MỤC LỤC
Trang
3
MỞ ĐẦU
Chương 1
1.1.
1.2.
Chương 2
2.1.
2.2.
Chương 3
3.1.
3.2.
CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TRANG TRẠI CHĂN NUÔI TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Những vấn đề chung về kinh tế trang trại, kinh tế
trang trại chăn nuôi và phát triển kinh tế trang trại
chăn nuôi
Quan niệm, nội dung và các yếu tố tác động đến phát
triển kinh tế trang trại chăn nuôi trên địa bàn huyện
Ba Vì, thành phố Hà Nội
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TRANG TRẠI CHĂN NUÔI Ở HUYỆN BA VÌ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN QUA
Thành tựu, hạn chế về phát triển kinh tế trang trại
chăn nuôi ở huyện Ba Vì thời gian qua
Nguyên nhân thành tựu, hạn chế và những vấn đề
đặt ra cần giải quyết
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI CHĂN
NUÔI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BA VÌ, THÀNH
PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN TỚI
Quan điểm chỉ đạo phát triển kinh tế trang trại chăn
nuôi trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
thời gian tới
Giải pháp đẩy mạnh phát triển kinh tế trang trại chăn
nuôi trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
giai thời gian tới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
12
12
19
33
33
41
50
50
56
75
77
81
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển kinh tế trang trại là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà
nước ta nhằm đưa nền nông nghiệp nước ta vốn lạc hậu, năng suất thấp và
mang nặng tính tự cung, tự cấp lên sản xuất lớn theo hướng kinh tế hàng hóa.
Trong kinh tế trang trại ở nước ta hiện nay, kinh tế trang trại chăn nuôi
có vị trí, vai trò rất quan trọng đối với thực hiện chủ trương đưa chăn nuôi trở
thành ngành sản xuất chính trong nông nghiệp. Nhận thức sâu sắc vấn đề này,
nhiều địa phương trong cả nước nói chung, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
nói riêng, đã tập trung khai thác tiềm năng, thế mạnh của mình để phát triển
kinh tế trang trại chăn nuôi.
Ba Vì là huyện miền núi bán sơn địa nằm ở phía Tây thành phố Hà Nội,
là một trong những địa phương có nhiều tiềm năng, thế mạnh về phát triển
chăn nuôi. Trong những năm qua kinh tế trang trại chăn nuôi ở huyện Ba Vì
có bước phát triển đáng kể, góp phần đưa ngành chăn nuôi của huyện Ba Vì
đạt được những bước tăng trưởng khá. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác
nhau, kinh tế trang trại chăn nuôi ở huyện Ba Vì chưa phát triển đúng với
tiềm năng, thế mạnh của huyện, vẫn chủ yếu là mô hình kinh tế hộ với quy
mô manh mún, nhỏ lẻ, số lượng vật nuôi phát triển chậm, chất lượng vật nuôi
còn nhiều hạn chế v.v..
Từ tình hình trên, rất cần những công trình nghiên cứu nhằm làm rõ cơ
sở lý luận, thực tiễn đẩy mạnh phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi trên địa
bàn huyện Ba Vì, đưa kinh tế trang trại chăn nuôi trở thành trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn của Huyện ? Với mong muốn góp phần trả lời câu hỏi trên,
học viên lựa chọn vấn đề: “Phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi trên địa
bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp
thạc sĩ, chuyên ngành kinh tế chính trị.
3
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề phát triển kinh tế trang trại, kinh tế trang trại chăn nuôi trên
phạm vi cả nước cũng như ở nhiều địa phương, trong đó có thành phố Hà Nội
thu hút được sự quan tâm của nhiều tổ chức, nhà khoa học. Vì vậy cho đến nay,
liên quan đến đề tài luận văn đã có nhiều công trình khoa học được công bố:
* Những công trình tiêu biểu nghiên cứu về kinh tế trang trại trên
phạm vi cả nước:
- Cuốn sách: “Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại trong
thời kỳ CNH, HĐH ở Việt Nam”, tác giả Nguyễn Đình Hương, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. Cuốn sách đã đưa ra những cơ sở lý luận
về phát triển kinh tế nông nghiệp, kinh tế trang trại, trang trại chăn nuôi;
Đồng thời phân tích, đánh giá thành tựu, hạn chế về phát triển kinh tế trang
trại trên phạm vi cả nước, những vấn đề cần đặt ra, đề xuất những định hướng
giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở nước ta trong những năm tiếp theo.
- Cuốn sách: “Làm giàu bằng kinh tế trang trại - mô hình kinh tế
trang trại trẻ”, tác giả Trần Kiên, Phúc Kỳ, Nhà xuất bản Thanh niên,
năm 2000. Cuốn sách đã luận giải quan điểm cơ sở lý luận cơ bản về
kinh tế nông nghiệp, trong đó tập trung vào kinh tế trang trại ở Việt
Nam trong sự nghiệp đổi mới; đặc biệt làm rõ con đường, cách thức,
biện pháp làm giàu bằng kinh tế trang trại. Tác giả cuốn sách đã cho
người đọc sự cuốn hút về con đường sang tỏ, mơ ước đạt được sự “làm
giàu” từ con đường làm ăn chân chính, nhất là đối với thanh niên mới
lập nghiệp.
- Cuốn sách: “Tư liệu về kinh tế trang trại”, tác giả Trần Cát (chủ
biên), Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2000. Cuốn sách tập
hợp một số bài viết của các nhà nghiên cứu và quản lý kinh tế về phát
triển kinh tế trang trại ở nước ta. Cuốn sách cho bạn đọc cách nhìn đa
4
dạng dưới nhiều góc độ về phát triển kinh tế trang trại với tổng hợp
những tư liệu phong phú của nhiều miền, nhiều lĩnh vực khác nhau.
- Cuốn sách: “Kinh tế trang trại với xóa đói, giảm nghèo”, tác giả
Ngô Đức Cát, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2004. Cuốn
sách cho bạn đọc góc nhìn về vai trò của kinh tế trạng trại với xóa đói
giảm nghèo, đặc biệt góc độ giảm nghèo bền vững ở Việt Nam nói
chung; Đặc biệt là phát huy tiềm năng lợi thế của địa phương trong việc
phát triển kinh tế trang trại. Người đọc nhìn nhận vai trò của kinh tế
trang trại với xóa đói giảm nghèo bền vững, đặc biệt trong bối cảnh cả
nước tập trung cho xây dựng nông thôn mới. Trên cơ sở khảo sát thực
trạng, qui mô kinh tế trang trại, tìm hiểu nguyên nhân, tác giả đã đi
phân tích vai trò kinh tế trang trại với xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn
Việt Nam nói chung, từng địa phươg nói riêng.
- Cuốn sách: “Kinh tế trang trại ở Việt Nam phân tích từ góc độ địa lý
kinh tế và sinh thái”, tác giả Ngô Viết Thịnh, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí
Minh, năm 2009. Cuốn sách cho bạn đọc những cơ sở lý luận về kinh tế trang
trại, vị trí địa lý, vai trò của vị trí địa lý, mối quan hệ với môi trường sinh thái,
đặcc biệt là phát triển kinh tế trang trại gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, sự
phát triển bền vững
Đồng thời, phân tích sự phát triển kinh tế trang trại trên cơ sở so sánh
với nguồn lực đất đai, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, sinh thái của Việt Nam;
phân tích thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở nước ta, trên cơ sở đó đề xuất
giải pháp thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển theo hướng bền vững.
* Những công trình tiêu biểu nghiên cứu về kinh tế trang trại trên một
số vùng, miền và địa phương
- Đề tài: “Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại tỉnh Thái
Nguyên”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, tác giả Nguyễn Thị Thắc, Trường Đại học
nông nghiệp I Hà Nội, 1999. Luận văn luận giải cơ sở lý luận về kinh tế trang
5
trại, những vấn đề đặt ra của thực tiễn mang tính đặc thù riêng biệt của Thai
Nguyên và đề xuất phương hướng, giải quyết của thực tiễn phát triển kinh tế
trang trại ở tỉnh Thái Nguyên trong thời gian tới.
- Cuốn sách: “Kinh tế trang trại ở Nam Bộ, thực trạng và giải pháp”,
Trương Thị Minh Sâm (2002), Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Cuốn sách phân
tích trên cơ sở đặc điểm chung của kinh tế trang traị ở Việt Nam và 1 số vùng
của cả nước. Từ đó, phân tích đặc điểm, đánh giá thành tựu, hạn chế của kinh
tế trang trại ở Nam Bộ, một vùng trọng điểm nông nghiệp sông nước với nhiều
đặc thù của Nam Bộ.
Cuốn sách cho tác giả một số định hướng quan trọng về kinh tế trang trại
vùng miền. Trên cơ sở đó đề xuất định hướng giải pháp đẩy mạnh phát triển
kinh tế trang trại ở Nam Bộ.
- Cuốn sách: “Kinh tế trang trại vùng đồi núi”, tác giả Trần Đức,
Nhà xuất bản thống Kê Hà Nội, năm 2005. Cuốn sách luận giải những
cơ sở quan trọng của kinh tế trang trại vùng đồi núi, trung du của Việt
Nam; đồng thời chỉ ra thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở khu vực
đồi núi, có nhiều điểm phù hợp với vùng núi Ba Vì, Hà Nội; đề xuất
những giải pháp đối với việc phát triển KTTT vùng đồi núi trong thời
gian tới.
- Đề tài: “Phát triển kinh tế trang trại và vai trò của nó đối với xây dựng
tiềm lực quốc phòng, an ninh các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta”, Luận án
tiến sĩ kinh tế, tác giả Phạm Bằng Luân, Học viện Chính trị quân sự, 2006.
Luận án luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn vai trò của phát triển kinh tế trang
trại đối với xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh trên địa bàn các tỉnh miền
núi phía Bắc nước ta. Có nhiều điểm phù hợp với vùng núi Ba Vì, Hà Nội.
- Đề tài: “Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế trang trại
tại huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, tác giả Trần Lệ
Thị Bích Hồng (2007), Đại học Thái Nguyên, 2007. Luận văn luận giải cơ sở lý
6
luận, đánh giá thực trạng và đế xuất phương hướng, giải pháp phát triển kinh tế
trang trại trên địa bàn huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.
- Đề tài: “Phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện
nay”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, tác giả Nguyễn Bá Vận, Học viện Chính trị, 2009.
Luận văn luận giải cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng và đề xuất quan điểm, giải
pháp phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn thành phố Hà Nội thời gian tới. Cuốn
sách đặc biệt có ý nghĩa với học viên trong quá trình nghiên cứu, hòa thiện luận
văn trên cơ sở cách nhìn tổng thể về phát triển kinh tế trang trại tại thành phố Hà
Nội, từ đó có cơ sở về bài học kinh nghiệm cho Ba Vì nói riêng.
- Bài báo: “Một số giải pháp nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế
trang trại tỉnh Trà Vinh”, tác giả Minh Hiệp, Tạp chí Cộng sản, số 5/2013. Bài báo
đề xuất các giải pháp kinh tế - xã hội nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế trang trại ở
tỉnh Trà Vinh.
Các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn đã làm rõ
những cơ sở lý luận, thực tiễn, quá trình hình thành và phát triển kinh tế trang
trại ở nước ta; đưa ra các khái niệm, đặc điểm kinh tế trang trại, thực trạng
phát triển kinh tế trang trại ở nước ta và phát triển kinh tế trang trại tại một số
vùng, miền, địa phương, nhất là những địa phương của các tỉnh vùng núi,
trung du phía Bắc, có nhiều điểm phù hợp với Ba Vì, Hà Nội; đề xuất giải
pháp phát triển kinh tế trang trại; nghiên cứu vai trò và tác động của kinh tế
trang trại đến kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, xóa đói, giảm nghèo, bảo
vệ môi trường bền vững v.v.. Kết quả của các công trình nghiên cứu có liên
quan đã cung cấp những cơ sở lý luận, thực tiễn quan trọng, trong đó đặc biệt
là những vấn đề chung về kinh tế trang trại, phát triển kinh tế trang trại để tác
giả có thể kế thừa trong quá trình thực hiện luận văn.
Mặc dù liên quan đến đề tài luận văn có nhiều công trình khoa học đã
công bố; kết quả của các công trình này sẽ được kế thừa trong quá trình thực
hiện luận văn. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình khoa học nghiên
7
cứu một cách hoàn chỉnh và hệ thống về “Phát triển kinh tế trang trại chăn
nuôi trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội hiện nay”. Do vậy, đề tài
luận văn không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất quan điểm, giải pháp phát
triển kinh tế trang trại chăn nuôi trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
trong giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải quan niệm chung về kinh tế trang trại, phát triển kinh tế
trang trại; phân tích quan niệm, nội dung, các yếu tố tác động đến phát triển
kinh tế trang trại chăn nuôi trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
- Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi trên địa bàn
huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội thời gian qua, xác định nguyên nhân thành
tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra cần giải quyết.
- Đề xuất các quan điểm cơ bản và những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy
mạnh phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi trên địa bàn huyện Ba Vì, thành
phố Hà Nội trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi dưới
góc độ kinh tế chính trị.
* Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu phát triển kinh tế trang trại chăn
nuôi dưới góc độ kinh tế chính trị bao gồm sự phát triển về quy mô, trình độ
và cơ cấu kinh tế trang trại chăn nuôi.
- Phạm vi về không gian: Nghiên cứu phát triển kinh tế trang trại chăn
nuôi trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
- Phạm vi về thời gian: Thời gian khảo sát từ năm 2010 đến năm 2015;
đề xuất các quan điểm, giải pháp phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi trên
địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội giai đoạn 2015-2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
8
* Phương pháp luận: Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng là phép biện chứng duy vật để phân tích, nhìn nhận
xem xét các hiện tượng, quá trình kinh tế liên quan đến phát triển kinh tế
trang trại chăn nuôi trên địa bàn huyện Ba Vì một cách khách quan, toàn diện,
lịch sự, cụ thể và phát triển.
* Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc
thù của Kinh tế chính trị Mác - Lênin như sau:
- Sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học để nghiên cứu bản chất
các quan hệ kinh tế kinh tế trang trại, trang trại chăn nuôi; xây dựng và phân
tích nội hàm các khái niệm công cụ và khái niệm trung tâm của đề tài v.v..
- Sử dụng phương pháp kết hợp kết hợp lôgíc và lịch sử, phân tích, tổng
hợp, thống kê, so sánh để đánh giá thực trạng, chỉ ra những thành tựu, hạn chế
về phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi và xác định nguyên nhân và những
vấn đề đặt ra từ thực trạng phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi ở huyện Ba
Vì thời gian qua; phân tích quan điểm và giải pháp đẩy mạnh phát triển kinh
tế trang trại chăn nuôi ở huyện Ba Vì trong thời gian tới.
- Sử dụng phương pháp chuyên gia để xin ý kiến tư vấn của các nhà
quản lý kinh tế, giảng dạy, nghiên cứu khoa học ở một số cơ quan, nhà
trường, viện nghiên cứu trên địa bàn thành phố Hà Nội về phát triển kinh tế
trang trại chăn nuôi.
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài được thực hiện thành công góp phần cung cấp cơ sở khoa học
cho Huyện ủy, UBND huyện, các cơ quan chức năng của huyện Ba Vì xây
dựng chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi trên địa bàn
huyện giai đoạn 2015 - 2020.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo
nghiên cứu khoa học, giảng dạy môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin.
9
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
đề tài có kết cấu gồm 3 chương (6 tiết).
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI CHĂN NUÔI
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
10
1.1. Những vấn đề chung về kinh tế trang trại, kinh tế trang trại
chăn nuôi và phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi
1.1.1. Trang trại, kinh tế trang trại và kinh tế trang trại chăn nuôi
* Trang trại
Quan niệm về trang trại:
Trang trại là loại hình cơ sở sản xuất nông nghiệp của các hộ gia đình
nông dân, hình thành và phát triển chủ yếu trong nền kinh tế hàng hóa khi
phương thức sản xuất tư bản thay thế phương thức sản xuất phong kiến.
Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển kinh tế trang trại, C.Mác đã
phân biệt kinh tế trang trại với kinh tế tiểu nông ở hai khía cạnh, đó là: Trong
kinh tế trang trại, người chủ trang trại bán ra thị trường toàn bộ sản phẩm làm
ra, còn trong kinh tế tiểu nông, người tiểu nông dùng đại bộ phận sản phẩm
làm ra và trao đổi sản phẩm càng ít càng tốt. Như vậy, mô hình trang trại ra
đời là kết quả tất yếu của việc phát triển nền nông nghiệp từ sản xuất tự cấp,
tự túc sang nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa.
Ở Việt Nam, mô hình sản xuất trang trại ra đời trên cơ sở phát triển kinh
tế hộ gia đình trong nền kinh tế nông nghiệp hàng hóa. Ý thức được tính tất yếu
của việc phát triển trang trại đối với toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế nói
chung và nông nghiệp nói riêng, Đảng và Nhà nước ta đã có những ưu tiên,
khuyên khích cho sự ra đời và phát triển của trang trại trong nông nghiệp nước
ta. Cùng với các chính sách đổi mới toàn diện nền kinh tế, các chính sách, quy
định và luật pháp định hướng, tạo khung pháp lý, khuyến khích trang trại hình
thành và phát triển được ban hành và ngày càng hoàn thiện.
Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (1988) và Luật đất đai (1993) ban hành
đã mở đường và là chỗ dựa vững chắc để các hộ tiểu nông chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và hình thành các trang trại không chỉ ở những vùng đã quen sản xuất
hàng hoá mà cả ở những vùng chỉ quanh quẩn sau hàng rào tự cấp, tự túc. Tiếp
theo đó là nhiều nghị quyết, văn bản pháp luật, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta được ban hành nhằm khuyến khích phát triển trang trại.
11
Các hộ gia đình, cá nhân đầu tư phát triển trang trại được Nhà nước giao
đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài theo
pháp luật để sản xuất kinh doanh. Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách
phát huy kinh tế tự chủ của hộ nông dân, phát triển trang trại đi đôi với chuyển
đổi hợp tác xã cũ, mở rộng các hình thức kinh tế hợp tác, liên kết sấn xuất kinh doanh giữa các hộ nông dân, các trang trại, các nông, lâm trường quốc
doanh, doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác để tạo động lực và sức mạnh tổng hợp cho nông nghiệp, nông thôn phát
triển. Đồng thời, nhà nước hỗ trợ về vốn, khoa học công nghệ chế hiến, tiêu thụ
sản phẩm, xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho các trang trại
phát triển bền vững.
Mặc dù mô hình trang trại trong nông nghiệp ở nước ta đã hình thành,
phát triển trên 20 năm, song hiểu về trang trại còn có những quan niệm cụ thể
khác nhau. Tuy nhiên, các quan niệm đó có sự thống nhất chung là:
Thứ nhất, mục đích sản xuất của trang trại là sản xuất nông, lâm, thuỷ
sản hàng hoá với quy mô lớn.
Thứ hai, mức độ tập trung hoá và chuyên môn hoá các điều kiện và yếu
tố sản xuất cao hơn hẳn (vượt trội) so với sản xuất của nông hộ, thể hiện ở
quy mô sản xuất như: đất đai, số lượng gia súc, gia cầm, giá trị nông, lâm,
thuỷ sản hàng hoá.
Thứ ba, chủ trang trại có kiến thức và kinh nghiệm trực tiếp điều hành
sản xuất, biết áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, tiếp nhận chuyển giao
công nghệ mới vào sản xuất; sử dụng lao động gia đình và thuê lao động bên
ngoài sản xuất hiệu quả cao, có thu nhập vượt trội so với kinh tế hộ.
Từ những vấn đề chung đó, có thể quan niệm về trang trại ở nước ta
như sau: Trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông
nghiệp, được hình thành và phát triển trên cơ sở kinh tế hộ gia đình nông dân
dưới sự điều hành chủ hộ, có mức độ tích tụ và tập trung cao hơn về đất đai,
12
vốn, lao động,... nhằm tạo ra khối lượng hàng hoá nông sản lớn hơn, hiệu
quả sản xuất cao và có thu nhập vượt trội so với kinh tế hộ.
Phân loại trang trại:
Có nhiều cách phân loại trang trại khác nhau, trong đó phổ biến là phân
loại trang trại theo lĩnh vực sản xuất. Theo cách phân loại này, các trang trại ở
nước ta bao gồm các trang trại chuyên ngành và trang trại tổng hợp.
Trang trại chuyên ngành (trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy
sản): Là trang trại có tỷ trọng giá trị sản lượng nông sản hàng hóa của ngành
chiếm trên 50% cơ cấu giá trị sản lượng hàng hóa của trang trại trong năm.
Trang trại tổng hợp: Là những trang trại mà không có ngành nào chiếm
trên 50% cơ cấu giá trị sản lượng hàng hóa thì được gọi là trang trại tổng hợp.
* Kinh tế trang trại
Quan niệm về kinh tế trang trại:
Khi mô hình sản xuất trang trại trong nông nghiệp xuất hiện thì cũng
xuất hiện phạm trù kinh tế trang trại. Kinh tế trang trại được quan niệm như
sau: Kinh tế trang trại là tổng thể các yếu tố vật chất của sản xuất và các
quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình tồn tại và phát triển của trang trại.
Như vậy, “trang trại” và “kinh tế trang trại” là những khái niệm không
đồng nhất. Trang trại là nơi kết hợp các yếu tố vật chất của sản xuất và là chủ
thể của các quan hệ kinh tế đó. Các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình
tồn tại và phát triển của trang trại bao gồm quan hệ giữa trang trại với môi
trường bên ngoài và quan hệ nội tại trong trang trại. Quan hệ giữa trang trại
với môi trường bên ngoài bao gồm hai cấp độ, môi trường vĩ vô (cơ chế,
chính sách chung của Nhà nước...) và môi trường vi mô (các đối tác, khách
hàng, bạn hàng, đối thủ cạnh tranh...).
Quan hệ nội tại bên trong trang trại cũng gồm các mối quan hệ rất đa
dạng và phức tạp, như các quan hệ về đầu tư, phân bổ nguồn lực cho các
ngành, các bộ phận trong trang trại, các quan hệ lợi ích kinh tế liên quan đến
việc phân phối kết quả làm ra, trong đó lợi ích của chủ trang trại với tư cách
13
là người chủ sở hữu tư liệu sản xuất và lợi ích của người lao động làm thuê là
rất quan trọng.
Đặc trưng của kinh tế trang trại:
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay, kinh tế trang trại có những đặc trưng chủ yếu sau:
Thứ nhất, tư liệu sản xuất mà trước hết là ruộng đất và tiền vốn được
tập trung theo yêu cầu của sản xuất hàng hoá. Sự tập trung ruộng đất và tiền
vốn tới một quy mô nhất định theo yêu cầu của sản xuất hàng hoá là điều
kiện tiên quyết cho sự hình thành và tồn tại của trang trại. Tuy nhiên, không
phải bất kỳ sự tập trung ruộng đất và tiền vốn nào cũng có thế tới hình thành
trang trại mà sự tập trung đó phải đạt tói một quy mô nhất định thì mới có
thề dẫn tới sự hình thành trang trại.
Thứ hai, sản xuất nông phẩm hàng hoá. Trong điều kiện kinh tế thị
trường, sản xuất của các trang trại là sản xuất hàng hoá. Lúc này các trang
trại sản xuất nông sản phẩm chủ yếu là để bán nhằm đem lại thu nhập và lợi
nhuận cho chủ trang trại. Sản xuất hàng hoá là đặc trưng quan trọng nhất thể
hiện bản chất của kinh tế trang trại trong điều kiện kinh tế thị trường.
Thứ ba, người chủ trang trại có năng lực, trình độ, có hiểu biết nhất định
về chuyên môn kỹ thuật, về tồ chức quản lý sản xuất kinh doanh nông nghiệp.
Thứ tư, các trang trại đều có thuê mướn lao động. Lao động làm việc
trong các trang trại chủ yếu là lao động trong gia đình và một phần lao động
thuê mướn thường xuyên hay thời vụ. Lao động chính thường là chủ trang
trại cùng với những người trong gia đình, thường có quan hệ huyết thống
gần gũi (vợ, chồng, cha mẹ, anh em,...) nên tổ chức lao động gọn nhẹ không
quy định mang tính hành chính, vì vậy quản lý điều hành linh hoạt dễ dàng
đem lại hiệu quả lao động cao.
Lao động thuê ngoài không nhiều, thường cùng ăn, cùng làm với chủ
trang trại nên dễ tạo ra sự thông cảm lẫn nhau trong công việc cũng như
14
trong hưởng thụ thành quả lao động. Có hai hình thức thuê mướn lao động
trong các trang trại, đó là thuê lao động thường xuyên và thuê lao động thời
vụ. Trong hình thức thuê lao động thường xuyên, trang trại thuê người lao
động làm việc ổn định quanh năm, còn trong hình thức thuê lao động thời
vụ, trang trại chỉ thuê người lao động làm việc theo thời vụ sản xuất.
* Kinh tế trang trại chăn nuôi
Quan niệm kinh tế trang trại chăn nuôi:
Như đã đề cập ở trên, căn cứ vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, trang
trại được phân ra nhiều loại: trang trại trồng trọt, trang trại chăn nuôi, trang
trại lâm nghiệp, trang trại thủy sản,… Tương ứng với sự phân loại trang trại,
kinh tế trang trại cũng được phân ra thành: kinh tế trang trại trồng trọt, kinh tế
trang trại chăn nuôi,…
Như vậy, kinh tế trang trại chăn nuôi là một hình thức, đồng thời là một
bộ phận của kinh tế trang trại, bao gồm tổng thể các trang trại sản xuất kinh
doanh gia súc, gia cầm.
Do vậy, từ khái niệm chung về kinh tế trang trại, có thể quan niệm kinh
tế trang trại chăn nuôi như sau: Kinh tế trang trại chăn nuôi là một hình thức
của kinh tế trang trại, bao gồm tổng thể các yếu tố sản xuất kinh doanh và
các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình hoạt động của các trang trại
sản xuất kinh doanh gia súc, gia cầm.
Tiêu chí xác định kinh tế trang trại chăn nuôi:
Căn cứ vào quy mô sản xuất , giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ
bình quân 1 năm. Theo Thông tư số: 27/2011/TT-BNNPTNT, ngày 13 tháng 4
năm 2011 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cá nhân, hộ gia đình
sản xuất kinh doanh gia súc, gia cầm đạt tiêu chuẩn kinh tế trang trại chăn
nuôi phải thỏa mãn điều kiện giá trị sản lượng hàng hóa phải đạt từ 1.000
triệu đồng/năm trở lên.
Như vậy, so với các trang trại khác (trồng trọt, nuôi trồng thủy sản, lâm
nghiệp, tổng hợp), trang trại chăn nuôi không có tiêu chí quy định diện tích
15
đất đai của trang trại mà chỉ có tiêu chí về giá trị sản lượng hàng hóa hàng
năm. Đồng thời, tiêu chí xác định kinh tế trang trại chăn nuôi không cố định,
mà được điều chỉnh phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong
từng thời kỳ, ổn định trong thời gian nhất định (thường tối thiểu là 5 năm).
Về thẩm quyền cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại chăn nuôi, theo
qui định hiện hành, Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực
thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp huyện) là cơ quan cấp,
cấp đổi, cấp lại và thu hồi giấy chứng nhận kinh tế trang trại, trong đó có kinh
tế trang trại chăn nuôi.
Đặc điểm kinh tế trang trại chăn nuôi:
Ngoài những đặc điểm chung của kinh tế trang trại, kinh tế trang trại
chăn nuôi có những đặc điểm riêng, đó là:
Thứ nhất, sản xuất kinh doanh của kinh tế trang trại chăn nuôi phụ
thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, như đất đai, mặt nước và khí hậu.
Thứ hai, đối tượng sản xuất của kinh tế trang trại chăn nuôi là các vật
nuôi với quy mô lớn và sản xuất diễn ra theo quy trình nhất định.
Thứ ba, sản xuất của kinh tế trang trại chăn nuôi có tính tổng hợp, có sự
liên kết, gắn chặt chẽ giữa các khâu sản xuất kinh doanh, các phân ngành của
ngành chăn nuôi và nhiều ngành kinh tế khác.
Thứ tư, đầu tư ban đầu trong kinh tế trang trại chăn nuôi lớn, độ rủi ro cao.
1.1.2. Phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi
* Quan niệm phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi
Tiếp cận dưới góc độ triết học, phát triển được quan niệm là quá trình
vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện của sự vật, hiện tượng. Phát triển là xu hướng tự nhiên
tất yếu của thế giới vật chất nói chung, xã hội loài người nói riêng.
Tiếp cận dưới góc độ kinh tế, phát triển là sự tăng trưởng kinh tế
gắn liền với sự hoàn thiện cơ cấu, thể chế kinh tế và nâng cao chất lượng
cuộc sống.
16
Từ quan niệm chung về phát triển, phát triển kinh tế, cho thấy phát
triển kinh tế trang trại chăn nuôi là quá trình lớn mạnh của kinh tế trang trại
chăn nuôi về mọi mặt trong một khoảng thời gian cụ thể, đặc biệt không chỉ là
sự tăng trưởng đơn thuần về chăn nuôi thể hiện qua doanh thu, lợi nhuận, quy
mô sản lượng, thị phần chiếm lĩnh … mà còn là sự hoàn chỉnh về cơ cấu và
thể chế kinh tế trang trại chăn nuôi.
Từ những vấn đề nêu trên, có thể quan niệm phát triển kinh tế trang
trại chăn nuôi như sau: Phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi là sự tăng
thêm về quy mô, số lượng, chất lượng; xây dựng cơ cấu kinh tế trang trại
chăn nuôi hợp lý thông qua đầu tư và khai thác giá trị các nguồn lực, nhằm
tạo ra sản phẩm chăn nuôi đáp ứng nhu cầu thị trường, góp phần phát triển
kinh tế - xã hội.
Như vậy, phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi là sự gia tăng về quy
mô, số lượng, chất lượng và thay đổi cơ cấu kinh tế trang trại chăn nuôi theo
hướng hợp lý. Tuy nhiên, tùy theo phạm vi phát triển kinh tế trang trại chăn
nuôi ở từng địa phương sẽ có sự khác nhau về mục đích, chủ thể lãnh đạo,
quản lý, lực lượng tham gia, cũng như phương thức và nội dung phát triển.
* Vai trò phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi đối với kinh tế - xã hội
Trang trại nói chung và trang trại chăn nuôi nói riêng là hình thức tổ
chức sản xuất quan trọng trong nền công nghiệp thế giới, các trang trại gia
đình nông nghiệp ở các nước phát triển có vai trò đặc biệt to lớn vì đại bộ
phận các nông sản hàng hóa cung cấp cho xã hội được sản xuất từ các trang
trại gia đình.
Ở Việt Nam kinh tế trang trại chăn nuôi mặc dù mới phát triển trong
những năm gần đây nhưng đã đóng góp vai trò không nhỏ trong việc phát
triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn cũng như những lợi ích về mặt xã hội và
môi trường của mỗi địa phương. Tùy theo đặc điểm, hoàn cảnh cụ thể của mỗi
địa phương nước ta, kinh tế trang trại chăn nuôi có thể có những vai trò khác
17
nhau, song trên góc độ chung nhất và trong điều kiện hiện nay ở nước ta, kinh
tế trang trại có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, trong đó nổi
lên các vai trò sau:
Một là, phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi đóng góp vào tăng trưởng
ngành nông nghiệp, phát triển hát triển kinh tế - xã hội các địa phương và của
đất nước. Phát triền kinh tế trang trại chăn nuôi góp phần sử dụng có hiệu quả
đất đai, vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, phái triển nông nghiệp bền vững,
tạo việc làm, tăng thu nhập, khuyến khích làm giàu đi đôi với xoá đói giảm
nghèo, phân bổ lại lao động, dân cư, xây dựng lại nông thôn mới. Bên cạnh
đó phát triển kinh tể trang trại còn góp phần quan trọng trong việc làm tăng sổ
hộ giàu trong nông thôn; điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong giải quyết
vấn đề lao động và việc làm, một trong những vấn đề bức xúc, cấp thiết trong
nông nghiệp và nông thôn ở nước ta hiện nay.
Hai là, phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Các trang trại chăn nuôi góp phần đẩy
nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xuất phát từ việc sản xuất hàng hóa theo
nhu cầu thị trường mà các vật nuôi có giá trị được tập trung sản xuất và phát
triển, tạo nên những vùng chuyên môn hóa cao, bước đầu hình thành những
cơ sở chăn nuôi quan trọng cho việc xây dựng thương hiệu sản phẩm vật nuôi
cho các địa phương. Bên cạnh đó sự phát triển của kinh tế trang trại chăn nuôi
cũng giúp thúc đẩy phát triển các ngành khác như: công nghiệp chế biến thực
phẩm, dịch vụ sản xuất.
Ba là, phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi góp phần bảo vệ môi
trường. Do các chủ trang trại chăn nuôi được tự chủ hoàn toàn trong hoạt
động sản xuất kinh doanh và vì lợi ích thiết thực, lâu dài trong tương lai của
mình mà các chủ trang trại luôn có ý thức khai thác hợp lý và quan tâm bảo
vệ các yếu tố môi trường. Các mô hình chăn nuôi ở quy mô lớn của các trang
18
trại tạo nên những “hệ sinh thái” nhỏ, tận dụng tối ưu quy luật sinh học về
chuỗi thức ăn, tuần hoàn vật chất… từ đó góp phần cải tạo không gian sinh
thái của chính trang trại và của vùng xung quanh. Các trang trại chăn nuôi
thuộc các địa phương trung du, miền núi góp phần quan trọng vào việc trồng,
bảo vệ và tái sinh rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, mặt khác cũng tạo ra
hiệu quả sử dụng tốt các tài nguyên đất đai, rừng.
1.2 Quan niệm, nội dung và các yếu tố tác động đến phát triển kinh
tế trang trại chăn nuôi trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
1.2.1 Quan niệm, nội dung phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi
trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
* Quan niệm phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi trên địa bàn huyện
Ba Vì, thành phố Hà Nội
Từ quan niệm chung về phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi, tiếp cận
dưới góc độ kinh tế chính trị có thể quan niệm: Phát triển kinh tế trang trại
chăn nuôi trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội là tổng thể các hoạt
động của chủ thể nhằm thay đổi qui mô, số lượng, chất lượng và cơ cấu kinh
tế trang trại chăn nuôi theo mục tiêu, kế hoạch đã xác định.
Việc phân tích các dấu hiệu nội hàm về mục đích, chủ thể, lực lượng,
phương thức và nội dung phát triển sẽ làm rõ hơn quan niệm phát triển kinh tế
trang trại chăn nuôi trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
Mục đích phát triển: Nhằm tăng quy mô, số lượng, chất lượng và
xây dựng cơ cấu kinh tế trang trại chăn nuôi hợp lý, góp phần thúc đẩy
tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện Ba Vì, thành
phố Hà Nội.
Chủ thể phát triển: Chủ thể trực tiếp lãnh đạo, quản lý phát triển kinh
tế trang trại chăn nuôi trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội là cấp ủy,
chính quyền các cấp của huyện Ba Vì, trong đó cấp ủy, tổ chức đảng các cấp
có vai trò đề ra đường lối, chủ trương để định hướng quá trình phát triển kinh
tế thủy sản; chính quyền các cấp xác định mục tiêu, kế hoạch phát triển kinh
19
tế thủy sản và tổ chức thực hiện. Lực lượng tham gia phát triển kinh tế trang
trại chăn nuôi trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, bao gồm: Lực
lượng thuộc các thành phần kinh tế của huyện Ba Vì và các lực lượng thuộc
các thành phần kinh tế ở trong nước và ngoài nước (liên kết, liên doanh với
doanh nghiệp nước ngoài trong chăn nuôi). Tuy nhiên ở Ba Vì hiện nay, lực
lượng chủ yếu phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi là kinh tế tư nhân, bao
gồm các chủ trang trại.
Phương thức phát triển: Các chủ thể phát triển phát triển kinh tế trang
trại chăn nuôi trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội thông qua phương
thức đầu tư vốn (vốn từ ngân sách của chính quyền các cấp, vốn đầu tư của
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và vốn sự đầu tư của các chủ
trang trại, hộ nông dân). Trong đầu tư phát triển kinh tế trang trại trên địa
huyện Ba Vì có thể diễn ra theo hai phương thức: kết hợp đầu tư phát triển
theo chiều rộng và đầu tư phát triển theo chiều sâu (vừa tăng cường đầu tư
vốn theo hướng phát triển thêm những cơ sở trang trại chăn nuôi mới, vừa đầu
tư theo hướng nâng cấp, mở rộng qui mô, đổi mới công nghệ ở các cơ sở
trang trại chăn nuôi đã có).
* Nội dung phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi trên địa bàn huyện
Ba Vì, thành phố Hà Nội
Căn cứ vào quan niệm phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi trên địa
bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, xác định nội dung phát triển kinh tế
trang trại chăn nuôi trên địa bàn huyện Ba Vì hiện nay bao gồm những nội
dung chủ yếu sau:
Một là, mở rộng qui mô, số lượng kinh tế trang trại chăn nuôi.
Mở rộng quy mô kinh tế trang trại chăn nuôi ở huyện Ba Vì thực chất
là phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi về chiều rộng, biểu hiện ở việc tăng
số lượng trang trại chăn nuôi mới nhằm tăng sản lượng chăn nuôi gia súc, gia
cầm, bảo đảm kinh tế trang trại chăn nuôi có tốc độ tăng trưởng cao, ổn định.
20
Việc mở rộng qui mô qui mô kinh tế trang trại chăn nuôi ở huyện Ba Vì
còn bao gồm bao gồm nội dung đầu tư, nâng cấp, mở rộng năng lực sản xuất
kinh doanh của các cơ sở trang trại chăn nuôi hiện có ở huyện nhằm nâng cao
sản lượng, tốc độ tăng trưởng của các trang trại này.
Đồng thời, mở rộng quy mô kinh tế trang trại chăn nuôi ở huyện Ba Vì
hiện nay còn bao hàm nội dung đa dạng hóa các sản phẩm chăn nuôi, mở rộng
thị trường cung cấp sản phẩm, hàng hóa đầu vào và tiêu thụ sản phẩm, hàng
hóa đầu ra của kinh tế trang trại chăn nuôi của Huyện.
Hai là, nâng cao chất lượng kinh tế trang trại, hàng hóa của trang trại
chăn nuôi.
Nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa của kinh tế trang trại chăn
nuôi ở huyện Ba Vì được hiểu là những hoạt động đầu tư nhằm nâng cao chất
lượng sản phẩm, hàng hóa chăn nuôi lên mức cao hơn trước nhằm thỏa mãn
nhu cầu của thị trường và đem lại hiệu quả kinh tế cho chủ trưng trại và của
địa phương. Thực chất của nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa trang trại
chăn nuôi ở huyện Ba Vì hiện nay hiện nay là phát triển kinh tế trang trại
chăn nuôi trên địa bàn Huyện theo chiều sâu.
Nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa trang trại chăn nuôi là nội
dung rất quan trọng trong quá trình phát triển trang trại chăn nuôi ở huyện Ba
Vì hiện nay. Bởi vì chất lượng sản phẩm, hàng hóa của kinh tế trang trại chăn
nuôi là nhân tố quan trọng bậc nhất tạo nên uy tín, thương hiệu, nâng cao khả
năng cạnh tranh của kinh tế trang trại trong điều kiện kinh tế thị trường. Đồng
thời, nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa kinh tế trang trại chăn nuôi là
biện pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, kết hợp lợi ích
của chủ trang trại với người tiêu dùng và xã hội.
Phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi ở huyện Ba Vì theo chiều sâu
được biểu hiện trên các nội dung chủ yếu là:
21
- Nâng cao khả năng ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến
vào quá trình sản xuất kinh doanh của các trang trại chăn nuôi, vừa nhằm
giảm chi phí đầu vào, vừa nhằm nâng cao chất lượng các sản phẩm, hàng hóa
gia xúc, gia cầm đáp ứng nhu cầu thị trường.
- Hợp lý hóa tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh ở các trang trại
chăn nuôi nhằm tiết kiệm chi phí về lao động, vốn đầu tư;.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh kinh tế trang trại chăn nuôi ở huyện Ba
Vì thông qua việc nâng cao năng lực cạnh trạnh của sản phẩm, hàng hóa của
trang trại chăn nuôi.
- Nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái của
kinh tế trang trại chăn nuôi.
Ba là, xây dựng kinh tế trang trại chăn nuôi hợp lý về cơ cấu .
Xây dựng kinh tế trang trại chăn nuôi ở huyện Ba Vì hợp lý về cơ cấu
là nội dung quan trọng trong phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi của Huyện
hiện nay. Cơ cấu kinh tế trang trại chăn nuôi ở huyện Ba Vì hợp lý là sự cân
đối về cơ cấu kinh tế ngành chăn nuôi, cơ cấu kinh tế vùng và cơ cấu kinh tế
thành phần phù hợp với tiềm năng, thế mạnh và phát huy tối đa các nguồn
lực, tạo ra sự tác động thúc đẩy lẫn nhau giữa các ngành chăn nuôi, vùng và
thành phẩn kinh tế trong quá trình phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi ở
huyện Ba Vì.
Xây dựng cơ cấu kinh tế trang trại chăn nuôi ở huyện Ba Vì hợp lý bao
gồm các nội dung chủ yếu là:
- Xây dựng hợp lý về cơ cấu ngành chăn nuôi:
Xét trên phạm vi huyện Ba Vì, kinh tế trang trại chăn nuôi bao gồm các
phân ngành khác nhau, như: chăn nuôi gia súc, chăn nuôi gia cầm. Trong
chăn nuôi gia súc lại phân ra thành chăn nuôi trâu, bò, lợn, dê,.... Trong chăn
nuôi gia cầm, lại phân thành chăn nuôi gà, vịt, ngan, ngỗng, ... Các ngành này
có quan hệ chặt chẽ với nhau.
22
Đồng thời, kinh tế trang trại chăn nuôi ở huyện Ba Vì không chỉ có mối
quan hệ trong nội bộ ngành chăn nuôi, mà còn có mối quan hệ với các ngành
kinh tế khác, như: cung ứng vật tư, con giống, chế biến gia súc, gia cầm;
thương mại tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi, giao thông vận tải, cung cấp điện
nước, thông tin liên lạc,...
Do kinh tế trang trại chăn nuôi ở huyện Ba Vì có mối quan hệ rất chặt
chẽ với nhau, đòi hỏi phải được phát triển đồng bộ, cân đối nhằm phát huy
tiềm năng, thế mạnh của Huyện và đem lại hiệu quả cao. Nếu các ngành của
kinh tế trang trại chăn nuôi không được phát triển đồng bộ, cân đối thì việc
hoạt động của từng ngành sẽ ách tắc, gặp khó khăn.
Đối với phát triển trang trại chăn nuôi ở huyện Ba Vì về cơ cấu kinh tế
ngành cần tập trung vào phát triển một số phân ngành chủ yếu sau:
Chăn nuôi gia súc: Tập trung vào những vật nuôi có giá trị kinh tế cao
và phù hợp với địa hình, điều kiện tự nhiên của huyện Ba Vì, như chăn nuôi
bò, dê, lợn...
Chăn nuôi gia cầm: Tập trung vào chăn nuôi những gia cầm có giá trị
kinh tế cao và phù hợp với địa hình, điều kiện tự nhiên của huyện Ba Vì, như
gà đồi, chim cút, vịt, ngan, ngỗng,...
Ngoài phát triển các phân ngành trên, trong nội dung phát triển kinh tế
trang trại chăn nuôi ở huyện Ba Vì còn bao gồm phát triển các ngành, lĩnh
vực kinh tế - xã hội phục vụ, bảo đảm cho kinh tế trang trại chăn nuôi, như:
cung ứng vật tư, con giống, chế biến gia súc, gia cầm; thương mại, giao thông
vận tải, điện nước, thông tin liên lạc,...
- Xây dựng hợp lý về cơ cấu vùng:
Xét trên phạm vi huyện Ba Vì, cơ cấu vùng của kinh tế trang trại chăn
nuôi biểu hiện ở sự phân bố các trang trại chăn nuôi. Xây dựng kinh tế trang
trại chăn nuôi ở huyện Ba Vì hợp lý về cơ cấu vùng là sự phát triển trang trại
chăn nuôi ở những địa bàn, địa phương, của Huyện có tiềm năng, thế mạnh về
chăn nuôi và tạo ra mối liên hệ giữa các trang trại chăn nuôi nhằm đáp ứng
23
nhu cầu của thị trường, như phát triển trang trại chăn nuôi gia súc ở những địa
bàn rừng, đồi, núi; trang trại chăn nuôi gia cầm ở vùng sông, đầm, hồ, ao v.v..
- Xây dựng hợp lý về cơ cấu thành phần:
Xây dựng kinh tế trang trại chăn nuôi ở huyện Ba Vì hợp hiện nay hợp
lý về thành phần kinh tế, thực chất là xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp trong ngành nông nghiệp.
Xây dựng kinh tế trang trại chăn nuôi ở huyện Ba Vì hợp hợp lý về cơ
cấu thành phần biểu hiện ở việc phát triển quan hệ sản xuất trong kinh tế trang
trại, mở rộng qui mô sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất trong trang trại, đưa
các trang trại từ kinh tế cá thể lên tiểu chủ, từ tiểu chủ lên tư bản tư nhân.
Đồng thời, trong phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi ở huyện Ba Vì phải
huy động các thành phần kinh tế, bao gồm cả kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tham gia phát triển
kinh tế trang trại và xây dựng mối liên hệ, liên kết chặt chẽ giữa các các tổ
chức, lực lượng thuộc các thành phần kinh tế.
1.2.2. Các yếu tố tác động đến phát triển kinh tế trại chăn nuôi trên
địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
Sự phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi trên địa bàn Ba Vì hiện nay
chịu sự tác động của nhiều yếu tố, trong đó nổi lên là các yếu tố sau:
* Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của huyện Ba Vì
Vị trí địa lý:
Ba Vì là huyện thuộc vùng bán sơn địa, nằm về phía Tây Bắc thủ đô Hà
Nội. Với tổng diện tích 424km2, dân số hơn 265 nghìn người. Toàn huyện có
31 xã, thị trấn, trong đó có 7 xã miền núi, một xã giữa sông Hồng. Địa hình
của huyện thấp dần từ phía Tây Nam sang phía Đông Bắc, chia thành 3 tiểu
vùng khác nhau: Vùng núi, vùng đồi, vùng đồng bằng ven sông Hồng.
24
Về khí hậu, Ba Vì nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng chịu ảnh
hưởng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Đất đai huyện Ba Vì được chia làm 2
nhóm, nhóm vùng đồng bằng và nhóm đất vùng đồi núi. Nhóm đất vùng
đồng bằng có 12.892 ha bằng 41,1% diện tích đất đai toàn huyện. Nhóm đất
vùng đồi núi: 18.478 ha bằng 58,9% đất đai của huyện. Đồng thời, Ba Vì là
nơi có mạng lưới thủy văn hết sức độc đáo, xung quanh gần như được bao
bọc bởi hai dòng sông lớn là sông Hồng và sông Đà. Ngoài ra trong khu vực
còn có nhiều các dòng suối nhỏ bắt nguồn từ trên đỉnh núi xuống, mùa mưa
lượng nước lớn tạo ra các thác nước đẹp như thác Ao Vua, thác Ngà, thác
Khoang Xanh,... Lượng mưa ở Ba Vì tương đối lớn, lượng mưa trung bình
hàng năm đạt từ 1600-2.400 mm/năm, diễn ra tương đối đồng đều trên các
khu vực. Mùa khô lượng mưa ít, tuy nhiên được bù đắp bằng hệ thống nước
ngầm tương đối lớn.
Với điều kiện vị trí, khí hậu, đất đai, thủy văn như vậy, khá thuận lợi
cho vật nuôi sinh trưởng và phát triển. Đây là cơ sở để xây dựng, phát triển
các mô hình kinh tế trang trại chăn nuôi.
Về thực vật, theo số liệu thống kê năm 2008, diện tích rừng toàn huyện
có 10.724,9 ha. Diện tích rừng tự nhiên tập trung chủ yếu ở vùng núi Ba Vì từ
độ cao 400m trở lên. Rừng tự nhiên được phủ xanh bằng các loại thảm thực
vật phong phú, đa dạng. Động thực vật ở Ba Vì rất đa dạng, phong phú. Hiện
nay các nhà thực vật học Việt Nam ước khoảng 2000 loại.
Điều kiện khí hậu nhiệt đới, thêm phần cận nhiệt đới núi cao, đất đai
vùng đồi trung du màu mỡ, địa hình bán sơn địa khá bằng phẳng là điều kiện
đặc biệt thuận lợi cho việc phát triển trang trại chăn nuôi rộng lớn với quy
mô đàn gia súc lớn
Bên cạnh điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý cho Ba Vì một điều kiện giao
lưu thuận lợi: đó là hệ thống đường giao thông thuỷ, bộ rất thuận lợi nối liền
25
các tỉnh Tây Bắc, Việt Bắc với toàn bộ đồng bằng Bắc Bộ, trong đó có thủ đô
Hà Nội - Trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của cả nước. Từ Trung tâm
huyện lỵ theo quốc lộ 32 đi Sơn Tây về Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc bộ
hoặc ngược Trung Hà đi Tây Bắc, Việt Bắc. Đồng thời cũng từ trung tâm
huyện lỵ theo sông Hồng ngược Trung Hà theo sông Lô, sông Thao lên Tây
Bắc, hoặc theo sông Đà đi Hoà Bình - cửa ngõ Tây Bắc của Tổ quốc. Ngoài
ra trên địa bàn huyện còn có một số tuyến đường Tỉnh lộ như 411A,B,C; 412,
413, 414, 415 và các đường liên huyện, đê sông Hồng, sông Đà... thông
thương giữa các vùng, miền, các tỉnh, huyện bạn.
Với những lợi thế về giao thông đường thủy, đường bộ, Ba Vì có điều
kiện khá thuận lợi trong giao lưu kinh tế, văn hóa với bên ngoài, không chỉ
tiếp thu những tiến bộ khoa học - kỹ thuật để phát triển kinh tế với cơ cấu đa
dạng: nông nghiệp, dịch vụ, du lịch, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp mà
còn có điều kiện phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm cho kinh tế trang trại
chăn nuôi.
Như vậy có thể thấy rằng, nằm trong địa bàn Thủ đô, với những lợi thế
về giao thông đường thủy, đường bộ, Ba Vì có điều kiện khá thuận lợi trong
giao lưu kinh tế, văn hóa với bên ngoài, tiếp thu những tiến bộ khoa học - kỹ
thuật để phát triển kinh tế với cơ cấu đa dạng trong chăn nuôi. Đồng thời, Ba
Vì là huyện miền núi có tiềm năng về đất đai và có khí hậu rất thuận lợi cho
việc phát triển chăn nuôi. Từ những năm 1960 Khoa chăn nuôi thú y học viện
nông lâm (nay là Viện chăn nuôi) đã chọn Ba Vì là địa điểm để đặt các trung
tâm nghiên cứu và phát triển các loại vật nuôi, như: Trâu Moncada, Trung tâm
nghiên cứu bò, Trại gà, Trại đà điểu, Trại thỏ, ... Những trung tâm này vẫn
phát triển cho đến ngày nay, điều đó chứng tỏ khí hậu Ba Vì rất phù hợp cho
việc chăn nuôi gia súc, gia cầm.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi đó, hiện nay ở Ba Vì tình trạng ô
nhiễm môi trường ngày càng gia tăng kéo theo dịch bệnh trên vật nuôi có khả
26