MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN
Trang
3
NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO NGÀNH DỊCH
VỤ DU LỊCH Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1
Lý luận chung về nguồn nhân lực, nguồn nhân lực chất
lượng cao và nguồn nhân lực chất lượng cao ngành dịch
vụ du lịch
1.2.
Quan niệm, nội dung và các yếu tố ảnh hưởng đến phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành dịch vụ du
lịch ở thành phố Hà Nội
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
12
12
19
CHẤT LƯỢNG CAO NGÀNH DỊCH VỤ DU LỊCH Ở
2.1.
2.2.
THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN QUA
Tổng quan về ngành dịch vụ du lịch của thành phố Hà Nội
Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra
29
29
trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành dịch
vụ du lịch ở thành phố Hà Nội
Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
PHÁT
TRIỂN
NGUỒN
NHÂN
LỰC
32
CHẤT
LƯỢNG CAO NGÀNH DỊCH VỤ DU LỊCH Ở
3.1.
3.2.
THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN TỚI
Phương hướng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
ngành dịch vụ du lịch ở thành phố Hà Nội
Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
ngành dịch vụ du lịch ở thành phố Hà Nội thời gian tới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
48
48
55
72
74
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhân lực là một trong những nguồn lực phát triển kinh tế quan trọng
nhất của mỗi quốc gia. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất
nước là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước ta trong
thời gian tới.
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nguồn nhân
lực là nhân tố trung tâm, có vai trò quyết định đối với tăng trưởng và phát
triển của nền kinh tế. Nghị quyết Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam đã
nhấn mạnh: "Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy
mạnh phát triển và ứng dụng khoa hoc, công nghệ…” [6, tr.130]. Điều này
cho thấy, đào tạo và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao trở
thành một trong các yếu tố then chốt thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển cũng
như trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Hà Nội là một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học
và công nghệ và đầu mối giao thông quan trọng của cả nước, quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô có vai trò quan trọng trong việc
góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Vì vậy, hơn bất cứ địa phương nào trong cả nước, Thành phố Hà Nội
cần phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, bao gồm những con người có
đức, có tài, có trách nhiệm, ham học hỏi, thông minh sáng tạo, được chuẩn bị
tốt về kiến thức văn hóa, được đào tạo thành thạo về kỹ năng nghề nghiệp, về
năng lực sản xuất kinh doanh, có trình độ khoa học - kỹ thuật cao. Đó phải là
nguồn nhân lực của một nền văn hóa công nghiệp hiện đại.
Trong những năm qua Hà Nội đã tập trung nhiều công sức đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao để phát triển ngành dịch vụ du lịch. Tuy nhiên,
3
nguồn nhân lực của Thành phố Hà Nội hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu
phát triển của ngành dịch vụ du lịch. Sự phát triển du lịch của Hà nội trong
thời gian qua vẫn chưa tương xứng với những tiềm năng hiện có. Còn rất
nhiều vấn đề được đặt ra cho công tác tổ chức, quản lý đối với cảnh quan môi
trường, cũng như việc khai thác, sử dụng các di tích văn hoá, danh lam thắng
cảnh. Những vấn đề này đòi hỏi phải được xem xét một cách kỹ lưỡng và toàn
diện để có thể đưa ra được những định hướng, giải pháp đúng đắn nhằm đưa
du lịch Hà nội theo hướng phát triển bền vững. Cho nên việc nghiên cứu lý
luận và phân tích thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao ở Hà Nội, nhằm
đề xuất những giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng
yêu cầu phát triển ngành dịch vụ du lịch của thành phố Hà Nội là nhiệm vụ
cần thiết trong tình hình hiện nay.
Với ý nghĩa trên, tác giả chọn đề tài "Phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ngành dịch vụ du lịch ở thành phố Hà Nội " làm luận văn thạc sĩ
kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Ở Hà Nội cũng như trong cả nước đã có nhiều công trình khoa học, các
cuộc hội thảo, các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ nghiên cứu về đề tài này ở nhiều
góc độ, phạm vi rộng, hẹp khác nhau như:
* Nhóm nghiên cứu về phát triển con người:
“Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa,
hiện đại hóa”, của GS.TS Phạm Minh Hạc. Tác giả nghiên cứu chủ yếu về
con người, những nhân tố tác động đến sự phát triển toàn diện của con người
như: sức khỏe, hình thể, trí tuệ, sự chăm sóc y tế, giáo dục của gia đình, nhà
trường, xã hội, giáo dục và đào tạo... từ đó đưa ra các giải pháp chiến lược
nhằm phát triển nguồn nhân lực cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
“Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp nông thôn” của Lê Thị Ngân. Tác giả đã tập trung làm rõ
4
những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn yêu cầu phải phát triển nguồn
nhân lực. Trên cơ sở những quan điểm của Đảng, chính sách phát triển và sử
dụng nguồn nhân lực của Nhà nước, tác giả tập trung phân tích vai trò và sự
cần thiết phát triển nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn.
“Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Việt Nam” của Tiến sỹ Đoàn Khải. Tác giả chủ yếu phân tích vai trò của con
người là nhân tố quan trọng chủ yếu quyết định thành công sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm phát
triển con người toàn diện trong đó đề cập nhiều đến thể lực, trí lực, trình độ
chuyên môn, trình độ học vấn, khả năng ứng dụng khoa học công nghệ đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
“Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện
nay” của Tiến sỹ Hồ Anh Dũng. Tác giả tập trung đề cập nhân tố quan trọng
trong phát triển lực lượng sản xuất là nhân tố con người, từ đó rút ra vấn đề
muốn phát triển lực lượng sản xuất thì phải coi trọng phát triển nguồn lực con
người như: giáo dục - đào tạo, nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên
môn kỹ thuật, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
“Đại hội XI với vấn đề phát triển nguồn nhân lực” của PGS.TS. Bùi
Thị Ngọc Lan, tác giả tập trung phân tích những điểm mới trong tư duy lãnh
đạo của Đảng về phát triển nguồn nhân lực. Theo tinh thần Đại hội XI của
Đảng, để phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao, cần phải đi vào một số giải pháp căn bản như: xây dựng và hoàn thiện hệ
thống giá trị của con người Việt Nam trong thời đại mới; đổi mới căn bản và
toàn diện nền giáo dục quốc dân; nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe
nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội.
* Nhóm nghiên cứu liên quan đến giáo dục và đào tạo:
“Đổi mới giáo dục - đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực” của
GS-TS Hoàng Ngọc Hà, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Bài viết
5
này tác giả chủ yếu bàn về đổi mới công tác giáo dục và đào tạo ở tất cả các
cấp học, đi sâu phân tích thực trạng giáo dục đào tạo nghề, tác giả đã nêu lên
những vấn đề còn yếu kém về chất lượng đào tạo nghề như: còn dàn trải,
thiếu tập trung, thiếu đồng bộ, chưa sát với đòi hỏi thực tiễn nhu cầu nhân lực
của xã hội. Đồng thời tác giả đã đề cập đến những giải pháp cơ bản nhằm
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
“Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập và toàn cầu hóa"
của PGS-TS Nguyễn Tiệp. Tác giả nêu lên đặc điểm khi chúng ta mở cửa tham
gia hội nhập kinh tế quốc tế, cũng như đòi hỏi phải phát triển nguồn nhân lực
sau khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO, trên cơ sở đó tác giả đưa ra một
số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực cho Việt Nam trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế và là thành viên chính thức của WTO.
“Vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, những thách thức lớn đối với Việt Nam” của Trần Văn Tùng. Tác giả chủ
yếu đi sâu phân tích vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở nước ta, đồng thời tác giả cũng đã phân tích sâu sắc những
khó khăn trở ngại khi nước ta tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện là một nước nghèo nàn, lạc hậu, cơ sở hạ tầng kỹ thuật
còn yếu kém, phần lớn lực lượng lao động chủ yếu chưa qua đào tạo cơ bản...
từ đó tác giả nêu lên một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn thách
trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực.
“Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Thanh, Nxb Chính trị quốc gia. Tác giả
đã đề cập nhiều lĩnh vực về việc phát triển nguồn nhân lực trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay như đặc điểm, yêu cầu, vai
trò của phát triển nguồn nhân lực, những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển
nguồn nhân lực, thực trạng giáo dục và đào tạo, trình độ chuyên môn kỹ thuật,
6
đồng thời tác giả cũng đưa ra hệ thống giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân
lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
"Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài năng" của Trần
Văn Tùng. Tác giả chủ yếu bàn về thực trạng chất lượng đào tạo cũng như bồi
dưỡng nguồn nhân lực tài năng của đất nước, cũng như những bất cập quá
trình sử dụng nguồn nhân lực tài năng, tác giả đề cập một số giải pháp thiết
thực nhằm đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài năng của đất
nước có hiệu quả.
“Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước” của Mai Quốc Chính. Tác giả tập trung nghiên
cứu những vấn đề lý luận cơ bản về nguồn nhân lực, vai trò của nguồn nhân
lực đồng thời nêu lên một số kinh nghiệm về phát triển nguồn nhân lực của
một số nước trên thế giới và thực trạng đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta, từ
đó tác giả rút ra một số định hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
"Việc làm, thực trạng và những vấn đề bất cập ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay" của Trần Minh Yến. Bài viết của tác giả chủ yếu bàn về việc
làm và thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động; những vấn đề bất
cập trong đào tạo nghề và sử dụng lao động trong những năm qua đồng thời
tác giả nêu lên những giải pháp cơ bản nhằm phát huy hiệu quả trong đào tạo,
cũng như sử dụng lao động qua đào tạo và định hướng đào tạo nghề nhằm sử
dụng có hiệu quả, cũng như giải quyết việc làm ở nước ta hiện nay.
"Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực trong điều kiện mới" của
Nguyễn Minh Đường. Tác giả chủ yếu nêu lên những bất cập trong đào tạo
nhân lực, cũng như thực chất của nguồn nhân lực trong đó đề cập đến đội ngũ
cán bộ quản lý, cán bộ lãnh đạo, những người trực tiếp tham gia lao động đã
qua đào tạo nghề... song chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
7
(KT-XH) trong điều kiện mới; từ đó tác giả đưa ra những giải pháp đào tạo lại
cho đội ngũ này để đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới.
“Khủng hoảng tài chính và thị trường nguồn nhân lực chất lượng cao
ở Việt Nam” của GS, TS Hoàng Văn Châu. Tác giả phân tích thị trường lao
động chất lượng cao ở Việt Nam; khủng hoảng tài chính và thị trường nguồn
nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam, tác giả chỉ rõ trong lúc tình trạng cung
cầu nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam đang bị mất dần cân đối thì
nền kinh tế phải chịu tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu bắt đầu từ năm 2008. Một trong những tác động dễ nhận thấy nhất của
cuộc khủng hoảng đó là tình trạng mất việc làm gia tăng do sản xuất bị đình
trệ, xuất khẩu giảm sút… Trên cơ sở đó tác giả đưa ra những giải pháp cho
các trường đại học để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, khả năng đào
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực kinh tế, kinh doanh, tài
chính - ngân hàng và ngoại ngữ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
"Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo kinh nghiệm
Đông Á" của Lê Thị Ái Lâm. Tác giả đề cập kinh nghiệm phát triển nguồn
nhân lực của một số nước Đông Á như:
Trung Quốc bước vào kỷ nguyên lịch sử mới của cải cách và mở cửa
với thế giới bên ngoài vào năm 1978, giáo dục nghề nghiệp rất được coi trọng
để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và
hiện đại hoá đất nước.
Nhật Bản đã đề ra mục tiêu: đào tạo những thế hệ mới có tính năng
động, sáng tạo, có kiến thức chuyên môn sâu, có khả năng suy nghĩ và làm
việc độc lập, khả năng giao tiếp quốc tế để đáp ứng những đòi hỏi của thế
giới, với sự tiến bộ không ngừng của khoa học và xu thế cạnh tranh - hợp tác
toàn cầu.
8
Bí quyết của Hàn quốc là dựa vào phát triển nguồn nhân lực trong một
nước nghèo tài nguyên thiên nhiên để phát triển kinh tế. Giáo dục là nhân tố
chủ yếu để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và chính sách về giáo dục
luôn được xây dựng phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế.
Nhìn chung, các công trình trên chủ yếu nghiên cứu nguồn lực lao
động, một số tác giả bàn đến hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, hoặc bàn
riêng về thực trạng đào tạo nguồn nhân lực nguồn nhân lực chất lượng cao;
yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta trong tình
hình hiện nay. Tuy nhiên cho đến nay, chưa có công trình nào đi sâu nghiên
cứu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ngành dịch vụ Du lịch ở Thành
phố Hà Nội. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài: "Phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ngành dịch vụ du lịch ở thành phố Hà Nội " làm luận văn tốt
nghiệp, tác giả muốn tiếp cận một lĩnh vực cụ thể chưa được nhiều người đề
cập một cách hoàn chỉnh và thấu đáo.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở luận giải một số vấn đề lý luận và thực tiễn, đề xuất các
phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao ngành dịch vụ Du lịch ở Thành phố Hà Nội.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ngành dịch vụ Du lịch ở Thành phố Hà Nội dưới góc độ kinh tế
chính trị.
- Đánh giá đúng thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
ngành dịch vụ Du lịch ở Thành phố Hà Nội trong những năm qua.
- Đề xuất một số phương hướng cơ bản và những giải pháp chủ yếu
nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành dịch vụ Du lịch ở
Thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
9
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành dịch vụ Du lịch ở
Thành phố Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành dịch vụ
Du lịch ở Thành phố Hà Nội.
- Các số liệu điều tra, khảo sát nguồn nhân lực chất lượng cao được
thực hiện chủ yếu từ năm 2010 đến năm 2015.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận
Tác giả nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin; quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, chủ trương
của Thành ủy, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội về phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học của Kinh tế
chính trị Mác – Lênin để làm sáng tỏ cơ sở lý luận về phát triển NNL chất
lượng cao ngành dịch vụ Du lịch ở Thành phố Hà Nội; sử dụng các phương
pháp: tổng hợp, thống kê, so sánh, phân tích, kết hợp lô-gíc với lịch sử, cùng
một số phương pháp khác để phân tích thực trạng, đề xuất quan điểm và giải
pháp nhằm phát triển NNL chất lượng cao ngành dịch vụ Du lịch ở Thành
phố Hà Nội thời gian tới.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Góp phần làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát
triển nguồn nhân lực nói chung, nguồn nhân lực chất lượng cao ngành dịch vụ
Du lịch nói riêng ở Thành phố Hà Nội.
10
- Góp phần cung cấp thêm những luận cứ khoa học cho Đảng bộ, chính
quyền Thành phố Hà Nội trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển nguồn nhân lực,
trực tiếp là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành dịch vụ Du lịch.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu và
học tập, giảng dạy môn Kinh tế chính trị ở các nhà trường trong và ngoài
quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Mở đầu; 3 chương (6 tiết); kết luận; danh mục tài liệu
tham khảo.
11
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
CHẤT LƯỢNG CAO NGÀNH DỊCH VỤ DU LỊCH
Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Lý luận chung về nguồn nhân lực, nguồn nhân lực chất lượng
cao và nguồn nhân lực chất lượng cao ngành dịch vụ du lịch
1.1.1. Khái niệm nhân lực, nguồn nhân lực
* Khái niệm nhân lực
Nhân lực là sức lực con người, nằm trong mỗi con người và làm cho
con người hoạt động. Sức lực đó ngày càng phát triển cùng với sự phát triển
của cơ thể con người và đến một mức độ nào đó, con người đủ điều kiện tham
gia vào quá trình lao động – con người có sức lao động.
Nhân lực là bao gồm tất cả các tiềm năng của con người trong một tổ
chức hay xã hội (kể cả những thành viên trong ban lãnh đạo doanh nghiệp) tức là
tất cả các thành viên trong doanh nghiệp sử dụng kiến thức, khả năng, hành vi
ứng xử và giá trị đạo đức để thành lập, duy trì và phát triển doanh nghiệp.
Tóm lại, nhân lực được hiểu là nguồn lực con người bao gồm thể lực
và trí lực được sử dụng trong quan hệ sản xuất kinh doanh nhằm thỏa mãn
nhu cầu của cuộc sống con người đồng thời phục vụ cho mục tiêu phát triển
của cộng đồng.
* Khái niệm nguồn nhân lực
Cho đến nay, có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn nhân lực. Theo tổ
chức lao động quốc tế (ILO) thì “Nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn bộ
những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được
hiểu theo hai nghĩa: theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao
động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển” [26,
tr.4]. Do đó, nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển bình
thường. Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là một
12
nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ
tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao động, là tổng thể các yếu tố về thể
lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động.
Theo cách tiếp cận của kinh tế phát triển: Nguồn nhân lực là một bộ
phận dân số trong độ tuổi qui định có khả năng tham gia lao động. Nguồn
nhân lực được biểu hiện trên hai mặt: về số lượng, đó là tổng số những người
trong độ tuổi lao động làm việc theo qui định của nhà nước và thời gian lao
động có thể huy động được từ họ; về chất lượng đó là sức khỏe, trình độ
chuyên môn, kiến thức và trình độ lành nghề của người lao động.
Theo Giáo sư - Viện sĩ Phạm Minh Hạc thì: “Nguồn nhân lực cần được
hiểu là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức
khỏe và trí tuệ, năng lực, phẩm chất và đạo đức của người lao động. Nó là
tổng thể nguồn nhân lực hiện có thực tế và tiềm năng được chuẩn bị sẵn sàng
để tham gia phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia hay một địa phương
nào đó…” [26, tr.213]. Như vậy, quan niệm về nguồn nhân lực của các nhà
khoa học, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước tuy tiếp cận ở những
góc độ khác nhau, nhưng đều có sự thống nhất ở nội dung căn bản: Nguồn
nhân lực là lực lượng dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng hoạt động
trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Từ những quan điểm trên, dưới góc độ Kinh tế chính trị có thể hiểu:
Nguồn nhân lực là tổng hòa thể lực, trí lực, trình độ, phẩm chất, thái độ nghề
nghiệp chuyên môn tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một
quốc gia, trong đó có sự kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo
của một dân tộc đang được sử dụng, hoặc sẽ sử dụng để sản xuất ra của cải vật
chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
1.1.2. Khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao (NNL CLC)
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về nguồn nhân lực chất lượng
cao. Theo tác giả Trần Mai Ước thì: “Nguồn nhân lực chất lượng cao được
hiểu là bộ phận lao động xã hội có trình độ học vấn và chuyên môn kĩ thuật
13
cao; có kĩ năng lao động giỏi và có khả năng thích ứng nhanh với những thay
đổi nhanh chóng của công nghệ sản xuất; có sức khỏe và phẩm chất tốt, có
khả năng vận dụng sáng tạo những tri thức, những kĩ năng đã được đào tạo
vào quá trình lao động sản xuất nhằm đem lại năng suất, chất lượng và hiệu
quả cao” [35, tr.4].
Theo bài viết của PGS,TS Bùi Thị Ngọc Lan cho rằng: “Nguồn nhân
lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ lực lượng lao động cụ thể có trình độ
lành nghề (về chuyên môn, kỹ thuật) ứng với một ngành nghề cụ thể theo tiêu
thức phân loại lao động về chuyên môn, kỹ thuật nhất định (trên đại học, đại
học, cao đẳng, lao động kỹ thuật lành nghề); có kỹ năng lao động giỏi và có
khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi nhanh chóng của công nghệ sản
xuất; có sức khỏe và phẩm chất tốt, có khả năng vận dụng sáng tạo những tri
thức, những kỹ năng đã được đào tạo vào quá trình lao động sản xuất nhằm
đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả cao” [4, tr.6].
Theo tác giả Nguyễn Hữu Dũng - Bộ Lao động thương binh - xã
hội: “Nguồn nhân lực trình độ cao là bộ phận lao động phức tạp, phải trải
qua một quá trình đào tạo, rèn luyện công phu”. Tác giả phân chia trình
độ đào tạo nhân lực của một quốc gia thành 7 nhóm:
Nhóm 1: nhân lực được đào tạo ở cấp trình độ sau đại học
Nhóm 2: nhân lực cán bộ công chức quản lý hành chính Nhà nước
Nhóm 3: nhân lực khoa học - công nghệ và đội ngũ giảng viên
Nhóm 4: nhân lực doanh nhân và các chuyên gia quản trị doanh nghiệp.
Nhóm 5: nhân lực tốt nghiệp cao đẳng, đại học trở lên.
Nhóm 6: nhân lực tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp.
Nhóm 7: lực lượng công nhân kỹ thuật.
Từ cách phân chia trên, tác giả Nguyễn Hữu Dũng cho rằng, xét theo
trình độ đào tạo thì nguồn nhân lực chất lượng cao phải ở 5 nhóm nhân lực
đầu tiên theo thứ tự nêu trên.
14
Theo Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và đầu tư trong báo cáo
nghiên cứu đề tài khoa học cấp Bộ (2006) về: “Nguồn nhân lực chất lượng
cao: hiện trạng phát triển, sử dụng và các giải pháp tăng cường” cho rằng:
“Chất lượng nguồn nhân lực là tổng thể năng lực về trí lực, thể lực và khí chất
của một tập hợp (nhóm) người trong mối tương quan với khả năng đáp ứng
yêu cầu phát triển bản thân con người và phát triển kinh tế - xã hội, những
năng lực này được hình thành và phát triển thông qua giáo dục, đào tạo nghề
nghiệp, chăm sóc sức khỏe và quá trình lao động” [2, tr.8]. Thông qua phân
tích các yếu tố cơ bản để đánh giá nguồn nhân lực như: thể chất (gồm thể lực
và thể trạng), tri thức, trí tuệ; khí chất (tinh thần, ý thức xã hội); lao động qua
đào tạo các bằng cấp, chứng chỉ, cấp đào tạo, lao động chuyên môn… Những
yếu tố tạo thành chất lượng nguồn nhân lực (thể lực, trình độ kiến thức và kỹ
năng nghề nghiệp cùng với khí chất của người lao động) được hình thành và
phát triển qua hai con đường chủ yếu là giáo dục - đào tạo và thực hành làm
việc trong lĩnh vực sản xuất.
Như vậy, về mặt chất lượng thì nguồn nhân lực chất lượng cao bao gồm
những người phải trải qua hai quá trình được đào tạo một cách cơ bản có hệ
thống, có bằng cấp và quá trình rèn luyện qua thực tế sản xuất kinh doanh,
(một lao động được coi là cao hơn, phức tạp hơn so với lao động trung bình,
đòi hỏi phải qua quá trình đào tạo cơ bản và cao hơn, phải tốn nhiều công sức
để tạo ra nó, vì vậy nó có một giá trị cao hơn so với sức lao động giản đơn.
Nếu giá trị của sức lao động đó cao hơn thì giá trị đó cũng biểu hiện ra một
lao động cao hơn và vì vậy, trong những khoảng thời gian bằng nhau nó sẽ
được vật hóa trong các giá trị tương đối lớn hơn). Tuy nhiên, trên thực tế
không phải tất cả những người có bằng cấp cao đều trở thành nguồn nhân lực
chất lượng cao. Nguồn nhân lực chất lượng cao không chỉ biểu hiện ở bằng
cấp cao mà quan trọng hơn là sức lao động đó được vận dụng vào thực tế sản
xuất, quản lý… phải “đem lại một hiệu quả cao nhất định”. Thông qua những
15
công việc cụ thể, biểu hiện hành vi, phương pháp tư duy vượt qua mức kỹ
năng trở thành kỹ xảo, điêu luyện và thuần thục.
Kế thừa những quan niệm trên, có thể hiểu: Nguồn nhân lực chất
lượng cao là bộ phận lao động xã hội đã qua đào tạo, có trình độ học vấn
hay chuyên môn kĩ thuật cao, có sức khỏe và phẩm chất xã hội cần thiết, đáp
ứng yêu cầu của từng ngành, lĩnh vực hoạt động.
Như vậy, nguồn nhân lực chất lượng cao phải đạt được những yêu cầu sau:
Thứ nhất, là những người lao động phải trải qua quá trình đào tạo, bồi
dưỡng ở các cấp đào tạo đáp ứng với yêu cầu công việc mà người lao động
trực tiếp tham gia hoạt động.
Thứ hai, là lực lượng lao động có trình độ học vấn hay chuyên môn kỹ
thuật cao đáp ứng yêu cầu từng ngành, lĩnh vực hoạt động.
Các tiêu chí này nói lên nguồn nhân lực chất lượng cao phải có trình
độ chuyên môn, kỹ thuật cao, có khả năng thích ứng tốt với những công
việc phức tạp và luôn thay đổi trong thời đại khoa học và công nghệ đang
phát triển nhanh như hiện nay. Điều này cũng có nghĩa là nguồn nhân lực
chất lượng cao phải có bản lĩnh nghề nghiệp để không bị động trước những
thay đổi nhanh chóng cả về nội dung và cách thức tiến hành công việc
trong thời đại toàn cầu hóa và kinh tế tri thức.
Thứ ba, là lực lượng lao động có sức khỏe và phẩm chất đạo đức tốt,
lòng yêu nghề, say mê với công việc, có tính kỷ luật và có trách nhiệm với
công việc, luôn mong muốn đóng góp tài năng, công sức của mình vào sự
phát triển chung của dân tộc.
Như vậy, nói đến nguồn nhân lực chất lượng cao phải khẳng định
trình độ học vấn hay trình độ chuyên môn nghiệp vụ, hoặc kỹ năng lao
động. Do đó, chỉ có đào tạo mới có, nghĩa là dấu hiệu cơ bản nguồn nhân
lực chất lượng cao là đào tạo. Tuy nhiên, nguồn nhân lực chất lượng cao
nếu chỉ xét trình độ chuyên môn nghiệp vụ, hoặc kỹ năng lao động là chưa
16
đủ mà còn hội tụ các yếu tố sức khỏe, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp được
thể hiện thông qua quá trình lao động.
Trong thế giới hiện đại, khi các quốc gia đang chuyển dần sang nền
kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức và trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh
tế quốc tế, thì nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao ngày
càng thể hiện vai trò quyết định của tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội
nhanh và bền vững. Các lý thuyết tăng trưởng gần đây chỉ ra rằng, một nền
kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức độ cao phải dựa trên ít nhất ba trụ
cột cơ bản đó là: áp dụng công nghệ mới; phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó động lực quan trọng nhất của
sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững chính là những con người, đặc biệt
là nguồn nhân lực chất lượng cao, những con người được đầu tư phát triển
toàn diện, có kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo.
Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động và cạnh tranh quyết liệt, phần
thắng sẽ thuộc về những quốc gia có nguồn nhân lực chất lượng cao, có môi
trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư, có môi trường chính trị- xã hội ổn định.
1.1.3. Nguồn nhân lực chất lượng cao ngành dịch vụ du lịch
NNL CLC ở ngành dịch vụ du lịch trước hết là NNL phải thỏa mãn các yêu
cầu về NNL chất lượng cao nói chung, bao gồm các tiêu chí về thể lực, trí lực.
Chất lượng nguồn nhân lực ngành dịch vụ du lịch là một trong những
yếu tố rất quan trọng trong phát triển ngành dịch vụ du lịch.
Trên cơ sở quan niệm về nguồn nhân lực chất lượng cao như đã
phân tích ở trên, theo tác giả, phát triển NNL chất lượng cao ngành dịch vụ du
lịch là việc nâng cao năng lực của con người về mọi mặt: kiến thức chuyên
môn, nghiệp vụ và kỹ năng, trình độ ngoại ngữ, thể lực, trí lực,… của nhân
lực chất lượng cao (hướng dẫn viên, thuyết minh viên,…) trong ngành dịch vụ
du lịch nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Đồng thời phân bổ, sử dụng,
khai thác và phát huy hiệu quả nhất nguồn nhân lực chất lượng cao ngành
17
dịch vụ du lịch thông qua hệ thống phân công lao động và giải quyết việc làm
để phát triển kinh tế- xã hội.
Hay nói cách khác phát triển NNL chất lượng cao ngành dịch
vụ du lịch là sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực chất
lượng cao ngành dịch vụ du lịch trên các mặt thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến
thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu
nguồn nhân lực chất lượng cao ngành dịch vụ du lịch.
Chủ thể phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành dịch dụ du
lịch là bao gồm cả hệ thống chính trị mà trực tiếp là đảng bộ, chính quyền, Ủy
ban nhân dân thành phố Hà Nội, các cơ quan, chức năng ban ngành và nhân
dân cùng tham gia vào hoạt động bồi dưỡng lực lượng lao động hoạt động,
làm việc trong ngành dịch vụ du lịch nhằm đưa ngành dịch vụ du lịch trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn của thành phố Hà Nội.
Mục đích phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành dịch vụ du
lịch là nhằm đào tạo, bồi dưỡng lực lượng lao động có đầy đủ trình độ, năng
lực đáp ứng được với yêu cầu, nhiệm vụ của ngành dịch vụ du lịch.
1.1.4. Tiêu chí phát triển NNL CLC ngành dịch vụ du lịch
Nguồn nhân lực trong ngành dịch vụ du lịch có đặc điểm khác với
những ngành kinh tế khác như: nguồn nhân lực ngành dịch vụ du lịch phải
có kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ sâu về dịch vụ du lịch; nguồn nhân lực
ngành dịch vụ du lịch phải có kiến thức về văn hóa, xã hội và giỏi ngoại
ngữ; nguồn nhân lực ngành dịch vụ du lịch phải có tâm huyết làm dịch vụ
du lịch; nguồn nhân lực ngành dịch vụ du lịch phải hiểu biết và có ý thức
về phát triển bền vững; …
Mặt khác, ngành dịch vụ du lịch là một ngành có tính đặc thù cao, đòi
hỏi có sự chuyên nghiệp, do vậy nguồn nhân lực CLC ngành dịch vụ du lịch
phải đáp ứng đầy đủ các kỹ năng như giao tiếp, ngoại ngữ, sử dụng thành thạo
công nghệ thông tin, độ tuổi… bên cạnh trình độ học vấn cơ bản, cụ thể:
18
Một là, đáp ứng về tiêu chí trình độ đào tạo:
Nguồn nhân lực đã qua đào tạo (trình độ Đại học trở lên)
Hai là, đáp ứng về tiêu chí trình độ ngoại ngữ: Ngoại ngữ đối với
nguồn nhân lực chất lượng cao thì phải thành thạo.
Ba là, đáp ứng về tiêu chí độ tuổi (< 30 tuổi ): Nguồn nhân lực chất
lượng cao phải là nguồn nhân lực trẻ (nhân lực trẻ thì năng động, tiếp thu và
áp dụng những tiến bộ KHCN, công nghệ thông tin tốt hơn).
1.2. Quan niệm, nội dung và các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao ngành dịch vụ du lịch ở thành phố Hà Nội
1.2.1. Quan niệm, nội dung phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao ngành dịch vụ du lịch ở thành phố Hà Nội
Ngành dịch vụ du lịch bao gồm: Nhà hàng, khách sạn (KS), lữ hành,
vận chuyển du lịch và dịch vụ khác (giải trí, vui chơi, chăm sóc sức khỏe,…)
Dịch vụ du lịch là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu
trú, nhà hàng, khách sạn, hướng dẫn, … và những dịch vụ khác nhằm đáp ứng
yêu cầu của khách du lịch.
Nguồn nhân lực trực tiếp hoạt động trong ngành dịch vụ du lịch, bao gồm:
Một là, những người làm việc trực tiếp trong ngành du lịch bao gồm
toàn bộ cán bộ công nhân viên ở tất cả các bộ phận khác nhau nằm trong các
công ty du lịch, các hãng lữ hành, các doanh nghiệp kinh doanh du lịch trên
toàn quốc. Những người trực tiếp kinh doanh du lịch ở các vị trí khác nhau
của ngành kinh tế trọng điểm này của đất nước. Toàn bộ những người làm
việc ở các vị trí khác nhau trong các lĩnh vực kinh doanh dịch vụ du lịch là
những người lao động trực tiếp, bao gồm: Những người làm việc trong các
doanh nghiệp Kinh doanh lữ hành. Những người làm việc trong các doanh
nghiệp Kinh doanh lưu trú. Những người làm việc trong các doanh nghiệp
Kinh doanh vận chuyển khách du lịch. Những người làm việc trong các doanh
nghiệp Kinh doanh các dịch vụ bổ trợ. Những người làm việc trong các doanh
nghiệp Kinh doanh khu du lịch, đô thị du lịch.
19
Trong mỗi một lĩnh vực, lại có rất nhiều các vị trí khác nhau với các
nhiệm vụ và chức năng khác nhau. Tất cả những cá nhân đó được tổ chức, sắp
xếp, biên chế thành những bộ phận với cơ cấu khác nhau… Đó là những
người trực tiếp làm việc trong ngành dịch vụ du lịch. Trong nguồn nhân lực
hoạt động trực tiếp lại hình thành đội ngũ lao động chuyên nghiệp và đội ngũ
lao động thời vụ. Đội ngũ lao động thời vụ trong ngành dịch vụ du lịch
thường xuất hiện ở những nơi có hoạt động du lịch diễn ra không thường
xuyên. Ngoài những người hoạt động trực tiếp, nguồn nhân lực hoạt động
gián tiếp trong ngành dịch vụ du lịch bao gồm:
Hai là, những người làm các công việc khác nhau tại các tuyến điểm du
lịch. Tại các tuyến điểm này, để phục vụ hoạt động du lịch có rất nhiều các
công việc khác nhau đòi hỏi nhiều người làm việc trong các dịch vụ có liên
quan đến hoạt động du lịch: từ các nhân viên bảo vệ, những người bán và
kiểm soát vé, những người cung ứng các dịch vụ lưu niệm, dịch vụ ẩm thực,
nghỉ ngơi, giải trí, lưu trú ngắn… đến những người làm công tác điều phối và
quản lý giao thông, vệ sinh môi trường, thu gom và xử lý rác thải.v.v…
Phát triển NNL chất lượng cao ngành dịch vụ du lịch (DL) là những
hoạt động nhằm tăng cường số lượng và nâng cao chất lượng, hiệu quả làm
việc của lực lượng lao động (LĐ) chất lượng cao đang và sẽ làm việc trực tiếp
trong ngành dịch vụ DL, bao gồm: LĐ trong các doanh nghiệp dịch vụ DL
gồm đội ngũ cán bộ quản trị kinh doanh, đội ngũ LĐ nghiệp vụ trong các
khách sạn- nhà hàng, công ty lữ hành, vận chuyển DL…
Phương thức phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
ngành dịch
vụ du lịch ở thành phố Hà Nội là tổng hợp những cách thức, phương pháp cùng
với những cơ chế, chính sách đúng đắn, hợp lý, khoa học của Thành ủy,cùng với
các cơ quan, chức năng ban ngành tác động vào lực lượng lao động hoạt động
trong lĩnh vực dịch vụ du lịch.
20
Nội dung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành dịch vụ du
lịch là phát triển về số lượng, chất lượng nguồn nhân lực, đảm bảo hợp lý về
cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng cao tức là nguồn nhân lực chất lượng cao
phải bảo đảm về: trình độ học vấn; cơ cấu về giới tính; độ tuổi; cơ cấu lao động
trong các thành phần, các ngành, các lĩnh vực kinh tế; cơ cấu lao động trong nội
bộ ngành, lĩnh vực kinh tế ... trong nền kinh tế quốc dân, cụ thể:
Thứ nhất, không ngừng phát triển số lượng nguồn nhân lực chất lượng cao
ngành dịch vụ du lịch.
Số lượng LĐ trong các doanh nghiệp (DN) kinh doanh dịch vụ DL
thường chịu sự tác động của số lượng các đơn vị kinh doanh. Trong đó có
nhóm lao động trực tiếp và nhóm lao động gián tiếp trong các cơ sở dịch vụ
du lịch.
Vì vậy, để phát triển về số lượng lao động dịch vụ du lịch đòi hỏi phát
triển các cơ sở dịch vụ du lịch, tăng cường các cơ sở lưu trú và dịch vụ ăn
uống, các sản phẩm du lịch ...
Thực chất phát triển NNL chất lượng cao ngành dịch vụ du lịch là quá
trình tăng về số lượng và nâng cao chất lượng nhằm tạo ra quy mô và cơ cấu
ngày càng phù hợp với nhu cầu về nhân lực phục vụ sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội (KT-XH) .
Khi nói đến nguồn nhân lực của bất kỳ một tổ chức, địa phương
hay quốc gia nào thì vấn đề đầu tiên đặt ra là số lượng nguồn nhân lực. Nghĩa
là tổ chức, địa phương hay quốc gia có bao nhiêu người và sẽ có thêm bao
nhiêu người nữa trong tương lai. Sự phát triển về số lượng nguồn nhân lực
dựa trên hai nhóm yếu tố: yếu tố bên trong, bao gồm nhu cầu thực tế công
việc đòi hỏi phải tăng số lượng lao động; các yếu tố bên ngoài của tổ chức
như sự gia tăng về dân số hay lực lượng lao động do di dân.
Phát triển số lượng NNL CLC để luôn đảm bảo có đủ số lượng NNL
chất lượng cao theo yêu cầu công việc. Việc phát triển về số lượng NNL chất
21
lượng cao dựa trên cơ sở đáp ứng phát triển thêm về quy mô, chức năng,
nhiệm vụ của ngành dịch vụ DL Hà Nội trong giai đoạn mới. Việc phát triển
này chủ yếu thông qua việc tuyển dụng, tiếp nhận lao động hợp lý, công khai,
công bằng hướng tới mục tiêu đảm bảo số lượng NNL chất lượng cao cho
ngành, đảm bảo từng vị trí làm việc đều có cá nhân đảm bảo chất lượng theo
sự phát triển của ngành dịch vụ DL Hà Nội.
Thứ hai, phát triển về chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao ngành
dịch vụ du lịch.
Đi đôi với phát triển về số lượng, vấn đề phát triển chất lượng NNL
chất lượng cao cần đặc biệt được quan tâm. Chất lượng NNL chất lượng cao
biểu hiện ở sức khỏe, thể lực, trí lực và trình độ chuyên môn kỹ thuật, kiến
thức và trình độ văn hóa của người lao động,.... Sự phát triển về thể lực, thể
chất hay sức khỏe để đảm bảo cho con người phát triển, trưởng thành một
cách bình thường, đáp ứng được công việc được giao. Trí lực là yếu tố ngày
càng đóng vai trò quyết định trong sự phát triển NNL chất lượng cao, cần
phải đặc biệt nhấn mạnh sự phát triển năng lực trí tuệ và chuyên môn nghiệp
vụ của con người.
Ngoài ra, khi nói đến chất lượng NNL CLC không thể không nói đến
khía cạnh phẩm chất đạo đức, nhân cách của con người. Vấn đề đạo đức con
người ngày càng được quan tâm nhiều hơn trong điều kiện cuộc sống ngày
càng được nâng cao, khi nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển như ngày
nay. Phát triển chất lượng NNL là phát triển cả về nhân cách, phẩm chất đạo
đức của con người nhằm đem lại cho con người khả năng thực hiện tốt các
chức năng xã hội của nó, nâng cao năng lực sáng tạo của con người trong hoạt
động thực tiễn xã hội.
Phát triển chất lượng NNL CLC còn thể hiện qua việc nâng cao chất
lượng công tác tuyển dụng, quản lý, sử dụng công chức hợp lý phù hợp với
22
năng lực, trình độ, sở trường của mỗi người, đẩy mạnh các chương trình đào
tạo, bồi dưỡng nhân lực phù hợp với đặc thù của ngành.
Để phát triển chất lượng NNL CLC, cũng cần thiết phải xây dựng được môi
trường làm việc xanh, sạch, đẹp, an toàn, không khí làm việc tốt,… xây dựng các
phong trào văn hóa, thể thao góp phần nâng cao sức khỏe người lao động.
Tóm lại, để nâng cao chất lượng NNL chất lượng cao đòi hỏi các yếu tố
sau: có lòng tự trọng và tự tôn dân tộc; có tinh thần trách nhiệm và ý thức
cộng đồng; có trình độ chuyên môn vững vàng; có phương pháp và kỹ năng
thực hành; sự năng động sáng tạo trong công việc; có ý thức tự giác học hỏi
nâng cao trình độ, biết tận dụng mọi cơ hội để mở rộng sự hiểu biết; có sức
khỏe tốt để hoàn thành các công việc được giao.
Thứ ba,cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng cao ngành dịch vụ du lịch hợp lý.
Với cơ cấu lao động phân theo ngành nghề và cơ cấu lao động theo vị
trí công tác thì cơ cấu nguồn nhân lực dịch vụ du lịch bao gồm:
Cơ cấu lao động phân theo ngành nghề gồm: trong cơ sở lưu trú, vận
chuyển khách và lữ hành. Tùy thuộc vào ngành nghề mà lao động du lịch
chiếm tỉ trọng cao hay thấp. Nó ảnh hưởng đến cơ cấu nguồn nhân lực dịch
vụ du lịch. Bởi hầu hết lao động tập trung trong các cơ sở lưu trú, ở đó nhu
cầu về nguồn nhân lực là rất lớn.
Cơ cấu lao động phân theo vị trí công tác bao gồm: Quản lý kinh tế,
nghiệp vụ kỹ thuật, nghiệp vụ du lịch. Căn cứ vào trình độ chuyên môn mà
xây dựng các vị trí công tác hợp lý. Mỗi lĩnh vực có những đặc trƣng riêng
làm cho cơ cấu nhân lực dịch vụ du lịch không đồng đều.
Cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng cao được thể hiện trên các phương
diện như: cơ cấu trình độ học vấn: trên đại học, đại học, cao đẳng; trung học
chuyên nghiệp; công nhân kỹ thuật; cơ cấu về giới tính; độ tuổi; cơ cấu lao động
trong các thành phần, các ngành, các lĩnh vực kinh tế; cơ cấu lao động trong nội
bộ ngành, lĩnh vực kinh tế ... trong nền kinh tế quốc dân.
23
Ở đây, cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng cao hợp lý, tức là phát triển hợp
lý về số lượng, đào tạo theo cấp bậc (trình độ) phù hợp với nhu cầu thực tiễn của
các lĩnh vực, các ngành, các thành phần kinh tế, phù hợp với qui hoạch phát triển
chung của Hà Nội. Cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng cao hợp lý sẽ tạo điều
kiện thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
Vì vậy, phát triển cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng cao ngành dịch vụ
du lịch cần phối hợp chặt chẽ các đơn vị kinh doanh dịch vụ DL trong việc
xây dựng và kế hoạch đào tạo nhân lực chất lượng cao, nâng cao năng lực
quản lý của đội ngũ lãnh đạo để đáp ứng được yêu cầu phát triển KT – XH .
Như vậy, sự phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành dịch vụ du
lịch ở Thành phố Hà Nội chính là các hoạt động nhằm tạo ra những điều kiện
cần thiết cho số đông người lao động phát triển cả về thể chất, trí tuệ, trình độ
chuyên môn, tay nghề ngày càng cao đáp ứng mục tiêu, yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của Thành phố Hà Nội.
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ngành dịch vụ du lịch ở thành phố Hà Nội
Trong quá trình phát triển NNL nói chung và phát triển NNL ngành DL
nói riêng chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau. Có thể kể đến các yếu
tố chính như sau:
Một là, phát triển cơ sở hạ tầng (CSHT) và khả năng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành: Định hướng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011-2020 được thủ tướng chính phủ nhấn mạnh là tái cấu trúc nền kinh
tế. Một trong những nội dung đầu tiên là thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Sự phát triển về CSHT sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế.
Nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH)
nông nghiệp nông thôn với nội dung “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
24
hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và LĐ các ngành công
nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và LĐ nông nghiệp, xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội (KT – XH), quy hoạch và phát
triển nông thôn, tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù
hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, văn minh, không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và văn hóa của nông dân nông thôn”, theo đó là quá trình
phân công lại LĐ xã hội, góp phần nâng cao chất lượng NNL nói chung
và chất lượng NNL chất lượng cao ngành dịch vụ DL nói riêng. Cấu trúc
nguồn nhân lực biến đổi theo hướng tỷ trọng lao động thành thạo, có
chất lượng ngày càng tăng lên, lao động có tay nghề thấp ngày càng
giảm, tỷ trọng lao động chất lượng cao ngày càng chiếm nhiều hơn trong
chi phí về lao động.
Trình độ phát triển kinh tế cũng ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển
dịch vụ DL và đến lượt mình, trình độ phát triển dịch vụ DL sẽ quyết định
đến số lượng, chất lượng và xu thế phát triển của NNL ngành dịch vụ DL.
Hai là, trình độ phát triển của giáo dục đào tạo (ĐT): Nguồn nhân lực
chất lượng cao không phải tự nhiên mà có được, phải thông qua quá trình giáo
dục đào tạo lâu dài và phù hợp với yêu cầu của tiến bộ xã hội. Nguồn nhân
lực chất lượng cao ngành dịch vụ DL đòi hỏi phải đáp ứng được đa ngành, đa
lĩnh vực và phải thỏa mãn được các yêu cầu của nhà đầu tư, đặc biệt là nhà
đầu tư nước ngoài. Để đáp ứng được điều đó, lao động ngành dịch vụ du lịch
phải được đào tạo bài bản, chuyên sâu, cập nhật được kiến thức khoa học và
khả năng làm việc tại các doanh nghiệp. Giáo dục ĐT là yếu tố cấu thành
quan trọng của phát triển NNL. Chất lượng của giáo dục ĐT ảnh hưởng trực
tiếp đến chất lượng NNL, thông qua giáo dục ĐT các quốc gia hình thành
NNL của mình với trình độ ĐT, cơ cấu ngành nghề phù hợp với yêu cầu phát
triển. Trình độ phát triển của ĐT DL ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của
NNL ngành dịch vụ DL. Sự phát triển của hệ thống giáo dục đào tạo có tác
25
động rất lớn đền nguồn nhân lực chất lượng cao ngành dịch vụ du lịch ở
Thành phố Hà Nội.
Ba là, tốc độ gia tăng dân số: Ở những nước đang phát triển, quy mô dân
số lớn, tốc độ gia tăng cao chính là lực cản đối với tốc độ tăng trưởng kinh
tế và phát triển NNL chất lượng cao. Tốc độ gia tăng dân số cao gây sức
ép lên các cơ sở hạ tầng xã hội, ảnh hưởng đến việc hoạch định các chính
sách xã hội của nhà nước, trong đó có chính sách về giáo dục ĐT và phát
triển NNL chất lượng cao. Để nâng cao chất lượng NNL cần hạ thấp tỷ
lệ phát triển dân số ở mức hợp lý.
Bốn là, các chính sách KT - XH, kế hoạch, qui hoạch, liên kết trong phát
triển của địa phương: Các chính sách KT - XH của Nhà nước như: chính
sách giáo dục ĐT; chính sách tuyển dụng, sử dụng lao động, LĐ tiền
lương, bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động... đều có tác động trực tiếp đến
NNL chất lượng cao.
Chính sách KT - XH của Nhà nước không chỉ tạo điều kiện phát triển
NNL chất lượng cao mà còn hạn chế các tác động tiêu cực đến sự phát triển
của NNL chất lượng cao thông qua những công cụ điều tiết vĩ mô. Chính sách
phát triển dịch vụ DL của Nhà nước tác động đến sự phát triển DL, trong đó
chính sách ĐT phát triển NNL chất lượng cao ngành dịch vụ DL ảnh hưởng
trực tiếp đến sự phát triển NNL chất lượng cao ngành dịch vụ DL.
Năm là, các nhân tố tác động từ bên ngoài:
Thứ nhất, toàn cầu hoá
Quá trình toàn cầu hoá đó thúc đẩy cuộc chạy đua phát triển NNL chất
lượng cao tại các quốc gia, khu vực trên thế giới. Toàn cầu hóa đó làm cho
các nền kinh tế phát triển nhanh chóng hơn và trở thành một thị trường toàn
cầu, tương tác và phụ thuộc lẫn nhau, cạnh tranh gay gắt với nhau. Khả năng
cạnh tranh được quyết định bởi năng lực tạo ra giá trị tăng thêm của các sản
26