những thành tựu to lớn, thể hiện sự quyết tâm của Việt
Nam trong việc bảo hộ quyền tác giả trong bối cảnh toàn cầu hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế.
Hiện nay, hầu hết các quan hệ xã hội về QTG đã được điều
chỉnh bởi các văn bản quy phạm pháp luật. Về cơ bản, những quy
định này phù hợp với các chuẩn mực quốc tế tạo tiền đề cho sự hội
nhập. Tuy nhiên, trên thực tế kết quả của quá trình bảo hộ và thực thi
pháp luật về QTG tại Việt Nam chưa được như kỳ vọng. Tình trạng
xâm phạm QTG còn diễn ra ở nhiều lĩnh vực đặc biệt là các công
trình NCKH, khi mà môi trường số phát triển thì lại bị xâm phạm
nghiêm trọng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên trong đó
có nguyên nhân về quy định pháp luật liên quan đến lĩnh vực NCKH
tại các trường đại học chưa được quan tâm, chưa có quy định chi tiết
cụ thể do nhận thức về QTG chưa cao CSH QTG thì chưa có ý thức

tự bảo vệ, công chúng thì vô tư vi phạm mà không bị chế tài nào ràng
buộc, chưa ý thức được sự ảnh hưởng đến cơ chế thị trường làm cho
hành vi vi phạm không kiểm soát được. Sở hữu trí tuệ ngày càng
đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội, sự thịnh
17


vượng của nền văn hóa, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay của một nền
kinh tế mới. Các đối tượng QTG không chỉ đơn thuần là tài sản thuộc
quyền sử dụng, định đoạt của riêng CSH mà còn có tác động lớn tới
lợi ích và sự phát triển chung của toàn xã hội. Hành vi xâm phạm
quyền tác giả không chỉ làm thiệt hại cho tác giả, CSH QTG mà còn
ảnh hưởng đến các tổ chức, cá nhân sử dụng khác. Như vậy, để việc
bảo hộ QTG có hiệu quả cần phải xác định xây dựng một hệ thống
pháp luật đầy đủ, chặt chẽ và hoàn thiện ngay từ khâu xác lập quyền
sở hữu cho đến cơ chế thực thi và các biện pháp chế tài nhằm bảo vệ
các quyền được xác lập.
Vậy nên, luận văn đã mạnh dạn đề xuất một số định hướng
và kiến nghị cụ thể, nhằm hoàn thiện pháp luật bảo hộ QTG đối với
công trình NCKH tại các trường đại học nói chung và riêng ĐHYD
TP.HCM.

18





×