Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tư tưởng học đi đôi với hành của hồ chí minh và sự vận dụng tư tưởng này ở một số trường đại học việt nam hiện nay (tóm tắt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.14 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ VĂN MƯỜI
ẠM QUỲNH HƯƠNG
TƯ TƯỞNG HỌC ĐI ĐÔI VỚI HÀNH CỦA HỒ CHÍ
MINH VÀ SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG NÀY Ở MỘT
SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC NƯỚC TA HIỆN NAY

Chuyên ngành
Mã số

: Triết học
: 62.22.03.02

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2017


Công trình được hoàn thành tại:
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS. Hồ Việt Hạnh
Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Văn Tài
Phản biện 2: GS.TS. Trần Thành
Phản biện 3: GS.TS. Dương Xuân Ngọc

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện


họp tại.... .............................................................................

........................................................................................
vào hồi………..….giờ…………phút,
ngày………tháng……….năm………………..

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học Xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo
của Đảng, nước ta đã gặt hái được nhiều thành công trên mọi phương diện
của đời sống xã hội; đời sống người dân ngày càng được cải thiện, uy tín
quốc gia ngày càng nâng cao. Tuy nhiên, xét một cách tổng thể những thành
công và kết quả đó chưa ngang tầm với tiềm năng chúng ta đang có. Trong
số những vấn đề cấp bách hiện nay phải kể đến vấn đề giáo dục.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XI, Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 8 khóa XI, Đảng ta đã nêu ra những phương hướng cơ bản
về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục: giáo dục là quốc sách hàng đầu, là
sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân; đầu tư cho giáo dục là đầu
tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội; giáo dục phải có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển
nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất
nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam; đổi mới căn bản, toàn
diện cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những nhân tố mới,
tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới, kiên quyết chấn chỉnh

những nhận thức, việc làm lệch lạc; đổi mới giáo dục phải bảo đảm tính hệ
thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học; các
giải pháp đổi mới giáo dục phải đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm,
lộ trình, bước đi phù hợp. Tiếp tục ở Đại hội Đảng lần thứ XII, Đảng ta đưa
ra đường lối đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực, xác định đây là một kế sách, quốc sách hàng đầu, tiêu điểm của sự
phát triển, mang tính đột phá, khai mở con đường phát triển nguồn nhân lực
Việt Nam trong thế kỷ XXI, khẳng định triết lý nhân sinh mới của nền giáo
dục nước nhà “dạy người, dạy chữ, dạy nghề”.
Để đổi mới căn bản về giáo dục ở nước ta hiện nay theo chủ trương
của Đảng, chúng ta cần nhận thức sâu sắc và vận dụng tư tưởng Hồ Chí

1


Minh về học đi đôi với hành. Hồ Chí Minh khẳng định giáo dục là một
trong những phương tiện quan trọng nhất để nâng cao năng lực và phẩm
chất của con người, mà trước hết là nâng cao lòng yêu nước và hoàn thiện
nhân cách. Giáo dục là một mặt trận quan trọng, không có giáo dục,
không có cán bộ thì không nói gì đến kinh tế - văn hóa. Hồ Chí Minh xem
dốt nát là giặc vì nó cản trở việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, phá hoại
hạnh phúc của nhân dân. Trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn của cách
mạng, Người đặc biệt quan tâm tới giáo dục, công việc và cuộc sống của
các thầy giáo, cô giáo. Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta một hệ thống quan
điểm toàn diện, sâu sắc về giáo dục và đào tạo, về vai trò, vị trí của giáo
dục; mục đích của giáo dục; nhiệm vụ của giáo dục; nội dung, phương pháp
của giáo dục. Di sản đồ sộ đó có thể coi là triết lý Hồ Chí Minh về giáo dục.
Trong tư tưởng về giáo dục của Hồ Chí Minh, tư tưởng học đi đôi với hành
chiếm một vị trí quan trọng. Người khẳng định: “Một dân tộc dốt là một
dân tộc yếu”1, “học phải đi đôi với hành”, “lý luận phải gắn với thực tiễn”.

Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Người viết: “Một người học xong
đại học, có thể gọi là có tri thức. Song y không biết cày ruộng, không biết
làm công, không biết đánh giặc, không biết làm việc khác. Nói tóm lại:
công việc thực tế, y không biết gì cả. Thế là y chỉ có tri thức một nửa”2,
điều này có thể hiểu một sinh viên sau tốt nghiệp đại học không chỉ ôm
đồm mớ kiến thức khô khan tham gia vào thị trường lao động mà bản thân
anh ta phải học và tự trang bị những tri thức, kỹ năng cần thiết để sẵn sàng
đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Để làm được điều đó, theo Người
lý luận phải đem ra thực hành, thực hành phải nhằm theo lý luận, lý luận
cốt là để áp dụng vào thực tế. Chỉ học thuộc lòng để lòe thiên hạ thì lý
luận ấy cũng vô ích. Giáo dục đại học nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế,
số lượng sinh viên ra trường thất nghiệp lên tới gần 191.000 người; điều
đó có một phần nguyên nhân ở sự xa rời tư tưởng học đi đôi với hành của
Hồ Chí Minh.
1
2

Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.7.
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.275.

2


Chính vì thế, đi sâu tìm hiểu và làm rõ giá trị hiện thực của quan
điểm Hồ Chí Minh về “học đi đôi với hành” có ý nghĩa chiến lược trong
định hướng lý luận cũng như chỉ đạo thực tiễn giáo dục, đào tạo ở các
trường học nói chung, một số trường Đại học khối kỹ thuật ở Việt Nam
hiện nay nói riêng. Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục,
trong đó có tư tưởng học đi đôi với hành, là việc làm có ý nghĩa quan
trọng và cấp thiết trong đổi mới giáo dục ở nước ta hiện nay. Với lý do đó

tôi chọn đề tài “Tư tưởng học đi đôi với hành của Hồ Chí Minh và sự vận
dụng tư tưởng này ở một số trường đại học Việt Nam hiện nay” làm luận
án Tiến sĩ của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ
2.1. Mục đích
Luận án phân tích cơ sở hình thành, nội dung tư tưởng của Hồ Chí
Minh về học đi đôi với hành, đánh giá thực trạng, trên cơ sở đó đề xuất một
số giải pháp nhằm vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về học đi đôi với hành
trong công tác giáo dục, nhằm mục đích đào tạo những cá nhân thành đạt,
công dân có trách nhiệm, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, hội
nhập quốc tế ở một số trường Đại học khối kỹ thuật Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Thứ nhất: Phân tích tư tưởng học đi đôi với hành của Hồ Chí Minh
Thứ hai: Phân tích thực trạng vận dụng tư tưởng học đi đôi với
hành của Hồ Chí Minh ở một số trường đại học khối kỹ thuật hiện nay và
một số vấn đề đặt ra nhằm đào tạo lực lượng lao động đáp ứng yêu cầu của
xã hội.
Thứ ba: Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về học đi đôi với hành ở một số trường Đại
học khối kỹ thuật Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

3


Nghiên cứu tư tưởng học đi đôi với hành của Hồ Chí Minh và thực
trạng vận dụng tư tưởng này ở một số trường đại học thuộc khối kỹ thuật ở
Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Luận án nghiên cứu tư tưởng học đi đôi với hành
của Hồ Chí Minh và vận dụng vào một số trường Đại học ở Việt Nam hiện
nay
- Về không gian và thời gian: Luận án nghiên cứu ở một số trường
đại học thuộc khối kỹ thuật (Đại học Giao thông vận tải, Đại học Kiến trúc
Hà Nội, Đại học Thủy Lợi, Đại học Công nghiệp Hà Nội) ở Việt Nam chủ
yếu từ năm 1996 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận:
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, các quan điểm, đường lối, chủ trương chính sách
của Đảng, Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục nói chung và
học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn nói riêng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Luận án sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử để phân tích, lý giải, làm rõ các vấn đề, trong đó có kết hợp
các phương pháp lịch sử và lôgic, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch,
phương pháp khảo sát, so sánh… nhằm thực hiện mục đích mà đề tài đã đặt ra.
5. Những đóng góp về mặt khoa học của luận án
- Phân tích một cách hệ thống tư tưởng học đi đôi với hành của Hồ
Chí Minh.
- Làm rõ thêm mặt tích cực và mặt hạn chế của việc vận dụng tư
tưởng học đi đôi với hành của Hồ Chí Minh trên cơ sở đó chỉ ra một số mâu
thuẫn trong công tác giáo dục – đào tạo ở một số trường đại học khối kỹ
thuật ở Việt Nam hiện nay.

4


- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả vận

dụng tư tưởng học đi đôi với hành của Hồ Chí Minh ở một số trường Đại
học Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án
Luận án góp phần phân tích một cách hệ thống về tư tưởng học đi
đôi với hành của Hồ Chí Minh; cung cấp cơ sở khoa học cho việc đổi mới
giáo dục ở Việt Nam hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tư liệu tham
khảo trong việc đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục ở
các trường đại học Việt Nam hiện nay.
- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo, giảng dạy và tuyên truyền
cho các giảng viên, nhà quản lý giáo dục và sinh viên trong các trường Đại
học, Cao đẳng ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 4 chương 11 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục
Có rất nhiều công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục và vận dụng tư tưởng này trong chỉ đạo trực tiếp hoạt động ở các
trường đại học. Tiêu biểu có các công trình sau:“Hồ Chủ Tịch bàn về giáo
dục” (1962), Nxb Giáo dục; cuốn “Hồ Chủ tịch nhà giáo dục vĩ đại”
(1990) của Nguyễn Lân, Nxb Khoa học xã hội;“Tư tưởng Hồ Chí Minh
với sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện” của

5



PGS,TS Thành Duy, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001; “Phát triển
giáo dục Việt Nam trong những thập niên đầu thế kỷ XXI theo tư tưởng Hồ
Chí Minh” (2002) do Nguyễn Thị Nga chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia.
Công trình “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục” (2005) của nhóm tác giả
Đào Thanh Hải và Minh Tiến, Nxb Lao Động; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục” của TS Lê Văn Yên. Nxb Lao động, 2006; “Bác Hồ với sự
nghiệp giáo dục” của PGS,TS Nguyễn Khánh Bật chủ biên, Nxb Giáo dục,
Hà Nội, 2007; Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên (2008) của
Đoàn Nam Đàn, Nxb Chính trị Quốc gia; “Hồ Chí Minh về giáo dục – toàn
thư” của Nghiêm Đình Vỳ, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2008; “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện” của Nguyễn Hữu
Công, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010; “Quan điểm Chủ tịch Hồ Chí
Minh về dân chủ trong giáo dục” (2011), Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật;
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục” do GS,TS Phan Ngọc Liên và TS Bùi
Thu Hà biên soạn, tuyển chọn, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2012; “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về người thầy và việc xây dựng đội ngũ giảng viên đại
học hiện nay” (2013) do Ngô Hà chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự
thật, Hà Nội.
1.2. Các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về học
đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn
Bài Tư tưởng Hồ Chí Minh về thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
nhằm khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều (2006) của tác giả
Trần Văn Phòng, Tạp chí Khoa học xã hội, số 5 – 2006; “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục và đào tạo” do PGS,TS Phạm Ngọc Anh và TS Nguyễn
Thị Kim Dung đồng chủ biên. Nxb Lao động xã hội, 2011; Bài“Kiên trì
thực hiện triết lý giáo dục Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh” (2013)
của tác giả Vũ Hằng, Tạp chí Cộng sản điện tử (tapchicongsan.org.vn, 1911-2013); “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vận dụng vào đào tạo
Đại học hiện nay” của Hoàng Anh, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà

Nội, 2013; Bài viết: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong vấn đề “học đi

6


đôi với hành” trong dạy và học” của Nguyễn Đăng Bình đăng trên Website
Quản trị ngày 22/10/2015.
1.3. Những công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng, giải
pháp nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng học đi đôi với hành của Hồ
Chí Minh ở một số trường Đại học Việt Nam hiện nay
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu
về thực trạng, giải pháp phát triển giáo dục Việt Nam, trong đó có thực
trạng và giải pháp vận dụng tư tưởng học đi đôi với hành của Hồ Chí Minh
vào giáo dục: “Đảng Cộng sản Việt Nam, những tìm tòi và đổi mới trên con
đường lên chủ nghĩa xã hội (1986-2006)” của TS Doãn Hùng, TS Nguyễn
Ngọc Hà, TS Đoàn Minh Tuấn, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2007; "Một
số vấn đề đổi mới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo" của Trần Hồng Quân,
Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1995; "Giáo dục đại học chất lượng và đánh giá",
Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm đảm bảo chất lượng đào tạo và nghiên
cứu phát triển giáo dục, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002; "Từ chiến
lược phát triển giáo dục, đến chính sách phát triển nguồn nhân lực (Tuyển
tập các công trình nghiên cứu và bài báo khoa học của nhiều tác giả, Viện
Nghiên cứu phát triển giáo dục, Nxb Giáo dục Hà Nội, 2002); "Phát triển
nguồn nhân lực giáo dục đại học Việt Nam" của Đỗ Minh Cương, Nguyễn
Thị Doan, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2001…
Nhìn chung, các tác giả đã trình bày những nội dung cơ bản về tư
tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh, đại đa số có đề cập tới tư tưởng học đi
đôi với hành. Ở các góc độ khác nhau đó các tác giả đã chỉ ra tầm quan
trọng trong công tác giáo dục – đào tạo phải gắn quá trình học tập lý thuyết
với thực hành, lý luận với thực tiễn, nhà trường gắn với xã hội, quá trình

học tập gắn với lao động sản xuất. Đây cũng chính là tư tưởng chỉ đạo cơ
bản trong các Nghị quyết về đổi mới giáo dục trong những năm gần đây
nhằm chỉ đạo hoạt động giáo dục – đào tạo luôn đáp ứng tốt nhất nhu cầu
của xã hội trong xu thế phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên,
chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu về "Tư tưởng học đi đôi với

7


hành của Hồ Chi Minh và sự vận dụng tư tưởng này ở một số trường đại
học Việt Nam hiện nay".
1.4. Đánh giá chung tình hình nghiên cứu đề tài luận án
a. Về kết quả đạt được:
- Về lý luận: các nghiên cứu được thực hiện đã làm sáng tỏ vị trí,
vai trò của tư tưởng giáo dục nói chung, tư tưởng học đi đôi với hành của
Hồ Chí Minh trong sự phát triển xã hội.
- Về thực tiễn: Nhiều công trình nghiên cứu đã đánh giá một cách
toàn diện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước dựa trên cơ sở
tư tưởng học đi đôi với hành nhằm phát triển giáo dục – đào tạo nước ta.
b. Về những hướng cần tiếp tục nghiên cứu
- Bên cạnh những giá trị to lớn về mặt khoa học mà các công trình
nghiên cứu nêu trên đã đạt được, song do giới hạn về thời gian hoặc phạm
vi nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu nên những công trình đã có chưa trình
bày một cách hệ thống thực trạng việc vận dụng tư tưởng học đi đôi với
hành của Hồ Chí Minh trong điều kiện giáo dục hiện nay của nước ta.
- Chưa có công trình nào nghiên cứu về thực trạng vận dụng tư
tưởng học đi đôi với hành của Hồ Chí Minh ở một số trường đại học khối
kỹ thuật tại Hà Nội.
Chương 2
TƯ TƯỞNG HỌC ĐI ĐÔI VỚI HÀNH CỦA HỒ CHÍ MINH

2.1. Cở sở hình thành tư tưởng học đi đôi với hành của Hồ Chí
Minh
Thứ nhất, truyền thống hiếu học của dân tộc
Tư tưởng học đi đôi với hành của Hồ Chí minh bắt nguồn từ việc
tiếp thu, lựa chọn, bổ sung và phát huy các giá trị truyền thống trong giáo
dục với điều kiện mới. Nó biểu hiện ở chính cuộc đời, tư tưởng và trong
hoạt động cách mạng của Người, một biểu tượng cao đẹp nhất của tâm hồn,
tính cách, của nhà văn hóa, giáo dục Việt Nam.
Thứ hai, vai trò nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh

8


Nhõn t ch quan H Chớ Minh gi mt vai trũ quan trng trong
vic hỡnh thnh t tng v hc i ụi vi hnh, Ngi ó để lại cho
chúng ta một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về giáo dục
- đào tạo bao gồm: vai trò, vị trí của giáo dục; mục đích của giáo
dục; nhiệm vụ của giáo dục; nội dung và ph-ơng pháp giáo dục. Di sản
đồ sộ có thể đ-ợc coi là triết lý Hồ Chí Minh về giáo dục, c bit l
t tng hc i ụi vi hnh.
Th ba, giỏ tr vn húa phng ụng, phng Tõy
Xut thõn t mt gia ỡnh nh Nho, H Chớ Minh chu nh hng
sõu m ca nn giỏo dc Nho hc, nhng t tng ca Khng T, Mc
T, Mnh T ó l nhng viờn gch u tiờn trong nh hng t tng hc
i ụi vi hnh ca Ngi. Mc T luụn coi trng s kt hp gia hc v
hnh, hnh cn hn hc, ụng núi k s tuy cú hc, m hnh l gc vy.
H Chớ Minh ó tip thu lũng nhõn ỏi ca Thiờn chỳa giỏo, k tha
nhng t tng dõn ch, t do ca cỏc nh trit hc khai sỏng Phỏp. Ngi
nhn thy giỏ tr ca t tng t do, bỡnh ng trong Tuyờn ngụn nhõn
quyn v dõn quyn ca cỏch mng Phỏp nm 1789, t tng v quyn

sng, quyn t do v quyn mu cu hnh phỳc trong Tuyờn ngụn c lp
ca M nm 1776. H Chớ Minh am hiu vn húa u M, vn húa Nga xụ
vit. Nn vn húa u M cú nh hng ln n t tng giỏo dc ca
Ngi.
Th t, quan im ca ch ngha Mỏc - Lờnin v mi quan h gia
nhn thc v thc tin
Trong sut quỏ trỡnh ra i tỡm ng cu nc H Chớ Minh khụng
ngng hc tp trang b vn tri thc cho mỡnh. Vi ch ngha Mỏc
Lờnin, Ngi ó tỡm thy con ng cu nc v gii phúng dõn tc, Ngi
mt mỡnh trong bung m tụi núi to lờn nh ang núi trc qun chỳng
ụng o: Hi ng bo b a y au kh! õy l cỏi cn thit cho chỳng
ta, õy l con ng gii phúng chỳng ta3. H Chớ Minh ó tip cn ch
3

H Chớ Minh (2011), Ton tp, Tp 12, Nxb Chớnh tr quc gia, H Ni,tr.56.

9


nghĩa Mác – Lênin, một học thuyết khoa học, cách mạng. Những quan điểm
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa nhận thức và thực
tiễn, học gắn với hành là những cơ sở lý luận quan trọng hình thành tư
tưởng học đi đôi với hành Hồ Chí Minh.
Thứ năm, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giáo dục
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giáo dục là một nội dung
quan trọng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Trong “những chỉ thị cho các đại
biểu của hội đồng trung ương lâm thời về một số vấn đề” năm 1866, C.Mác
đã khẳng định: “Dù sao thì những người công nhân tiên tiến nhất cũng hoàn
toàn nhận thức được rằng tương lai của giai cấp họ, và do đó, của cả loài
người, hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn

lên”4. Với luận điểm này C.Mác đã khẳng định để có được một tương lai tốt
đẹp phụ thuộc hoàn toàn vào trình độ văn hóa của những thế hệ trẻ. Trong
tác phẩm Nhiệm vụ của Đoàn thanh niên, V.I.Lênin đã phân tích khái quát
về mục tiêu, nội dung, phương châm và phương pháp của nền giáo dục mới;
đồng thời, nghiêm khắc chỉ ra, phê phán những nguy hại và biểu hiện sai
lầm cần tránh của việc triển khai công tác giáo dục mới, như: học vẹt, học
một cách hời hợt không nắm vững thực chất, học không gắn với hành, lý
luận xa rời thực tiễn… Bên cạnh việc nhấn mạnh việc tự học và tự nghiên
cứu, học gắn với hành.
Với những tư tưởng cơ bản về lý luận gắn với thực tiễn, học gắn
với hành của Chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã vận dụng vào công
tác chỉ đạo thực tiễn hoạt động giáo dục, đem lại những thành quả to lớn
trong công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
2.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về học đi đôi với hành
Tư tưởng học đi đôi với hành của Hồ Chí Minh được thể hiện trong
lời nói và việc làm khi Người bàn đến giáo dục và tổ chức xây dựng nền
giáo dục mới của nước nhà. Dưới đây luận án phân tích tư tưởng học đi đôi
4

C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, Tập 16, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.262

10


với hành của Hồ Chí Minh thể hiện qua quan điểm của Người về mục đích
của giáo dục, nhiệm vụ của giáo dục, nội dung giáo dục, nguyên tắc giáo
dục, phương pháp giáo dục
2.2.1. Quan điểm Hồ Chí Minh về sự cần thiết gắn học đi đôi
với hành, lý luận gắn với thực tiễn

Học đi đôi với hành là phương pháp thể hiện bản chất của nền
giáo dục nước ta. Phương pháp này thể hiện sự thấm nhuần sâu sắc
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong môi trường giáo dục.
Nó vừa mang tính khoa học vừa có giá trị thực tiễn.
2.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung của nguyên tắc
học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, có nhiều nội dung nhắc tới tư
tưởng “học đi đôi với hành”. Theo Người: “học” là để sửa chữa tư tưởng,
để tu dưỡng đạo đức cách mạng, học để tin tưởng. Vì vậy, việc học của
mọi người gắn với những động cơ nhất định. Chính động cơ học tập quyết
định phương hướng, thái độ, nội dung, phương pháp học tập. Để giúp cho
thế hệ trẻ có động cơ học tập; bằng kinh nghiệm của bản thân mình,
Người đã vạch ra ý nghĩa cách mạng của việc học tập.
Tính tích cực của việc học không chỉ để hiểu biết, trang bị cho
mình kiến thức, kỹ năng mà học còn là quyền lợi, là trách nhiệm của mỗi
người dân, Bác viết: “Học” trước hết là quyền lợi và bổn phận của mỗi
người dân Việt Nam. Người dạy rằng: “Muốn giữ vững nền độc lập, Muốn
làm cho dân mạnh nước giàu, Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi
của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào
công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc
ngữ”5.
“Hành” theo Người là sự vận dụng những điều đã học vào giải
quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Cách giải quyết vấn đề có thể

5

Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.40.

11



hoàn toàn có tính lý thuyết, cũng có thể là sự kết hợp lao động trí óc với
lao động chân tay, cũng có thể là hoạt động sáng tạo, hoạt động chân tay,
hoạt động xã hội, hoạt động sáng tác nghệ thuật.
Theo Hồ Chí Minh: “học” và “hành” có mối quan hệ biện chứng
với nhau: trong nội dung “học” có nội dung “hành”; và ngược lại, trong
nội dung “hành” có nội dung “học”. Do vậy, khi gắn “học đi đôi với
hành”, người học cần phải có thái độ và phương pháp học tập đúng. Đó là:
- Khiêm tốn, thật thà học tập; kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn là kẻ thù
số một của học tập.
- Phải tự nguyện, tự giác xem công tác học tập là nhiệm vụ, phải
hoàn thành cho được, do đó mà tích cực, tự giác hoàn thành kế hoạch học
tập, nêu cao tinh thần chịu khó, cố gắng, không lùi bước bất kỳ khó khăn
nào trong học tập.
- Phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng. Phải
có tinh thần phê phán, không tin một cách mù quáng.
- Phải bảo vệ chân lý, phải có nguyên tắc, không được ba phải,
điều hòa.
- Phải đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau học tập, mạnh dạn phê bình, thật
thà tự phê bình.
- Lấy tự học làm cốt. Có thảo luận và chỉ đạo giúp vào.
- Phải học tập thường xuyên, học tập liên tục, học tập suốt đời.
2.2.3. Quan điểm Hồ Chí Minh về phương pháp thực hiện học
đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn
Trong toàn bộ di sản về giáo dục của mình Hồ Chí Minh luôn
nhấn mạnh tới phương pháp giáo dục nói chung trong đó Người đặc biệt
đề cao phương pháp thực hiện học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực
tiễn. Để làm được điều đó phải:
- Xác định rõ mục đích của việc học tập
- Tự giác trong học tập và học mọi lúc mọi nơi

- Phải đào sâu suy nghĩ

12


- Kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong giáo
dục
- Phát huy vai trò của người thầy trong giáo dục
Tóm lại, Hồ Chí Minh tuy không nói nhiều về việc học đi đôi với
hành, nhưng tư tưởng của Hồ Chí Minh về học đi đôi với hành có nội dung
sâu sắc. Đó là sự cụ thể hóa quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Theo tư tưởng của Hồ Chí
Minh về học đi đôi với hành, học là để hành, học để phục vụ thực tiễn, cải
tạo thực tiễn, để phát triển kinh tế - xã hội; học không phải để khoe chữ mà
để làm người, để phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân; thực tiễn xã hội cần
gì thì học cái đó; thực tiễn xã hội cần đến đâu thì học đến đó; học đến đâu
thì hành đến đó; vừa học vừa hành; học không phải chỉ trên lớp mà chủ yếu
là học trong quá trình hoạt động thực tiễn; không chỉ học ở thầy giáo mà
còn học ở nhân dân; phải coi nhân dân là người thầy lớn, coi thực tiễn xã
hội là trường đại học lớn; học từ kinh nghiệm hàng ngày của nhân dân; phải
căn cứ vào năng lực và kết quả hành động để đánh giá kết quả học tập chứ
không phải chỉ căn cứ vào việc có thuộc lòng các câu chữ hay không; trước
khi hành động thì phải học, phải có hiểu biết, phải có lý luận. Chính Hồ Chí
Minh là một tấm gương mẫu mực về học đi đôi với hành. Bởi vì, Người đã
học chủ yếu trong quá trình hoạt động thực tiễn, học từ nhân dân; những
kiến thức đồ sộ của Người là kết quả của quá trình tự học trong thực tiễn.
Tư tưởng và tấm gương của Hồ Chí Minh về học đi đôi với hành có giá trị
to lớn đối với mỗi người cũng như đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo
của nước ta hiện nay.
Chương 3

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỌC ĐI ĐÔI VỚI HÀNH CỦA
HỒ CHÍ MINH Ở MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN
NAY, THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. Thực trạng vận dụng tư tưởng học đi đôi với hành của Hồ
Chí Minh ở một số trường đại học Việt Nam hiện nay

13


3.1.1 Đặc điểm của sinh viên một số trường đại học Việt Nam
hiện nay
Sinh viên là một bộ phận thanh niên đã được tuyển chọn qua kỳ thi
quốc gia vào đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng, là tầng lớp thanh
niên đang trưởng thành, chuẩn bị cho mình những hành trang nghề nghiệp
cần thiết, chín muồi về nhân cách và đạo đức. Tuy ngành học và học vấn có
thể khác nhau, nhưng họ là bộ phận dân cư còn rất trẻ, đại đa số từ 18 đến
23 tuổi, được nhà trường, xã hội giáo dục, đào tạo để trở thành nguồn lao động
chất lượng cao cho quá trình thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế.
Riêng sinh viên một số trường thuộc khối kỹ thuật mà chúng tôi
nghiên cứu, ngoài những đặc điểm chung còn có những đặc điểm mang tính
đặc thù như:
Thứ nhất: Chiếm tỷ lệ cao đi học đại học từ các vùng nông thôn.
Thứ hai: Sinh viên thường yếu về kỹ năng giao tiếp và kỹ năng
mềm.
Thứ ba: Sinh viên học các ngành kỹ thuật thường khô khan.
Thứ tư: Sở trường là các hoạt động thể thao (bóng đá, bóng
chuyền….)
Thứ năm: Kỹ năng về máy tính và công nghệ thông tin tốt.
Thứ sáu: Dễ thích nghi với môi trường công việc.

Tất cả tính đặc thù này đã và đang tạo nên những yếu tố cốt lõi
trong việc vận dụng tư tưởng học đi đôi với hành trong giảng dạy, học tập ở
một số trường đại học khối kỹ thuật hiện nay.
3.1.2. Thành tựu và nguyên nhân
3.1.2.1. Thành tựu
Thứ nhất, việc vận dụng tư tưởng học đi đôi với hành của Hồ Chí
Minh ở một số trường đại học trong những năm qua đã xây dựng được đội
ngũ cán bộ quản lý năng động, sáng tạo, vừa “hồng” vừa “chuyên” bước
đầu đã đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước, tích cực hội nhập quốc tế.

14


Thứ hai, việc vận dụng tư tưởng học đi đôi với hành của Hồ Chí
Minh bước đầu đã phát huy được vai trò của người thầy trong phát huy trí
tuệ, nhân cách, đạo đức nghề nghiệp của lực lượng lao động, đáp ứng yêu
cầu phát triển đất nước.
Thứ ba, việc vận dụng tư tưởng học đi đôi với hành ở một số
trường đại khối kỹ thuật bước đầu có được phương pháp học tập tích cực,
làm việc khoa học và tính thích ứng với môi trường làm việc với lực
lượng lao động trẻ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
3.1.2.2. Nguyên nhân của thành tựu
Đảng, Nhà nước và xã hội quan tâm đến giáo dục - đào tạo, lấy tư
tưởng học đi đôi với hành làm cơ sở nhằm phát triển lực lượng lao động
đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Luôn kiên trì và thực hiện phương châm giáo dục của Đảng: “Học
đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn
với xã hội”. Coi đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ quá trình hoạt động,
đồng thời vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt trong điều kiện của từng

trường ở từng giai đoạn cụ thể.
Các trường đã thực hiện có hiệu quả nghiên cứu khoa học và phục
vụ sản xuất. Coi đây không những là trách nhiệm của từng trường đối với
xã hội mà còn là nhu cầu tự thân để thúc đẩy sự phát triển.
Thực hiện dân chủ trong nhà trường, quy trình hóa các hoạt động
và công khai hóa các kế hoạch được coi là những nguyên tắc xuyên suốt
trong mọi hoạt động.
Đoàn kết thống nhất trong bản thân từng trường là yếu tố hết sức
được coi trọng trên cơ sở của nguyên tắc đảm bảo vai trò hạt nhân lãnh
đạo của Đảng ủy, quản lý điều hành thống nhất của ban giám hiệu và phát
huy đầy đủ năng lực của mọi thành viên trong nhà trường, các tổ chức
công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội sinh viên
Điều kiện kinh tế - xã hội đòi hỏi và tạo điều kiện thuận lợi cho
các trường trong việc thực hiện và vận dụng có hiệu quả tư tưởng học đi

15


đôi với hành, thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực góp phần thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3.1.3. Hạn chế và nguyên nhân
3.1.3.1. Hạn chế
Thứ nhất, việc nhận thức về tầm quan trọng của việc vận dụng tư
tưởng học đi đôi với hành, học tập gắn với lao động sản xuất, nhà trường
gắn với xã hội ở các cấp quản lý của một số trường đại học khối kỹ thuật
vẫn còn bất cập, hạn chế, chưa thực sự đúng mức.
Thứ hai, Việc trang bị và bồi dưỡng tri thức, trình độ chuyên môn,
trình độ tư duy, phương pháp làm việc cho người học của đội ngũ giảng
viên ở các trường đại học khối kỹ thuật nói riêng còn nhiều hạn chế.
Thứ ba, việc trang bị cho người học phương pháp làm việc khoa

học và thích ứng với môi trường làm việc trong nước và quốc tế chưa đáp
ứng được nhu cầu đòi hỏi của công việc nhất là kỹ năng và tác phong làm
việc.
3.1.3.2. Nguyên nhân của hạn chế
- Nhận thức của các cấp quản lý về vai trò của tư tưởng học đi đôi
với hành, lý luận gắn với thực tiễn, nhà trường gắn với gia đình và xã hội
còn nhiều hạn chế, bất cập.
- Có nhiều trường chưa thực sự quan tâm đầy đủ đến đổi mới nội
dung, chương trình, phương pháp đào tạo nhằm gắn học đi đôi với hành
- Trước sự phát triển của nền kinh tế xã hội, việc vận dụng tư
tưởng học đi đôi với hành của các trường còn hạn chế, dẫn tới không đáp
ứng tốt yêu cầu đòi hỏi của xã hội, nhiều trường còn lúng túng trong xác
định chiến lược và mô hình; tư duy bao cấp, chắp vá, ngắn hạn, tình
huống, thiếu tầm chiến lược cơ bản và khoa học, đào tạo những gì mình
có mà chưa đào tạo những gì xã hội cần.
- Phát triển nội dung giáo dục học đi đôi với hành có biểu hiện
lệch lạc, tùy tiện, lúng túng.
- Mục tiêu, mô hình giáo dục học đi đôi với hành còn thiếu những
căn cứ khoa học và cơ sở thực tiễn chắc chắn.

16


- Cơ chế, chính sách và phương thức quản lý còn nhiều bất cập,
hạn chế, chậm được khắc phục.
- Quản lý việc học và hành nhằm phát triển nguồn nhân lực ở các
trường đại học còn lỏng lẻo, có những kẽ hở nảy sinh các tiêu cực, đặc
biệt là ở các lĩnh vực, những việc nhạy cảm trong thi cử, kiểm tra học
phần, học trình, thi tốt nghiệp.
- Cơ chế, chính sách sử dụng, đãi ngộ chưa tương xứng, còn nhiều

hạn chế, bất cập. Thiếu chính sách hiệu quả thu hút, trọng dụng nhân tài,
chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới.
- Việc quản lý hoạt động giảng dạy và học tập ở nhiều trường đại
học vẫn nặng về hành chính, quy chế và hình thức mà chưa nhấn mạnh
vào chất lượng, hiệu quả thực tế, chưa mang tính chất nghiên cứu và
hướng vào nhu cầu của người học hay nhu cầu xã hội như ở các nước phát
triển.
- Cơ sở vật chất, điều kiện học tập, thực tập, thực hành cho người
học còn thiếu và yếu.
- Nhiều doanh nghiệp còn đứng ngoài quá trình đào tạo của các
Nhà trường.
- Ngoài ra những tác động mạnh mẽ của tình hình kinh tế - xã hội
đất nước, nhất là mặt trái của kinh tế thị trường cũng là một trong những
nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trên.
3.2. Một số vấn đề đặt ra
- Mâu thuẫn giữa yêu cầu phải có đội ngũ làm công tác giáo dục đào tạo theo tư tưởng học đi đôi với hành nhằm phát triển lực lượng lao
động đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa với những hạn chế
của đội ngũ này trong một số trường đại học khối kỹ thuật ở Việt Nam
hiện nay.
- Mâu thuẫn giữa yêu cầu phải có môi trường giáo dục - đào tạo
đảm bảo gắn học đi đôi với hành đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của công cuộc
phát triển xã hội với sự lạc hậu của chính môi trường giáo dục - đào tạo ở
một số trường đại học khối kỹ thuật ở Việt Nam hiện nay.

17


- Mâu thuẫn giữa yêu cầu cao của việc vận dụng tư tưởng học đi đôi
với hành của Hồ Chí Minh trong công tác giáo dục - đào tạo trong nền kinh tế
thị trường với tính ổn định của công tác giáo dục - đào tạo ở một số trường đại

học khối kỹ thuật ở Việt Nam hiện nay.
- Mâu thuẫn giữa yêu cầu phải có nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu phát triển xã hội với sự hạn chế của cơ chế, chính sách, cho giáo dục đào tạo chưa thực sự gắn học đi đôi với hành ở một số trường đại học khối
kỹ thuật ở Việt Nam hiện nay.
- Mâu thuẫn giữa yêu cầu cao về nguồn lao động của các doanh
nghiệp với chất lượng chưa cao của sinh viên tốt nghiệp đại học một số
trường đại học khối kỹ thuật ở Việt Nam hiện nay.
- Mẫu thuẫn giữa yêu cầu cần trang bị đầy đủ cơ sở vật chất phục
vụ công tác giáo dục đào tạo theo tư tưởng học đi đôi với hành với những
hạn chế của cơ sở vật chất ảnh hưởng tới chất lượng thực hành, thực tập
của sinh viên.
CHƯƠNG 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỌC ĐI ĐÔI VỚI HÀNH CỦA
HỒ CHÍ MINH Ở MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC VIỆT NAM
4.1. Phương hướng
4.1.1. Vận dụng tư tưởng học đi đôi với hành của Hồ Chí Minh
phải dựa trên quan điểm coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu
Đây là phương hướng cơ bản và đồng thời là quan điểm lớn của Đảng
cần phải được nhận thức đầy đủ, đúng đắn trong phát huy vai trò của giáo
dục - đào tạo không chỉ ở một số trường đại học luận án tìm hiểu mà cả hệ
thống giáo dục đại học nước ta.
4.1.2. Vận dụng tư tưởng học đi đôi với hành của Hồ Chí Minh
phải gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
Giáo dục - đào tạo hiện nay phải xác định rõ phương hướng gắn với
thực tiễn đời sống kinh tế xã hội, bởi thực tiễn mới là tiêu chuẩn để kiểm tra
chất lượng giáo dục - đào tạo của các trường, sự thừa nhận của xã hội là yếu

18



tố đảm bảo sức sống của công tác giáo dục - đào tạo của một số trường đại
học khối kỹ thuật hiện nay. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn
2011 - 2020 quy định mục tiêu, phương hướng và yêu cầu giáo dục - đào
tạo ở các trường đại học; đồng thời, giáo dục - đào tạo phải dựa trên cơ sở
những định hướng, quan điểm, chủ trương và yêu cầu của Chiến lược phát
triển nguồn nhân lực giai đoạn 2011 - 2020 mà Đảng ta xác định; và phải
phục vụ thắng lợi chiến lược ấy.
4.1.3. Vận dụng tư tưởng học đi đôi với hành của Hồ Chí Mình
phải nhằm đào tạo ra những công dân có trách nhiệm
Trong một thời gian dài, do nhiều nguyên nhân khác nhau việc vận
dụng tư tưởng học đi đôi với hành trong các nhà trường chưa thực sự được
chú trọng dẫn tới xa rời thực tiễn trong công tác giáo dục, đào tạo. Thời
gian gần đây, giáo dục đại học ở nước ta có sự thay đổi, như việc xác định
quan niệm, mục đích của giáo dục đại học là đào tạo nhân tài. Tuy nhiên,
các trường đại học ở Việt Nam chủ yếu tập trung dạy những gì mà nhà
trường có, chưa thực sự dạy những gì xã hội cần nên mới chỉ trang bị cho
người học kiến thức cơ bản, trang bị khả năng phân tích độc lập, dám suy
nghĩ và biết suy nghĩ (suy nghĩ có phương pháp - tư duy khoa học). Như
vậy, rõ ràng là ngay cả khi chúng ta đổi mới mục tiêu, phương hướng giáo
dục đại học thì mục tiêu, phương hướng này cũng không phù hợp với khả
năng, cũng như chất lượng thực tế của nền giáo dục đại học trong nước,
điều này được chứng minh bằng tính kém hiệu quả trong giáo dục đào tạo,
tỷ lệ thất nghiệp ngày càng tăng, sức cạnh tranh quốc gia ngày càng giảm.
Trong khi đó, rất nhiều quốc gia trên thế giới và ngay cả các quốc gia có
nền giáo dục đại học tiên tiến khi đặt ra mục tiêu, phương hướng giáo dục,
họ đều nêu lên những mục đích rất thực tế, phù hợp với khả năng của từng
trường trên cơ sở thực tiễn của xã hội.
4.2. Giải pháp
4.2.1. Đẩy mạnh vai trò của xã hội hóa giáo dục

Thứ nhất, thực hiện nghiêm chỉnh chính sách và pháp luật hiện
hành. Trong quá trình xã hội hóa giáo dục, Nhà nước ta đã hình thành hệ

19


thống chính sách và pháp luật giáo dục ngày càng hoàn thiện theo cơ chế thị
trường.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật về giáo dục.
Thứ ba, tinh gọn bộ máy quản lý của nhà nước về giáo dục.
Thứ tư, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong việc cung cấp
dịch vụ về giáo dục.
Thứ năm, mở rộng cửa hơn nữa cho đầu tư nước ngoài trong lĩnh
vực giáo dục.
Thứ sáu, chống chủ nghĩa bằng cấp trong giáo dục.
4.2.2. Đẩy mạnh đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp
giáo dục - đào tạo gắn học đi đôi với hành.
Một là, đổi mới nội dung, chương trình đào tạo theo hướng thiết thực,
hiện đại, hội nhập quốc tế.
Hai là, thực hiện chương trình đào tạo đa dạng, thống nhất, đảm bảo
tính liên thông giữa các trình độ đào tạo.
Ba là, tiếp tục đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng hiện đại,
tích cực hóa người học.
Bốn là, đa dạng hóa hình thức đào tạo, đẩy mạnh khuyến học.
4.2.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý, chú trọng đổi mới
phương pháp dạy học của giảng viên
Tại Đại hội XI của Đảng xác định: “Đổi mới mạnh mẽ nội dung,
chương trình, phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp học, bậc học”6. Đại
hội XII của Đảng tiếp tục khẳng đinh “Đổi mới khung chương trình, quan
tâm hơn đến yêu cầu, tăng cường kỹ năng sống, giảm tải nội dung”, “Nâng

cao kiến thức chuyên sâu và tác phong công nghiệp trong đào tạo nghề;
phát huy tư duy sáng tạo, năng lực tự nghiên cứu ở bậc đại học. Đổi mới
mục tiêu, nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết quả giáo dục đào

6

Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb

Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.131.

20


tạo”7. Đối với một số trường đại học thuộc khối kỹ thuật cần làm tốt một số
biện pháp sau:
Một là, rà soát đội ngũ làm công tác đào tạo, quản lý trên cơ sở cần
được bồi dưỡng những kỹ năng quản trị cần thiết phục vụ công tác giáo dục
– đào tạo gắn học đi đôi với hành trong tình hình mới.
Hai là, thực hiện tốt chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ giảng viên chuyên môn và thực hành.
Ba là, mở rộng số lượng, nâng cao chất lượng đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ.
4.2.4. Nâng cao tính tích cực tự giác, tự học, tự nghiên cứu của
giảng viên và sinh viên; đổi mới công tác quản lý, đánh giá kết quả học
tập, thực hành của quản lý và giảng viên
Một là, nâng cao tính tích cực tự giác, tự học, tự nghiên cứu của
giảng viên và sinh viên các trường đại học.
Hai là, đổi mới công tác quản lý, đánh giá kết quả học tập, thực hành
trong giáo dục - đào tạo theo tư tưởng học đi đôi với hành của Hồ Chí Minh
tại trường và thực tập ở các doanh nghiệp hiện nay.
Ba là, Đổi mới công tác đánh giá kết quả học tập, thực hành trong

giáo dục - đào tạo gắn học đi đôi với hành.
4.2.5. Nâng cao nhận thức của toàn xã hội; đổi mới chính sách
trọng dụng nhân tài; đầu tư có trọng điểm cơ sở giáo dục - đào tạo tiên
tiến; tăng cường hợp tác quốc tế
Một là, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vai trò của giáo dục đào tạo gắn học đi đôi với hành trong việc tạo ra lực lượng lao động có tay
nghề kỹ thuật, chuyên môn cao với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và hội
nhập quốc tế.
Hai là, đổi mới chính sách trọng dụng, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài.

7

Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb

Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 296.

21


Ba là, xây dựng cơ sở giáo dục tiên tiến, tiêu chuẩn quốc tế, phù hợp
giữa nền giáo dục - đào tạo của Việt Nam với nền giáo dục - đào tạo các
nước trong khu vực và thế giới.
Bốn là, phát triển cả hệ thống giáo dục - đào tạo đáp ứng trực tiếp cho
việc cung ứng nguồn nhân lực cho xã hội.
Năm là, tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục - đào tạo nguồn nhân
lực.
4.2.6. Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức,
lối sống và giáo dục thể chất cho sinh viên.
Một là, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng giáo dục các môn học Lý
luận chính trị, tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên.
Hai là, kế thừa có chọn lọc tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại để

giáo dục các giá trị văn hóa, đạo đức cho sinh viên.
Ba là, đẩy mạnh các hoạt động phong trào; giao lưu sinh viên giữa
các trường trong nước với quốc tế nhằm nâng cao ý thức chính trị, tư tưởng,
đạo đức, lối sống cho sinh viên Việt Nam.
Bốn là, xây dựng cơ sở hạ tầng, bảo đảm cho nâng cao chất lượng
giáo dục thể chất cho sinh viên trong các trường đại học ở Việt Nam hiện
nay.
KẾT LUẬN
Tư tưởng học đi đôi với hành của Hồ Chí Minh đề cập tới các vấn
đề rộng lớn nhưng không trừu tượng, chung chung mà luôn xuất phát từ
thực tiễn Việt Nam; luôn gắn với yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của lịch sử, gắn
liền với hoàn cảnh, trình độ, tâm lý của đối tượng giáo dục. Tính thực tiễn
ấy đã làm cho mục đích, nội dung và phương pháp giáo dục hết sức thiết
thực và có giá trị sâu sắc. Đó là những tư tưởng xây dựng nền giáo dục vì
con người, cho con người, lấy con người làm trung tâm và cao hơn hết đó là
một nền giáo dục mới nhằm giải phóng con người, giải phóng dân tộc khỏi
áp bức, bóc lột, hướng con người tới chân trời tự do. Tính nhân văn, khát
vọng sâu xa và lý tưởng cao đẹp ấy luôn thể hiện một cách nhất quán trong
nhận thức và hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự cần thiết vận dụng

22


tư tưởng học đi đôi với hành của Hồ Chí Minh vào thực tiễn việc chỉ đạo
hoạt động giáo dục - đào tạo ở một số trường đại học Việt Nam hiện nay sẽ
giúp cho các quá trình trong giáo dục - đào tạo đúng định hướng của Đảng
và Nhà nước, đảm bảo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội
nhập quốc tế, sẵn sàng tham gia vào cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.
Các chủ trương đường lối của Đảng được đưa ra trong các kỳ Đại hội
cơ bản đã đáp ứng yêu cầu của thời đại, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, luôn

gắn quá trình giáo dục đào tạo với thực tiễn đất nước. Tuy vậy, quá trình
thực hiện còn nhiều bất cập, hạn chế, ảnh hưởng trực tiếp tới tính hiệu quả
trong việc đưa các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
nhà nước vào thực tiễn giáo dục - đào tạo nước ta trong suốt những năm
qua. Những hạn chế trong giáo dục đào tạo đã dẫn tới nguồn nhân lực nước ta
chưa đáp ứng một cách đầy đủ yêu cầu của sự phát triển, nói một cách khác
tốc độ phát triển của giáo dục không theo kịp tốc độ phát triển kinh tế xã hội,
so với các nước trong khu vực, khoảng cách của trình độ giáo dục đào tạo ở
nước ta còn có khoảng cách khá xã với các nước trong khu vực. Thực trạng
đó có nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan, cần chú ý đến các
nguyên nhân về chủ quan, đặc biệt là nguyên nhân nhận thức và tư duy trong
giáo dục - đào tạo. Các mâu thuẫn trong giáo dục - đào tạo ở Việt Nam hiện
nay được nảy sinh từ thực trạng và đòi hỏi từ yêu cầu mới, chúng quan hệ với
nhau, cần phải nhận thức thấu đáo và giải quyết tốt trong thực tiễn.
Vận dụng tư tưởng học đi đôi với hành của Hồ Chí Minh có vai trò
quan trọng đặc biệt, quyết định trong việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt
Nam trước yêu cầu đòi hỏi của sự phát triển, là phải bảo đảm thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn, học đi đôi với hành; phát triển, hoàn thiện nhân
cách, đạo đức nghề nghiệp của con người, hoàn thiện các kỹ năng cần thiết
đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, có khả năng khởi nghiệp, thích ứng
với môi trường trong nước và quốc tế.
Những thành tựu đạt được trong thực hiện tư tưởng học đi đôi với
hành của Người đã góp phần vào phát triển nguồn nhân lực, đồng thời thể
hiện sâu sắc sự quan tâm nỗ lực của Đảng, Nhà nước, của các cấp, các

23


×