Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

LUẬN văn tốt NGHIỆP NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ yếu NHẰM CHUYỂN DỊCH cơ cấu KINH tế NÔNG NGHIỆP TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.94 KB, 103 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam vốn là một nước sản xuất nông nghiệp có 80% dân số sống ở
nông thôn và khoảng 70% lao động làm việc trong ngành sản xuất nông
nghiệp. Trong quá trình đổi mới nền kinh tế bắt đầu từ chỉ thị 100 của Ban bí
thư Nghị quyết 10 của bộ chính trị luật đất đai và các Chính sách kinh tế của
chính phủ đã mở ra một giai đoạn mới cho nền kinh tế nước ta. Nông nghiệp
đã có bước vượt bậc. Điều này được dư luận trong nước lẫn ngoài nước công
nhận. Từ một nước thiếu lương thực đến nay nước ta không những đã đáp ứng
đủ cho tiêu dùng mà còn đứng thứ hai trong số các nước xuất khẩu gạo của
thế giới. Thu nhập và đời sống của nông dân không ngừng được cải thiện.
Tuy nhiên nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ trọng cao,trong nông nghiệp sản
xuất chủ yếu vẫn tập trung vào trồng trọt, chăn nuôi chưa phát triển. Như vậy,
để nhanh chóng làm thay đổi bộ mặt của kinh tế nông nghiệp đòi hỏi phải có
sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Đây là một vấn đề quan trọng
và có tính cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Phú thọ là tỉnh trung du miền núi Bắc bộ có tổng diện tích tự nhiên
350.634 ha, dân số 1.261.500 người. Nông nghiệp vẫn là một trong những
ngành sản xuất vật chất chủ yếu và quan trọng của tỉnh chiếm 30% tổng thu
nhập quốc dân.
Tuy nhiên do Phú Thọ mới tách từ tỉnh Vĩnh Phú, các phương án, xây
dựng phát triển nông nghiệp nông thôn trước đây không được phù hợp nữa,
ảnh hưởng tới việc nâng cao hiệu quả của sản xuất việc xoá đói giảm nghèo,
việc đẩy mạnh sản xuất hàng hoá và việc ổn định xã hội. Mặt khác, do đã xuất
hiện nhiều nhân tố mới về kinh tế xã hội, tiến bộ xã hội, tiến bộ khoa học kỹ
thuật trên địa bàn tỉnh nên có nhiều dự án trở nên lạc hậu, nhiều mục tiêu đặt
ra trước kia cần phải điều chỉnh.
Từ những lý do thực tiễn trên em đã chọn đề tài “Những giải pháp chủ
yếu nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Phú thọ”.
Mục đích nghiên cứu của đề tài này nhằm hệ thống hoá một số vấn đề lý
luận và thực tiễn của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, đánh giá thực



trạng cơ cấu kính tế nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
tỉnh Phú Thọ giai đoạn 1995-2000 từ đó đưa ra hệ thống các biện pháp để
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2000-2001.
Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp rất đa dạng nhưng
xuất phát từ tình hình cụ thể của tỉnh và nguồn tài liệu, em xin tập trung vào
đánh giá chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo ngành và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo vùng lãnh thổ.
Để hoàn thành các mục đích nghiên cứu trên đề tài tập trung vào các
phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Phương pháp phân tích hệ thống
Phương pháp thống kê kinh tế
Kế thừa kết quả nghiên cứu.
CHƯƠNG I

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
KINH TẾ NÔNG NGHIỆP.
I. KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP.

1. Khái niệm.
1.1. Khái niệm về cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế chỉ tỉ trọng của các ngành trong nền kinh tế chung của
một quốc gia, một vùng.
Cơ cấu kinh tế biểu hiện những mỗi quan hệ của quan hệ sản xuất, với
lực lượng sản xuất . Mối quan hệ kinh tế đó không chỉ là những quan hệ riêng
lẻ của những quan hệ kinh tế mà là những mỗi quan hệ tổng thể của các bộ
phận cấu thành nền kinh tế, bao gồm các yếu tố kinh tế như tài nguyên, đất
đai, cơ sở vật chất kỹ thuật vốn sức lao động. Các lĩnh vực kinh tế (gồm sản
xuất, phân phối, trao đổi tiêu dùng), các nghành kinh tế như nông nghiệp,



công nghiệp, giao thông thông tin, dịch vụ du lịch ... các vùng kinh tế (nông
thôn, thành thị, miền núi, đồng bằng) và các thành phần kinh tế (quốc doanh,
tập thể, tư nhân, tư bản nhà nước, tư bản tư nhân)...Các quan hệ kinh tế trên
đây không chỉ về quan hệ tỉ lệ, số lượng, tỉ trọng kinh tế cơ cấu nghành (nông
nghiệp, công nghiệp- dịch vụ) tỉ trọng lao động giữa các nghành còn là quan
hệ về chất lượng như năng xuất chất lượng sản phẩm, lợi nhuận. Chính vì vậy
có thể có tỉ trọng nghành nông nghiệp. trong cơ cấu kinh tế nông nghiệpcông nghiệp- dịch vụ sẽ giảm nhưng năng xuất chất lượng, giá trị nghành
nông nghiệp vẫn tặng , Có thể nêu khái niệm đầy đủ về cả cơ cấu kinh tế: là
một tổng thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều bộ phận kinh tế có quan hệ chặt
chẽ với nhau, được xác định cả về định tính và định lượng trong không gian
và thời gian, trong những điều kiện kinh tế xã hội xác định phù hợp với điều
kiện của mỗi nước mỗi vùng, mỗi chủ thể kinh doanh sản xuất.
Cơ cấu kinh tế muốn phát huy được tác dụng phải có một quá trình, một
thời gian nhất định. Thời gian ấy dài hay ngắnlà tuỳ thuộc vào đặc điểm của
từng loại cơ cấu kinh tế .
Tuy nhiên cơ cấu kinh tế không thể cố định lâu dài, mà phải có nhữnh
chuyển dịch cần thiết thích hợp với sự biến động của điều kiện tự nhiên- kinh
tế - xã hội.
Sự duy trì quá lâu hoặc sự thay đổi nhanh chóng cơ cấu kinh tế mà
không dựa vào những biến đổi của điều kiện TN-KT-XH đều gây nên những
thiệt hại về kinh tế. Việc duy trì hay thay đổi cơ cấu kinh tế không chỉ là mục
tiêu mà chỉ là phương tiện của việc tăng trưởng và phát triển kinh tế.Vì vậy có
nên biến đổi và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hay không chuyển dịch nhanh hay
chậm không phải là sự mong muốn chủ quan mà phải dựa vào mục tiêu đạt
hiệu quả kinh tế xã hội như thế nào. Điều này cần thiết cho sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của mỗi nước và riêng cho cả các vùng, các doanh nghiệp trong đó
có cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
1.2 Khái niệm về cơ cấu kinh tế nông nghiệp.



Kinh tế nông nghiệp là một bộ phận của kinh tế nông thôn là một trong
những nghành kinh tế đặc trưng của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nông
nghiệp cùng với kinh tế nông thôn là một trong những khu vực kinh tế rất
quan trọng, trước hết là khu vực sản xuất cung cấp lương thực thực phẩm cho
dân toàn xã hội tồn tại và phát triển. Nó còn cung cấp ngày càng nhiều các
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, cung cấp nguồn lao động cho khu vực
thành thị. Cùng với khu vực nông thôn là thị trường rộng lớn để tiêu thụ sản
phẩm công nghiệp bao gồm cả tự liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Trong giai
đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay do phát huy được lợi
thế so sánh tuyệt đối và tương đôi có thể khai thác nguồn lợi nông- lâm -thuỷ
sản làm tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thêm nguồn tích luỹ cho đất nước góp
phần phát triển kinh tế đất nước, Hiện nay với sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân đặc biệt là sự phát triển của nghành công nghiệp và dịch vụ, tỉ trọng
của ngành nông nghiệp. giảm xuống chủ yếu là các sản phẩm nông lâm ngư
nghiệp nhưng không phải vì thế mà vị trí của ngành giảm xuống, nó vẫn giữ
được vị trí quan trọng là nơi sản xuất và cung cấp những sản phẩm tất yếu
không thể thay thế được. Vì thế cơ cấu kinh tế nông nghiệp đóng vai trò to
lớn, nó tồn tại và phát triển gắn liền với tổng thể các quan hệ kinh tế nhất
định. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp. luôn vận động và thích ứng với phát triển
của lực lượng sản xuất và sự phân công của lao động xã hội ở từng thời kỳ.
Như vậy cơ cấu kinh tế nông nghiệp được hiểu một cách đầy đủ là một
tổng thể các mối quan hệ trong khu vực kinh tế nông nghiệp có mối quan hệ
gắn bó hữu cơ với nhau theo từng tỉ lệ nhất định về mặt lượng và liên quan
chặt chẽ về mặt chất chúng tác động qua lại lẫn nhau trong những không gian
và thời gian nhất định, phù hợp với những điều kiện kinh tế xã hội nhất định,
tạo thành một hệ thống kinh tế nông nghiệp, một bộ phận hợp thành không
thể tách rời của hệ thống kinh tế quốc dân.
Các mối quan hệ trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp phản ánh trình độ

phát triển của sự phân công lao động theo vùng lãnh thổ , khi sự phân công


lao động đạt đến trình độ cao thì cơ cấu kinh tế nông nghiệp cũng phát triển
theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
1.3 Khái niệm về chuyển dich cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng không
phải là bất biến mà sẽ vân động phát triển và chuyển hoá từ cơ cấu kinh tế cũ
sang cơ cấu kinh tế mới.
Sự chuyển dịch đó đòi hỏi phải có thời gian và phải trải qua những bậc
thang nhất định của sự phát triển. Đầu tiên là sự thay đổi về lượng, khi lượng
đã tích luỹ đến độ nhất định tất yếu dẫn đến sự thay đổi về chất, Đó là quá
trình chuyển hóa dần từ cơ cấu kinh tế cũ thành cơ cấu kinh tế mới phù hợp
và có hiệu quả hơn.Tất nhiên quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp nhanh hay chậm còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó sự tác động
của con người có ý nghĩa quan trọng.
Do vậy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là qua trình làm thay đổi
cấu trúc và các mối quan hệ của hệ thống kinh tế nông nghiệp theo một chủ
định và định hướng nhất định nghĩa là đưa hệ thống kính tế nông nghiệp đến
trạng thái phát triển tối ưu đạt được hiệu quả. Thông qua các tác động điều
khiển có ý thức, định hướng của con người, trên cơ sở nhận thức và vận dụng
đúng đắn các qui luật khách quan.
2. Nội dung của cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Cũng như cơ cấu kinh tế nói chung, nội dung của cơ cấu kinh tế nông
nghiệp bao gồm : cơ cấu ngành cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu thành phần kinh
tế, cơ cấu kỹ thuật.
Sự phân công lao động theo ngành là cơ sở hình thành cơ cấu ngành, sự
phân công lao động phát triển ở trình độ cao, càng tỷ mỷ thì sự phân công
chia ngành càng đa dạng và sau sắc.
Trong lịch sử phát triển xã hội loài người trong thời gian dài kinh tế

nông nghiệp chủ yếu là trồng trọt, chăn nuôi chưa phát triển, những nước kém
phát triển tỉ trọng trong trồng trọt trong nông nghiệp chiếm rất cao, đại bộ


phận nông dân chủ yếu tham gia lao động trồng trọt chỉ có số ít là kết hợp và
chăn nuôi .
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và tiến bộ khoa học- kỹ
thuật đặc biệt sự phát triển của nông nghiệp hiện đại, cơ cấu kinh tế nông
nghiệp được cải biến nhanh chóng theo hướng sản xuất hàng hoá, theo hướng
công nghệp hoá và hiện đại hoá.
2.1Cơ cấu ngành.
Hiện nay trong nông nghiệp không chỉ bao gồm ngành trồng trọt và chăn
nuôi nó còn bao gồm cả ngành lâm nghiệp và dịch vụ nông nghiệp.
Do vậy trong cơ cấu ngành còn phải xét tới sự chuyển dịch của ngành
lâm nghiệp và ngành dịch vụ. Cơ cấu nghành của kinh tế nông nghiệp bao
gồm các nhóm ngành trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp và lâm
nghiệp.
Trong mỗi nhóm ngành lại được chia thành những ngành hẹp hơn. Trong
trồng trọt lại được chia thành cây lương thực, cây công nghiệp, cây thực
phẩm, cây ăn quả, cây dược liệu... Trong ngành chăn nuôi được phân chia
thành: đại gia súc, tiểu gia súc, gia cầm...kinh nghiệm trong nước và thế giới
cho thấy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang tính qui luật: từ trồng
trọt mở ra lâm nghiệp, ngư nghiệp, chăn nuôi, sản xuất hàng hoá.
- Trong một thời gian khu vực kinh tế nước ta chậm chuyển biến nông
nghiệp chiếm vị trí chủ yếu, cơ cấu chậm chuyển dịch nguyên nhân chủ yếu là
lượng sản xuất kém phát triển năng xuất lao động thấp, phân công lao động
chưa tỉ mỉ sâu sắc nên tình trạng thiếu lượng thực kéo dài .Từ 1989 trở lại đây
sản xuất lương thực đạt được thành tựu to lớn, dư thừa lương thực để xuất
khẩu, do vậy làm cho cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch nhanh chóng
theo hướng có hiệu quả.

-Những nược có trình độ kém phát triển kém nông nghiệp chiếm đại bộ
phận trong nền kinh tế thì sự phát triển của lực lượng sản xuất đặc biết là tiến


bộ khoa học kỹ thuật ứng dụng vào làm cho cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh
chóng theo hướng CNH,HĐH.
2.2 Cơ cấu vùng lãnh thổ.
Sự phân công lao động theo ngành kéo theo sự phân công lao động theo
lãnh thổ đó là hai mặt của một quá trình gắn bó hữu cơ với nhau. Sự phân
công lao động theo ngành bao giờ cũng diễn ra trên những vùng lãnh thổ nhất
định, nghĩa là cơ cấu vùng lãnh thổ chính là việc bố trí các ngành trong sản
xuất nông nghiệp theo không gian cụ thể nhằm khai thác mọi ưu thế tiềm
năng to lớn. Ở đây, xu thế chuyển dịch cơ cấu vùng lãnh thổ đi vào chuyên
môn hoá và tập trung hoá hình thành những vùng sản xuất hàng hóa lớn tập
trung có hiệu quả cao mở với các vùng chuyên môn hoá khác, gắn cơ cấu của
từng khu vực với cơ cấu kinh tế của cả nước.Trong từng vùng lãnh thổ coi
trọng chuyên môn hoá kết hợp với phát triển tổng hợp đa dạng.
-Để hình thành cơ cấu vùng lãnh thổ hợp lý thì cần bố trí các ngành trên
vùng lãnh thổ hợp lý, để khai thác đầy đủ tiềm năng của từng vùng. Đặc biệt
cần bố trí các ngành chuyên môn hoá dựa trên những lợi thế so sánh từng
vùng đó là những vùng có đất đai tốt, khí hậu thuận lợi , đường giao thông lớn
và các khu công nghiệp đô thị.
- So với cơ cấu ngành thì cơ cấu vùng lãnh thổ có tính trí tuệ hơn, có
sức ỳ hơn, chậm chuyển dịch hơn vì thế khi bố trí các vùng chuyên môn hoá
cần được xem xét cụ thể thận trọng nếu phạm sai lầm khó khắc phục, bị tổn
thất rất lớn.

2.3. Cơ cấu thành phần kinh tế
Trong suốt thơi gian dài của thời kỳ bao cấp ở nước ta, cơ cấu thành
phần kinh tế trong nông nghiệp chậm chuyển biến với sự tồn tại thuần nhất

của hai loại hình kinh tế, kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Đến đại hội
VI của Đảng với nội chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường
có sự quản lý của nhà nước thì các thành phần kinh tế phát triển đa dạng và đa
thành phần.


-Điều đàng chú ý trong qua trình chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế
nổi lên các xu thế sau: Đó sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế trong đó
kinh tế hộ nổi lên thành kinh tế hộ độc lập, tự chủ, đây là thành phần kinh tế
năng động nhất, tạo ra sản phẩm hàng hoá phong phú đa dạng cho xã hội.
Trong quá trình phát triển kinh tế hộ chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp sang
sản xuất hàng hoá nhỏ tiến tới hình thành các trang trại, công trại(sản xuất
hàng hóa lớn).
-Thành phần kinh tế quốc doanh có xu hướng giảm mạnh nhà nước đang
có biện pháp sắp xếp, rà soát lại, hoặc chuyển sang các chức năng khác cho
phù hợp với điều kiện hiện nay.
Thành phần kinh tế tập thể (hay kinh tế hợp tác ) cũng chuyển đổi chức
năng của mình sang các HTX kiểu mới làm chức năng hướng dẫn sản xuất và
công tác dịch vụ phục cho nguyện vọng của các hộ nông dân mà trước đây
chức năng của HTX là trực tiếp điều hành sản xuất.
Như vậy sự phát triển đa dạng của các thành phần kinh tế cùng với việc
chuyển đổi chức năng cuả nó làm cơ cấu thành phần kinh tế trong nông
nghiệp có những chuyển biến mạnh mẽ theo hướng phát huy hiệu quả của các
thành phần kinh tế .
2.4. Cơ cấu kỹ thuật.
- Cũng như cơ cấu thành phần kinh tế trong thời gian dài cơ cấu kỹ thuật
trong nông nghiệp nước ta mang nặng tính chất cổ truyền, nông nghiệp truyền
thống lạc hậu, phân tán, manh mún và có tính bảo thủ, kỹ thuật mang tính cha
truyền con nối, tự đào tạo và truyền khẩu những kinh nghiệm trong phạm vi
từng gia đình. Vì vậy sản xuất nông nghiệp lệ thuộc vào tự nhiên, cơ cấu kỹ

thuật chậm chuyển biến.
- Đứng trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật, sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ đã
tác động vào nông nghiệp làm phá vỡ tính cổ truyền, lạc hậu và trì trệ, làm
cho tính truyền thống giảm

mạnh, công nghiệp hoà nhập vào nông


nghiệp(công nghiệp hoá nông nghiệp). Kinh tế nông nghiệp có sự kết hợp của
kỹ thuật truyền thống đan xem với kỹ thuật tiên tiến hiện đại. Điều đó làm
cho cơ cấu kỹ thuật trong nông nghiệp nước ta trong những năm qua chuyển
biến mạnh mẽ.
II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG
NGHIỆP.

1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một tất yếu khách quan.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội nó
gắn liền và chi phối sự hình thành và biến đổi của cơ cấu kinh tế trong nền
kinh tế tự cung tự cấp lực lương sản xuất phân công lao động xã hội kém phát
triển trì trệ nên cơ cấu kinh tế nông nghiệp chậm chuyển biến chỉ từ khi
chuyển từ nền kinh tế sang sản xuất hàng hoá thì lực lượng sản xuất và phân
công lao động mới phát triển ở trình độ cao làm cho cơ cấu chuyển dịch mạnh
mẽ, mặt khác sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã
hội là một xu thế tất yếu khách quan của sự phát triển xã hội do đó chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp cũng là một tất yếu khách quan.
Ngoài ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp còn bắt nguồn từ
thực trang kém hiệu quả nhưng còn rất nhiều tiềm năng.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp vẫn mang nặng tính trồng trọt, chăn nuôi
còn kém phát triển trong khi đó tỉ suất hàng hoá còn thấp. Nói các khác cơ

cấu kinh tế nông nghiệp còn kém hiệu quả. Với điều kiện hiện nay nước ta với
nguồn lao động dồi dào , điều kiện tự nhiên tương đối thuận lợi nhưng tất cả
vẫn ở dạng tiềm ẩn chưa được khai thác một cách đầy đủ và hợp lý. Bởi vậy,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế chình là nhằm giải quyết vấn đề này. Mục tiêu của
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là phải trên cơ sở tiềm năng sẵn có
hình thành cơ cấu mới nhằm khai thác hiệu quả các tiềm năng đó tạo ra một tỉ
suất hàng hoá lơn, hiệu quả kinh tế ngày càng cao góp phần đắc lực vào quá
trình tăng trưởng kinh tế của cả nước.


Bên cạnh đó quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tất yếu
lại chi phối bởi sự phát triển của thị trường . Với chính sách đổi mơi kinh tế
của đất nước, nền kinh tế thị trường đang ngày một phát triển và tác động
mạnh mẽ vào mọi lĩnh vực, mọi ngành kinh tế. Trên địa bàn cả nước theo cơ
chế đó thì mọi khu vực sản xuất, mọi thành phần kinh tế khi tiến hành sản
xuất phải nắm vững và bám sát thị trường. Trong nền kinh tế hàng hoá phát
triển tất yếu các quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hoá, các yếu tố sản xuất như:
tài nguyên sức lao động, công nghệ... các sản phẩm dịch vụ tạo ra ngay cả
chất xám đều được cơi là đối tượng mua bàn là hàng hoá. Cơ cấu kinh tế nông
nghiệp trong cơ chế thị trường cũng phải đảm bảo và tuân thủ các mối quan
hệ đó. Trong nền kinh tế thị trường giá cả điều tiêt hành vi của người sản xuất
từ đó tạo ra một thiết chế làm nảy sinh mối quan hệ tỉ lệ nhất định trong cơ
cấu kinh tế. Vấn đề đặt ra bằng nhận thức và hành động của các nhà quản lý,
các cơ quan hoạch định chính sách phải có giải pháp điều chỉnh thông qua hệ
thống các chính sách kinh tế, định hướng cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
hiệu quả cao nhất.
Chúng ta không thể phó mặc để cơ chế thị trường tự phát điều chỉnh cơ
cấu kinh tế. Những vấn đề có một cơ cấu kinh tế có hiệu quả trong nền kinh tế
thị trường thì cơ cấu đó phải thoả mãn được những yêu cầu của thị trường đặt
ra. Như vậy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải xuấta phát từ những

căn cứ mà thị trường đòi hỏi và phải thoả mãn tốt mọi nhu cầu của thị trường.
2. Yêu cầu xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá CNH và HĐH.
Đại hội Đảng lần thứ VIII đã khẳng định nước ta muốn phát triển nhất
thiết phải thực hiện công cuộc hiện đại hoá .Đại hội nhấn mạnh nội dung cơ
bản của CNH, HĐH giai đoạn hiện nay là; đặc biệt coi trọng CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn. Phải chăng khi coi là đặc biệt, vì nó tạo tiền đề và cơ
sở vững chắc thục đẩy toàn bộ quá trình CNH,HĐH nền kinh tế đất nước?.


Phải chăng đó là mũi đột phá quan trọng nhằm giải phóng sức lao động
trong nông nghiệp hiện chiếm khoảng 70% lao động cả nước, tạo điều kiện
khai thác tốt tiềm năng dồi dào về lao động đất đai.
CNH,HĐH nông nghiệp tạo đièu kiện giải quyết vấn đề xoá đói giảm
nghèo ỏ nhiều vùng ở nông thôn. Tạo điều kiện để phát triển năng lực sản
xuất khuyến khích mọi lực lượng lao động trong các thành phần kinh tế
hướng vào việc sản xuất nông sản hàng hoá. Giải quyêt tốt quan hệ giữa sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm. Quan hệ giữa việc hoạch định phương hướng, mục
tiêu sản xuất trong từng thời kỳ. Chính việc tạo điều kiện giải quyêt các mối
quan hệ trên là việc tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vì
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm thực hiện giải quyết các mối quan hệ trên.
Do đó CNH,HĐH nông nghiệp là cơ sở để thực hiện quá trình chuyển dich cơ
cấu kinh tế nông nghiệp.


III. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI SỰ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
KINH TẾ NÔNG NGHIỆP.

Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một khái niệm mang tính khách quan,
tính lịch sử xã hội, nó không những vận động, biến đổi và phát triển. Sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một quá trình do vậy sự hình

thành, vận động, biến đổi và phát triển của nó là kết quả của sự tác động
thường xuyên và tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng tới cơ cấu kinh tế nông
nghiệp.
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế
nông nghiệp nhưng tựu chung lại thì có 3 nhân tố ảnh hưởng chủ yếu sau.
1. Nhóm các nhân tố về điều kiện tự nhiên.
Nhóm này gồm: vị trí địa lý của các vùng lãnh thổ điều kiện đất đai của
các vùng:điều kiện khí hậu, thời tiết, các nguồn tài nguyên khác cuả vùng
lãnh thổ như: nguồn nước, rừng, biển... Các nhân tố tự nhiên trên tác động
một cách trực tiếp tới sự hình thành, vận động và biến đổi cơ cấu kinh tế nông
nghiệp. Tuy nhiên sự tác động và ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên tới mỗi
nội dung của cơ cấu kinh tế nông nghiệp là không giống nhau. Trong các nội
dung của cơ cấu kinh tế nông nghiệp thì cơ cấu ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ
chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên nhiều nhất, còn cơ cấu các thành phần
kinh tế và cơ cấu kỹ thuật chịu ảnh hưởng ít hơn. Trong các điều kiện tự
nhiên nêu trên các điều kiện tự nhiên về đất đai khí hậu vị trí địa lý có ảnh
hưởng rất rõ nét tới sự phát triển của nông nghiệp (theo nghĩa rộng gồm cả
nông, lâm ngư, nghiệp) qua nông nghiệp ảnh hưởng trực tiếp tới các ngành
khác. Trong mỗi quốc gia các vùng lãnh thổ với vị trí địa lý khác nhau có điều
kiện khí hậu (lượng mưa, độ ẩm, nhiệt độ ...)điều kiện đất đai (nông hoá, thổ
nhưỡng, địa chất...) các nguồn tài nguyên tự nhiên khác(nước, rừng biển...)và
hệ sinh thái khác nhau về số lượng và quy mô các phân ngành chuyên ngành
sâu của nông lâm ngư nghiệp, giưa các vùng có sự khác nhau, dẫn tới sự khác


nhau của cơ cấu ngành. Điều này được thể hiện rõ rệt từng sự phân biệt về cơ
cấu các ngành kinh tế trong nông nghiệp giữa các vùng công bằng, trung du
miền núi. Ngay giữa các vùng cơ cấu kinh tế các ngành cũng có sự khác nhau
khá rõ, do tính đa dạng và phong phú của tự nhiên nước ta và sự phát triển
không đồng đều của nguồn lực. Một số vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi

để phát triển một số ngành sản xuất tạo ra các lợi thế so với các vùng khác
của đất nước. Đây là cơ sở tự nhiên để hình thành các vùng kinh tế .
Ngoài sự tác động và ảnh hưởng nói trên thì điều kiện tự nhiên còn ảnh
hưởng tới các cơ cấu các thành phần kinh tế và cơ cấu kỹ thuật trong kinh tế
nông nghiệp. Thông thường những vùng nào có điều kiện tự nhiên thuận lơi
thì các thành phần kinh tế của các vùng đó phát triển` với quy mô lớn hơn
tốc độ lớn hơn. Sự phát triển` của các thành phần kinh tế tạo điều kiện làm
nảy sinh nhu cầu ứng dụng ngày càng rộng rãi công nghệ và các tiến bộ kỹ
thuật vào hoạt động sản xuất kinh doanh làm tỷ trọng của công nghệ và kỹ
thuật tiến bộ, hiện đại ngày càng được nâng cao trong cơ cấu kỹ thuật.
2. Nhóm các nhân tố kinh tế - xã hội.
Các nhân tố kinh tế xã hội ảnh hưởng tới cơ câú kinh tế nông nghiệp bao
gồm : thị trường (cả thị trường trong và ngoài nước) hệ thống các chính sách
kinh tế vĩ mô của nhà nước; vốn; cơ sở hạ tầng nông thôn; sự phát triển các
khu công nghiệp và đô thị; kinh nghiệm, tập quán và truyền thống sản xuất
của dân cư...
Trong nền kinh tế hàng hoá, nhân tố thị trường có ảnh hưởng quyết định
tới sự phát triển kinh tế nói chung và biến đổi của cơ cấu kinh tế nói riêng.
Bởi suy đến cùng cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói
riêng chỉ tồn tại và vận động thông qua hoạt động của con người. Nhưng
người sản xuất hàng hoá chỉ sản xuất và đem ra thị trường trao đổi những sản
phẩm mà họ cảm thấy chúng đem lại lợi nhuận thoả đáng. Như vậy thị trường
thông qua quan hệ cung cầu mà tín hiệu là giá cả hàng hoá thúc đẩy hay ngăn


cản người sản xuất tham gia hay không tham gia vào thị trường. Với cơ chế
đó người sản xuất tự xác định khả năng tham gia cụ thể của mình vào thị
trường những loại sản phẩm hàng hoá có lợi nhất.
Do đó trên thị trường sẽ xuất hiện các loai hàng hoá dich vụ với quy mô
và cơ cấu phản ánh cơ cấu kinh tế ở từng vùng, từng địa phương.

Trong điều kiên hiện nay nền kinh tế mở cần chú trọng sự tác động và
ảnh hưởng của thị trường quốc tế tới cơ cấu kinh tế nông nghiệp của mỗi
nước. Ngày nay, quá trình hợp tác và giao lưu kinh tế ngày càng mở rộng thì
hầu hết các quốc gia đều thực hiên các chiến lược kinh tế mở. Thông qua
quan hệ giao thương quốc tế, các quốc gia ngày càng tham gia sâu hơn vào
quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế. Đây là nhân tố hết sức quan
trọng ảnh hưởng tới quá trình biến đổi cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu
kinh tế nông nghiệp nói riêng ở mỗi quốc gia. Việc tham gia ngày càng sâu
vào qua ttrình hợp tác và phân công quốc tế sẽ làm cho các quốc gia khai thac
và sử dụng mọi nguồn lực của mình có lơi nhất trên cơ sở phát huy các lợi thế
so sánh. Mặt khác thông qua thị trường quốc tế mà mình tham gia thì mỗi
quốc gia lại tăng thêm các cơ hội tìm kiếm những công nghệ và kỹ thuật mới
cũng như các nguồn vốn đầu tư phát triển` các ngành kinh tế nâng cao trình
độ công nghệ kỹ thuật, đẩy mạnh qua trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, nhà nước sử dụng chính sách kinh tế
và công cụ khác để thực hiện chức năng quản lý kinh tế vĩ mô. Chính sách
kinh tế là hệ thống các biện pháp kinh tế được thực hiện bằng các văn bản quy
định tác động cùng chiều vào nền kinh tế nhằm thực hiện các mục tiêu dẫ
định. Chức năng chủ yếu của các chính sách kinh tế vĩ mô là tạo ra động lực
kinh tế mà cốt lõi là lợi ích kinh tế của mình mà tiến hành các hoạt động kinh
tế phù hợp với các định hướng của nhà nước trong kế hoạch kinh tế hoạt đông
phù hợp với định hướng của nhà nước đòng thời để đảm bảo lợi ích kinh tế
của các chủ thể, nhà nước thông qua pháp luật kinh doanh xác lập hành lang


và khuôn khổ cho các hủ thể kinh tế hoạt động, pháp luật kinh doanh cũng là
chỗ dựa pháp lý của các chủ thể kinh tế trong các hoạt động của mình. Các
chính sách kinh tế vĩ mô thể hiện sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế
thị trường trên cơ sở đảm bảo các yếu tố của thị trường để các quy luật khách
quan của thị trường phát huy những tác động tích cực, hạn chế những ảnh

hưởng tiêu cực nhằm mục đích tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng và
phát triển với tốc độ cao và ổn định.
Để đạt được mục đích trên một trong những hướng tác động quan trọng
nhất của các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước là sự tác động đến cơ cấu
kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng. Nếu chỉ coi sự tác
động của các quy luật thị trường thì cơ cấu kinh tế chỉ hình thành và vận động
một cách tự phát và tất yếu dẫn đến sự lãng phí trong sử dụng các nguồn lực
của đất nước. Để thực hiện chức năng điều tiết của mình nhà nước không còn
cách nào khác phải ban hành một hệ thống các chính sách kinh tế cùng với
các công cụ quản lý vĩ mô khác thúc đẩy việc hình thành một cơ cấu ngành
kinh tế cơ cấu các vùng kinh tế, cơ cấu các thành phần hợp lý và trình độ công
nghệ, kỹ thuật ngày càng được nâng cao nhằm khai thác có hiệu quả nhất các
nguồn lực và các lơi thế của đất nước nói chung và khu vực nông nghiệp. nói
riêng. Để hình thành hay chuyển đổi một cơ cấu kinh tế nông nghiệp đòi hỏi
phải có điều kiện vật chất nhất định. Tương ứng với yêu cầu hình thành và
chuyển đổi cơ cấu kinh tế để đáp ứng đòi hỏi về các điều kiện vật chất này
nhất thiết phải đầu tư và phải có vốn đầu tư. Các nguồn vốn đầu tư chủ yếu để
hình thành và chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp gồm .
Nguồn vốn tư của các chủ thể kinh tế trong nông nghiệp.
Nguồn vốn ngân sách.
Nguồn vốn cho vay của các ngân hàng (kể cả ngân hàng tư nhân).
Nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng.


Nguồn vốn đầu tư trực tiếp hay gián tiếp của nước ngoài.
Các nguồn vốn trên có ảnh hưởng trực tiếp và rất lớn tời sự hình thành
và phát triển` của các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế
và nâng cao trình độ công nghệ kỹ thuật trong nông nghiệp, qua đó ảnh hưởng
tới sự hình thành và chuyển dich cơ cấu kinh tế nông nghiệp, kinh nghiệm
bước đầu ở nước ta cho thấy giải quyết tốt vấn đề vốn là một trong những

điều kiện quan trọng nhất để phát triển kinh tế nông nghiệp và xây dựng cơ
cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý và phù hợp với yêu cầu khai thác tốt các
nguồn lực xây dựng và tăng cường cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn bao
gồm các công trình hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng kinh tế - xã hội thuộc sở hữu
của nhiều thành phần kinh tế, khu vực trực tiếp các hoạt đông sản xuất,
thương mại dịch vụ, văn hoá- xã hội của cộng đồng dân cư nông thôn.
Sự phát triển` của các khu công nghệp và đô thị cũng là một nhân tố
quan trọng ảnh hưởng tới cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Sự phát triển này tạo
khả năng cung cấp kỹ thuật và công nghiệp ngày càng tiên tiến, tạo ra các
nguồn vốn đầu tư ngày càng dồi dào cho khu vực kinh tế nông nghiệp, góp
phần thúc đẩy quá trình hình thành, vận động và biến đổi của cơ cấu kinh tế
nông nghiệp.
Vấn đề dân số, lao động và trình độ của người lao động, người quản lý
cũng là nhân tố có ảnh hưởng tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Ngoài ra, kinh nghiệm, tập quán truyền thống của dân cư ở các vùng dân
cư cũng có ảnh hưởng tới việc hình thành và phát triển của cơ cấu kinh tế
nông nghiệp.
3. Nhóm nhân tố về tổ chức -kỹ thuật.
Nhóm nhân tố này bao gồm: các hình thức tổ chức sản xuất trong nông
nghiệp, sự phát triển` của khoa học kỹ thuật và việc áp dụng các tiến bộ khoa
học kỹ thuật vào sản xuất...


Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là phạm trù khách quan nhưng lại là sản
phẩm hoạt động của con người. Sự tồn tại, vận động và biến đổi của kinh tế
nông nghiệp và cơ cấu kinh tế nông nghiệp được quyết định bởi sự tồn tại và
hoạt động của các chủ thể kinh tế trong nông nghiệp là cở sở của sự hình
thành và phát triển của các ngành kinh tế, các vùng kinh tế và các thành phần
kinh tế. Các chủ thể kinh tế trong nông nghiệp tồn tại và hoạt động qua các
hình thức tổ chức sản xuất với các mô hình tổ chức tương ứng. Do vậy, các

hình thức tổ chức trong nông nghiệp với các mô hình tương ứng là một trong
những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới sự biến đổi cơ cấu kinh tế nông
nghiệp.
Từ năm 1989 đến nay trong nông nghiệp nước ta, kinh tế hộ được thừa
nhận hộ trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, kinh tế tư nhân được tạo điều kiện để
phát triển, kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể được cải biến theo nội dung
mới. Sự thay đổi về các mô hình sản xuất nêu trên đã tạo ra những điều kiện
cho nông nghiệp và nông thôn phát triển mạnh mẽ tạo ra những thay đổi bước
đầu đáng kể trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Trong nông nghiệp tỷ trọng
của ngành trồng trọt giảm xuống , tỉ trọng của ngành chăn nuôi tăng lên.
Trong trồng trọt tỉ trọng cây lương thực giảm cây công nghiệp và cây ăn quả
tăng lên, dần dần hình thành nhiều vùng chuyên canh tập trung cây công
nghiệp dài ngày. Tỷ trọng kinh tế hộ và phát triển các trang trại ngày một tăng
kỹ thuật mới và công nghệ tiến bộ ngày càng được ứng dụng rộng rãi...
Ngày nay, khoa học kỹ thuật đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp ,
sự phát triển của khoa học kỹ thuật và việc ứng dụng chúng vào sản xuất có
vai trò ngày càng to lớn đối với sự phát triển kinh tế nói chung, kinh tế nông
nghiệp và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng. ở đây vai trò của khoa học kỹ
thuật được ứng dụng vào sản xuất góp phần hoàn thiện các phương pháp sản
xuất nhằm khai thác sử dụng hợp lý hiệu quả hơn các nguồn lực xã hội và khu
vực nông thôn. Đồng thời việc ứng dụng khoa học kỹ thuật cũng làm tăng


năng lực sản xuất trong nông nghiệp, qua đó thúc đẩy sự phát triển của các
ngành sản xuất, các vùng kinh tế trong nông nghiệp đặc biệt những ngành,
những vùng có nhiều lợi thế.


IV. HỆ THỐNG CHỈ TIÊU PHẢN ÁNH CƠ CẤU, CHUYỂN DỊCH CƠ
CẤU VÀ HIỆU QUẢ CƠ CẤU, CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG

NGHIỆP.

1. Nhóm chỉ tiêu phản ánh cơ cấu kinh tế và hiệu quả cơ cấu kinh tế.
* Để phản ánh cơ cấu kinh tế thường sử dụng các chỉ tiêu như cơ cấu đầu
vào, cơ cấu đầu ra.
Nhóm các chỉ tiêu biểu hiện cơ cấu đầu vào bao gồm.
- Cơ cấu đất đai
- Cơ cấu vốn đầu tư
- Cơ cấu lao động
- Cơ cấu kỹ thuật.
Nhóm các chỉ tiêu biểu hiện cơ cấu đầu ra.
-Cơ cấu giá trị các loại sản phẩm
- Cơ cấu giá trị các loại sản phẩm hàng hoá.
* Nhóm các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả cơ cấu kinh tế.
Hiệu quả cơ cấu kinh tế chính là xem xét việc bố trí cơ cấu đầu vào (cơ
cấu sử dụng đất đai, cơ cấu vốn, cơ cấu lao động...) đã hợp lý chưa và biểu
hiện của nó chính là cơ cấu đầu ra (cơ cấu giá trị sản phẩm, cơ cấu giá trị
hàng hoá).
Như vậy phản ánh hiệu quả cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp sử dụng
các chỉ tiêu sau:
- Năng suất đất đai
- Hiệu quả sử dụng vốn
- Năng suất lao động


- Giá trị sản lượng/1 đơn vị diện tích (1đvdt tạo ra bao nhiều giá trị sản
lượng)
- Giá trị sản lượng/1 lao động (1 lđ tạo ra bao nhiêu giá trị sản lượng)
- Giá trị hàng hoá /1đv dt
- Giá trị hàng hoá/1 lđ

- Lợi nhuận
- Thu nhập
Các chỉ tiêu trên có thể sử dụng để phản ánh cơ cấu kinh tế, hiệu quả cơ
cấu kinh tế nông nghiệp trong cả nước , từng vùng lãnh thổ và các thành phần
kinh tế. Tuỳ thuộc các phạm vi nghiên cứu mà sử dụng các chỉ tiêu, các
phương pháp thích hợp.
2. Nhóm chỉ tiêu phản ánh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và hiệu quả
của chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
* Các nhóm chỉ tiêu phản ánh chuyển dịch cơ cấu .
Phản ánh chuyển dịch cơ cấu kinh tế chính là xem xét sự thay đổi các chỉ
tiêu phản ánh cơ cấu kinh tế mà cụ thể là xem xét sự thay đổi của cơ cấu đầu
vào từ đó xem xét sự thay đổi cơ cấu đầu ra. Thực tế chính là việc sử dụng
các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu kinh tế nhưng đã được bố trí, sắp xếp lại từ đó
đem so sánh với các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu kinh tế trước đây để làm rõ quá
trình chuyển dịch. Như vậy sự thay đổi các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu hay sự
chuyển dịch có thể là hợp lý có thể là không hợp lý mà biểu hiện của tính hợp
lý hay không hợp lý phải xem xét tới sự thay đổi của cơ cấu đầu ra.
* Phản ánh hiệu quả của chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Để phản ánh hiệu quả của chuyển dịch cơ cấu kinh tế dựa trên các chỉ
tiêu phản ánh hiệu quả của cơ cấu kinh tế nhưng có sự so sánh giữa các năm
để thấy được sự biến đổi của các chỉ tiêu này. Sự biến đổi của hiệu quả cơ cấu


kinh tế chính là hiệu quả của quá trình chuyển dịch. Hiệu quả này tốt hay xấu
ta phải xem xét tới từng chỉ tiêu cụ thể như:
Năng suất đất đai tăng hay giảm.
Hiệu quả sử dụng vốn tôt hay xấu .
Năng xuất lao động tăng hay giảm .
Giá trị sản lương/1 đv dt, giá trị sản lượng sản phẩm hàng hoá /1đvdt...
tăng hay không.

Ngoài ra sự chuyển dich cơ cấu có làm cho lợi nhuận tăng không, thu
nhập người dân tăng hay giảm.
Như vậy để phản ánh chuyển dịch hay hiệu quả chuyển dịch ta cũng sử
dụng các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu và hiệu quả của cơ cấu nhưng xem xét
chúng ở trạng thái động để thấy được sự thay đổi của cơ cấu chính là quá
trình chuyển dịch và sự biến hiệu quả của cơ cấu kinh tế chính là hiệu quả của
quá trình chuyển dịch.
Việc sử dụng các chỉ tiêu trên để đo lượng hiệu quả chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp xuất phát từ yêu cầu nghiên cứu và phụ thuộc vào nội
dung cơ cấu kinh tế. Để đánh giá hiệu quả của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp có thể sử dụng phương pháp so sánh theo không gian và thời
gian của các chỉ tiêu nói trên. Mức độ khác nhau về hiệu quả kinh tế sẽ phản
ánh tính hợp lý hay không hợp lý cơ cấu kinh tế nông nghiệp cả nước, của
từng vùng qua các thời gian khác nhau, với cơ cấu kinh tế khác nhau.Các chỉ
tiêu trên được sử dụng trên cả nước và ý nghĩa so sánh với từng khoảng cách
4-5 năm trở lên.
Ngoài những chỉ tiêu nói trên xuất phát từ yêu cầu sản xuất nông nghiệp
nước ta, việc phân tích đánh giá hiệu quả cơ cấu sản xuất nông nghiệp hiện
đại còn dựa trên một số căn cứ.


- Đánh giá hiệu quả của cơ cấu sản xuất trên cơ sở bình quân các loại
nông sản phẩm sản xuất trên đầu người so với nhu cầu tiêu dùng.
- Khả năng cung cấp nguyên liệu của sản xuất nông nghiệp cho công
nghiệp chế biến.
-Cơ cấu nông nghiệp phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng và
giải quyết việc làm cho ngươi lao động.
-Cơ cấu nông nghiệp phải đạt hiệu quả kinh tế cao, giá trị sản lượng
nông sản trên 1 ha phaỉ tăng so với trước , tỷ trọng giá trị sản lượng hàng hoá
cao.

-Cơ cấu nông nghiệp phải nâng cao thu nhập cho các nông dân và hiệu
qủa trên một đồng vốn bỏ ra đạt tỷ lệ cao.


CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
NÔNGNGHIỆP Ở TỈNH PHÚ THỌ
I. ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN- KINH TẾ - XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG TỚI
CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP CỦA TỈNH PHÚ THỌ

1. Vị trí địa lý
1.1. Vị trí
Phú thọ là một trong những tỉnh miền núi trung du Bắc Bộ. Phía Đông
Bắc tiếp giáp với tỉnh Vĩnh Phúc, phía Đông Nam tiếp giáp tỉnh Hà Tây. Phía
Tây Bắc tiếp giáp với tỉnh Yên Bái và tỉnh Sơn La. Phía Nam giáp với tỉnh
Hoà Bình. Phía Bắc tiếp giáp với tỉnh Tuyên Quang. Với vị trí của tỉnh nằm
tiếp giáp với nhiều tỉnh khác tạo điều kiện thuận lợi cho tỉnh mở rộng quan hệ
giao lưu văn hoá, kinh tế với các tỉnh và các vùng lân cận. Từ đó tìm ra những
hướng phát triển kinh tế hay những cơ cấu kinh tế phù hợp cho tỉnh mình.
1.2. Địa hình
Có thể chia làm 3 dạng địa hình chủ yếu:
- Địa hình núi cao phía Tây, Tây Nam: Phân bố chủ yếu ở các huyện
Thanh Sơn, Yên Lập, phía Tây sông Thao và một phần của Hạ Hoà. Đặc điểm
vùng này là núi cao, đỉnh cao nhất trên 1000 m (như núi Cẩn cao 1.402m, núi
Lưỡi hái cao 1.058m, núi Tào cao 1.244m, núi Voi cao 1360m, núi Hao cao
1.071m). Địa hình sắp xếp theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Do ảnh hưởng
địa hình núi chia cắt, đây là vùng khó khăn trong việc đi lại, giao lưu với các
nơi khác. Tuy nhiên, ở đây còn nhiều tiềm năng phát triển, nhất là về lâm
nghiệp.

- Địa hình núi thấp và đồi gò bát úp xen kẽ đồng ruộng: phân bổ chủ yếu
ở Đoan Hùng, Hạ Hoà, Thanh Ba, Sông Thao, Phù Ninh và một phần Tam
Nông- Thanh Thuỷ. Đặc điểm đồi núi thấp, địa hình lượn sóng tạo thành hệ
thống đồi bát úp, đỉnh cao nhất trên 200m, cao trung bình trên 100m, độ dốc
ít (dưới 20 độ), cá biệt có nơi dốc trên 25 độ. Địa hình sắp xếp theo kiểu bát
úp xen kẽ những thung lũng rộng. Đây là dạngđịa hình vùng trung du và là


vùng được khai thác lâu đời, đồi bị xói mòn rửa trôi nhiều, đồng ruộng lầy
thụt chua úng. Vùng này thuận lợi cho việc trồng các loại cây nguyên liệu
giấy, cây công nghiệp dài ngày như chè, cây ăn quả, phát triển lương thực,
chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản.
- Địa hình bằng: Phân bổ chủ yếu ở Lâm Thao, ven sông Đáy (thuộc Phù
Ninh) ven sông Thao, sông Đà (thuộc Tam Nông, Thanh Thuỷ, Việt Trì...).
Địa hình thấp dần về phía Đông Nam. Dải đồng bằng phù sa mới tương đối
bằng phẳng có tiềm năng thâm canh lúa, màu và cây công nghiệp ngắn ngày.
Với việc địa hình được phân chia rõ rệt theo ba vùng nói trên sẽ thuận
tiện cho việc bố trí cơ cấu cây trồng vật nuôi một cách hợp lý cho từng vùng.
2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
2.1. Thời tiết, khí hậu
Phú Thọ là một tỉnh phía Đông và Nam nằm tiếp giáp với đồng bằng
sông Hồng, phía Bắc tiếp giáp vùng Đông Bắc và Tây Bắc: khí hậu nhiệt đới
gió mùa, chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc nên có một mùa lạnh. Nhiệt
độ bình quân xấp xỉ 230C. Biên độ nhiệt là 12,80C (tháng có nhiệt độ cao 290C
và tháng có nhiệt độ thấp 16,20C). Lượng mưa trung bình trong năm: 16001800mm, mưa tập trung vào các tháng 5, 6, 7, 8. Độ ẩm trung bình: 85-87%,
tháng có độ ẩm cao: tháng 3 (93%). Tổng tính ôn là 80000C, số giờ nắng trong
năm trung bình 1272 giờ.
Do đặc điểm địa hình chia cắt bởi đồi núi nên có thể chia tỉnh thành 3
tiểu vùng khí hậu:
Tiểu vùng 1: (các huyện phía Bắc): Bao gồm các huyện Đoan Hùng,

Thanh Ba, Hạ Hoà, thị xã Phú Thọ và phần phía Bắc huyện Phù Ninh. Lượng
mưa trung bình/năm 1800mm, số ngày mưa: 120-140 ngày/năm, phân bố mưa
tương đối đều. Nhiệt độ trung bình 22-23 0C. Tổng tính ôn hàng năm biến
động từ 600-85000C. Là vùng đủ ẩm, mùa đông ít lạnh, thuận lợi phát triển
cây ngắn ngày (lúa, ngô, cây công nghiệp ngắn ngày) và cây công nghiệp dài
ngày (chè).
Tiểu vùng 2: (Các huyện phía Đông) bao gồm: Phía Nam huyện Phù
Ninh, huyện Tam Nông và thành phố Việt Trì. Lượng mưa trung bình/năm


1400-1700mm. Lượng mưa phân bổ không đều chủ yếu tập trung vào các
tháng mùa mưa. Ẩm độ không khí trung bình 82-84%, nhiệt độ trung bình
23,30C. Đây là vùng nóng hơn so với các tiểu vùng khác, tổng tích ôn hằng
năm: 8400-88000C. Là vùng giàu nhiệt tạo điều kiện các cây trồng (nhất là
cây ngắn ngày) tăng khả năng quang hợp, tích luỹ vật chất cho năng suất cây
trồng cao.
Tiểu vùng 3: (các huyện miền núi phía Tây) bao gồm: các huyện Thanh
Thuỷ, Thanh sơn, Yên Lập, sông Thao. Lượng mưa trung bình/năm là
1900mm (cao hơn so với các tiểu vùng khác từ 200-300mm. Nhiệt độ trung
bình 21-220C. Tổng tính ôn từ 8000-82000C. Là vùng có độ ẩm thấp, hệ số
khô cạn cao hơn các vùng khác, vì vậy cần giữ ẩm cho cây trồng về mùa
đông.
Khí hậu của phú Thọ chia làm hai mùa rõ rệt. Mùa nóng và mùa lạnh
thích hợp với phát triển cây trồng nhiệt đới và á nhiệt đới. Khả năng cho năng
suất và chất lượng cao. Yếu tố hạn chế của khí hậu là dễ bị úng ngập vào mùa
mưa và hạn hán về mùa khô. Khắc phục hạn chế này cần giải quyết tốt về
thuỷ lợi và bố trí hệ thống cây trồng phù hợp cho từng vùng của tỉnh.
2.2. Tài nguyên đất
Các loại đất chính: Theo tài liệu thổ nhưỡng trước đây và theo kết quả
điều tra một số năm gần đây, Phú Thọ có tới 13 loại đất nằm trong 7 nhóm đất:

2.2.1. Các nhóm đất
Nhóm 1: Đất phù sa
- Đất phù sa được bồi hàng năm (Pb)
Diện tích 11.915ha, chiếm 3,39% diện tích tự nhiên. P b phânbố ngoài để
các sông Hồng, sông Đà, sông Lô (nhiều nhất ở Thanh Sơn, Tam Thanh).
Đặc điểm: đất ngập nước trong mùa mưa lũ và có biến động. Độ phì tự
nhiên cao (hàm lượng chất dinh dưỡng trong đất phù sa bồi của sông Hồng
cao hơn các sông khác).


×