Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Thực hiện chính sách dạy nghề cho lao động nông thôn từ thực tiễn tỉnh bình dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (697.46 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THÀNH SANG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DẠY NGHỀ CHO LAO ĐỘNG
NÔNG THÔN TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THÀNH SANG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DẠY NGHỀ CHO LAO ĐỘNG
NÔNG THÔN TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƯƠNG

Chuyên ngành

: Chính sách công

Mã số

:


60 34 04 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. ĐỖ PHÚ HẢI

HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận
được sự quan tâm, hướng dẫn tận tình của Quý thầy, cô đang công tác, giảng
dạy tại Học viện Khoa học Xã hội. Từ đó, giúp tôi có điều kiện tiếp cận và
cập nhật, bổ sung thêm kiến thức về khoa học Chính sách công, phục vụ tốt
hơn cho công tác chuyên môn của bản thân.
Đến nay, tôi đã hoàn thành chương trình học và hoàn chỉnh luận văn tốt
nghiệp, tôi xin trân trọng cám ơn Ban Giám đốc, Khoa Chính sách công và
tập thể giảng viên đang công tác tại Học viện Khoa học Xã hội đã giúp đỡ, tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi học tập, nghiên cứu trong suốt thời gian qua.
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và
sâu sắc nhất đến PGS. TS. Đỗ Phú Hải, người đã dành thời gian và tâm
huyết để truyền đạt cho tôi kinh nghiệm, phương pháp nghiên cứu, tận tình
hướng dẫn tôi với tinh thần trách nhiệm cao trong suốt quá trình nghiên cứu
và hoàn thành luận văn.
Tôi gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám đốc và lãnh đạo
HVKHXH đã quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập, nghiên cứu và
hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Dù đã có nhiều cố gắng, song luận văn chắc chắn không thể tránh khỏi
những thiếu sót và hạn chế. Tôi rất mong nhận được sự chia sẻ và những ý

kiến đóng góp quý báu của Quý thầy, cô và các bạn học viên để luận văn có
giá trị thực tiễn hơn.
Trân trọng cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bản luận văn “Thực hiện Chính sách dạy nghề cho lao
động nông thôn từ thực tiễn tỉnh Bình Dương” này là công trình nghiên cứu

thực sự của cá nhân, được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và xuất
phát từ thực tiễn công tác, dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Đỗ Phú Hải.
Các số liệu và những kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực,
chưa từng được công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước khi trình, bảo vệ và
công nhận bởi Hội đồng đánh giá Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Chính sách
công.
Một lần nữa tôi xin khẳng định sự trung thực của lời cam kết trên.

Tác giả

Nguyễn Thành Sang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
Chương 1. LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DẠY NGHỀ CHO
LAO ĐỘNG NÔNG THÔN ......................................................................................... 7
1.1. Khái niệm chính sách dạy nghề cho lao động nông thôn ................................ 7
1.2. Nội dung chính sách dạy nghề cho lao động nông thôn hiện nay ................... 8
1.3. Tổ chức thực hiện chính sách dạy nghề cho lao động nông thôn .................. 20

1.4. Trách nhiệm của các chủ thể thực hiện chính sách dạy nghề cho lao
động nông thôn. ............................................................................................. 27

1.5. Thể chế chính sách dạy nghề cho lao động nông thôn......................... 29
1.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách dạy nghề cho lao
động nông thôn .............................................................................................. 29
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DẠY NGHỀ CHO LAO
ĐỘNG NÔNG THÔN TẠI BÌNH DƯƠNG........................................................................................ 32
2.1. Chính sách dạy nghề cho lao động nông thôn của tỉnh Bình Dương ............ 32
2.2. Tổ chức thực hiện chính sách dạy nghề cho lao động nông thôn tại Bình
Dương ............................................................................................................ 43
2.3. Đánh giá chung về tổ chức thực hiện chính sách dạy nghề cho lao động
nông thôn tại tỉnh Bình Dương ...................................................................... 58

Chương 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
SÁCH DẠY NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN Ở NƯỚC TA ................... 62
3.1. Mục tiêu, định hướng hoàn thiện chính sách dạy nghề cho lao động
nông thôn ...................................................................................................... 62
3.2. Giải pháp tăng cường thực hiện chính sách dạy nghề cho lao động nông
thôn ở nước ta hiện nay ............................................................................... 64
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 81


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

AEC

: ASEAN Economic Community
(Cộng đồng Kinh tế ASEAN)


AFTA

: ASEAN Free Trade Area
(Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN)

ASEAN

: Association of Southeast Asian Nations
( Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á)

CNH, HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

GQVL

: Giải quyết việc làm

HĐND

: Hội đồng nhân dân

ILO

: International Labour Organization
(Tổ chức Lao động quốc tế)

KCN


: Khu công nghiệp

KH&ĐT

: Kế hoạch và Đầu tư

KT-XH

: Kinh tế - xã hội



: Lao động

LĐ-TB&XH

: Lao động - Thương binh và Xã hội

NLĐ

: Người lao động

TPP

: Trans-Pacific Partnership Agreement
(Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương)

TW

: Trung ương


UBND

: Ủy ban nhân dân

WTO

: World Trade Organization
(Tổ chức Thương mại thế giới)

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

XKLĐ

: Xuất khẩu lao động


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp, nông thôn và nông dân có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự
nghiệp cách mạng và công cuộc đổi mới nền kinh tế - xã hội của đất nước. Đảng và
nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước mà trước hết là
lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Năm 2007, Việt Nam đã chính thức trở thành
thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, nền kinh tế nói chung và sản xuất
nông nghiệp của Việt Nam nói riêng đang phải đương đầu với một cuộc cạnh tranh
quyết liệt, trong đó có nhiều cơ hội để phát triển nhưng những thách thức mà Việt
Nam phải đối mặt cũng không nhỏ. Chất lượng của nguồn nhân lực vốn được xem

là khâu then chốt để nâng cao tính bền vững của nền kinh tế, của phát triển xã hội
thì vẫn còn nhiều hạn chế hay nói đúng hơn là vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát
triển của nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập. Chính vì vậy, Chính phủ đã phê duyệt
Chiến lược phát triển nguồn nhân lực đến năm 2020, đặc biệt là phát triển nguồn
nhân lực nông thôn nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam, với chỉ số
ước đạt 55% lao động có tay nghề cao, nhằm đáp ứng được thách thức của nền kinh
tế thị trường trong hiện tại và tương lai. Thông qua chiến lược này, Chính phủ kỳ
vọng người lao động có đủ trình độ, độ nhạy cảm đối mặt với một thách thức rất lớn
là môi trường làm việc mang tính cạnh tranh. Cạnh tranh với lao động trong nước
và cạnh tranh với lao động nước ngoài, khi tham gia vào quá trình xuất khẩu lao
động hay khi lao động nước ngoài trực tiếp vào làm việc tại Việt Nam.
Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là một chính sách mang tính nhân văn
sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta. Hiện nay, trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp
hóa, tỉnh Bình Dương trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, đang trên con
đường phát triển thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại và phấn đấu đến năm
2020 là thành phố trực thuộc trung ương; bên cạnh việc đầu tư cơ sở hạ tầng phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hóa thì nguồn nhân lực có tay nghề là một vấn đề đang
được đặt ra hàng đầu tại Bình Dương.

1


Thời gian qua, công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn
tỉnh đã được sự đồng thuận của các cấp, các ngành và người lao động. Chính sách
của Đảng, Nhà nước luôn tạo mọi điều kiện để người lao động có thể tham gia học
nghề nhằm tìm kiếm hoặc tự tạo việc làm, nâng cao thu nhập, góp phần ổn định đời
sống an sinh xã hội. Nhìn chung, trong giai đoạn 2010-2015, việc triển khai thực
hiện Đề án 1956 của tỉnh là đúng hướng, cơ bản đạt được các mục tiêu và yêu cầu
đặt ra, tạo tiền đề, cơ sở để phát triển về số lượng và nâng cao chất lượng dạy nghề
cho lao động nông thôn những năm tiếp theo.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó thì công tác đào tạo nghề của
tỉnh cũng gặp phải những khó khăn, hạn chế như là: Việc triển khai công tác đào tạo
nghề vẫn còn chậm, đạt kết quả thấp; Ban chỉ đạo cấp huyện, thị xã, thành phố vẫn
chưa thống kê được số người học xong có việc làm, đã thoát nghèo, số hộ gia đình
đã trở thành hộ khá; Đa số cán bộ phụ trách công tác dạy nghề của huyện, thị xã,
thành phố còn kiêm nhiệm nhiều việc nên chưa đáp ứng tốt việc thực hiện đầy đủ
các yêu cầu của Đề án đào tạo nghề; Mô hình ký cam kết với các doanh nghiệp trên
địa bàn tham gia giải quyết việc làm hoặc bao tiêu sản phẩm cho học viên tốt
nghiệp sau đào tạo trước khi mở lớp chưa thực hiện được.
Do vậy, để công tác đào tạo nghề của tỉnh ngày càng phát triển, đáp ứng
được nhu cầu của thời kỳ CNH, HĐH cần được các cấp, các ngành và toàn thể các
tập thể, cá nhân trong và ngoài tỉnh hưởng ứng, đầu tư triển khai trong những giai
đoạn tiếp theo.
Xuất phát từ thực tiễn trên, Tôi quyết định lựa chọn và nghiên cứu đề tài
“Thực hiện Chính sách dạy nghề cho lao động nông thôn từ thực tiễn tỉnh Bình
Dương” làm luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Chính sách công của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Kể từ khi đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 (Đề án
1956) của Chính phủ được ban hành, đào tạo nghề cho lao động nông thôn đang
nhận được sự quan tâm của các cấp chính quyền địa phương. Chính vì vậy trong

2


thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu, các bài viết liên quan đến chính
sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Cụ thể như sau:
- Bài viết “Những vẫn đề đặt ra trong công tác đào tạo nghề hiện nay” của
tác giả Doãn Huy và “Nan giải công tác đào tạo nghề cho lao động nông
thôn” của Thắng Trung – Tạp chí Cộng sản cung cấp cho người đọc những vấn đề
còn tồn tại trong công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn hiện nay. Điều này,

xuất phát từ chính bản thân người học và người dạy – những nhân tố đóng vai trò
chủ chốt trong việc thực hiện thành công công tác đào tạo nghề.
Tác giả Nguyễn Viết Sự đã có một nghiên cứu khá công phu “Giáo dục nghề
nghiệp – những vấn đề và giải pháp”.Trong nghiên cứu này, tác giả đã nhận diện
những vấn đề tồn tại phổ biến trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam,
từ chương trình, phương pháp, nội dung, đội ngũ giáo viên, chất lượng giảng dạy,
khả năng thích ứng với môi trường làm việc, tác phong nghề nghiệp, từ đó đưa ra
các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của hệ thống giáo dục nghề nghiệp.
Kỷ yếu hội thảo khoa học: “Công nghiệp hóa, đô thị hóa qua thực tiễn ở
Bình Dương” Bình Dương tháng 3 - 2015 do Hội đồng lý luận Trung ương và tỉnh
ủy Bình Dương làm chủ biên với nhiều bài viết của Hội đồng lý luận trung ương,
tỉnh ủy Bình Dương, các bài viết của các nhà khoa học, của các Sở ban ngành trong
tỉnh Bình Dương nhằm đánh giá tổng quan quá trình chuyển đổi nhận thức, đổi mới
tư duy, tầm nhìn chiến lược của tỉnh trong công cuộc CNH, HĐH và đô thị hóa tỉnh
Bình Dương.
- Luận văn thạc sĩ chính sách công “Chính sách đào tạo nghề và giải quyết
việc làm cho lao động nông thôn từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc” của tác giả Nguyễn
Thị Minh Phượng năm 2016, luận văn đã góp phần làm sáng tỏ những quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta về chính sách đào tạo nghề và giải quyết việc làm, góp
phần tìm hiểu về mối quan hệ giữa các quá trình hoạch định và thực hiện chính sách
đào tạo nghề và việc làm trong thực tiễn. Các công trình nghiên cứu, các bài viết
của các nhà khoa học, các luận văn thạc sĩ chính sách công đã đề cập nhiều ý kiến
quan trọng đóng góp cho việc hoàn thiện chính sách dạy nghề. Tuy nhiên, theo sự

3


cập nhật cho thấy, trên địa bàn tỉnh Bình Dương chưa có một tác giả nào tập trung
nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện về vấn đề này, cũng như chưa có tác giả
nào nghiên cứu về chính sách dạy nghề của đối tượng là lao động có tay nghề.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về chính sách đào
tạo nghề cho lao động nông thôn và những nhân tố ảnh hưởng đến chính sách đào
tạo nghề cho lao động nông thôn, sau đó phân tích thực trạng chính sách đào tạo
nghề cho lao động nông thôn tại Bình Dương,. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải
pháp tăng cường thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở nước
ta và tỉnh Bình Dương trong thời gian tới.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu lý luận về thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động
nông thôn
- Vận dụng lý luận về thực hiện chính sách công để nghiên cứu thực hiện
chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại tỉnh Bình Dương:
+ Nghiên cứu đưa ra giải pháp tăng cường hiệu quả thực hiện chính sách
đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đổi mới việc xây dựng và thực hiện, đánh giá
chính sách chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn phù hợp với điều kiện
thực tế tại địa phương nhằm nâng cao hiệu quả chính sách đào tạo nghề cho lao
động nông thôn tại tỉnh Bình Dương trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu:
Thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn, cụ thể là nghiên
cứu về lý luận và thực tiễn thực hiện giải pháp và công cụ chính sách chính sách
đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu tại tỉnh Bình Dương nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách
đào tạo nghề cho lao động nông thôn giai đoạn 2011-2015 và đề ra giải pháp hoàn

4



thiện chính sách chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở nước ta hiện
nay và tỉnh Bình Dương trong thời gian tới.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận:
Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận nghiên cứu chính
sách công kết hợp giữa nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu thực tế với cách tiếp
cận đa ngành về khoa học xã hội với quy phạm chính sách công về chu trình chính
sách công từ hoạch định đến xây dựng, thực hiện và đánh giá chính sách công có
sự tham gia của các chủ thể chính sách. Lý thuyết chính sách công được soi sáng
qua thực tiễn của chính sách công giúp hình thành lý luận về chính sách đào tạo
nghề cho lao động nông thôn
Phương pháp nghiên cứu:
- Luận văn sử dụng phương pháp định tính, thu thập thông tin dữ liệu thứ cấp
từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm: các văn bản chỉ đạo của
Đảng, Chính phủ, Bộ ngành ở TW và địa phương; thu thập thông tin trên mạng
internet, một số sách, báo, tạp chí và công trình nghiên cứu khác như các báo cáo,
tài liệu thống kê của chính quyền, ban ngành đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên quan trực
tiếp hoặc gián tiếp tới thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở
nước ta nói chung và thực tế tỉnh Bình Dương nói riêng.
- Luận văn sử dụng phương pháp định tính, phương pháp nghiên cứu tài
liệu và quá trình nghiên cứu đề tài cũng đòi hỏi tiếp cận, kết hợp các phương pháp
nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng nghiên cứu, cũng như cập nhật những vấn
đề, những lĩnh vực mới mẻ trong đời sống KT-XH từ thực tiễn tỉnh Bình Dương,
phù hợp với yêu cầu của cấu trúc luận văn.
- Luận văn sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu, phương pháp này được
dùng khá phổ biến trong nghiên cứu xã hội học, đó là phương pháp đối thoại với
một đối tượng nhằm thu thập thông tin. Tác giả tập trung vào phương pháp phỏng
vấn sâu đối với đối tượng cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý và phỏng vấn đối
với các chủ thể chính sách chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa


5


bàn tỉnh Bình Dương.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận:
- Luận văn có ý nghĩa về mặt lý luận, nghiên cứu và vận dụng các lý thuyết
về chính sách công nói chung và chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn
nói riêng.
- Kết quả nghiên cứu của việc thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao
động nông thôn đã làm sáng tỏ, minh chứng cho các lý thuyết liên quan đến chính
sách công, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả thực
hiện chính sách.
Về mặt thực tiễn:
- Luận văn đã nêu lên những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc vận
dụng các lý thuyết về chính sách công để phân tích, đánh giá và xem xét thực
trạng thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn thực tế tại tỉnh
Bình Dương để từ đó nâng cao chất lượng, hiệu lực và hiệu quả của chính sách
trong những năm tiếp theo.
- Luận văn cũng là một cơ sở khoa học có ý nghĩa thiết thực cho các cơ
quan, ban ngành tỉnh trong quá trình hoạch định và thực hiện chính sách một cách
hiệu quả trong công cuộc phát triển KT-XH ở địa phương và luận văn cũng là một
tài liệu tham khảo có giá trị cho những ai quan tâm nghiên cứu đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được chia làm 3 chương, không kể phần mở đầu, kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo, cụ thể:
- Chương 1: Lý luận về thực hiện chính sách dạy nghề cho lao động nông
thôn.
- Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách dạy nghề cho lao động nông thôn tại
Bình Dương.

- Chương 3: Giải pháp tăng cường thực hiện chính sách dạy nghề cho lao
động nông thôn ở nước ta.

6


Chương 1
LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DẠY NGHỀ
CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
1.1. Khái niệm chính sách dạy nghề cho lao động nông thôn
1.1.1. Khái niệm lao động nông thôn
Lao động là hoạt động có mục đích của con người nhằm biến đổi các vật chất
tự nhiên thành của cải vật chất cần thiết cho đời sống của mình. Trong quá trình sản
xuất, con người sử công cụ lao động tác động lên đối tượng lao động nhằm tạo ra
sản phẩm phục vụ cho lợi ích của con người.
Lực lượng lao động là bộ phận của nguồn lao động bao gồm những người
trong độ tuổi lao động, đang có việc làm trong nền kinh tế quốc dân và những người
thất nghiệp nhưng có nhu cầu tìm việc làm.
Lao động nông thôn là một bộ phận dân số sinh sống và làm việc ở nông
thôn trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật (nam từ 16 đến 60 tuổi, nữ
từ 16 đến 55 tuổi) và có khả năng lao động.
1.1.2. Khái niệm chính sách dạy nghề
Khái niệm chính sách công được diễn đạt như sau: “Chính sách công là một
tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của nhà nước nhằm lựa chọn các mục
tiêu cụ thể với giải pháp và công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo
mục tiêu đã xác định của đảng chính trị cầm quyền”.[ Đỗ Phú Hải, 2012, 2014]
Như vậy, chính sách công là thể hiện cụ thể của những chủ trương, quan
điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế – xã hội của đất
nước. Chính sách công giải quyết các vấn đề xã hội đặt ra trong đời sống kinh tế –
xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định, không chỉ đề ra mục tiêu và các giải pháp

với công cụ thực hiện nhằm giải quyết vấn đề đang đặt ra trong đời sống xã hội, mà
còn giải quyết mối quan hệ giữa các bên tham gia chính sách.
Dạy nghề: là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái
độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự
tạo việc làm sau khi hoàn thành khoá học.

7


Như vậy, chính sách dạy nghề là sự vận dụng chính sách công vào vấn đề
dạy nghề, do đó, có thể hiểu chính sách dạy nghề là một tập hợp các quyết định có
liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể với giải pháp và công
cụ thực hiện giải quyết các vấn đề dạy nghề cho NLĐ nông thôn để phát triển kinh
tế - xã hội địa phương.
1.1.3. Khái niệm chính sách dạy nghề đối với lao động nông thôn
Chính sách dạy nghề đối với lao động nông thôn là chính sách dạy nghề đối
với lao động nông thôn áp dụng đối với một đối tượng người lao động cụ thể, đó là
những người lao động ở nông thôn, tức là: “Chính sách dạy nghề đối với lao động
nông thôn là chính sách công, là một tập hợp các quyết định có liên quan của Nhà
nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể với giải pháp và công cụ thực hiện giải
quyết các vấn đề dạy nghề đối với lao động nông thôn, nhằm đáp ứng những nhu
cầu sống và sự phát triển toàn diện của NLĐ lao động nông thôn, nhằm truyền đạt
kiến thức về lý thuyết và kỹ năng thực hành cho người học nghề là lao động nông
thôn, để người học có được trình độ, kỹ năng, kỹ xảo và đạt được những tiêu chuẩn
nhất định của một nghề hoặc nhiều nghề đáp ứng yêu cầu việc làm của thị trường
lao động, góp phần vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”.
Theo nghĩa đầy đủ hơn, chính sách dạy nghề đối với lao động nông thôn là
hệ thống các quan điểm, chủ trương, phương hướng, các mục tiêu, các giải pháp
và công cụ thực hiện để dạy nghề đối với lao động nông thôn và bảo đảm việc làm
cho lao động nông thôn, kỹ năng làm việc có khả năng lao động và có nhu cầu việc

làm nhằm đáp ứng cơ bản về nhu cầu cuộc sống và yêu cầu phát triển KT-XH đặt
ra.
1.2. Nội dung chính sách dạy nghề cho lao động nông thôn hiện nay
1.2.1. Khái niệm, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc tổ chức thực hiện
chính sách dạy nghề cho lao động nông thôn hiện nay .
Tổ chức thực hiện chính sách dạy nghề cho lao động nông thôn hiện nay là
toàn bộ quá trình chuyển ý chí của Nhà nước (chủ thể chính sách) thành hiện thực
tới các đối tượng chính sách nhằm đạt được mục tiêu định hướng. Nói cách khác tổ

8


chức thực hiện chính sách dạy nghề cho lao động nông thôn hiện nay là quá trình
hiện thực hóa đưa chính sách dạy nghề cho lao động nông thôn hiện nay vào thực
tiễn cuộc sống.
Tổ chức thực hiện chính sách công nói chung, chính sách dạy nghề cho lao
động nông thôn hiện nay nói riêng là yếu tố khách quan để duy trì công cụ chính
sách theo yêu cầu quản lý của Nhà nước và cũng là để đạt được mục tiêu đề ra của
chính sách. Tổ chức thực hiện chính sách dạy nghề cho lao động nông thôn hiện nay
là một khâu hợp thành chu trình chính sách BHTN, thiếu vắng công đoạn này thì
chu trình chính sách không tồn tại. Tổ chức thực hiện chính sách dạy nghề cho lao
động nông thôn hiện nay là trung tâm kết nối các bước trong chu trình chính sách t
dạy nghề cho lao động nông thôn hiện nay hành một hệ thống, nhất là với bước xây
dựng chính sách. So với các khâu khác trong chu trỉnh chính sách dạy nghề cho lao
động nông thôn hiện nay, tổ chức thực hiện chính sách dạy nghề cho lao động nông
thôn hiện nay có vị trí đặc biệt quan trọng, vì đây là bước hiện thực hóa chính sách
dạy nghề cho lao động nông thôn hiện nay vào đời sống xã hội, là giai đoạn biến ý
đồ của của chủ thể chính sách thành hiện thực hoạch định. Xây dựng được chính
sách dạy nghề cho lao động nông thôn hiện nay đúng, có chất lượng là rất quan
trọng, nhưng thực hiện đúng chính sách còn qua trọng hơn. Có chính sách dạy nghề

cho lao động nông thôn hiện nay đúng nhưng nếu chính sách đó không được vào
thực hiện có hiệu quả cũng sẽ trở thành vô nghĩa, trở thành khẩu hiệu suông, không
những không có ý nghĩa, không có giá trị mà còn ảnh hưởng đến uy tín của Nhà
nước, chủ thể ban hành chính sách. Nếu chính sách dạy nghề cho lao động nông
thôn hiện nay không được thực hiện đúng sẽ ảnh hưởng đến an sinh xã hội, dẫn đến
thiếu niềm tin, phản ứng tiêu cực của người dân đối vối nhà nước. Điều này hoàn
toàn bất lợi về mặt chính trị và xã hội, gây khó khăn bất ổn cho Nhà nước trong
công tác quản lý. Qua tổ chức thực hiện chính sách dạy nghề cho lao động nông
thôn hiện nay mới biết được chính sách có đúng hay không đúng, phù hợp hay
không phù hợp, chính sách có đi vào cuộc sống hay không đi vào cuộc sống. Có
những vấn đề trong giai đoạn hoạch định, xây dựng chính sách chưa phát sinh ra,

9


hoặc đã phát sinh ra nhưng các nhà hoạch định, xây dựng chính sách dạy nghề cho
lao động nông thôn hiện nay nhận thấy, đến giai đoạn tổ chức thực hiện chính sách
mới phát hiện ra. Chính quá trình tổ chức thực hiện chính sách dạy nghề cho lao
động nông thôn hiện nay với những hoạt động thực tiễn sẽ góp phần điều chỉnh, bổ
sung và hoàn thiện chính sách cho phù hợp với thực tiễn đáp ứng yêu cầu của cuộc
sống. Đồng thời việc phân tích đánh giá chính sách dạy nghề cho lao động nông
thôn hiện nay (mức độ tốt, xấu) chỉ có cơ sở đầy đủ, có sức thuyết phục sau khi thực
hiện chính sách dạy nghề cho lao động nông thôn hiện nay . Thực tiễn là chân lý,
kết quả thực hiện chính sách dạy nghề cho lao động nông thôn hiện nay sẽ là thước
đo, là cơ sở đánh giá một cách chính xác và khách quan chất lượng, hiệu quả của
chính sách dạy nghề cho lao động nông thôn hiện nay. Như vậy, tổ chức thực hiện
chính sách dạy nghề cho lao động nông thôn hiện nay là yêu cầu, nhiệm vụ tất yếu
khách quan, là yếu tố quyết định thành công hay không thành công của chính sách
dạy nghề cho lao động nông thôn hiện nay .
Vấn đề chính sách

Xác định vấn đề chính sách là giai đoạn khởi đầu trong quy trình xây dựng
chính sách công, bao gồm từ bước phát hiện những vấn đề xã hội, mâu thuẫn nảy
sinh trong đời sống xã hội, đến mức cần phải có giải pháp giải quyết bằng chính
sách cho đến khi hoàn thành những mục tiêu của chính sách công. Những vấn đề đó
thường là những mâu thuẫn trong xã hội, những khó khăn, vướng mắc trong quá
trình phát triển hoặc là nhu cầu phát triển ở mức độ cao hơn.Vì vậy vấn đề của
chính sách luôn luôn gắn liền với sự phát triển của xã hội. Việc xác định rõ quy mô
và mức độ nghiêm trọng của vấn đề của xã hội để định rõ phạm vi và mức độ can
thiệp của chính sách là hết sức quan trọng và cần được xem xét cụ thể thông qua các
chỉ số đáng tin cậy và biện pháp đo lường khoa học.
Lao động nông thôn (LĐNT) là lực lượng quan trọng góp phần phát triển
kinh tế xã hội, xây dựng nông thôn mới (NTM). Với gần 70% dân số nước ta đang
sống ở khu vực nông thôn, LĐNT chiếm 69% tổng lực lượng lao động cả nước,
nhưng trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động có việc làm ở nông thôn còn quá

10


thấp, hầu hết chưa qua đào tạo. Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện đào tạo nghề cho
LĐNT theo Quyết định 1956 của Thủ tướng Chính phủ (năm 2010), cả nước đã đào
tạo nghề ngắn hạn cho khoảng 3,2 triệu LĐNT. Trong số này, số người được học
nghề phi nông nghiệp chiếm 57,3%. Số người học xong có việc làm mới hoặc tiếp
tục làm nghề cũ nhưng có năng suất, hiệu quả cao hơn đạt từ 70% trở lên, trong đó
có khoảng 23% số người sau đào tạo đã được các DN tuyển dụng. Bên cạnh dạy
nghề ngắn hạn, đã triển khai đặt hàng dạy nghề trình độ cao đẳng, trung cấp cho
10.534 người thuộc diện hộ nghèo, người dân tộc thiểu số. Đào tạo nghề cho LĐNT
đã góp phần xóa đói, giảm nghèo, xây dựng NTM ở Việt Nam. Qua thống kê của
các địa phương, cho thấy đã có 59.285 hộ nghèo có người tham gia học nghề, có
việc làm đã thoát nghèo, chiếm 24,5% tổng số hộ nghèo có người tham gia học
nghề; 98.122 hộ có người tham gia học nghề, có việc làm, có thu nhập cao hơn mức

bình quân tại địa phương (trở thành hộ khá), chiếm 4,5% tổng số LĐNT tham gia
học nghề.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta đang gặp phải những vấn đề
nổi cộm đó là chính sách cho dạy nghề lao động nông thôn hiện nay vẫn còn có
nhiều bất cập, chính sách có lúc chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của nền kinh
tế.Có thể nhìn nhận và thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
Nổi bật là tình trạng đào tạo nghề chưa gắn với nhu cầu dẫn đến việc không
ít LĐNT tham gia học nghề nhưng không thể áp dụng thực tiễn hoặc không thể tồn
tại lâu bền với nghề. Một số nghề phi nông nghiệp vẫn đào tạo theo hình thức,
người lao động sau đào tạo khó có việc làm do yếu về tay nghề và thiếu về kinh
nghiệm. Phần lớn lao động sau học nghề mới chỉ sản xuất được những mặt hàng
đơn giản, chưa thể sản xuất được những mẫu mã chất lượng cao. Nếu không được
doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm thì không thể tự tạo việc làm.Ví dụ như: Đơn cử
như nghề thêu tranh nghệ thuật dễ học, dễ áp dụng nhưng để phát triển lâu dài và
tạo công ăn việc làm ổn định thì thời gian 3 tháng học nghề là quá ít. Một số nghề
nông nghiệp như: trồng rau an toàn, nuôi trồng thủy sản… hướng dẫn người nông
dân áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất trên nền tảng kinh nghiệm sẵn có, tuy

11


nhiên để phát huy hiệu quả kinh tế đòi hỏi một sự đầu tư lớn, trong khi mức vay hỗ
trợ ưu đãi thấp. Điều này khiến không ít hộ nông dân sau khi học nghề đành phải bỏ
ngang hoặc làm không tới nơi tới chốn vì khó khăn về vốn và kỹ thuật.
Một là, một số địa phương trong quá trình tư vấn học nghề, chọn nghề, điều
tra, khảo sát nhu cầu học nghề chưa thực sự xuất phát từ nhu cầu của LĐNT; chưa
gắn kết giữa đào tạo và sử dụng lao động; việc định hướng nghề nghiệp và giải
quyết việc làm khi kết thúc khoá học cho LĐNT học nghề chưa được quan tâm thoả
đáng. Số người có việc làm sau đào tạo đều phần lớn là do họ tự tạo nên. Trên địa
bàn các xã, phường, thị trấn vốn đã ít cơ sở dạy nghề, ít doanh nghiệp, trong khi đó

một số doanh nghiệp lại chưa thực sự quan tâm và chưa nhiệt tình với công tác đào
tạo nghề cho người lao động nên việc mở lớp, nâng cao kỹ năng thực hành còn hạn
chế. Nhận thức của LĐNT, nhất là ở miền núi, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số về học
nghề gắn với giải quyết việc làm, phát triển kinh tế hộ gia đình chưa đầy đủ nên
việc tổ chức và duy trì đủ sĩ số của lớp học ở những xã này gặp nhiều khó khăn.
Hai là, tại một số địa phương vẫn còn tình trạng người dân chỉ đi học nghề
như là một phong trào, thậm chí họ chỉ đến học cho có danh sách, được ghi tên và
chờ tiền trợ cấp. Nguyên nhân khiến người dân không quan tâm đến lớp học một là
do đối tượng học, hai là do chương trình đào tạo chưa sát với thực tế dẫn đến việc
học nghề chưa thực sự có hiệu quả. Nhiều chương trình học lại đòi hỏi quá nhiều
chi tiết về kỹ thuật, khiến người dân sau khi học khó áp dụng vào thực tế.
Ba là, cơ cấu dạy nghề cho LĐNT ở các ngành nghề, lĩnh vực ở địa phương
chưa thực sự phù hợp, trình độ lao động đã qua đào tạo còn hạn chế, năng suất lao
động thấp chưa đáp ứng được nhu cầu phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế… Một số
học viên không chịu phát huy nghề đã học, đi học cho có hình thức để nhận hỗ trợ
chứ chưa thật sự chú tâm vào nghề, thời gian đào tạo nghề quá ngắn nên tay nghề
của người lao động chưa cao không đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng của doanh
nghiệp khiến người học phải tự tìm kiếm việc làm sau khi được đào tạo…Đây là
những nguyên nhân dẫn đến việc phát triển nghề rất khó khăn.

12


Bốn là, chính sách để triển khai hoạt động đào tạo nghề cho LĐNT vẫn còn
có những vướng mắc. Theo Quyết định 1956/QĐ-TTg, LĐNT sau khi học nghề
được vay vốn từ Quỹ quốc gia về giải quyết việc làm thuộc Chương trình mục tiêu
quốc gia về việc làm. Tuy nhiên, từ khi thực hiện chương trình cho vay giải quyết
việc làm đến nay, đối tượng cho vay của chương trình đã được mở rộng hơn, không
chỉ có LĐNT sau đào tạo nghề, mà cả cơ sở sản xuất kinh doanh của người khuyết
tật, người lao động bị mất việc do suy giảm kinh tế... nhưng nguồn vốn cho vay của

chương trình lại chưa được bổ sung tương ứng với các đối tượng bổ sung nên gây
khó khăn cho LĐNT muốn vay vốn.
Trong xác định đối tượng, đề án cũng đưa ra: LĐNT thuộc diện hộ có thu
nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo sẽ được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn
hạn. Tuy nhiên, ngày 30/1/2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
09/2011/QĐ-TTg quy định chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn
2011-2015 (trong đó hộ cận nghèo là hộ có mức thu nhập bằng 130% mức thu nhập
hộ nghèo); điều này dẫn đến các xã lúng túng trong xác định rõ đối tượng nào thuộc
diện hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn. Nhiều xã cũng băn khoăn về việc: Một số
đối tượng hưởng phụ cấp (không hưởng lương) như: Trưởng thôn, phó bí thư Đoàn
xã, Công an viên đang làm nông nghiệp liệu có được xếp vào LĐNT không. Thêm
vào đó, mức hỗ trợ tiền ăn cho các đối tượng thuộc hộ nghèo, người có công với
cách mạng, người tàn tật, dân tộc thiểu số, người bị thu hồi đất canh tác. Theo
Quyết định số 1956 là 15.000 đồng/ngày hiện không còn phù hợp với tình hình giá
cả tăng cao hiện nay.
Năm là, số lượng giáo viên được đào tạo kỹ năng dạy nghề còn thấp, việc
xây dựng giáo án, bài giảng, tổ chức thi kiểm tra, xét cấp chứng chỉ nghề cho học
viên còn chưa có nhiều kinh nghiệm. Chương trình, giáo trình dạy nghề còn nhiều
bất cập, đội ngũ giáo viên nhìn chung còn thiếu và yếu về chuyên môn, nghiệp vụ
sư phạm. Chất lượng cán bộ quản lý theo dõi công tác dạy nghề chưa cao vì phải
kiêm nhiệm công việc khác. Một số trung tâm dạy nghề cấp huyện chưa được đầu

13


tư về cơ sở vật chất, chưa có trụ sở riêng phải thuê hoặc ở chung với các đơn vị
khác, diện tích chật hẹp, không đảm bảo yêu cầu dạy và học.
Thực trạng nói trên của vấn đề chính sách dạy nghề cho lao động nông thôn
hiện nay, có nhiều nguyên nhân, song có một số nguyên nhân chính sau đây:
1.2.2. Mục tiêu của chính sách cho dạy nghề cho lao động nông thôn hiện

nay.
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1956/QĐ-TTg phê duyệt Đề
án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” (gọi tắt là Đề án 1956).
Trong Quyết định này đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là: “Đào
tạo nghề cho lao động nông thôn là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, của các cấp, các
ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng lao động nông thôn, đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước tăng cường đầu tư
để phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn, có chính sách bảo đảm thực hiện
công bằng xã hội về cơ hội học nghề đối với mọi lao động nông thôn, khuyến khích,
huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia đào tạo nghề cho lao động nông
thôn”. Đề án 1956 đã đề ra mục tiêu tổng quát: “ Bình quân hằng năm đào tạo nghề
cho khoảng 1 triệu lao động nông thôn, trong đó đào tạo, bồi dưỡng 100.000 lượt
cán bộ, công chức xã. Nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nghề, nhằm tạo
việc làm, tăng thu nhập của lao động nông thôn; góp phần chuyển dịch cơ cấu lao
động và cơ cấu kinh tế, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn…”. Đối tượng của Đề án này là lao động nông thôn trong độ tuổi
lao động, có trình độ học vấn và sức khỏe phù hợp với nghề cần học. Trong đó ưu
tiên đào tạo nghề cho các đối tượng là người thuộc diện được hưởng chính sách ưu
đãi, người có công với cách mạng, hộ nghèo, hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu
nhập của hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, người tàn tật, người thuộc diện có đất
thu hồi…
1.2.3. Các giải pháp và công cụ thực hiện chính sách dạy nghề cho lao
động nông thôn

14


Để thực hiện mục tiêu từ Nghị quyết Đại hội Đảng đề ra và cụ thể hóa
Chương trình hành động, ngày 27-11-2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết
định số 1956/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến

năm 2020” (gọi tắt là Đề án 1956). Trong Quyết định này đã thể hiện rõ quan điểm
của Đảng. Để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đã nêu, Đề án đã đề ra đồng bộ 5
nhóm giải pháp, gồm (1) Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, xã hội, của
cán bộ, công chức xã và lao động nông thôn về vai trò của đào tạo nghề đối với tạo
việc làm, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn; (2) Phát
triển mạng lưới cơ sở đào tạo nghề; (3) Phát triển đội ngũ giáo viên, giảng viên và
cán bộ quản lý; (4) Phát triển chương trình, giáo trình, học liệu; (5) Tăng cường
hoạt động kiểm tra, giám sát đánh giá việc thực hiện Đề án.
Đề án cũng đã đề ra 8 nhóm hoạt động dạy nghề cho lao động nông thôn, bao
gồm: (1) Tuyên truyển, tư vấn học nghề và việc làm đối với lao động nông thôn;
(2) Điều tra, khảo sát và dự báo nhu cầu dạy nghề cho lao động nông thôn; (3) Thí
điểm các mô hình dạy nghề cho lao động nông thôn; (4) Tăng cường cơ sở vật chất,
trang thiết bị dạy nghề đối với các cơ sở dạy nghề công lập; (5) Phát triển chương
trình, giáo trình, học liệu và xây dựng danh mục thiết bị dạy nghề; (6) Phát triển đội
ngũ giáo viên, cán bộ quản lý dạy nghề; (7) Hỗ trợ lao động nông thôn học nghề;
(8) Giám sát, đánh giá tình hình thực hiện Đề án.
Đồng thời với Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”,
ngày 4-6-2010 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 800/QĐ-TTg phê duyệt
“Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 20102020”. Theo đó, sẽ có 11 nhóm nội dung phải triển khai thực hiện từ nay đến năm
2020, trong đó có nội dung “đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động nông thôn, thúc
đẩy đưa công nghiệp vào nông thôn, giải quyết việc làm và chuyển dịch nhanh cơ
cấu lao động nông thôn”.
Chính vì vậy một số giải pháp, công cụ chính sách dạy nghề cho lao động
nông thôn trong giai đoạn hiện nay như sau:

15


Một là, giải pháp tuyên truyền chính sách đào tạo nghề cho lao động
nông thôn.

Tuyên truyền, tư vấn về học nghề và việc làm đối với người lao động là hoạt
động đầu tiên trong nhóm các hoạt động của Đề án và có vai trò hết sức quan trọng
để nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và xã hội về dạy nghề nói chung và
dạy nghề nông nghiệp cho người lao động nói riêng, góp phần tăng năng suất lao
động, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống và chất lượng lao động.
Để tuyên truyền, tư vấn học nghề và việc làm đối với người lao động các Bộ,
ngành, địa phương cần tích cực triển khai các hoạt động sau:
- Tập huấn cho cán bộ của Trung tâm khuyến nông, cán bộ Phòng LĐTBXH
các tỉnh về công tác tư vấn học nghề cho người lao động (nội dung nghề nông
nghiệp do Trung tâm KNQG chủ trì phối hợp với các đơn vị liên quan thực hiện).Tổ
chức Hội nghị giao ban giữa các cơ quan có liên quan để chia sẻ kinh nghiệm, thống
nhất kế hoạch tuyên truyền, tư vấn học nghề cho người lao động.
- Các Bộ ngành có liên quan triển khai việc cung cấp thông tin thị trường
hàng hóa, hỗ trợ việc tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp cho người lao động đến cấp
xã.
Hai là, điều tra khảo sát thông tin thị trường lao động, dự báo nhu cầu
và thí điểm các mô hình dạy nghề cho người lao động.
Điều tra khảo sát nhu cầu học nghề của người lao động và dự báo nhu cầu sử
dụng lao động qua đào tạo nghề của các CSSX kinh doanh, dịch vụ và năng lực đào
tạo của các CSDN cho người lao động là hoạt động hết sức quan trọng, là cơ sở để
triển khai thực hiện Đề án đào tạo nghề cho người lao động có hiệu quả, xây dựng
kế hoạch dạy nghề hàng năm đảm bảo mục tiêu, yêu cầu của đề án.
Hướng dẫn, hỗ trợ và tập huấn nghiệp vụ điều tra cho các huyện thuộc các
tỉnh thí điểm và một số địa phương đồng thời thiết kế phần mềm nhập tin cho các
địa phương, xây dựng hệ thống biểu mẫu đầu ra và mô hình dự báo nhu cầu dạy
nghề cho người lao động. Thí điểm các mô hình dạy nghề cho người lao động, cụ
thể là:

16



- Phối hợp với Hiệp Hội làng nghề Việt Nam xây dựng đề án dạy nghề như:
dạy nghề và tổ chức việc làm gắn với phát triển làng nghề mới; dạy nghề với kết
hợp vùng nguyên liệu, tổ chức việc làm và bao tiêu sản phẩm; dạy nghề gắn với duy
trì, phát triển làng nghề truyền thống.
- Phối hợp với một số tập đoàn, tổng công ty, khu công nghiệp, CSSX kinh
doanh và một số trường đào tạo về lĩnh vực công nghiệp chế biến, dịch vụ...để triển
khai đặt hàng dạy nghề cho người lao động chuyển sang làm công nghiệp, dịch vụ ở
nông thôn hoặc làm việc trong các KCN - KCX và các doanh nghiệp của địa
phương.
Việc tổ chức dạy nghề thực hiện theo cơ chế cộng đồng trách nhiệm giữa các
bên có liên quan: cơ quan quản lý nhà nước cấp kinh phí đào tạo từ nguồn kinh phí
đào tạo nghề cho người lao động được phân bổ, doanh nghiệp nhận học viên vào
thực tập, tham gia xây dựng chương trình và đánh giá kết quả đào tạo, tiếp nhận lao
động sau khi đào tạo vào làm vào làm việc, CSDN tổ chức đào tạo theo nhu cầu sử
dụng.
Ba là, phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề, đa dạng hoá các hoạt động
dạy nghề
- Phát triển, mở rộng mạng lưới CSDN cả về quy mô và chất lượng đào tạo.
Củng cố, mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo nghề tại các CSDN hiện có.
- Khuyến khích các tổ chức chính trị - xã hội, các doanh nghiệp và các cá
nhân đầu tư thành lập CSDN. Khuyến khích các cơ sở giáo dục đào tạo, trung tâm
khuyến nông, khuyến công, đủ điều kiện tham gia dạy nghề, cụ thể cần tiến hành.
- Hoàn thiện quy hoạch tổng thể phát triển mạng lưới CSDN của hệ thống
khuyến nông cả nước đến năm 2020 trên cơ sở căn cứ vào quy hoạch tổng thể phát
triển mạng lưới CSDN cả nước. Tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác giữa Hệ
thống khuyến nông với các trường đại học, cao đẳng, trường trung cấp chuyên
nghiệp, các viện nghiên cứu và các cơ sở giáo dục khác tham gia liên kết trong việc
tổ chức dạy nghề nông nghiệp. Đa dạng hoá hoạt động dạy nghề và học: đa dạng
hoá phương thức đào tạo, liên kết với các trường CĐN, TCN để dạy nghề chính quy


17


và dạy nghề thường xuyên. Dạy nghề theo hợp đồng giữa CSDN của hệ thống
khuyến nông và doanh nghiệp với nội dung chương trình dạy nghề theo yêu cầu của
doanh nghiệp.
- Đổi mới công tác tuyển sinh học nghề theo hướng các CSDN của hệ thống
khuyến nông được tuyển sinh nhiều lần trong năm, tuỳ theo khả năng mùa vụ sản
xuất, thời gian của khoá học và nhu cầu của người học nghề, của Doanh nghiệp.
Giúp người học nghề được lựa chọn các học nghề phù hợp với điều kiện cụ thể của
mình, có đủ điều kiện thì được dự thi và nếu đạt yêu cầu thì được cấp văn bằng,
chứng chỉ tương ứng với chương trình đào tạo. Những kiến thức và kỹ năng mà
người học tích luỹ được trong quá trình học tập và làm việc được xem xét công
nhận và không phải học lại khi học các chương trình dạy nghề.
- Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác giảng dạy và
đào tạo nghề thông qua các chương trình dự án khuyến nông.
- Tổ chức kiểm tra đánh giá, cấp chứng chỉ cho học viên đạt yêu cầu ngay
sau khi kết thúc khóa học.
Bốn là, đổi mới nội dung chương trình dạy nghề
Đổi mới nội dung chương trình dạy nghề lao động nông thôn: chương trình
dạy nghề mới với yêu cầu nội dung chương trình dạy nghề phải phù hợp với yêu
cầu của thị trường lao động, được quy định tại các tiêu chuẩn kỹ năng nghề hoặc
được xác định qua phân tích nghề và thường xuyên được cập nhật kỹ thuật, công
nghệ mới trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Tăng thời lượng rèn luyện kỹ năng
thực hành nghề; giảm thời lượng lý thuyết;
Tăng cường hoạt động dạy nghề trên các kênh truyền thông đại chúng và;
chương trình dạy nghề từ xa;
Phát triển chương trình, giáo trình dạy nghề: Căn cứ vào chương trình khung
của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; Bộ NN&PTNT đã ban hành các CSDN

xây dựng chương trình cho từng trình độ đào tạo từ SCN đến CĐN đảm bảo các
mục tiêu dạy nghề theo từng cấp trình độ và tính liên thông giữa các trình độ cho
từng nghề, đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp.

18


Xây dựng cơ chế chính sách và tham mưu cho Bộ Lao động thương binh và
Xã hội, Bộ NN&PTNT về việc huy động các nghệ nhân, cán bộ kỹ thuật, kỹ sư,
người lao động có tay nghề cao tại các doanh nghiệp và CSSX kinh doanh, các
trung tâm khuyến nông-lâm-ngư, nông dân sản xuất giỏi tham gia xây dựng chương
trình, giáo trình, học liệu dạy nghề cho người lao động.
Năm là, xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
Đội ngũ giáo viên là lực lượng quan trọng đóng góp vào thành công của
công tác dạy nghề, đặc biệt là nghề nông nghiệp, vì vậy cần có những giải pháp
nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ kỹ thuật, trình độ sư phạm của người làm công
tác dạy nghề nói chung và nghề nông nghiệp nói riêng, cụ thể: Xây dựng và thực
hiện quy hoạch đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý (CBQL) dạy nghề, bảo đảm đủ
về số lượng, nâng cao chất lượng, đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển dạy nghề,
Xây dựng và ban hành tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch viên chức giáo viên dạy
nghề; tiêu chuẩn hiệu trưởng trường CĐN; hiệu trưởng trường TCN, giám đốc
TTDN; tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức quản lý dạy nghề; Đổi mới nội
dung chương trình và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và CBQL dạy
nghề. Chú trọng nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng thực hành nghề và nghiệp
vụ sư phạm của giáo viên; tầm nhìn chiến lược, năng lực sáng tạo, tính chuyên
nghiệp của CBQL dạy nghề. Đào tạo giáo viên dạy nghề ở nước ngoài đối với
những ngành nghề đào tạo mới, có công nghệ, kỹ thuật hiện đại; Đổi mới phương
thức và đa dạng hoá đối tượng tuyển dụng giáo viên dạy nghề theo hướng khách
quan, công bằng và có yếu tố cạnh tranh. Mở rộng việc tuyển chọn những người đã
đạt chuẩn trình độ đào tạo và chuyên môn (tốt nghiệp các trường CĐ,ĐH chuyên

ngành, ưu tiên những người đã có kinh nghiệm thực tế trong sản xuất) và đào tạo
nghiệp vụ sư phạm, kỹ năng dạy nghề để làm giáo viên dạy nghề;
Sáu là, tăng cường cơ sở vật chất dạy nghề lao động nộng thôn
Cơ sở vật chất là một trong những nguồn lực cần thiết góp phần nâng cao
hiệu quả công tác đào tạo nghề nói chung và nghề nông nghiệp nói riêng, vì vậy cần
xây dựng chiến lược đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ sở dạy nghề trong cả nước.

19


×