Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ QUẢN lý tài sản CÔNG THUỘC cơ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ nước QUẬN hà ĐÔNG, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (520.08 KB, 94 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1

1.1.
1.2.
Chương 2

2.1.

2.2.
2.3.

Chương 3

3.1.

3.2.

3

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG
THUỘC CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ
NƯỚC CẤP QUẬN
Tài sản công và tài sản công thuộc các cơ quan hành
chính nhà nước
Quản lý tài sản công và quản lý tài sản công thuộc các
cơ quan hành chính nhà nước cấp Quận
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG
THUỘC CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ


NƯỚC QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Cơ quan hành chính quận Hà Đông và tổng quan về khối
lượng tài sản công thuộc các cơ quan hành chính quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội
Thực trạng quản lý tài sản công thuộc bộ máy hành
chính quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội thời gian qua
Nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ, SỬ DỤNG TÀI SẢN CÔNG THUỘC
CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI
GIAN TỚI
Những quan điểm cơ bản nâng cao hiệu quả quản lý
tài sản công thuộc các cơ quan hành chính nhà nước
quận Hà Đông, thành phố Hà Nội thời gian tới
Những giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả quản lý
nhằm sử dụng có hiệu quả tài sản công thuộc các cơ
quan hành chính nhà nước ở quận Hà Đông, thành
phố Hà Nội trong thời gian tới

KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

12
12
22

41


41
46
53

60

60

63
81
83
90


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử phát triển của các nhà nước trên thế giới đã cho thấy, tài sản
công là nguồn lực nội sinh của đất nước, là yếu tố cơ bản của quá trình
sản xuất và quản lý xã hội, là nguồn lực tài chính tiềm năng cho đầu tư
phát triển. Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, vì mục tiêu “dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Vì
vậ y, d ù không tham gia trực tiếp vào sản xuất nhưng tài sản công là yếu
tố quan trọng bảo đảm cho công cuộc đổi mới, phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần nâng quan trọng cho sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Quản lý tài sản công là bộ phận hợp thành của quản lý tài chính công.
Trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với tốc độ tăng trưởng
nhanh và bền vững đòi hỏi phải phát huy cao độ và sử dụng có hiệu quả mọi
nguồn lực của đất nước, trong đó tài sản công là khối tài sản lớn được hình thành

từ ngân sách nhà nước, thuộc sở hữu nhà nước, được Nhà nước giao cho chính
quyền các cấp, đơn vị sự nghiệp, các tổ chức vũ trang, tổ chức chính trị xã hội
quản lý sử dụng phục vụ các hoạt động công nhằm đáp ứng các mục tiêu về phát
triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và các công việc khác thuộc
chức năng, thẩm quyền của chính quyền các cấp và các tổ chức nói trên theo quy
định của pháp luật. Do đó, để nâng cao hiệu quả sử dụng khối tài sản này, các
cấp, các đơn vị sự nghiệp, tổ chức vũ trang, tổ chức chính trị xã hội từ trung
ương đến địa phương phải nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý, sử dụng các
tài sản công thuộc các đơn vị và các tổ chức đó.
Thực trạng công tác quản lý tài sản công ở nước ta đang tồn tại những vấn
đề cần được nghiên cứu thấu đáo. Bên cạnh những ưu điểm, thành tựu cũng còn
nhiều hạn chế. Ở một số cấp, ngành, và địa phương tình trạng lãng phí, thất thoát
tài sản, công quỹ còn diễn ra khá phổ biến. Không ít cơ quan, đơn vị đua nhau xin
3


đất, xây trụ sở to, bề thế, sang trọng, tốn kém nhưng sử dụng không hết hoặc
không hiệu quả gây lãng phí nhiều tỷ đồng; nhiều nơi công sở sử dụng tài sản
chung thiếu tiết kiệm; không ít cán bộ, công chức “lấy tài sản chung để làm việc
riêng”: tận dụng triệt điện, nước của cơ quan để đun nấu, tắm giặt, là quần áo, chơi
Game, sử dụng điện thoại công quá tiêu chuẩn, định mức; tình trạng lợi dụng xe
công vào mục đích riêng cũng đang là vấn đề bức xúc; việc thanh lý tài sản công
cũng đang bị không ít cơ quan, cá nhân lợi dụng để tham nhũng, biến của công
thành của riêng với giá rẻ.
Nguyên nhân của những bất cập đó là do thiếu sự quan tâm chỉ đạo,
hướng dẫn, kiểm tra, kiểm soát thống nhất, thường xuyên của cấp quản lý trực
tiếp; đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp chính quyền cơ sở chưa thực sự quan tâm
đúng mức đến nguyên tắc quản lý nhà nước về lĩnh vực này để thực hiện quản
lý, chỉ đạo việc kiểm tra, kiểm soát trong nội bộ thường xuyên theo chức
năng, nhiệm vụ được giao đối với khối tài sản công do đơn vị quản lý; thủ

trưởng cơ quan đơn vị, bộ phận chuyên môn, giúp việc và kế toán đơn vị,
chưa nghiên cứu kỹ hệ thống luật và văn bản hướng dẫn hiện hành dẫn đến
chưa tuân thủ nghiêm túc nguyên tắc kiểm soát, kiểm tra việc chấp hành công
tác quản lý tài sản công từ khâu lập kế hoạch dự toán mua sắm, đến quản lý,
sử dụng, chấp hành chế độ báo cáo và thanh lý tài sản.
Trong tình hình chung đó, có vấn đề về quản lý tài sản công thuộc các
cơ quan hành chính Nhà nước của quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Vì vậy,
nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng tài sản công của các cơ quan hành chính
Nhà nước của quận Hà Đông, thành phố Hà Nội là việc hết sức cần thiết
nhằm phát huy những những kết quả đã đạt được, khắc phục những tồn tại,
hạn chế và đáp ứng yêu cầu quản lý tài sản công trong giai đoạn mới. Từ
những lý do trên tác giả đã lựa chọn vấn đề: “Quản lý tài sản công thuộc
các cơ quan hành chính Nhà nước quận Hà Đông, Thành phố Hà
Nội” làm đề tài luận văn.
4


2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về thực hành tiết kiệm và
chống tham ô lãng phí, phòng chống tham nhũng, trong những năm gần đây,
những vấn đề liên quan đến tài sản công và quản lý tài sản công luôn được nhiều
cơ quan quản lý, cơ quan khoa học, các chuyên gia trong lĩnh vực quản lý và
nghiên cứu quan tâm. Điều đó có thể thấy rõ qua khối lượng các tài liệu, từ hệ
thống các văn bản pháp quy của Chính phủ, Bộ Tài Chính, các tham luận khoa
học, công trình nghiên cứu chuyên biệt và các bài báo về vấn đề này.
Cho đến đã có nhiều công trình khoa học liên quan đến vấn đề tài sản công, hoặc vấn đề
quản lý tài sản công đã được công bố. Tiêu biểu là một số công trình khoa học sau:

-


Tác giả

Nguyễn Mạnh Hùng với đề tài “Cơ sở pháp lý cao nhất cho

việc quản lý, sử dụng Tài sản công”, luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài
chính [26]. Trong công trình này, trên cơ sở kế thừa, phát triển những lý luận
và thực tiễn về quản lý tài sản công, tác giả quan niệm rằng Tài sản công có
vai trò rất quan trọng, là nguồn tài sản lớn đảm bảo môi trường cho cuộc sống
của con người; là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất và quản lý xã hội; là
nguồn lực tài chính tiềm năng cho đầu tư phát triển, phục vụ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Nhà nước là chủ sở hữu của mọi tài sản công, song
Nhà nước không phải là người trực tiếp sử dụng toàn bộ tài sản công mà tài
sản công được Nhà nước giao cho các cơ quan, đơn vị thuộc bộ máy nhà nước
v.v...trực tiếp quản lý, sử dụng. Để thực hiện vai trò chủ sở hữu tài sản công
của mình, Nhà nước phải thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với tài
sản công nhằm sử dụng, bảo tồn, phát triển nguồn tài sản công tiết kiệm, hiệu
quả phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Tài sản công trong khu
vực hành chính sự nghiệp là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ tài sản
công của đất nước, được Nhà nước giao cho các cơ quan hành chính, đơn vị
sự nghiệp và tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp trực tiếp quản lý, sử dụng. Luận án cũng đã đưa ra
5


các chỉ tiêu đánh giá hiệu lực, hiệu quả cơ chế quản lý tài sản công trong khu
vực hành chính sự nghiệp. Để quản lý tài sản công trong khu vực hành chính
sự nghiệp, Nhà nước cần có cơ chế, chính sách nhằm quản lý, khai thác tài
sản công trong khu vực hành chính sự nghiệp có hiệu quả, tiết kiệm và tác giả
đã trình bày cơ chế quản lý tài sản công trong khu vực hành chính sự nghiệp ở
một số nước trên thế giới như: Trung Quốc, Pháp, Canađa, Australia và nêu

lên bốn nội dung để vận dụng vào việc hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công
trong khu vực hành chính sự nghiệp ở Việt Nam. Tài sản công trong khu vực
hành chính sự nghiệp đã được khai thác, sử dụng góp phần đáng kể vào công
cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Song hệ thống cơ chế quản lý tài
sản công trong khu vực hành chính sự nghiệp còn nhiều bất cập, hạn chế chưa
thực sự thích ứng với thực tế dẫn đến tình trạng sử dụng tài sản công trong
khu vực hành chính sự nghiệp không đúng mục đích, gây lãng phí, thất thoát
diễn ra phổ biến. Trên cơ sở những trình bày về mặt lý luận thực tiễn, luận án
đã đề xuất những quan điểm, yêu cầu và các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn
thiện cơ chế quản lý tài sản công trong khu vực hành chính sự nghiệp ở Việt
Nam trong thời gian tới (2009-2020).
- Tác giả Phan Hữu Nghị với đề tài: “Quản lý tài sản công trong các cơ
quan hành chính nhà nước ở Việt Nam”, luận án kinh tế, Trường Đại học
Kinh tế Quốc dân [25].
Trong công trình này tác giả luận bàn về quản lý tài sản công, giới hạn
ở phạm vi nghiên cứu là tài sản công thuộc trụ sở làm việc ở các cơ quan hành
chính nhà nước, song luận án đã đề cập, luận giải làm rõ nhiều vấn đề về quản
lý tài sản công. Tác giả đã làm rõ quan niệm cơ quan hành chính nhà nước
trong nền kinh tế quốc dân, tài sản công trong các cơ quan hành chính
nhà nước và quản lý tài sản công trong các cơ quan hành chính nhà nước
ở một số nước và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác
giả đã làm rõ tổ chức mô hình quản lý tài sản công của Việt nam, đánh giá
6


thực trạng quản lý trụ sở làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước
của Việt Nam, đánh giá chung về công tác quản lý trụ sở làm việc trong
các cơ quan hành chính nhà nước. Từ thực trạng đánh giá, tác giả đã xác
định mục tiêu, yêu cầu đổi mới quản lý trụ sở làm việc của cơ quan
hành chính nhà nước và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện quản lý trụ

sở làm việc của cơ quan hành chính.
- Tác giả Mai Tuấn Thành, “Hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản chuyên dùng
ở Binh chủng Công binh - Bộ Quốc phòng”, luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành
tài chính và ngân hàng, Học viện hậu cần, Bộ Quốc phòng [31].
Trong công trình này, tác giả tiếp cận vấn đề nghiên cứu là tài sản công ở
cấp độ cụ thể, đó là tài sản chuyên dùng của Binh chủng Công binh, Bộ Quốc
phòng. Theo đó, tác giả xác định quản lý tài sản chuyên dùng ở Binh chủng
Công binh, Bộ Quốc phòng là nhiệm vụ rất quan trọng trong hệ thống quản lý tài
sản Nhà nước trong Quân đội. Tài sản chuyên dùng trong Quân đội là một bộ phận
của tài sản của Nhà nước, được Nhà nước giao cho các đơn vị trong Quân đội quản
lý, sử dụng. Các công trình chuyên dùng như: nhà và các tài sản khác gắn liền với
đất thuộc doanh trại, trụ sở đóng quân, kho tàng, trường đào tạo nghiệp vụ; các
phương tiện vận tải chuyên dùng; trang bị chuyên dùng; công cụ hỗ trợ và các tài
sản khác có cấu tạo đặc biệt phục vụ công tác, chiến đấu của quân đội...có ý nghĩa
quan trọng quyết định việc hoàn thành nhiệm vụ của mỗi đơn vị Quân đội và toàn
quân trong việc Quân đội thực hiện nhiệm vụ chính trị được Đảng và Nhà nước
giao là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tác giả đã đưa ra một hệ thống quan điểm,
giải pháp về hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản chuyên dùng ở Binh chủng Công
binh, Bộ Quốc phòng thời gian tới.
- Tác giả Phan Hồng Mai với đề tài "Quản lý tài sản tại các công ty cổ phần
ngành xây dựng niêm yết ở Việt Nam", luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế
Quốc dân [32].

7


Trong công trình này, bàn đến việc quản lý tài sản tại các doanh nghiệp
ngành xây dựng. Trên cơ sở lý luận chung về quản lý tài sản, tác giải đã đưa
ra khái niệm mới về quản lý tài sản tại các doanh nghiêp khác biệt với quan
điểm của nhiều chuyên gia kinh tế và nhà quản lý thực tiễn ở Việt Nam, trong

đó, nhấn mạnh tài sản cần được quản lý ngay từ khi doanh nghiệp có nhu cầu
hình thành tài sản cho tới lúc thanh lý, thay thế bằng tài sản khác. Khái niệm
này là cơ sở lý luận quan trọng để xác định nội dung cụ thể của hoạt động
quản lý từng loại tài sản. Dựa trên những mô hình quản lý tài sản tại các
doanh nghiệp nói chung, luận án đã phát triển hệ thống lý luận về quản lý tài
sản áp dụng riêng cho doanh nghiệp ngành xây dựng, gắn liền với đặc thù của
ngành nghề này với các nội dung là: dự báo dòng tiền trong lĩnh vực xây lắp;
thỏa thuận điều khoản thanh toán với chủ đầu tư, theo dõi thu hồi công nợ;
tính giá thành và kết chuyển chi phí sản xuất dở dang; lựa chọn nhà thầu phụ
và thuê tài sản cố định. Thông qua việc nghiên cứu điển hình 10 công ty cổ
phần ngành xây dựng niêm yết có nguy cơ phá sản cao do lạm dụng đòn bẩy
tài chính, luận án đã đề xuất giải pháp phù hợp về cơ cấu vốn và quản lý tài
sản Các giải pháp trên hoàn toàn có thể vận dụng trong thực tiễn.
- Ngoài những công trình trực tiếp bàn về quản lý tài sản, tài sản công còn có công trình bàn về
quản lý tài chính - cái mang tính bao trùm hơn so với tài sản công,

tác giả Phan

Thị Thu Mai với đề tài: “Hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán nhằm tăng
cường quản lý tài chính trong các đơn vị hành chính sự nghiệp ngành Lao
động – Thương binh và xã hội”, luận án tiến sĩ kinh tế chuyên ngành Kế toán,
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2012). Công trình này trên cơ sở coi tổ
chức hạch toán kế toán và quản lý tài chính trong đơn vị hành chính sự nghiệp
có tầm quan trọng đặc biệt, tác giả luận án đã chỉ rõ tổ chức hạch toán kế toán
tác động tới hiệu quả quản lý tài chính trên các mặt. Đồng thời trên cơ sở điều
tra, khảo sát thực tiễn, luận án đề xuất các giải pháp hoàn thiện tổ chức hạch
8


toán kế toán nhằm tăng cường quản lý tài chính trong các đơn vị hành chính

sự nghiệp ngành Lao động – Thương binh và xã hội
Ngoài ra còn có một số nghiên cứu khác như:

"Hoàn thiện cơ chế quản lý nhà

công sở tại các cơ quan hành chính nhà nước”, Đề tài khoa học (2010) của PGS,TS Nguyễn Ngô
Thị Hoài Thu, Phó giám đốc Trường đào tạo cán bộ tài chính. “Quản lý tài sản công trong các cơ
quan hành chính - sự nghiệp hiện nay ở Việt Nam”, đề tài khoa học TS. Trần Văn Giao, Học viện
hành chính quốc gia. “Quản lý tài sản công”, Giáo trình do tập thể các tác giả PGS,TS Nguyễn Thị Bất
và PGS,TS. Nguyễn Văn Xa cùng một số cộng sự của các nghiên cứu sinh của Trường Đại học Kinh tế quốc
dân biên soạn đã công bố. Tác giả Phạm Văn Chung với bài viết

Quản lý tài sản công đăng

trên Báo Nhân dân, số ra ngày 25/12/2013. Bài phát biểu của ông Phạm Đình
Cường - Cục trưởng Cục quản lý công sản - Bộ Tài chính trả lời phỏng vấn
báo Thời báo Tài chính. “Biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý tài sản công”
của Th.s Nguyễn Thị Thu Hương, đăng trên Tạp chí Tài chính số 8, năm
2013.
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã khái quát thực trạng quản lý tài
sản công của nước ta, đưa ra những đánh giá và giải pháp nhưng chủ yếu
mang tính khuyến nghị và chưa bao quát, chưa dựa trên những chuẩn mực
quản trị tài sản công mang tính quốc tế. Giáo trình Quản lý tài sản công cũng
mới đề cập có tính khoa học và hệ thống nguyên tắc đặc điểm và nội dung
quản lý tài sản công nói chung.
Mặc dù đã

có một số công trình nghiên cứu về quản lý tài sản công, bao gồm cả

quản lý tài sản công thuộc các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, song chưa có công trình

cụ thể nào đề cập đến quản lý tài sản công thuộc các cơ quan hành chính Nhà nước tại quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu nói trên sẽ được tác giả kế thừa
trong quá trình trình bày những phân tích về cơ sở lý luận và các nội dung có liên quan khác.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải những vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý tài sản
công thuộc các cơ quan hành chính Nhà nước quận Hà Đông, thành phố Hà Nội;

9


đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý tài sản công thuộc các
cơ quan hành chính Nhà nước của quận Hà Đông, thành phố Hà Nội trong thời
gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải cơ sở lý luận về quản lý tài sản công thuộc các cơ quan
hành chính Nhà nước của quận Hà Đông.
- Phân tích thực trạng quản lý tài sản công thuộc các cơ quan hành
chính Nhà nước của quận Hà Đông trong thời gian qua.
- Đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý tài
sản công thuộc các cơ quan hành chính Nhà nước của quận Hà Đông, thành
phố Hà Nội trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Quản lý tài sản công thuộc các cơ quan hành
chính Nhà nước.
* Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về nội dung: Trong đề tài này, dựa trên nền tảng
của lý luận quản lý nói chung, luận văn hướng sự nghiên cứu vào việc hoàn
thiện quản lý tài sản công đối với khối tài sản công thuộc các cơ quan hành

chính Nhà nước cấp Quận.
Phạm vi nghiên cứu về không gian: Địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
Phạm vi về nghiên cứu thời gian: Thời gian khảo sát đánh giá từ
2008 đến nay (từ khi quận Hà Đông trở thành một đơn vị hành chính của
thành phố Hà Nội).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn được tiến hành trên cơ sở sử dụng phương pháp của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để nghiên cứu về quản
10


lý tài sản công thuộc các cơ quan hành chính Nhà nước trên địa bàn quận Hà
Đông trong điều kiện của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Từ đó có cách nhìn nhận đánh giá khách quan về những thành tựu
hạn chế; đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác này quản lý
tài sản công thuộc các cơ quan hành chính Nhà nước trên địa bàn quận Hà
Đông dưới góc độ của kinh tế chính trị học.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế chính
trị Mác - Lê nin và các phương pháp khác như: trừu tượng hóa khoa học; kết hợp
lôgíc và lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh và phương chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài nghiên cứu thành công sẽ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn nhất định
để có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, giúp các cơ quan nghiên cứu, các
Sở, Ban, ngành liên quan của quận Hà Đông, thành phố Hà Nội tham khảo để
hoạch định cơ chế, chính sách và chỉ đạo thực tiễn trong quản lý tài sản công.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các trường đào tạo và các
lớp tập huấn cho cán bộ quản lý của thành phố Hà Nội, quận Hà Đông. Luận

văn cũng có thể sử dụng tham khảo cho các lớp đào tạo giảng viên, các lớp
cao học chuyên ngành kinh tế chính trị tại Học viện Chính trị.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn được kết cấu thành phần mở đầu, 3 chương (7 tiết) kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

11


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG THUỘC
CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC CẤP QUẬN

1.1. Tài sản công và tài sản công thuộc các cơ quan hành chính nhà nước
1.1.1. Tài sản công
Tài sản công là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất và quản lý xã hội,
là nguồn lực nội sinh của đất nước, là nguồn lực tài chính tiềm năng cho đầu
tư phát triển, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để có quan
niệm đầy đủ về tài sản công, cần bắt đầu từ quan niệm về tài sản.
* Quan niệm về tài sản.
Đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về tài sản:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, tài sản là của cải vật chất tồn tại dưới
dạng cụ thể, được con người sử dụng và được nhận biết bằng giác quan tiếp
xúc như giường, tủ, bàn ghế, xe mô tô, tờ tiền….[20]. Như vậy, theo quan
điểm này thì chỉ những gì thuộc về thế giới vật chất, hiện đang tồn tại và
chúng ta có thể cầm, lắm … được thì mới được coi là tài sản .
Quan điểm thứ hai cho rằng, tài sản bao gồm động sản và bất động sản.
Đây là một cách phân loại tài sản dựa trên tính chất vật lý không di dời được
về mặt cơ học của tài sản công [23].
Quan điểm thứ ba, cho rằng, tài sản là những gì định giá được [21].

Quan điểm thứ tư, cho rằng, tài sản là đối tượng của quyền sở hữu [22].
Ở nước ta, vấn đề tài sản nói chung không chỉ được thể hiện trong các quan
điểm chính trị, trong các quan hệ kinh tế, mà đã được thể chê hóa, quy định rõ
trong luật pháp của Nhà nước. Theo đó, Bộ luật dân sự năm 1995 đã đề cập đến
vấn đề này. Sau đó được sử đổi trong luật dân sự 2005. Luật luật dân sự được quốc
hội khóa 11 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 đã xác định rõ không chỉ những
“vật có thực” mới được gọi là tài sản mà cả những vật được hình thành trong
tương lai cũng được gọi là tài sản [29].
12


Từ tiếp cận từ cấp độ chung và khái quát nhất, tài sản được hiểu là của
cải vật chất dùng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng.
Khi phân loại tài sản theo chu kỳ sản xuất, ta có tài sản cố định và tài
sản lưu động. Khi phân loại tài sản theo đặc tính cấu tạo của vật chất, ta có tài
sản hữu hình và tài sản vô hình.
Tài sản cố định là những tư liệu sản xuất, là một trong những loại tài sản có giá
trị lớn được huy động và sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
nhằm mục đích sinh lời và thường thì các loại tài sản này có chu kì sử dụng trong dài
hạn. Tài sản cố định được phân thành bất động sản và động sản. Bất động sản như: Đất
đai, nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà,
công trình xây dựng đó; các tài sản khác gắn liền với đất đai; các tài sản khác do pháp
luật quy định. Động sản là những tài sản cố định không phải là bất động sản.
Tài sản lưu động là đối tượng lao động chỉ dùng được trong một chu kỳ
sản xuất. Đó là tổng thể nói chung tiền mặt, tiền gửi ngân hàng và những
khoản có thể chuyển ngay thành tiền mặt, như thương phiếu, v.v.
Tài sản hữu hình là những cái có thể dùng giác quan nhận biết được hoặc
dùng đơn vị cân đo đong đếm được. Điều kiện để vật trở thành tài sản là một vấn
đề còn tranh cãi rất nhiều. Bởi vì khi vật không thuộc của ai gọi là vật vô chủ
không ai gọi là tài sản vô chủ cả. Khi nói đến tài sản hữu hình bắt buộc chúng

phải có một số đặc tính riêng như: Thuộc sở hữu của ai đó; có đặc tính vật lý; có
thể trao đổi được; có thể mang giá trị tinh thần hoặc vật chất; là những thứ đã tồn
tại đang tồn tại và có thể có trong tương lai.
Tài sản vô hình là những thứ không thể dùng giác quan để thấy được và
không thể dùng đại lương để tính. Nhưng trong quá trình chuyển giao có thể
quy ra tiền (cái này là quan trọng nhất). Tùy từng thời điểm nhất định mà
quyền tài sản có giá như thế nào. Việc gây thiệt hại về tài sản vô hình của chủ
thể sẽ phải bồi thường nhưng rất khó để xác định giá trị của nó. Ngoài những
quy định trong luật còn việc xác định giá trị của tài sản vô hình không thể xác
định được.
13


* Quan niệm tài sản công.
Tài sản là phạm trù có nội hàm rộng, phạm vi của luận văn này chỉ đề
cập đến “Tài sản công” - những tài sản cố định, hữu hình, hay còn được gọi là
“Công sản” - tài sản công được tiếp cận ở cấp độ chung nhất dưới góc độ kinh
tế , pháp lý của khoa học kinh tế chính trị.
Theo đó, công sản được (quan niệm là tài sản công) là tài sản thuộc sở
hữu toàn dân. Theo Điều 17 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1992 quy định: Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên
trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và
tài sản Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh
vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an
ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước đều thuộc
sở hữu toàn dân”.[23]. Điều 53, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2013 quy định: Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng
sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài
sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý [24].

Cùng với những

quy định trong Hiến pháp, nhiều văn bản khác thuộc hệ thống pháp luật

cũng đã xác định vấn đề này. Điều 200 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định tài sản thuộc hình thức sở hữu
Nhà nước như sau: "Tài sản thuộc hình thức sở hữu Nhà nước bao gồm đất đai, rừng tự nhiên, rừng trồng
có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, núi, sông, hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi từ
nhiên ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp,
công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc
phòng, an ninh cùng các tài sản khác do pháp luật quy định"[29].

Một số điều khoản khác của Luật Dân sự nước ( Điều 239, 240, 241, 246, 254
và 644), hoặc Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Điều 17 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành
chính năm 2002, Điều 35 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004....cũng đã đề cập đến các vấn đề cụ
thể liên quan đến các tài sản khác thuộc sở hữu nhà nước, như các tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính, vật chứng trong vụ án hình sự bị tịch thu sung quỹ Nhà nước; vật bị chôn dấu, chìm đắm
được tìm thấy, vật vô chủ, vật không xác định được ai là chủ sở hữu, vật do người khác đánh rơi, bỏ

14


quên được xác lập quyền sở hữu của Nhà nước theo quy định của pháp luật, di sản không người thừa
kế hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, tài sản do tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước biếu tặng Chính phủ hoặc tổ chức Nhà nước...Những quy định đó đã làm cho
vấn đề tài sản công được xác định hết sức chặt chẽ trên các bình diện kinh tế, pháp lý.

Các cơ quan nhà nước, các tổ chức cũng như mọi công dân Việt Nam
đều có quyền và nghĩa vụ quản lý, bảo vệ công sản theo đúng chế độ do
Nhà nước quy định. Mọi sự vi phạm vào tài sản công đều phạm tội xâm
phạm tài sản quốc gia, tài sản xã hội chủ nghĩa. Công sản bao gồm tất cả

các tài sản (động sản và bất động sản) thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
thống nhất quản lý để sử dụng vào mục đích phục vụ lợi ích của Nhà nước,
lợi ích của toàn dân.
Từ những

trình bày trên, có thể quan niệm về tài sản công như sau:

Tài sản công là

những tài sản được hình thành từ nguồn ngân sách nhà nước, tài sản được xác
lập quyền sở hữu của nhà nước theo quy định của pháp luật như: đất đai, rừng
tự nhiên, núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi tự
nhiên ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời; tài sản công được quản lý, sử dụng
phục vụ các mục đích công đáp ứng nhu cầu và lợi ích của xã hội, trực tiếp là
của quốc gia mà Nhà nước là đại diện và của nhân dân.
Tài sản công được mua sắm, sử dụng phục vụ cho các cơ quan hành
chính nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo các quy định của pháp
luật được gọi là tài sản công thuộc các cơ quan hành chính nhà nước.
1.1.2. Cơ quan hành chính nhà nước và tài sản công thuộc các cơ quan
hành chính nhà nước
* Cơ quan hành chính nhà nước.
Cơ quan hành chính Nhà nước Việt Nam là tên gọi chung của toàn bộ
ngành hành pháp ở việt Nam. Cơ quan hành chính Nhà nước được tổ chức
theo các ngành và các cấp từ trung ương đến địa phương, đứng đầu là Chính
phủ Việt Nam. Cơ quan hành chính nhà nước là cơ quan có chức năng quản lý
hành chính nhà nước.
15


Đối với nước ta, cơ quan hành chính gồm cơ quan hành chính trung

ương và cơ quan hành chính địa phương, cụ thể:
Cơ quan hành chính

Trung ương là các cơ quan quản lý hành chính mà thẩm quyền

của các quyết định hành chính có hiệu lực trong phạm vi cả nước, kể cả cơ quan có thẩm quyền
chung và thẩm quyền riêng. Để thực hiện các chức năng của mình các cơ quan hành chính Trung
ương thành lập các cơ quan hành chính bên trong nhằm giải quyết các công việc chuyên môn có
liên quan như cục, vụ, viện...,ngoài ra cơ quan trung ương còn có thể hình thành những đại diện tại
các vùng miền trọng yếu của đất nước.

Tại cấp địa phương có cơ quan hành chính địa phương, là một bộ phận của cơ quan
nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước nói chung tại địa phương được nhà nước phân cấp
quản lý, khai thác và sử dụng. Để thực hiện chức năng quản lý của mình, cơ quan hành chính địa
phương như ủy ban nhân dân các cấp thành lập các cơ quan hành chính giúp việc có chức năng
quản lý nhà nước ở địa phương và bảo đảm sự thống nhất quản lý của ngành hoặc lĩnh vực công tác
từ Trung ương đến cơ sở.

Hệ thống cơ quan hành chính có cơ cấu tổ chức phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. Các cơ quan hành chính được
thành lập và hoạt động dựa trên những quy định của pháp luật, có chức năng,
nhiệm vụ thẩm quyền riêng và có những mối quan hệ phối hợp trong thực thi
công việc được giao.
Cơ quan hành chính do nhà nước thành lập, chịu sự kiểm tra của cơ quan
nhà nước cấp trên lập ra nhằm thực hiện chức năng quản lý nhà nước bằng hoạt
động chấp hành và điều hành quyền lực của nhà nước. Cơ quan hành chính được
quy định có thẩm quyền pháp lý, xuất phát từ quyền lực nhà nước.
Các cơ quan hành chính có mối liên hệ chặt chẽ với nhau (quan hệ trực
thuộc trên dưới, trực thuộc ngang và quan hệ chéo) tạo thành một thể thống
nhất theo thứ bậc mà trung tâm chỉ đạo là Chính phủ nhằm bảo đảm thực hiện

nhiệm vụ chấp hành một cách nhất quán, hiệu quả.
Cơ quan hành chính khác với đơn vị sự nghiệp của nhà nước. Đơn vị sự
nghiệp công là một phần của khu vực công, là cơ quan được Nhà nước thành
lập để thực hiện các hoạt động sự nghiệp như giáo dục, y tế, văn hoá thể thao,
truyền hình, nghiên cứu...có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân vì
16


các đơn vị này cung cấp cho xã hội nguồn nhân lực chất lượng cao, các công
trình nghiên cứu khoa học cơ bản phục vụ kinh tế xã hội phát triển, đồng thời
các đơn vị này còn cung cấp cho xã hội các dịch vụ công trong lĩnh vực y tế,
văn hoá, thể thao, truyền hình...Sự khác nhau cơ bản giữa cơ quan hành chính
và đơn vị sự nghiệp nhà nước được thể hiện cả về chức năng nhiệm vụ, phạm vi quản lý, kinh
phí hoạt động và quản lý tài sản công tại các cơ quan.

Các cơ quan chuyên môn thuộc cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh như:
Sở Nội vụ; Sở Tư pháp, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Sở Công thương,
Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Sở Giao thông -Công chính, Sở Xây
dựng, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Thông tin và Truyền thông, Sở Lao
động-Thương binh và Xã hội, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Khoa học và
Công nghệ, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Y tế, Thanh tra tỉnh,Văn phòng Ủy ban
Nhân dân được tổ chức theo Nghị định 24/2014/NĐ-CP.
Tương tự như vây, các cơ quan chuyên môn thuộc cơ quan hành
chính cấp huyện được tổ chức theo Nghị định 14/2008/NĐ-CP như:
Phòng Nội vụ, Phòng Tư pháp, Phòng Tài chính-Kế hoạch, Phòng Tài
nguyên và Môi trường, Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội, Phòng
Văn hoá và Thông tin, Phòng Giáo dục và Đào tạo, Phòng Y tế, Thanh tra
Quận, Văn phòng Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân. Ngoài 10 cơ
quan chuyên môn như trên, còn có một số cơ quan chuyên môn để phù
hợp với từng loại hình đơn vị hành chính quận: Phòng Quản lý Đô thị,

Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Phòng Công Thương…Đối
với cấp Xã, Phường không có cơ quan chuyên môn, song có chức danh
chuyên môn như: Văn phòng-Thống kê, Tài nguyên môi trường, Tài
chính-Kế toán, Tư pháp-Hộ tịch, Văn hóa-Xã hội, Trưởng Công an, Chỉ
huy trưởng Quân sự. Theo Hiến pháp 1992, bộ máy nhà nước được phác
thảo như sau:
Sơ đồ bộ máy cơ quan nhà nước
17


* Tài sản công thuộc các cơ quan hành chính nhà nước
Tài sản công thuộc cơ quan hành chính nhà nước là những tài sản mà Nhà nước giao
cho các cơ quan hành chính nhà nước quản lý khai thác và sử dụng cho các mục đích công bao
gồm: Đất đai (đất sử dụng làm trụ sở làm việc, đất xây dựng cơ sở hoạt động vì mục đích công);
nhà, công trình xây dựng khác gắn liền với đất đai (nhà làm việc, nhà kho; nhà, công trình đảm bảo
cho các hoạt động sự nghiệp...); các tài sản khác gắn liền với đất đai; các phương tiện giao thông
vận tải (ô tô, xe máy, tàu, thuyền...); các máy móc, trang thiết bị, phương tiện làm việc và các tài
sản khác.

Những tài sản trên đây là cơ sở vật chất cần thiết để tiến hành các hoạt
động quản lý nhà nước. Các cơ quan hành chính

được nhà nước giao quản lý, khai

thác, sử dụng các tài sản này để thực hiện nhiệm vụ được giao, không có quyền sở hữu khối tài sản
công. Khối tài sản công đó thuộc sở hữu toàn dân mà nhà nước là người đại diện. Việc sử dụng tài
sản phải đúng mục đích, đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do Nhà nước quy định; không được sử
dụng vào mục đích cá nhân, kinh doanh và mục đích khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác.


Tài sản công thuộc các cơ quan hành chính nhà nước rất phong phú về số lượng chủng
loại, mỗi loại tài sản có đặc điểm, tính chất, công dụng khác nhau. Tuy nhiên, để việc quản lý tài
sản công thuộc

các cơ quan hành chính nhà nước

có hiệu quả, người ta các cách phân

18


loại như: Dựa vào đặc điểm, tính chất, giá trị, thời gian hoạt động của tài sản, người ta chia tài
sản của cơ quan hành chính thành tài sản cố định và tài sản khác (tài sản rẻ tiền mau hỏng)
hoặc bất động sản và động sản. Dựa theo đặc điểm công dụng của tài sản, người ta chia tài sản
công của cơ quan hành chính nhà nước thành: Trụ sở làm việc gồm: đất đai, nhà, công trình
xây dựng khác gắn liền với đất đai, các tài sản khác gắn liền với đất đai. Đây là những tài sản
có giá trị lớn và sử dụng trong nhiều năm hay vĩnh viễn không mất đi. Tài sản loại này thường
có nguồn gốc do lịch sử để lại hoặc đầu tư mới thời gian đầu tư rất dài kinh phí rất lớn nên một
số nước có những cách quản lý riêng. Phương tiện vận tải gồm: xe ô tô phục vụ công tác và các
phương tiện vận tải khác. Đây là những tài sản giá trị khá lớn cần thiết trong công việc hàng
ngày. Giá trị hao mòn hàng năm thời gian sử dụng ngắn hơn nhóm tài sản cố định là trụ sở làm
việc. Máy móc, trang thiết bị, phương tiện làm việc và các tài sản khác. Đây là nhóm tài sản có
thể hao mòn hết ngay trong năm. Nhóm này rất đa dạng tuỳ thuộc vào từng cơ quan hành
chính. Việc quản lý được thực hiện thông qua ghi sổ theo dõi hay phiếu tài sản đơn giản.

Đặc điểm của tài sản công thuộc cơ quan hành chính là chúng được đầu tư
xây dựng, được mua sắm bằng tiền của ngân sách nhà nước hoặc có nguồn từ
ngân sách nhà nước.

Trừ một số tài sản đặc biệt như: đất đai, tài sản được xác lập sở hữu


Nhà nước, sau đó được chuyển giao cho cơ quan hành chính quản lý sử dụng; còn lại đại bộ phận
tài sản công dùng trong các cơ quan hành chính nhà nước là những tài sản được hình thành từ kết
quả đầu tư xây dựng, mua sắm bằng tiền của ngân sách nhà nước, được cấp phát, hoặc có nguồn
từ ngân sách nhà nước (thừa kế của thời kỳ trước).

Bên cạnh đó là những tài sản được hình thành từ nguồn viện trợ không
hoàn lại, tài sản do dân đóng góp xây dựng và tài sản được xác lập quyền sở
hữu Nhà nước. Đối với tài sản này, ngân sách nhà nước không trực tiếp đầu tư xây dựng và
mua sắm mà chỉ giao tài sản cho các cơ quan sử dụng. Nhưng các tài sản này trước khi giao cho
các cơ quan hành chính sử dụng, đều phải xác lập quyền sở hữu Nhà nước. Khi các tài sản này
được xác lập quyền sở hữu Nhà nước, thì giá trị của các tài sản đều được ghi thu cho ngân sách nhà
nước. Như vậy, suy cho cùng các tài sản được xác lập quyền sở hữu Nhà nước, tài sản viện trợ
không hoàn lại, tài sản do dân đóng góp giao cho các cơ quan hành chính sử dụng vẫn có nguồn
gốc hình thành từ ngân sách nhà nước.

Sự hình thành và sử dụng tài sản công tại mỗi cơ quan hành chính nhà
nước phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, phòng, ban,
phường trực thuộc. Tài sản công thuộc cơ quan hành chính là cơ sở vật chất
để phục vụ hoạt động của các cơ quan. Hoạt động của mỗi cơ quan nhằm
19


thực hiện các chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của mình. Do vậy, sự
hình thành và sử dụng tài sản công trong các cơ quan hành chính nhà nước
tuỳ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan.
Do vậy có thể thấy, thực chất khối tài sản công thuộc cơ quan hành chính nhà nước chỉ
đơn thuần là điều kiện vật chất, là phương tiện để các cơ quan này thực hiện chức năng quản lý kinh tế, xã
hội, an ninh, quốc phòng được giao. Tài sản công của các cơ quan này lớn nhất là trụ sở làm việc (công sở),
các phương tiện phục vụ đi lại trong công tác, các trang thiết bị, máy móc và phương tiện làm việc. Số lượng

các tài sản công đó, cần phải có là bao nhiêu tuỳ thuộc vào cơ cấu tổ chức bộ máy và biên chế cán bộ, công
chức, viên chức của mỗi cơ quan, đơn vị.

Tài sản công

thuộc cơ quan hành chính nhà nước có đặc điểm riêng là, v ốn

đầu tư

xây dựng và mua sắm tài sản công đó, không thu hồi được trong quá trình sử
dụng chúng.

Thực tế ở các nước trên thế giới cho thấy, khoảng 80% khoản chi NSNN đối với

tài sản công là chi chuyển giao, có rất ít khoản chi là chi thanh toán, được hoàn trả trực tiếp.
Khác với các khoản chi của các doanh nghiệp trong sản xuất, kinh doanh, tài sản công t huộc cơ
quan hành chính nhà nước chủ yếu là những tài sản trong lĩnh vực tiêu dùng của cải vật chất,
không thuộc lĩnh vực sản xuất kinh doanh; trong quá trình sử dụng không tạo ra sản phẩm, hàng
hoá, dịch vụ để đưa ra thị trường; do đó, không chuyển giá trị bị hao mòn vào giá thành của sản
phẩm hoặc chi phí lưu thông. Vì thế, trong quá trình sử dụng, tuy tài sản bị hao mòn nhưng không
trích khấu hao, mà chỉ xác định giá trị hao mòn để theo dõi hạch toán trên hệ thống sổ sách kế
toán của cơ quan, đơn vị (đối với tài sản cố định hữu hình), vì giá trị của nó không được chuyển
dần sang giá trị của sản phẩm vật chất, dịch vụ để hình thành bộ phận giá trị mới cần phải thu hồi.

Tài sản công thuộc các cơ quan hành chính nhà nước có vai trò rất quan
trọng,

là điều kiện vật chất đầu tiên và không thể thiếu để các cơ quan nhà nước, các đơn vị

lực lượng vũ trang, các tổ chức khác thực hiện nhiệm vụ được Nhà nước giao; nhất là nhiệm

vụ hoạch định đường lối, chính sách, xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật, thực hiện
quản lý nhà nước... giữ gìn bảo vệ đất nước, đảm bảo an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã
hội... mở mang dân trí. Tài sản thuộc

các cơ quan hành chính nhà nước là điều kiện vật

chất khẳng định vai trò lãnh đạo của cơ quan công quyền, tạo niềm tin, sự uy nghiêm của pháp
luật nhưng cũng tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân sống làm việc theo đúng pháp luật nhà
nước, nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính cúng như các bên liên quan; đồng
thời, là điều kiện vật chất để mọi công dân tiếp xúc, phản ảnh nguyện vọng của mình với cơ
quan nhà nước; là điều kiện vật chất để tiếp thu khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý, tinh
hoa văn hoá nhân loại; nơi giao dịch hợp tác quốc tế trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, quốc

20


phòng, an ninh, văn hoá, giáo dục và đào tạo, y tế, xã hội, khoa học và công nghệ v.v...

1.2. Quản lý tài sản công và quản lý tài sản công

thuộc

các cơ quan

hành chính nhà nước cấp Quận
1.2.1. Quan niệm về quản lý và quản lý tài sản công
Để có quan niệm đầy đủ về quản lý tài sản công làm cơ sở để nhận
thức về quan niệm nội dung quản lý tài sản công

thuộc


các cơ quan hành

chính nhà nước, trước hết cần bắt đầu từ phạm trù quản lý và các vấn đề
liên quan đến quản lý.
* Quan niệm chung về quản lý
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quản lý là một chức năng
xã hội, bắt nguồn từ tính chất xã hội của lao động. C.Mác đã coi sự xuất hiện
của quản lý là kết quả tất yếu của quá trình chuyển từ lao động mang tính chất
cá biệt, độc lập với nhau được phối hợp lại với nhau thành một quá trình xã
hội, trong “tư bản”, khi bàn về lao động mang tính chất hiệp tác, C.Mác đã ví
nhu cầu của quản lý khi các quá trình lao động cá biệt được phối hợp lại
giống như một dàn nhạc. Ông viết: bất cứ một lao động xã hội hay lao động
chung nào mà tiến hành trên một quy mô khá lớn đều yêu cầu phải có một sự
chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân. Sự chỉ đạo ấy phải làm chức
năng chung... một nhạc sĩ độc tấu thì tự điều khiển lấy mình, nhưng một dàn
nhạc thì phải có một nhạc trưởng.
Từ luận điểm của C.Mác trên đây, có thể hiểu quản lý nói chung
được hiểu như một quy trình công nghệ mà chủ thể quản lý tiến hành thông
qua việc sử dụng các công cụ và phương pháp thích hợp nhằm tác động và
điều khiển đối tượng quản lý hoạt động phát triển phù hợp với quy luật
khách quan. Đó là sự tác động có hướng đích mà chủ thể quản lý tiến hành
đến đối tượng quản lý để tổ chức, chỉ huy, điều phối, kiểm tra các hoạt
động của toàn bộ hoặc bộ phận của một quá trình nào đó. Quá trình đó có
thể diễn ra trong giới sinh vật, giới vô sinh, hoặc quá trình xã hội, nhằm đạt
21


tới mục tiêu đã định.
Như vậy, trong hoạt động quản lý, các vấn đề về chủ thể quản lý, đối

tượng quản lý, mục tiêu quản lý, công cụ và phương pháp quản lý (hợp thành
cơ chế quản lý), là những yếu tố trung tâm đòi hỏi phải xác định đúng đắn.
Cơ chế quản lý - thuật ngữ kép được tổ hợp từ hai thuật ngữ độc lập:
cơ chế (cách thức theo đó một quá trình được thực hiện), là phạm trù khoa
học thuộc lĩnh vực quản lý - lĩnh vực hoạt động đặc thù của con người,
phản ánh sâu sắc và đầy đủ các yếu tố của một ngành khoa học, nhưng
đồng thời cũng in đậm dấu ấn của một nghệ thuật.
Cơ chế quản lý gồm một hệ thống các yếu tố hợp thành:
Một là, những hình thức cụ thể về tổ chức (bao gồm cả hệ thống tổ
chức sản xuất và tổ chức bộ máy quản lý cùng những mối quan hệ giữa các bộ
phận cấu thành tổ chức sản xuất và tổ chức bộ máy quản lý), còn được hiểu là
hình thức tổ chức quản lý.
Hai là, hệ thống những chính sách quản lý. Những chính sách này giữ vai
trò định hướng cho việc xác định những nội dung tiếp theo trong cơ chế quản lý.
Chính sách nói chung (hiểu theo nghĩa rộng), hay chính sách - với tính
cách là một bộ phận hợp thành cơ chế quản lý nói riêng (hiểu theo nghĩa hẹp)
về thực chất đều là những nội dung thuộc lĩnh vực của chính trị. Các chính
sách kinh tế về thực chất cũng là vấn đề chính trị. Một chính sách đúng, hợp
lòng người (thực chất là tác động tích cực đến lợi ích của con người) có tác
dụng hiệu triệu và thống nhất ý chí, thống nhất hành động của hàng triệu con
người. Chính sách không phù hợp, hoặc đã hết tác dụng nhưng chưa được sử
đổi, sẽ tác dụng ngược lại.
Ba là, những hình thức cụ thể giữ vị trí là các công cụ quản lý như hệ
thống kế hoạch (các chiến lược phát triển, các kế hoạch trung và ngắn hạn,
các chương trình mục tiêu, các dự án phát triển...), hệ thống đòn bảy (hạch
toán, giá cả, lợi nhuận, tiền lương, tỷ giá hối đoái, lãi suất tín dụng...). Trong
22


nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, việc

kết hợp kế hoạch với thị trường được coi là một bộ phận hợp thành quan
trọng của cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta. Cơ chế đó cũng được áp dụng cho
quản lý các ngành các lĩnh vực cụ thể của nền kinh tế, quốc dân. Quản lý các
tài sản công cũng chịu sự điều tiết của cơ chế đó.
Bốn là, những văn bản pháp quy giữ vai trò là hệ thống định chế tạo
hành lang pháp lý để các cơ quan thuộc bộ máy quản lý vận dụng trong quá
trình thực hiện các quyền năng của mình trong điều tiết, kiểm tra, giám sát
các quá trình sử dụng, khai thác các nguồn lực của nền kinh tế (nếu ở cấp độ
toàn bộ nền kinh tế), hoặc trong quá trình khai thác, sử dụng hệ thống tài sản
nhà nước, tài sản chuyên dùng ở mỗi cơ quan, đơn vị (nếu ở cấp độ ngành, địa
phương, hoặc các đơn vị).
Đứng đằng sau tất cả các yếu tố tạo thành cơ chế quản lý là những con
người - các chủ thể mang lợi ích cả trong chủ thể quản lý, cả trong đối tượng
quản lý, cả trong tổ chức sản xuất và cả trong bộ máy quản lý và ẩn dấu đằng
sau mọi biểu hiện hưởng ứng hay phản ứng trước những quyết định quản lý
thông qua việc sử dụng cơ chế quản lý đã được xác định để quản lý các khâu
các mặt các lĩnh vực của nền kinh tế chính là những lợi ích của họ cả ở mặt
vật chất và tinh thần.
Nhận thức về cơ chế quản lý như đã nêu khi vận dụng vào lĩnh vực
quản lý tài sản công nói chung, quản lý tài sản công ở nước ta có thể thấy
hệ thống cơ chế quản lý tài sản công

thuộc

các cơ quan hành chính nhà nước

hiện hành ở nước ta đã thể hiện vai trò đại diện chủ sở hữu và thống nhất
quản lý nhà nước đối với tài sản công. Nhà nước thực hiện phân cấp rõ
ràng nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với tài sản công


thuộc

cơ quan hành

chính nhà nước; Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp; các cơ
quan quản lý nhà nước về tài sản công với các cơ quan hành chính nhà
nước được giao trực tiếp quản lý tài sản công dần tiến tới mô hình cơ quan
23


quản lý - đại diện chủ sở hữu tài sản công thực hiện quản lý thông qua cơ
chế chính sách, các tiêu chuẩn định mức, thanh tra, kiểm tra; các đơn vị
trực tiếp sử dụng thực hiện theo quy trình quản lý và sự giám sát kiểm tra;
đồng thời xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cấp trong quản lý,
trách nhiệm của từng đơn vị trong sử dụng tài sản công đảm bảo cho việc
sử dụng tài sản công đi dần vào nề nếp, kỷ cương và minh bạch theo đó: (1)
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước đối với tài sản công trên phạm vi
cả nước. Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức
năng quản lý nhà nước đối với tài sản công. (2) Các Bộ, cơ quan khác ở
trung ương có trách nhiệm tổ chức quản lý tài sản công thuộc phạm vi quản
lý theo phân cấp. (3) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thống nhất quản lý tài sản
công do các cơ quan hành chính nhà nước thuộc địa phương quản lý. Đảm
bảo cho Chính phủ thống nhất quản lý tài sản công

thuộc

cơ quan hành chính

nhà nước; thống nhất chính sách, chế độ quản lý tài sản công; thống nhất
về thẩm quyền, trách nhiệm quản lý nhà nước của các cấp chính quyền đối

với tài sản công. Bảo đảm quyền ban hành cơ chế, chính sách, chế độ quản
lý tài sản công

thuộc

cơ quan hành chính nhà nước thuộc Quốc hội, Chính

phủ; đồng thời các Bộ, ngành, ủy ban nhân dân cấp tỉnh được thể chế cho
phù hợp với đặc điểm riêng của từng Bộ, ngành, địa phương.
Tính đặc thù của cơ chế quản lý tài sản công như trên cho thấy cơ chế
quản lý đối với tài sản công không phải là phạm trù có nội hàm bất biến, mà nó
luôn có yêu cầu thay đổi khi điều kiện khách quan đã khác trước. Do đó,
thường nảy sinh vấn đề hoàn thiện cơ chế quản lý.
* Quản lý tài sản công thuộc các cơ quan hành chính nhà nước
Từ những quan niệm về quản lý và cơ chế quản lý nói chung, quản lý
tài sản công thuộc các cơ quan hành chính nhà nước là quá trình tác động và
điều chỉnh có chủ đích của chủ thể quản lý đối với những con người trong
các cơ quan đó hiện đang sử dụng hệ thống tài sản nhà nước có tại cơ quan
24


hành chính nhà nước thông qua cơ chế quản lý đối với quá trình hình thành
và vận động của tài sản nhằm khai thác, sử dụng tài sản một cách có hiệu
quả, vì lợi ích của đất nước.
Mục đích của quản lý tài sản công thuộc các cơ quan hành chính nhà nước
là nhằm đảm bảo tiết kiệm, chống lãng phí và khai thác hiệu quả nguồn tài sản
công của Nhà nước; bảm bảo sử dụng đúng mục đích, tiêu chuẩn, định mức
chế độ mà nhà nước quy định; đáp ứng yêu cầu công việc của cơ quan hành
chính nhà nước gắn với yêu cầu hiện đại hoá và tái trang bị tài sản công đi
liền với hiện đại hoá đất nước.

Chủ thể quản lý tài sản công

thuộc

các cơ quan, thuộc bộ máy hành

chính nhà nước ở nước ta hiện nay được phân cấp từ trung ương đến cấp
quận (huyện, thị xã). Cụ thể:
Ở cấp Trung ương thường là Bộ Tài chính (qua Cục quản lý công sản),
Chính phủ, Quốc hội. Các thực thể trên là chủ thể thực thi chức năng quản lý
nhà nước về tài sản công, chịu trách nhiệm ban hành, các văn bản pháp quy
tạo dựng khung khổ (hành lang) pháp lý để các cơ quan trực tiếp quản lý tài
sản công sử dụng trong quá trình thực hiện việc quản lý tài sản (thuộc các cơ
quan hành chính nhà nước từ trung ương đến các các điạ phương)
Theo đó, Quốc hội ban hành các văn bản như: Luật, Pháp lệnh về quản lý Tài sản công để
Chính phủ thực hiện. Thực hiện vai trò giám sát Chính phủ trong quản lý Tài sản công; Chính phủ
chịu trách nhiệm thống nhất quản lý tài sản công, xây dựng văn bản Luật, Pháp lệnh liên quan trình
Quốc hội và ban hành các Nghị định, quyết định...; Bộ chủ quản (thường là Bộ Tài chính và các Bộ
liên quan như Bộ Xây dựng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư...) chịu trách nhiệm thống nhất quản lý tài sản
công trên toàn quốc, chịu trách nhiệm xây dựng dự án Luật, Pháp lệnh trình Chính phủ để Chính
phủ trình Quốc hội; triển khai thực hiện Luật và thực hiện kiểm tra thanh tra báo cáo cấp trên xử lý
kịp thời liên quan đến tài sản công vượt thẩm quyền...

Hệ thống văn bản pháp quy là yếu tố không thể thiếu. Vì nó đảm bảo
nguyên tắc và hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính. Trong lĩnh vực
quản lý tài sản công đó là: Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, các văn
bản chuyên ngành liên quan đến từng loại tài sản khác nhau. Gắn với đó là
25



Luật tổ chức Chính phủ, Luật dân sự, Luật đất đai, Luật thực hành tiết kiệm...
Ở các địa phương cấp tỉnh (thành phố), cơ quan chịu trách nhiệm quản lý tài sản
công là Chi cục quản lý công sản hoặc (Phòng quản lý công sản) thuộc Sở Tài chính các Tỉnh,
Thành phố.

Nội dung quản lý tài sản công

thuộc

các cơ quan, thuộc bộ máy hành

chính nhà nước bao gồm: quản lý quá trình hình thành tài sản công trong cơ
quan thuộc bộ máy hành chính nhà nước; quản lý trong quá trình khai thác, sử
dụng, bảo quản tài sản công trong cơ quan thuộc bộ máy hành chính nhà nước
và quản lý quá trình kết thúc sử dụng tài sản công
Phương thức quản lý tài sản công

thuộc các cơ quan hành chính nhà nước

gồm các phương pháp kinh tế, hành chính, pháp lý và tuyên truyền giáo dục với các hình thức
quản lý: hệ thống các định chế; sử dụng hệ thống các đòn bẩy kinh tế…

Những nguyên tắc cơ bản trong quản lý tài sản nhà nước bao gồm: Bảo
đảm tính tập trung thống nhất; tiến hành theo kế hoạch; bảo đảm tính tiết kiệm.
1.2.2. Quản lý tài sản công thuộc các cơ quan hành chính nhà nước
cấp Quận
* Quan niêm về quản lý tài sản công thuộc các cơ quan hành chính
nhà nước cấp Quận
Từ những quan niệm về quản lý và quản lý tài sản công
quan nhà nước, quản lý tài sản công


thuộc

thuộc

các cơ

các cơ quan hành chính nhà nước

cấp Quận là quá trình tác động và điều chỉnh có chủ đích của chủ thể quản lý
đối với những con người trong các cơ quan đó hiện đang sử dụng hệ thống
tài sản nhà nước có tại cơ quan, đơn vị cấp Quận thông qua cơ chế quản lý
đối với quá trình hình thành và vận động của tài sản nhằm khai thác, sử dụng
tài sản một cách có hiệu quả, vì lợi ích của cơ quan, đơn vị, của đất nước.
Đây là tài sản được hình thành từ ngân sách nhà nước hay có nguồn gốc
từ ngân sách nhà nước giao cho cấp Quận, trong đó phải kể tới tài sản có giá trị nhất là trụ sở làm
việc, sau đó là trang thiết bị chuyên dùng cho từng cơ quan, từng lĩnh vực, như: ô tô, tàu thuyền. Yêu
cầu đặt ra đối với tài sản này là đảm bảo đúng, đủ về tiêu chuẩn định mức quy định cho từng cấp, được

26


×