Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Chính sách tôn giáo từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (659.08 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THANH HÒA

CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THANH HÒA

CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 60.34.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. VĂN TẤT THU


HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng
dẫn của PGS. TS Văn Tất Thu. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ
công trình nào.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2017

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Thanh Hòa


LỜI CẢM ƠN
Sau gần 02 năm học tập và nghiên cứu tại Học viện Khoa học xã hội thuộc
Viện Hàn lâm Việt Nam, được sự quan tâm giúp đỡ của các thầy, cô giáo đặc biệt là
sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của PGS. TS Văn Tất Thu, sự giúp đỡ của các bạn,
đến nay tôi đã hoàn thành Luận văn thạc sĩ Chính sách công “Chính sách tôn giáo
từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh”.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình, chu đáo của PGS.
TS Văn Tất Thu và các giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, các thầy, cô giáo, các đồng chí
lãnh đạo Ủy ban nhân dân Thành phố, Sở Nội vụ Thành Phố Hồ Chí Minh, Uỷ ban
Mặt trận Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh, Ban Tôn giáo Thành phố và cán bộ thực
hiện công tác tôn giáo trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành Luận văn này.

TÁC GIẢ


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO Ở
VIỆT NAM
1.1. Những vấn đề lý luận chung về chính sách tôn giáo ở Việt Nam.................. 6
1.2. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về tôn giáo. ...................... 20
Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO TẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội và tôn giáo của Thành phố Hồ Chí Minh ảnh
hưởng đến thực hiện chính sách tôn giáo ............................................................ 29
2.2. Thực trạng chính sách tôn giáo hiện nay ..................................................... 34
2.3. Thực trạng thực hiện chính sách tôn giáo tại Thành phố Hồ Chí Minh ....... 44
2.4. Đánh giá chung vể chính sách tôn giáo hiện nay ......................................... 52
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH
TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Phương hướng hoàn thiện chính sách tôn giáo ở Việt Nam hiện nay .......... 62
3.2. Các giải pháp hoàn thiện chính sách tôn giáo ở Việt Nam hiện nay ........... 65
3.3. Các kiến nghị đề xuất. .................................................................................. 76
KẾT LUẬN CHUNG ........................................................................................ 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 81


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BHG


Ban Hành giáo

CNH-HĐH

Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá

CNLĐ

Công nhân lao động

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CSVN

Cộng sản Việt Nam

GHPG

Giáo hội Phật giáo

HĐND

Hội đồng nhân dân

HTCT

Hệ thống Chính trị


MTTQ

Mặt trận Tổ quốc

QLNN

Quản lý nhà nước

TCN

Trước Công nguyên

UBĐK

Uỷ ban Đoàn kết

UBND

Uỷ ban nhân dân

UBTV

Uỷ ban Thường vụ

UBTVQH

Uỷ ban Thường vụ Quốc hội

XHCN


Xã hội chủ nghĩa

TNCS

Thanh niên Cộng sản


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tôn giáo là một phạm trù thuộc thượng tầng kiến trúc. Tôn giáo ra đời và tác
động sâu sắc đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Tôn giáo không chỉ thuần túy
giải thích sự hình thành, phát triển của tự nhiên và xã hội; không chỉ hướng con
người đến những giá trị của đời sống tinh thần và phương thức để thực hiện những
ước muốn hạnh phúc của con người.
Xã hội càng phát triển, tri thức khoa học mở ra cho nhân loại khả năng nối
dài các giác quan để nhận thức sâu sắc hơn giới tự nhiên và bản thân con người,
nhưng không vì thế mà tôn giáo thu hẹp ảnh hưởng của mình mà trái lại, tôn giáo
tiếp tục phát triển cả về quy mô hệ, phái cả về quy mô thiết chế và tín đồ trên phạm
vi toàn thế giới.
Ngày này, tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã hội mà còn là một
thực thể xã hội, ra đời và phát triển cả ngàn năm. Từ khi ra đời, tôn giáo đã trải qua
những thăng trầm và không ngừng biến đổi theo sự biến đổi của tồn tại xã hội,
nhưng chung nhất, nó luôn là một nhu cầu tinh thần của đa số nhân loại. Trong quá
trình tồn tại và phát triển, tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội và đến tập quán của nhiều quốc gia, của các tộc người trong một quốc
gia, theo cả các chiều tích cực và tiêu cực.
Ở Việt Nam cũng vậy, là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn
giáo đang có xu hướng phát triển mạnh, đến nay năm 2017, Nhà nước ta đã công
nhận tư cách pháp nhân cho 14 tôn giáo, với 38 tổ chức tôn giáo. Trong đó, các tôn
giáo bản địa (nội sinh) và các tôn giáo được du nhập từ nước ngoài vào (ngoại sinh)

đều được tạo điều kiện bình đẳng hoạt động theo pháp luật. Tình hình đó như là sự
phản ánh về quá trình đất nước đổi mới, Việt Nam đã có sự phát triển khá mạnh mẽ
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đời sống vật chất cũng như tinh thần
của nhân dân được cải thiện rõ rệt, vì thế tôn giáo càng được khẳng định rõ hơn, là
nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân.
Bên cạnh những sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội lành mạnh, tuân thủ
pháp luật, thì vẫn còn có hiện tượng một số người lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để

1


hành nghề mê tín dị đoan, mê hoặc nhân dân, cao hơn là phá hoại khối đại đoàn kết
toàn dân tộc... Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước cần giải quyết vấn đề tôn giáo
ở nước ta bằng các chính sách về tôn giáo từ đó giải quyết các vấn đề tôn giáo hiện
nay một cách thành công trên cả nước.
Ban hành thực thi chính sách tôn giáo là một nhiệm vụ quan trọng và có ý nghĩa
quyết định sự thành bại của công tác tôn giáo trong tình hình mới. Các Nghị quyết, Chỉ
thị của Đảng về công tác tôn giáo đều nhấn mạnh đến vai trò của công tác này và việc
giải quyết vấn đề chính sách tôn giáo là một trong những việc làm cần thiết để đảm bảo
khối đại đoàn kết dân tộc nhằm tới mục đích phát triển kinh tế - xã hội.
Trong những năm qua thực hiện tốt chính sách tôn giáo, tình hình tín
ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh tương đối ổn định, sinh hoạt
tôn giáo và đời sống tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra bình thường đúng với chủ trương
của Đảng, chính sách tôn giáo của Nhà nước. Đại bộ phận chức sắc, nhà tu hành và
tín đồ các tôn giáo trong Thành phố an tâm, phấn khởi, tin tưởng vào sự nghiệp đổi
mới của Đảng, về những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; tích cực
tham gia phát triển kinh tế - xã hội, các hoạt động từ thiện, nhân đạo, xây dựng gia
đình văn hoá ở khu dân cư “sống tốt đời, đẹp đạo”, tích cực thực hiện thắng lợi các
nhiệm vụ chính trị của địa phương. Tuy nhiên, tình hình tôn giáo trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh cũng nổi lên một số vấn đề có tính phức tạp. Đó là, hoạt động mê

tín, dị đoan diễn ra khá phổ biến, một số cơ sở thờ tự của tôn giáo chưa tuân thủ các
quy định của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Luật Di sản và của các quy định của
Thành phố. Khi xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự, tổ chức tôn giáo vẫn thiếu hồ sơ
xin phép; triển khai khi chưa được sự đồng ý của các cơ quan có thẩm quyền. Tình
hình khiếu kiện đòi lại đất đai, cơ sở cũ của giáo hội còn tiềm ẩn dấu hiệu phức tạp;
hoạt động truyền đạo trái phép và các đạo lạ trên địa bàn tỉnh vẫn xảy ra.
Thực hiện chính sách tôn giáo của Nhà nước và công tác quản lý nhà nước
về hoạt động tôn giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh những năm qua bên cạnh những
ưu điểm còn một số hạn chế, bất cập ảnh hưởng trực tiếp đến thực hiện mục tiêu
chính sách tôn giáo. Tình hình tôn giáo trong cả nước nói chung, ở Thành phố Hồ
Chí Minh nói riêng còn một số vấn đề phức tạp, giải quyết gặp nhiều khó khăn.

2


Nguyên nhân của các khó khăn, phức tạp là do chính sách tôn giáo chưa hoàn thiện,
còn những hạn chế bất cập.
Từ thực tế tình hình trên, tôi chọn đề tài: “Chính sách tôn giáo từ thực tiễn
Thành phố Hồ Chí Minh” để làm luận văn thạc sĩ chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong thời gian qua, về lĩnh vực tôn giáo đã có nhiều công trình nghiên cứu
và những cuốn sách viết về tôn giáo Việt Nam, đó là:
Thứ nhất, Công trình nghiên cứu, cụ thể như sau: “Mối quan hệ giữa chính
trị và tôn giáo trong thời kỳ mở rộng giao lưu quốc tế và phát triển kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” của PGS. TS Ngô
Hữu Thảo, chủ nhiệm (1998); Cuốn sách “Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt
Nam lý luận và thực tiễn" của GS.TS Đỗ Quang Hưng; “Một số tôn giáo ở Việt
Nam hiện nay” của TS. Nguyễn Thanh Xuân; “Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam” của
TS.Nguyễn Đức Lữ; Đề tài cấp Bộ “55 năm đường lối chính sách tôn giáo của
Đảng và Nhà nước Việt Nam (1945-2000)” của Ban Tôn giáo Chính phủ; “Tôn

giáo Việt Nam” của GS. G.Condominas (Tạp chí nghiên cứu tôn giáo, số 2, năm
2003); “Từ quan điểm duy vật lịch sử của C.Mác xem xét vấn đề tôn giáo ở nước
ta” của TS. Ngô Hữu Thảo (Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 4, năm 2004); “Quá
trình đổi mới nhận thức về vấn đề tôn giáo và việc hoàn thiện chính sách tôn giáo
của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới” của ThS. Trần Thanh Giang (Tạp
chí triết học, Số 9, năm 2008…).
Thứ hai, Những cuốn sách viết về tôn giáo Việt Nam, cụ thể như: “Lý luận
tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam” của GS. Đặng Nghiêm Vạn (2001);
“Những vấn đề tôn giáo hiện nay” (1994); “Tôn giáo trong mối quan hệ văn hóa
và phát triển ở Việt Nam” của Nguyễn Hồng Dương (2004); “Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo” (2005); “Một số tôn giáo ở Việt Nam” của Nguyễn Thanh
Xuân (2013).
Qua các công trình trên, các tác giả đã đề cập đến nhiều khía cạnh, cả lý luận
và thực tiễn của tôn giáo. Song các công trình đó, các tác giả chủ yếu đi vào một nội

3


dung, một quan điểm nào đó của C.Mác, Ph.Ăngghen hoặc giải quyết một vấn đề
nào đó của tôn giáo ở Việt Nam.
Do đó, để có cơ sở lý luận và thực tiễn để giải quyết vấn đề chính sách tôn
giáo Việt Nam nói chung và chính sách tôn giáo trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh nói riêng. Những nghiên cứu đã nêu trên đã phần nào đánh giá thực trạng và
quá trình thực hiện chính sách tôn giáo ở Việt Nam.
Vì vậy, hướng đề tài mà tôi lựa chọn hy vọng sẽ làm sáng tỏ hơn về chính
sách tôn giáo ở Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về chính sách tôn giáo ở Việt Nam để có
cơ sở khoa học đánh giá thực trạng chính sách và thực hiện chính sách Tôn giáo tại

Thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách tôn
giáo ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.2.1. Nghiên cứu những vấn đề lý luận về chính sách tôn giáo ở Việt Nam.
3.2.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng chính sách tôn giáo và thực hiện chính
sách tôn giáo tại Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ rõ ưu điểm, hạn chế, bất cập, nguyên
nhân của các hạn chế, bất cập.
3.2.3. Xác định phương hướng và đề xuất của các giải pháp hoàn thiện chính
sách tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực hiện chính sách tôn giáo của Việt
Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu, về không gian, là địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, về
thời gian là từ khi có Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12 tháng 3 năm 2003 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác tôn giáo đến nay.

4


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn được triển khai dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách tôn giáo.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Triển khai luận văn này, tác giả sử dụng những nguyên tắc phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời sử dụng
các phương pháp của các khoa học cụ thể, như tổng hợp và phân tích, khái quát hoá,
thống kê, so sánh, lịch sử và lôgic, xã hội học, tôn giáo học.

6. Ý nghĩa của luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Các kết luận, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung hoàn thiện
những vấn đề lý luận về chính sách công nói chung, chính sách tôn giáo nói riêng ở
Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo để xây dựng chủ
trương, biện pháp nâng cao hiệu quả công tác thực hiện chính sách tôn giáo ở địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh vùng Đông Nam bộ có tình hình tôn giáo
tương tự với Thành phố Hồ Chí Minh.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và học tập tại trường
đại học, cao đẳng, trung cấp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về chính sách tôn giáo ở Việt Nam.
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách tôn giáo tại Thành phố
Hồ Chí Minh.
Chương 3. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện chính sách tôn giáo ở
Việt Nam hiện nay.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
1.1. Những vấn đề lý luận chung về chính sách tôn giáo ở Việt Nam
1.1.1. Các khái niệm: Tín ngưỡng; tôn giáo; chính sách tôn giáo
Tôn giáo, theo tiếng Latinh (Religare) có nghĩa là sự nối liền với cái tột cùng,

như sự gắn bó với Chúa, với Thượng đế; hoặc được hiểu là sự phản ánh mối quan hệ
giữa con người với thần thánh; giữa thế giới vô hình với thế giới hữu hình; giữa cái
thiêng liêng với cái trần tục.
Theo quan điểm mác-xít, tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã hội mà
còn là một thực thể xã hội. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, tôn giáo phản ánh
hư ảo tồn tại xã hội, có kết cấu gồm: Tâm lý, tình cảm, niềm tin và hệ tư tưởng tôn giáo.
Tín ngưỡng, tôn giáo là một hiện tượng đa chiều, chính vì vậy các khái niệm
về tôn giáo, tín ngưỡng và mê tín dị đoan là những vấn đề có nhiều ý kiến khác nhau
nhưng lại có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Trong khoa học xã hội, Tôn giáo có nhiều khái niệm khác nhau nhưng nhìn
chung đều có một nội dung cơ bản đó là:
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hoang đường và và hư ảo
hiện thực khách quan. Qua phản ánh của tôn giáo mọi sức mạnh tự phát của tự nhiên
và xã hội trở thành thần bí. Tôn giáo cũng là sản phẩm của con người, gắn liền với
những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội xác định. Tôn giáo là tín ngưỡng
của những người cùng chung một tổ chức có hệ thống giáo lý, giáo luật và lễ nghi.
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định: “Tôn giáo là niềm tin của con người,
tồn tại với hệ thống và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ
nghi và tổ chức” [58].
Tín ngưỡng là niềm tin của con người vào những điều thiêng liêng, huyền bí vượt
khỏi giới tự nhiên. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định: “Tín ngưỡng là niềm
tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi gắn liền với phong tục tập quán
truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng”[58].

6


Mê tín dị đoan là một hiện tượng xã hội tiêu cực đã xuất hiện rất lâu và tồn tại
đến ngày nay. Trên thực tế, mê tín dị đoan thường xen vào trong các hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo. Mê tín dị đoan là niềm tin mù quáng vào những điều nhảm nhí có

thể làm cho con người bị hủy hoại cả tinh thần, sức khỏe, tài sản, tính mạng của cá
nhân, gia đình và xã hội.
Chính sách tôn giáo là quan điểm, là tập hợp các quyết định chính trị có liên
quan với nhau của nhà nước với mục tiêu, giải pháp, công cụ cụ thể nhằm bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo tôn giáo nào của công dân,
phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác
nhau, đoàn kết đồng bào theo hoặc không theo tôn giáo nào vì sự nghiệp xây dựng,
bảo vệ và phát triển đất nước.
1.1.2. Vấn đề chính sách tôn giáo
Giải quyết tốt vấn đề tôn giáo sẽ tạo tiền đề quan trọng để thực hiện đại đoàn
kết dân tộc. Đại hội XII của Đảng khẳng định: Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp
luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các
tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến
chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định
của pháp luật. Đồng thời, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những
hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc
hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật.
Tại Đại hội XII, Đảng ta khẳng định: “Phát huy những giá trị văn hoá, đạo
đức tốt đẹp của các tôn giáo” [32, tr165]. Như vậy, chính sách tôn giáo không đơn
thuần chỉ là định hướng vấn đề đời sống tâm linh, tinh thần, mà còn là định hưỡng
vấn đề văn hoá, đạo đức, lối sống. Thông qua sinh hoạt vật chất và tinh thần của con
người, tín ngưỡng, tôn giáo đã góp phần tô đượm thêm sắc màu cho văn hoá dân tộc.
Đảng ta coi những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo có thể được tiếp thu,
vận dụng vào công cuộc xây dựng xã hội mới. Tuy nhiên, mọi hoạt động văn hoá của
tôn giáo phải đặt trong khuôn khổ pháp luật, thể hiện sự trân trọng, giữ gìn, bảo lưu
những giá trị văn hoá của dân tộc, làm cho văn hoá thực sự là mục tiêu, động lực của
sự phát triển. Tôn giáo nào cũng mang tính trừ ác, hướng thiện, khuyên con người

7



làm lành, tránh dữ, góp phần khẳng định cái đẹp, đồng thời lên án cái xấu, cái ác.
Chính điều đó đã góp phần ngăn chặn, hạn chế những ham muốn, dục vọng ở con
người, nhất là khi nước ta đang chịu sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường,
lối sống tư sản đã và đang thâm nhập vào trong đời sống xã hội.
Để đoàn kết được tất cả các thành phần, giai cấp nói chung và đồng bào tôn
giáo nói riêng vào khối đại đoàn kết dân tộc, lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt
Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác nhau
không trái với lợi ích chung của quốc gia, dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền
thống nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam…, tạo sinh
lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, về cơ bản là ổn định, do nhận thức
ngày càng rõ của đại bộ phận tín đồ, chức sắc tôn giáo về đường lối của Đảng, chính
sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhà nước ta. Hệ thống quy phạm pháp luật và
chính sách của nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo đã được bổ sung, hoàn thiện.
Với yêu cầu, nhiệm vụ thực hiện đặt ra trong xây dựng nhà nước pháp quyền,
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và mở cửa hội nhập quốc tế cần phải
nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện chính sách tôn giáo trở thành vấn đề, nhiệm vụ quan
trọng và cấp bách đặt ra hiện nay.
Còn có những phần tử xấu, thậm chí phản động trong các tôn giáo, lợi dụng
những vấn đề nổi cộm trong hoạt động tôn giáo, trong quan hệ giữa chính quyền và
nhân dân địa phương để kích động, gây rối, hậu thuẫn cho các phần tử chống đối ở
trong nước và ngoài nước. Cụ thể là: Tình trạng chuyển nhượng, hiến tặng đất, mở
rộng cơ sở thờ tự, xây dựng nhà thờ, nhà nguyện trái pháp luật diễn ra ở nhiều địa
phương. Bên cạnh đó, việc dựng tượng Thánh, tượng Chúa, tượng Phật,… trên đất
công vẫn diễn ra ở một số nơi.
Các hoạt động tôn giáo trái pháp luật như tình trạng chức sắc phong chui, tự
nhận tuy giảm nhưng vẫn còn tiếp diễn; hoạt động in ấn, xuất bản, nhập từ nước
ngoài và lưu hành kinh sách, ấn phẩm tôn giáo trái phép vẫn diễn ra; hiện tượng


8


giảng đạo, truyền đạo trái pháp luật tiếp tục diễn ra ở một số vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, vùng biên giới.
Do vấn đề lợi ích cá nhân hoặc không thống nhất được hướng hoạt động của
các hệ phái tôn giáo nên đã dẫn đến mâu thuẩn nội bộ ở một số tổ chức tôn giáo. Từ
đó, hình thành những hoạt động tranh giành tín đồ ở một số nhóm, hệ phái tôn giáo,
ảnh hưởng không nhỏ đến công tác quản lý nhà nước về tôn giáo.
Hoạt động tôn giáo phức tạp của các tôn giáo trong vùng đồng bằng dân tộc
thiểu số. Thời gian qua, ở các vùng chiến lược Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ,
hoạt động tôn giáo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số có những tác động xấu đến
an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội. Tại đây, các đối tượng phản động đã lợi
dụng tôn giáo để tập hợp lực lượng, thực hiện các hoạt động gây rối, bạo loạn, đòi ly
khai, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, như xưng vua và lập nhà nước Mông ở Tây
Bắc, lập nhà nước Đê-ga ở Tây Nguyên, đòi tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam,…
Hoạt động chống đối chính quyền của các phần tử phản động trong các tôn
giáo. Với sự tiếp tay của các thế lực thù địch ở nước ngoài và nhóm “Đảng Việt
Tân”, một số nhóm, cá nhân ở trong nước và nước ngoài đã tiến hành tuyên truyền,
kích động nhân dân gây rối, chống lại chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo.
Các hiện tượng tín ngưỡng, tôn giáo mới, đạo lạ và tà đạo. Theo thống kê, ở
Việt Nam có khoảng 60 hiện tượng tín ngưỡng, tôn giáo mới, du nhập từ nước ngoài
hoặc nội sinh (thực chất là các tổ chức tín ngưỡng mang màu sắc tôn giáo). Một số
hiện tượng tín ngưỡng đang hình thành tổ chức, tiến tới đăng ký hoạt động tôn giáo
mới. Tuy nhiên, hoạt động của nhiều nhóm trong số này có biểu hiện dị đoan, gây
ảnh hưởng xấu đến đời sống văn hóa. Một số tổ chức phản động cũng núp dưới danh
nghĩa tôn giáo để tập hợp lực lượng, như: “Hội đồng Công luận án Bia Sơn”, “Cây
Thập giá Chúa Giê-su Cờ-rít”,…

Ngoài ra, còn do tác động từ bên ngoài do quá trình toàn cầu hóa về kinh tế và
mở cửa hội nhập quốc tế đang diễn ra ở Nước ta. Tình hình chiến tranh, xung đột sắc
tộc tôn giáo đang diễn ra ngày một phức tạp trong khu vực và trên thế giới. Các thế
lực phản động, các nhóm lợi ích lợi dụng chiêu bài “dân chủ nhân quyền, tự do tín

9


ngưỡng tôn giáo” gây xung đột sắc tộc, tôn giáo, khủng bố, bạo lực lật đổ chính
quyền…. Tình hình đó tác động và ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp vào nước ta,
càng cần được xem xét nghiên cứu trong hoạch định, xây dựng chính sách công nói
chung, chính sách tôn giáo ở nước ta nói riêng.
Từ những phân tích trên đây cho thấy vấn đề tôn giáo thực sự trở thành vấn đề
chính sách nhà nước cần tập trung giải quyết. Vấn đề chính sách tôn giáo cần phải
được nghiên cứu thấu đáo, cẩn trọng mới có thể giải quyết thành công, mới đáp ứng
được yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước đặt ra hiện nay.
1.1.3. Mục tiêu chính sách tôn giáo
Qua các giai đoạn cách mạng, Đảng và nhà nước ta luôn xác định tôn giáo và
giải quyết vấn đề tôn giáo là vấn đề chiến lược có ý nghĩa quan trọng. Trong cách
mạng dân tộc dân chủ, chính sách “tín ngưỡng, tự do, lương giáo đoàn kết” do Chủ
tịch Hồ Chí Minh đề ra đã góp phần to lớn vào sự nghiệp đoàn kết toàn dân kháng
chiến thắng lợi, giành độc lập thống nhất hoàn toàn cho đất nước.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, vấn đề tôn giáo ở Việt Nam có những nội
dung mới. Năm 1990, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 24-NQ/TW về công tác tôn giáo, xác
định “Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần
của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây
dựng xã hội mới”, “các giáo hội và tổ chức tôn giáo nào có đường hướng hành đạo gắn
bó với dân tộc, có tôn chỉ mục đích, điều lệ phù hợp với pháp luật Nhà nước, có tổ
chức phù hợp và bộ máy nhân sự đảm bảo tốt về cả hai mặt đạo, đời thì sẽ được Nhà
nước xem xét trong từng trường hợp cụ thể để cho phép hoạt động” [11].

Ngày nay, tình hình hoạt động tôn giáo ở nước ta có những diễn biến phức
tạp, tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định. Một số công dân chưa tuân thủ
pháp luật, còn có tổ chức truyền đạo trái phép, còn lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để
hành nghề mê tín dị đoan. Việc khiếu kiện và tranh chấp liên quan đến đất đai và cơ
sở vật chất của tôn giáo ở một số nơi tăng lên, có nơi gay gắt và phức tạp. Ở một số
nơi, nhất là vùng dân tộc thiểu số, một số người đã lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để
tiến hành những hoạt động chống đối, kích động tín đồ nhằm phá hoại khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị.

10


Để xảy ra những hạn chế đã nêu trên lý do là do chính sách tôn giáo chưa
thực sự giải quyết được vấn đề tôn giáo ở nước ta, chính sách tôn giáo chậm sửa
đổi những giải pháp và công cụ chính sách đã không đáp ứng được nhu cầu thực
tiễn. Cần phải đưa ra mục tiêu cụ thể của chính sách tôn giáo, nhằm tạo mục tiêu để
hướng tới trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo.
Một là, chính sách tôn giáo ở Việt Nam bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và
không tín ngưỡng của công dân trên cơ sở pháp luật.
Hai là, chính sách tôn giáo thực hiện theo hướng tích cực vận động đồng bào
các tôn giáo tăng cường đoàn kết toàn dân nhằm xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp
đạo”, tích cực góp phần vào công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định về
chính trị, trật tự và an toàn xã hội.
Ba là, hướng các chức sắc giáo hội hoạt động tôn giáo theo đúng pháp luật,
ủng hộ các xu hướng tiến bộ trong các tôn giáo, làm cho các giáo hội ngày càng gắn
bó với dân tộc và sự nghiệp cách mạng toàn dân, thể hiện rõ vai trò trách nhiệm của
tôn giáo ở một quốc gia độc lập.
Bốn là, luôn luôn cảnh giác, kịp thời chống lại những âm mưu và thủ đoạn của
các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân,
chống chủ nghĩa xã hội.

Năm là, những quan hệ quốc tế và đối ngoại về tôn giáo hoặc có liên quan đến
tôn giáo phải theo chế độ, chính sách chung về quan hệ quốc tế đối ngoại của Nhà nước.
Như vậy, chính sách tôn giáo của nhà nước bao gồm nhiều mặt, vừa có mặt
đối nội, vừa có mặt đối ngoại. Thực hiện chính sách tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình
thông qua chính sách, pháp luật.
1.1.4. Các giải pháp, công cụ chính sách tôn giáo
Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng, bắt đầu từ Đại hội VI,
đến nay đã hơn ba thập kỷ. Nhìn lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của
đất nước trên mọi lĩnh vực, không thể không nói đến thắng lợi của sự đổi mới tư duy,
đường lối của Đảng và chính sách tôn giáo của Nhà nước ta.

11


Có thể thấy, một thời gian dài, kể cả sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu
sụp đổ, trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, quan điểm tả khuynh về tôn giáo vẫn còn
tồn tại; thường nhấn mạnh sự khác biệt cơ bản giữa tôn giáo với chủ nghĩa xã hội;
tập trung chủ yếu vào sự đối lập về hệ tư tưởng; xem xét bản chất tôn giáo một cách
thiên lệch, bằng cách cắt xén phiến diện mệnh đề của chủ nghĩa C.Mác “Tôn giáo là
thuốc phiện của nhân dân” [14, tr 570].
Từ thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, với mục tiêu xây dựng nhà nước pháp
quyền, nền kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập quốc tế, Nhà nước đã ban hành và
thực hiện thành công nhiều chính sách, trong đó có chính sách tôn giáo. Và trong việc
xây dựng, hoàn thiện các chính sách công nói chung, chính sách tôn giáo nói riêng đã
đặc biệt quan tâm đến giải pháp công cụ chính sách. Giải pháp công cụ chính sách là
cách thức nhà nước sử dụng để tác động đến đối tượng chính sách nhằm đạt được mục
tiêu chính sách. Cụ thể đối với chính sách tôn giáo để đạt được mục tiêu chính sách
cần phải sử dụng các giải pháp sau:
Một là, giải pháp tác động thông qua lợi ích kinh tế.

Các chức sắc, chức việc, nhà tu hành và các tín đồ tôn giáo là bộ phận cấu
thành cộng đồng nhân dân cả nước. Họ là đối tượng của chính sách, mục tiêu của
chính sách như trên đã nêu là nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo,
theo hoặc không theo tôn giáo nào của công dân, phát huy sức mạnh đoàn kết và vai
trò của đồng bào theo các tôn giáo khác nhau trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và
phát triển đất nước. Để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thực sự và phát
huy vai trò của giáo dân, đồng bào các tôn giáo, trước hết nhà nước phải bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của họ, trong đó quan trọng nhất là lợi ích kinh tế.
Chính vì vậy, để đạt được mục tiêu của chính sách tôn giáo nhà nước đã ban
hành và tổ chức thực hiện nhiều chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội nhằm
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và văn hóa của nhân dân, trong đó có các giáo
dân, đồng bào các tôn giáo. Chẳng hạn như chương trình xóa đói giảm nghèo, giảm
nghèo bền vững; chương trình xây dựng nông thôn mới; các chương trình, dự án
chính sách từ thiện nhân đạo, đền ơn đáp nghĩa đối với những người có công;
chương trình, dự án bảo vệ môi trường, xã hội hóa giáo dục, y tế,... Thông qua các

12


chương trình, dự án của nhà nước, các cấp chính quyền tuyên truyền vận động và tạo
điều kiện cho giáo dân, đồng bào các tôn giáo tích cực tham gia thực hiện. Bằng cách
đó nhà nước tạo điều kiện cho giáo dân, đồng bào các tôn giáo phát huy quyền dân
chủ, quyền làm chủ của mình tích cự tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội, làm cho
dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Chỉ khi nào kinh tế xã hội phát triển, dân giàu nước mạnh thì quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc
không theo tôn giáo nào của công dân mới được bảo đảm trên thực tế.
Như vậy, bằng việc sử dụng giải pháp tác động thông qua lợi ích kinh tế là
giải pháp quan trọng để đạt được mục tiêu của chính sách tôn giáo.
Hai là, giải pháp tác động thông qua quan hệ cộng đồng.
Trong xây dựng chính sách công nói chung, xây dựng và hoàn thiện chính
sách tôn giáo nói riêng cũng có thể sử dụng giải pháp tác động thông qua quan hệ

cộng đồng các tôn giáo. Các tôn giáo ở nước ta rất đa dạng, mỗi tôn giáo có đối
tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức khác nhau. Các tín đồ, giáo dân
theo tôn giáo nào cũng cố kết với nhau thành một cộng đồng bền vững bằng niềm tin,
đức tin vào đối tượng họ tôn thờ, bằng triết lý, giáo lý họ theo đuổi.
Quan hệ cộng đồng chặt chẽ của các giáo dân, các tín đồ tôn giáo tạo nên sức
mạnh, sự bền vững của các tôn giáo. Do đó trong xây dựng và hoàn thiện chính sách
tôn giáo phải sử dụng giải pháp tác động thông qua quan hệ cộng đồng các tôn giáo
để tạo ra động lực giúp chính sách tôn giáo được thực hiện trên thực tế.
Ba là, giải pháp tác động thông qua giá trị xã hội.
Trong xây dựng và hoàn thiện chính sách công nói chung, chính sách tôn giáo
nói riêng chủ thể ban hành chính sách là nhà nước, ngoài việc sử dụng các giải pháp
trên còn sử dụng giải pháp tác động thông qua các giá trị xã hội. Giải pháp này được
sử dụng nhằm tạo ra niềm tin, hệ giá trị được mọi người tôn trọng và yêu thích, giải
pháp này đặc biệt có tác dụng mạnh đối với các tôn giáo, và lý tưởng chính trị. Điều
này có nghĩa là chính sách tôn giáo của nhà nước cần tạo ra đồng thuận về các giá trị
mà các đối tượng chính sách (các tín đồ, giáo dân, chức sắc, chức việc…) theo đuổi.
Đặc biệt đối với các tôn giáo ở nước ta, sử dụng giải pháp tác động thông các giá trị
xã hội làm sao đạt được sự đồng thuận cao của các tôn giáo về các giá trị xã hội của

13


họ thừa nhận, tin tưởng, tôn trọng và tuân theo. Cụ thể phải sử dụng giải pháp tạo ra
các giá trị xã hội chung đó là: “Tinh thần đại đoàn kết dân tộc”, “đoàn kết các tôn
giáo”, “kính chúa yêu nước”, “sống tốt đời, đẹp đạo”, “sống phúc âm trong lòng dân
tộc”, “đạo pháp đồng hành cùng dân tộc”,... Đồng thời dùng giải pháp tác động thông
qua các giá trị xã hội để phát huy và tạo ra giá trị tương đồng các tôn giáo theo đuổi
đó là mong ước tin tưởng về một tôn giáo đại đồng, một xã hội hạnh phúc, công
bằng, bác ái, điều thiện thắng điều ác,...
Như vậy, có thể thấy giải pháp tác động thông qua các giá trị xã hội là giải

pháp cực kỳ quan trọng cần phải sử dụng trong xây dựng và hoàn thiện chính sách
tôn giáo.
Ngoài các giải pháp đã được nêu trên, khi xây dựng chính sách tôn giáo rất
cần thiết phải xây dựng các công cụ của chính sách. Đối với chính sách tôn giáo ở
Việt Nam cần phải đảm bảo các công cụ sau:
Thứ nhất, công cụ quyền lực, pháp luật của nhà nước.
Sử dụng công cụ quyền lực, công cụ pháp luật là cần thiết. Vì trong quản lý
nhà nước hai công cụ: chính sách và pháp luật là hai công cụ hữu hiệu được nhà
nước sử dụng để đảm bảo trật tự kỷ cương và hiệu lực hiệu quả của quản lý. Hai
công cụ này có tác động và bổ sung cho nhau. Chính sách là nguồn khơi dậy sức
sống của pháp luật, ngược lại từ các quy định của pháp luật có thể hình thành các
chính sách, pháp luật trở thành căn cứ để xây dựng chính sách đồng thời là cơ sở
pháp lý để bảo đảm cho chính sách tôn giáo được thực hiện trong thực tế cuộc sống.
Đặc biệt trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, nhà nước trong đó pháp
luật là tối thượng, thì càng phải sử dụng công cụ quyền lực, công cụ pháp luật trong
xây dựng và hoàn thiện chính sách tôn giáo.
Thứ hai, công cụ hành chính tổ chức.
Tính chất của công cụ này mang tính mệnh lệnh hành chính đơn phương,
nhưng đối với chính sách tôn giáo đối tượng là các tín đồ tôn giáo, các giáo dân, các
chức sắc, chức việc tôn giáo, có đặc tính riêng và với tinh thần “không tuyên chiến
với tôn giáo” thì nên hạn chế sử dụng những công cụ này. Tuy nhiên, trong tổ chức
thực hiện chính sách tôn giáo để bảo đảm hiệu quả và thực hiện mục tiêu chính sách

14


và bảo đảm lợi ích chung của cộng đồng người dân và nhà nước, nhiều lúc sử dụng
công cụ hành chính tổ chức lại phát huy tác động mạnh.
Cuối cùng, một công cụ hữu dụng và tác động tương đối mạnh cần được sử
dụng trong xây dựng và hoàn thiện chính sách tôn giáo đó là công cụ “tuyên truyền,

giáo dục chính trị tư tưởng”.
Chính sách tôn giáo có đối tượng rất rộng, gồm nhiều tín đồ tôn giáo, giáo
dân, chức sắc, chức việc của nhiều tôn giáo khác nhau hoạt động ở các tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương, ở các địa phương, vùng miền trong phạm vi toàn quốc.
Các đối tượng này có đặc điểm, đặc tính, trình độ văn hóa khác nhau. Vấn đề chính
sách tôn giáo lại vô cùng phức tạp và nhạy cảm. Do đó, cần phải sử dụng công cụ
“tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng” trong xây dựng và hoàn thiện chính sách
tôn giáo. Tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng để các đối tượng chính sách và
người dân hiểu rõ về mục tiêu, yêu cầu của chính sách, về tính đúng đắn của chính
sách để họ tự giác thực hiện. Trong tuyên truyền phổ biến chính sách tôn giáo, phải
chú ý khơi dậy và phát huy tinh thần đại đoàn kết các dân tộc, đại đoàn kết các tôn
giáo, tinh thần yêu nước và ý thức trách nhiệm công dân của một nhà nước dân chủ,
độc lập tự do và thống nhất. Để các giáo dân, đồng bào các tôn giáo thực hiện quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo không tách rời với thực hiện bổn phận và nghĩa vụ của
công dân.
1.1.5. Thể chế chính sách tôn giáo
Quan điểm của Đảng về tôn giáo đã được nhà nước ta thể chế hóa trong các
văn bản pháp luật cao nhất của nhà nước, trong các Hiến pháp 1946, 1959, 1980,
1992 và đặc biệt trong Hiến pháp 2013. Trong các Hiến pháp này, quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của công dân đã được nêu rõ.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được Quốc hội thông
qua ngày 28 tháng 11 năm 2013 quy định tại Điều 24, Chương II “Mọi người có
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn
giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật” [56].

15



Trên cơ sở quan điểm, chủ trương nêu trong Nghị quyết số 24 NQ-TW ngày
16/10/1990 của Bộ Chính trị khóa VI, Hội đồng Bộ trưởng (nay là chính phủ) cụ thể
hóa bằng việc ban hành Nghị định số 69/NĐ- HĐBT ngày 21/3/1991 về việc “Quy
định về các hoạt động tôn giáo” là văn bản mở đầu. Năm 1993, Chính phủ ra Nghị
định liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan có tầm quan
trọng bậc nhất về quản lý nhà nước về tôn giáo.
Sau đó là nhiều văn bản được ban hành để giải quyết tình hình tôn giáo như:
Nghị định 26/NĐ-CP ngày 19/4/1999 của Chính phủ “Về các hoạt động tôn giáo”
[19]; Quyết định số 125/2003 của Thủ tướng Chính phủ ngày 18/6/2003 “Về việc
phê duyệt chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị TW
7 (khóa IX) Về công tác tôn giáo” .
Tháng 6/2004, Pháp lệnh số 21/2004/PL-UBTVQH11 ngày 18 tháng 6 năm
2004 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tín ngưỡng, tôn giáo được ban hành cũng
như Nghị định số 22/2005/NĐ-CP của Chính phủ về việc “Hướng dẫn thi hành một
số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo” ban hành (3/2005).
Tiếp theo, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 01/2005/CT-TTg ngày 04
tháng 02 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối với đạo Tin
lành, Chỉ thị số 1940/2008/CT-TTg ngày 31 tháng 12 năm 2008 của Thủ tướng
Chính phủ về nhà, đất liên quan đến tôn giáo. Chính phủ ban hành Nghị định
92/2012/NĐ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2012 quy định chi tết và biện pháp thi hành
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo.
Đặc biệt, ngày 18/11/2016 tại Kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa 14 đã thông qua
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo. Như vậy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân đã
được Hiến định và luật định đầy đủ và cụ thể. Các quy định trong Hiến pháp, Luật Tín
ngưỡng, tôn giáo, trong các nghị định của Chính phủ, các quyết định của Thủ tướng
Chính phủ, trong các thông tư, thông tư liên tịch của các Bộ đã tạo thành cơ sở pháp lý
khá đầy đủ để hoạch định xây dựng và hoàn thiện chính sách tôn giáo ở nước ta.
1.1.6. Chủ thể chính sách tôn giáo
Ở nước ta từ sau cách mạng tháng 8/1945 thành công đến nay quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của công dân được nhà nước tôn trọng và bảo đảm trên cơ sở pháp


16


lý cao nhất, được nghi nhận trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và
2013 cao luật cơ bản của nhà nước. Chủ thể quyết định chính sách tôn giáo cũng
được Hiến pháp trao cho Quốc hội, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan
quyền lực cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Cụ thể, Hiến
pháp năm 2013 quy định Quốc hội có nhiệm vụ, quyền hạn: “Quyết định chính sách
tôn giáo của Nhà nước (khoản 5 Điều 70 Hiến pháp 2013)” [56]. Chính sách tôn giáo
là một chính sách quan trọng trong các chính sách quan trọng của nhà nước, nó thể
hiện rõ thái độ, quan điểm các quyết sách, quyết định chính trị của Nhà nước về vấn
đề tôn giáo, vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
công dân. Không phải ngẫu nhiên Hiến pháp năm 2013 trao quyền quyết định chính
sách tôn giáo cho Quốc hội. Trên cơ sở các quyết định chính sách tôn giáo của Quốc
hội, Chính phủ hoạch định, xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách
tôn giáo cụ thể Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 quy định: “Chính phủ xây dựng
và trình Quốc hội quyết định chính sách tôn giáo của Nhà nước; quản lý và tổ chức
thực hiện chính sách tôn giáo, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào của công dân”. Ngoài ra, Thủ tướng Chính phủ và các
Bộ trưởng trong phạm vi thẩm quyền và trách nhiệm của mình theo quy định của
pháp luật cùng tham gia xây dựng và chỉ đạo thực hiện chính sách tôn giáo.
Bên cạnh xác định chủ thể xây dựng chính sách tôn giáo, chính quyền địa
phương và các tổ chức chính trị - xã hội là chủ thể thực hiện chính sách tôn giáo vào
cuộc sống quy định của pháp luật, dưới sự lãnh đạo thống nhất của cấp uỷ Đảng.
Như vậy, chủ thể chính sách tôn giáo ở nước ta bao gồm Quốc hội, UBTVQH,
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng các cơ quan ngang bộ,
chính quyền địa phương từ cấp tỉnh đến cấp xã, các tổ chức – chính trị xã hội.
1.1.7. Những yếu tố tác động đến chính sách tôn giáo ở Việt Nam
Đến nay, Nhà nước ta công nhận tư cách pháp nhân cho 14 tôn giáo và cấp

đăng ký hoạt động cho 38 tổ chức tôn giáo (các tôn giáo gồm: Phật giáo, Công giáo
(Thiên Chúa giáo), Tin lành, Cao đài, Phạt giáo Hòa Hảo, Hồi giáo, Tịnh độ cư sĩ
Phật hội Việt Nam, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ ân Hiếu nghĩa, Giáo hội Phật đường
Nam tông Minh Sư Đạo, Minh lý đạo – tam tông miếu và đạo Bà hải. Các chức sắc

17


tôn giáo gồm: Phật giáo 48.498, Công giáo (Thiên Chúa giáo) 3.394, Tin lành 132,
Cao đài 14.261, Phật giáo Hòa Hảo1.956 , Hồi giáo 699. Cơ sở thờ tự: Phật giáo
16.984, Công giáo (Thiên Chúa giáo) 5.546, Tin lành 320, Cao đài 1.290, Phật giáo
Hòa Hảo 39, Hồi giáo 79. Cơ sở đào tạo: Phật giáo có 4 Học viện Phật giáo, Công
giáo có 6 Đại chủng viện). Đa số tín đồ các tôn giáo là người lao động, chủ yếu là
nông dân cư trú trên địa bàn cả nước, một bộ phận tín đồ là đồng bào dân tộc thiểu
số theo các tôn giáo cư trú ở các địa bàn như: Tây Bắc gần 100 ngàn, Tây Nguyên
400 ngàn, Tây Nam bộ 1,3 triệu [5].
Trước sự đa dạng của tôn giáo và tầm quan trọng của chính sách tôn giáo ở
Việt Nam. Để đảm bảo chính sách tôn giáo ở nước ta được thành công, việc xác định
những yếu tố tác động chủ quan và khách quan là một việc làm cấp bách.
Thứ nhất, yếu tố chủ quan.
Một, quá trình xây dựng chính sách tôn giáo.
Công tác xây dựng và hoàn thiện chính sách tôn giáo là việc làm thường
xuyên nhằm khắc phục những hạn chế, đưa ra các giải pháp, công cụ mới nhằm đáp
ứng được tình hình tôn giáo mới ở trong nước cũng như thế giới.
Qua tổng kết 10 năm thực hiện Pháp lệnh và các văn bản quy định chi tiết thi
hành, cho thấy những bất cập trong các quy định của Pháp lệnh chưa phù hợp tình
hình hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và có những vấn đề phức tạp phát sinh.
Một số quy định của Pháp lệnh còn thiếu cụ thể, chưa phù hợp với thực tiễn
hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của mọi người như quy định về hoạt động tín ngưỡng, đăng ký hoạt

động tôn giáo, công nhận tổ chức tôn giáo, phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu
cử, suy cử, hoạt động xã hội của tổ chức tôn giáo, hoạt động quốc tế.
Hai, quá trình thực hiện chính sách tôn giáo.
Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo các cấp có nhiều điểm chưa phù
hợp với nhiệm vụ được giao. Còn tồn tại nhận thức cơ quan quản lý nhà nước về tôn
giáo chỉ là Ban tôn giáo các cấp, dẫn đến việc thực hiện quản lý nhà nước về tôn giáo
bị bó hẹp, hạn chế, yếu kém.

18


Công tác quản lý nhà nước hiện tập trung nhiều vào các tôn giáo đã được Nhà nước
công nhận. Việc ngăn chặn, đấu tranh với các tôn giáo không hợp pháp và những
hoạt động tôn giáo vi phạm pháp luật còn bị động, tại nhiều thời điểm chưa khôn
khéo, kịp thời.
Tiến độ giải quyết các thủ tục hành chính về lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng liên
quan đến nhiều cấp, ngành còn chậm. Việc phối hợp các cấp, các ngành xử lý các
vấn đề nảy sinh trong tôn giáo, liên quan đến các hoạt động đối nội, đối ngoại, kinh
tế, văn hóa, xã hội còn thiếu đồng bộ.
Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo còn nhiều hạn
chế, giảm dần theo từng cấp; xuống đến cấp cơ sở về cơ bản năng lực chuyên môn
chưa bảođảm. Công tác đào tạo cán bộ quản lý nhà nước về tôn giáo cũng chưa được
chú trọng đúng mức.
Thứ hai, yếu tố khách quan
Một, âm mưu lợi dụng vấn đề tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của
các thế lực thù địch.
Chống phá cách mạng Việt Nam là âm mưu không bao giờ thay đổi của các
thế lực thù địch. Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc đang đẩy mạnh chiến lược “diễn biến
hoà bình” chống Việt Nam với phương châm lấy chống phá về chính trị, tư tưởng
làm hàng đầu, kinh tế là mũi nhọn, ngoại giao làm hậu thuẫn, tôn giáo, dân tộc làm

ngòi nổ, kết hợp với bạo loạn lật đổ, uy hiếp, răn đe, gây sức ép về quân sự.
Trực tiếp phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ dân tộc đa số với
dân tộc thiểu số và giữa các dân tộc thiểu số với nhau, chia rẽ đồng bào theo tôn giáo
và không theo tôn giáo, giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, hòng làm suy
yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
Thứ hai, thủ đoạn lợi dụng vấn đề tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam
của các thế lực thù địch.
Thủ đoạn lợi dụng vấn đề tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các
thế lực thù địch rất thâm độc, tinh vi, xảo trá, đê tiện dễ làm cho người ta tin và làm
theo. Chúng thường sử dụng chiêu bài “nhân quyền”, “dân chủ”, “tự do”; những vấn
đề lịch sử để lại; những đặc điểm văn hoá, tâm lí của đồng bào các dân tộc, các tôn

19


×