Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Luật tục thái với việc thực hiện pháp luật của người thái tại tỉnh sơn la hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 128 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
--------

HOÀNG VĂN SƠN

LUẬT TỤC THÁI VỚI VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
CỦA NGƢỜI THÁI TẠI TỈNH SƠN LA HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
--------

HOÀNG VĂN SƠN

LUẬT TỤC THÁI VỚI VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
CỦA NGƢỜI THÁI TẠI TỈNH SƠN LA HIỆN NAY

Chuyên ngành : Triết học
Mã số

: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN THỊ NGỌC ANH



HÀ NỘI - 2017

2


Lời cảm ơn
Để thực hiện hoàn thành luận văn tốt nghiệp, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu
sắc đến TS. Trần Thị Ngọc Anh, người đã luôn định hướng, tận tình chỉ bảo,
chỉnh sửa, góp ý cho đề tài.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Chủ nhiệm Khoa, tập
thể giảng viên Khoa Triết học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, những người
đã luôn tâm huyết để truyền giảng tri thức khoa học và thực tiễn sinh động.
Cảm ơn Tạp chí Giáo dục, Ban Giám hiệu Trường Trung cấp Luật Tây Bắc
và gia đình đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này!
Hoàng Văn Sơn

3


Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của TS. Trần Thị Ngọc Anh. Tất cả những trích dẫn đều
có nguồn gốc rõ ràng, các số liệu, cứ liệu trong luận văn đều mang tính trung
thực, được khái quát từ thực tế nghiên cứu và chưa có bất kỳ công trình
nghiên cứu liên quan nào trước đây công bố.
Hoàng Văn Sơn

4



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 7
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 7
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu .......................................................... 9
2.1. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật, thực hiện pháp
luật ................................................................................................................. 10
2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về phong tục tập quán, luật tục của các
dân tộc ở Việt Nam ....................................................................................... 12
2.3. Nhóm công trình nghiên cứu về dân tộc và luật tục của Thái ở Việt
Nam ............................................................................................................... 14
3. Mục đích nghiên cứu............................................................................18
4. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu ...................................................18
4.1. Khách thể nghiên cứu ............................................................................ 18
4.2. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................ 18
5. Giả thuyết khoa học .............................................................................19
6. Nhiệm vụ nghiên cứu ...........................................................................19
7. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu .............................................................19
8. Phƣơng pháp nghiên cứu .....................................................................19
9. Cấu trúc luận văn.................................................................................20
10. Tóm tắt các luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả ..........20
10.1. Những luận điểm cơ bản ...................................................................... 20
10.2. Đóng góp mới của luận văn ................................................................. 20
CHƢƠNG 1 KHÁI LƢỢC VỀ PHÁP LUẬT VÀ LUẬT TỤC THÁI .... 21
1.1. Pháp luật ............................................................................................21
1.1.1. Pháp luật.............................................................................................. 21
1.1.2. Thực hiện pháp luật ............................................................................ 23
1.2. Luật tục Thái .....................................................................................29
1.2.1. Khái niệm luật tục và luật tục Thái ..................................................... 29
1.2.2. Đặc điểm của Luật tục Thái ................................................................ 31

1.2.3. Vai trò của luật tục Thái trong trong đời sống xã hội ......................... 34
1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa luật tục Thái và pháp luật .............39
1.3.1. Tương quan giữa luật tục và pháp luật ............................................... 39
1.3.2. Luật tục người Thái và pháp luật có mối liên hệ biện chứng ............. 40
1.3.3. Luật tục Thái với việc thực hiện pháp luật ........................................ 48
CHƢƠNG 2 SỰ TÁC ĐỘNG CỦA LUẬT TỤC THÁI ĐỐI VỚI
VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CỦA NGƢỜI THÁI TẠI TỈNH
SƠN LA HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ................................. 51
2.1. Giá trị và hạn chế của luật tục Thái đối với việc thực hiện pháp
luật của ngƣời Thái tại tỉnh Sơn La hiện nay ..................................51
2.1.1. Thực trạng thực hiện pháp luật của người Thái tại Sơn La hiện nay . 51
2.1.2. Giá trị của luật tục Thái đối với việc thực hiện pháp luật của người
Thái tại tỉnh Sơn La hiện nay........................................................................ 53
2.1.3. Hạn chế của luật tục Thái đối với việc thực hiện pháp luật của
người Thái tại tỉnh Sơn La hiện nay ............................................................. 80
5


2.2. Một số phƣơng hƣớng, giải pháp nhằm phát huy giá trị và
khắc phục hạn chế của luật tục Thái với việc thực hiện pháp
luật của ngƣời Thái tại tỉnh Sơn La hiện nay ..................................85
2.2.1. Nhóm giải pháp về chủ trương, chính sách của chính quyền ............. 85
2.2.2. Nhóm giải pháp về công tác giáo dục tại tỉnh Sơn La ........................ 88
2.2.3. Nhóm giải pháp về phía bản thân người Thái tại tỉnh Sơn La ........... 96
KẾT LUẬN .................................................................................................. 102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 104

6



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong kho tàng lý luận khoa học, các nhà kinh điển Mác - Lênin đã
coi pháp chế như là sự tuân thủ pháp luật của những người tham gia các quan
hệ xã hội. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen vấn đề cốt lõi của pháp chế là sự thực
hiện nghiêm chỉnh pháp luật. Đề cao vai trò của pháp luật, Lênin chỉ rõ: "Nếu
không rơi vào không tưởng thì không thể nghĩ rằng sau khi lật đổ chủ nghĩa
tư bản, người ta sẽ tức khắc biết làm việc cho xã hội mà không cần phải có
quy tắc pháp lý nào cả" [103, tr.6]. Có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh ít
nhiều là cơ sở, nhưng yếu tố trung tâm của pháp chế xã hội chủ nghĩa là sự
thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật.
Tuy nhiên, pháp luật với tính cách một hình thái ý thức xã hội có tính
lịch sử, được ra đời cùng với sự hình thành nhà nước, mang bản chất, ý chí
của giai cấp thống trị, thì không phải ở đâu, lúc nào pháp luật cũng thể hiện
được vai trò của mình. Hay nói cách khác, trước khi có hệ thống pháp luật
Nhà nước Việt Nam, ở một số cộng đồng tộc người đã có những công cụ quản
lý xã hội khác. Thậm chí, hiện nay nhiều vấn đề phát sinh trong xã hội vẫn có
thể tự điều chỉnh, chưa cần đến sự tác động của pháp luật. Trên thực tế các
quy phạm pháp luật đã có, chưa dự liệu được tất cả các vấn đề nảy sinh, nên
vẫn cần đến vai trò “nối dài đôi tay” từ các quy phạm xã hội khác như phong
tục, tập quán trong đó luật tục có vai trò quan trọng.
1.2. Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09 tháng 6 năm 2014 của Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 9 khóa XI về xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước
có nội dung nhấn mạnh: Hoàn thiện các chuẩn mực văn hóa và con người
Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí
tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công
dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc,
lương tâm, trách nhiệm của mỗi người đối với bản thân mình, với gia đình,
cộng đồng xã hội và đất nước [58].

7


Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã xác định: “Xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành mục tiêu của chiến
lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn
mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế; tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo
đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa
vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận
thức, ý thức tuân thủ pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự
hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc” [20, tr.126].
Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Sơn La lần thứ XIII (Nhiệm kỳ 2010 2015) đã viết: "Coi trọng giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của
nhân dân các dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế; phát triển sự nghiệp
văn học, nghệ thuật; góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc" [17, tr.55].
1.3. Trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, dân tộc Thái có số dân
đông thứ ba (sau dân tộc Kinh và dân tộc Tày), số liệu thống kê đến thời điểm
ngày 01/4/2009 là 1.550.423 người, chiếm 1,806% dân số cả nước. Người
Thái ở nước ta có lịch sử cư trú lâu đời, góp phần vào sự phát triển kinh tế, xã
hội, quốc phòng, an ninh quốc gia. Xuất phát từ thực tế tồn tại xã hội Thái,
đòi hỏi xã hội phải tồn tại và vận động trong vòng trật tự, một hình thái ý thức
xã hội đặc biệt có vai trò tác động, điều chỉnh, thúc đẩy tồn tại xã hội phát
triển gọi là luật tục được ra đời.
Trong nhịp độ xã hội hiện đại, sự tác động đa chiều của toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế, nhịp sống con người trở nên gấp hơn, đạo đức xã hội đã bộc
lộ những biểu hiện xuống cấp từ trong đội ngũ cán bộ, đảng viên cho đến
quần chúng nhân dân đặc biệt là giới trẻ. Sự suy thoái về đạo đức, coi thường
pháp luật dẫn đến các hiện tượng tiêu cực như: tham nhũng trong các cơ quan
của Đảng, nhà nước, các vụ thảm án giết người hàng loạt; độ tuổi của người

phạm tội có xu hướng thiên lệch về thanh thiếu niên… Nguyên nhân trực tiếp,
bên trong của các hệ lụy đó là do xói mòn về đạo đức, bản lĩnh và các giá trị
8


truyền thống của dân tộc trước dòng thác hội nhập quốc tế. Công tác tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đã được chính quyền các cấp chú tâm, đẩy
mạnh thực hiện, nhưng hiệu quả chưa cao.
Với đặc thù là một tỉnh miền núi điều kiện kinh tế khó khăn, tập trung
nhiều dân tộc ít người, mặt bằng dân trí thấp, cơ hội tiếp cận với thông tin về
pháp luật gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, do các cộng đồng dân tộc thiểu số đã
quen xử sự theo nếp sống cũ, nên việc áp dụng những quy định của pháp luật
nhà nước nhiều lúc không mang lại hiệu quả mong muốn. Việc thay đổi thói
quen đã ăn sâu vào ý thức hệ của các cộng đồng dân tộc, là công việc rất khó
khăn. Nhưng để xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
thì không thể không xây dựng một xã hội kỷ cương, trật tự làm nền tảng.
Khai thác, nghiên cứu, tìm hiểu và phát hiện ra sự tác động của luật tục
Thái đối với việc thực hiện pháp luật qua góc nhìn triết học sẽ mang lại hiệu
quả hơn trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục và góp phần tích cực
đến việc thực hiện pháp luật của người Thái tại tỉnh Sơn La. Tuy nhiên, sự tác
động luật tục Thái đối với việc thực hiện pháp luật của người Thái tại tỉnh
Sơn La hiện nay vẫn chưa được các công trình nghiên cứu một cách có hệ
thống.
Xuất phát từ những lý do trên, mong muốn tìm lại, tôn vinh những giá
trị truyền thống, góp phần xây dựng một cộng đồng xã hội thượng tôn pháp
luật của dân tộc mình, chúng tôi chọn "Luật tục Thái với việc thực hiện
pháp luật của người Thái tại tỉnh Sơn La hiện nay" làm đề tài nghiên cứu.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Xã hội loài người từ khi tách khỏi thế giới tự nhiên để trở thành một bộ
phận có tính độc lập tương đối, cũng là lúc phát sinh các quan hệ khác, đó là

quan hệ xã hội. Từ đây, nhu cầu về các quy tắc, chuẩn mực ứng xử của con
người được hình thành và phát triển, đó là lề thói, tập quán, luật tục, phong
tục … cho đến pháp luật, đạo đức. Cho nên khi nói tới vấn đề phong tục, luật
tục và pháp luật đã có rất nhiều tác giả, công trình khoa học khác nhau nghiên
cứu.
9


2.1. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật, thực
hiện pháp luật
Nghiên cứu về pháp luật và thực hiện pháp luật đã có rất nhiều công
tình nghiên cứu, sách chuyên khảo viết về những vấn đề này. Tiêu biểu là
công trình của các tác giả:
Nguyễn Minh Đoan (2008), Vai trò của pháp luật trong đời sống xã
hội, Nxb Chính trị quốc gia [28]. Cuốn sách đã trình bày một hệ thống lý luận
khoa học về thực hiện pháp luật, áp dụng pháp luật, quy trình thực hiện và áp
dụng pháp luật; chỉ ra những điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật: Chất
lượng của hệ thống pháp luật thực định, trình độ ý thức pháp luật trong xã hội,
các điều kiện và môi trường thực hiện pháp luật. Đồng thời đề xuất những
giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện pháp luật ở nước ta hiện
nay.
Lê Thanh Bình (2002), “Thực hiện pháp luật ở các tỉnh miền núi phía
Bắc nước ta hiện nay”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội [10]. Công trình nghiên cứu có chiều sâu khái quát về quan điểm của các
nhà kinh điển Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh về pháp chế và sự cần thiết
phải thực hiện pháp luật. Chỉ ra vai trò của thực hiện pháp luật ở các tỉnh
miền núi phía Bắc nước ta hiện nay: Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của đồng bào dân tộc thiểu số; giữ gì an ninh trật tự xã hội và chống âm mưu
phá hoại của thù địch; xây dựng khối đại đoàn kết giữa các dân tộc trong cộng
đồng khu vực phía Bắc. Nêu lên thực trạng thực hiện pháp luật và đề xuất

những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật.
Trần Thị Xuân (2004), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện
pháp luật ở Thành phố Hà Nội hiện nay”, Luận Văn Thạc sỹ Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội [107]. Công trình có nội dung trình bày về
những giá trị và hạn chế trong thực tiễn ban hành và thực tiễn thực hiện các
quy định của pháp luật ở Hà Nội. Tác giả khẳng định: Việc ban hành nhiều
luật là rất quan trọng, nhưng quan trọng hơn cả là phải làm cho pháp luật phát
huy tác dụng tích cực trong cuộc sống. Thực hiện pháp luật là khâu quan
10


trọng để các đạo luật, quy phạm pháp luật đi vào cuộc sống. Thực hiện pháp
luật hiệu quả là đã góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội của đất nước trong điều
kiện mới.
Đào Thị Mai (2005), “Nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ở nước ta
hiện nay (từ thực tiễn Thành phố Hải Phòng)”, Luận văn Thạc sỹ Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội [52]. Tác giả đã dẫn chứng ra nhiều quan niệm
của các nhà nghiên cứu về thực hiện pháp luật, đưa ra khái niệm về hiệu quả
thực hiện pháp luật: là kết quả thực tế, tích cực của tuân thủ pháp luật, thi
hành pháp luật, sử dụng pháp luật, áp dụng pháp luật so với mục đích, yêu cầu
của việc ban hành văn bản pháp luật... Đồng thời đưa ra những tiêu chí để
đánh giá hiệu quả thực hiện pháp luật và điều kiện đảm bảo pháp lý cho việc
thực hiện pháp luật có hiệu quả.
Lò Châu Thỏa (2009), “Giáo dục pháp luật Hôn nhân và Gia đình cho
đồng bào dân tộc Thái ở tỉnh Sơn La”, Luận văn Thạc sỹ Luật, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh [76]. Tác giả đã nêu lên thực trạng trong
việc thực hiện pháp luật về Hôn nhân và Gia đình của đồng bào Thái trên địa
bàn tỉnh Sơn La, đưa ra những kiến giải về nguyên nhân tác động đến thực
trạng đó. Công trình tập trung vào đề xuất các giải pháp giáo dục nhằm nâng
cao hiệu quả, chất lượng của công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp

luật. Đồng thời khẳng định: việc tuyên truyền giáo dục pháp luật với những
hình thức phương pháp phù hợp để cán bộ, nhân dân vùng đồng bào người
Thái hiểu rõ chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước để họ ý
thức được quyền và nghĩa vụ của công dân, xây dựng gia đình ấm no, hạnh
phúc, phát huy dân chủ ở cơ sở... sẽ góp phần quan trọng vào việc phát triển
kinh tế, ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh.
Bên cạnh các công trình trên còn có rất nhiều các công trình khác
nghiên cứu liên quan đến các lĩnh vực thuộc về pháp luật : Lê Minh Thông
(1983), Vài ý kiến về xây dựng và nâng cao ý thức pháp luật XHCN của cán
bộ trong bộ máy nhà nước, Tăng cường hiệu lực nhà nước XHCN của ta, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội [77]; Triệu Vũ (1993), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
11


mối quan hệ biện chứng giữa đức trị và pháp trị trong quản lý xã hội”, Tạp chí
Quốc phòng toàn dân, số 11 [106]; Nguyễn Việt Hương (2000), “Giá trị của
luật tục từ góc nhìn pháp lý”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 4 [39]; Lê
Vương Long, (2000), “Pháp luật và tập quán trong việc điều chỉnh các mối
quan hệ xã hội”, Tạp chí Luật học, số 02 [43]; Nguyễn Quốc Phẩm (2000),
“Luật tục và ý thức pháp luật trong quản lý xã hội các vùng dân tộc thiểu số ở
nước ta”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 05 [60]; Nguyễn Thị Thúy Vân
(2000), “Một số đặc điểm của ý thức pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Triết học,
số 5 [100]. Công trình này bàn về đặc điểm ý thức pháp luật của người Việt
Nam nói chung; Nguyễn Thị Tố Quyên (2003): “Mối quan hệ giữa pháp luật
và phong tục tập quán ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học [65]; Hoàng
Trọng Vĩnh (2006), “Mối quan hệ giữa pháp luật với phong tục, tập quán
trong điều chỉnh các quan hệ xã hội ở nước ta hiện nay”, Luận văn Thạc sỹ
Luật học, Hà Nội [104].
Nhìn chung, các công trình trên đã nghiên cứu một cách có hệ thống và
làm sáng tỏ nhiều vấn đề liên quan đến pháp luật, thực hiện pháp luật mang

lại cái nhìn đa chiều về pháp luật, tác động của các phạm trù hình thái ý thức
xã hội khác nhau lên pháp luật, đời sống pháp luật của các đối tượng được
nghiên cứu. Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến lý luận về thực hiện pháp
luật, đồng thời đề xuất những giải pháp lý luận và thực tiễn, nhằm nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật của nhân dân và cơ quan áp dụng pháp luật.
2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về phong tục tập quán, luật tục
của các dân tộc ở Việt Nam
Bùi Xuân Đính, (1995), “Lệ làng phép nước”, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội [30]. Cuốn sách của tác giả có nội dung giới thiệu một cách tương đối
có hệ thống, từ nguồn gốc, điều kiện xuất hiện hương ước, nội dung cơ bản
của hương ước, mối quan hệ giữa hương ước và pháp luật nhà nước phong
kiến đến tác động tích cực, tiêu cực, đặt hương ước trong di sản của thời kỳ
quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.

12


Bùi Xuân Đính (1998) “Hương ước và quản lý làng, xã”, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội [31], công trình nghiên cứu của tác giả với những nội
dung có chiều sâu về hương ước của người Việt trong mối quan hệ với quản
lý làng, xã.
Bùi Xuân Trường, (1999), “Tác dụng của luật tục đối với việc quản lý
xã hội ở các dân tộc Thái, H’Mông - Tây Bắc Việt Nam”, Nxb Văn hóa dân
tộc [93], tập trung vào nghiên cứu những vấn đề liên quan đến công tác quản
lý xã hội có tính thời sự, tuy nhiên công trình mới chỉ nghiên cứu chung về
quản lý xã hội, dưới dạng khái quát, chưa đi sâu vào từng lĩnh vực cụ thể.
Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Nghiên cứu
Văn hóa dân gian (2000), “Luật tục và sự phát triển nông thôn hiện nay ở
Việt Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội [92]. Đây là công trình tập hợp
những bài viết của nhiều tác giả nghiên cứu về luật tục của các dân tộc, tiêu

biểu là các bài viết: “Nguồn gốc và bản chất của luật tục Tây Nguyên” của
tác giả Phan Đặng Nhật, bài viết đã khái quát quá trình nghiên cứu luật tục
Tây Nguyên của người Pháp, trên cơ sở đó nêu lên bản chất luật tục của một
số dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, kiến nghị sự cần thiết phải nghiên cứu luật
tục Tây Nguyên; “Luật tục Ê Đê, luật tục M’Nông và vai trò của nó trong đời
sống các dân tộc Đắc Lắc” của tác giả Nguyễn Hữu Trí; “Luật tục Raglai đối
với vấn đề liên quan đến gia súc” của tác giả Chammaliaq Tiến; “Luật tục
Raglai đối với hành vi trộm cắp tài sản công dân” của tác giả Trần Vũ…
Đặc biệt có các công trình nghiên cứu mang tính chất chuyên khảo của
hai tác giả Ngô Đức Thịnh và Cầm Trọng, như: “Tìm hiểu luật tục các dân
tộc ở Việt Nam", “Luật tục Thái ở Việt Nam". Các cuốn sách tập hợp những
tài liệu về luật tục của đồng bào Thái, gồm cả luật tục thành văn và luật tục
bất thành văn đã được dịch từ chữ Thái cổ ra tiếng Việt [78, 79].
Phan Đặng Nhật (2007), “Luật tục với đời sống”, Tập 1, Nxb Tư pháp,
Hà Nội [57]. Công trình có nội dung luận giải luật tục các dân tộc Việt Nam
và giới thiệu minh chứng nội dung luật tục J'rai trên một số lĩnh vực liên quan
của đời sống xã hội.
13


Trương Tiến Hưng, (2009) “Vận dụng luật tục dân tộc Chăm trong
quản lý cộng đồng người Chăm của chính quyền cơ sở ở tỉnh Ninh Thuận”,
Luận án Tiến sỹ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội
[37]. Tác giả làm rõ cơ sở lý luận vận dụng luật tục dân tộc Chăm, khảo sát
thực tiễn vận dụng và đưa ra những giải pháp để tổ chức thực hiện trong quản
lý cộng đồng dân tộc Chăm ở Ninh Thuận.
Bùi Quang Thanh (2009) “Nghiên cứu luật tục, phong tục các dân tộc
thiểu số ở Quảng Nam”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội [73], cuốn sách đã
điều tra, khảo sát thực trạng khai thác, sử dụng luật tục của bốn nhóm dân tộc
ít người gồm Co, Cơ Tu, Giẻ Triêng và Xơ Đăng, tìm hiểu nhận thức, thái độ

và hoạt động thực hành luật tục, làm rõ tác động của luật tục đồng thời đề
xuất một số giải pháp để mang tính ứng dụng nhằm phát triển kinh tế, xã hội.
Các công trình trên đã đề cập đến luật tục của một số dân tộc ở Việt
Nam, nghiên cứu vai trò, tác động của luật tục lên đời sống, mối quan hệ giữa
luật tục với pháp luật, từ đó đề xuất những giải pháp thực tiễn để vận dụng
vào quản lý xã hội.
2.3. Nhóm công trình nghiên cứu về dân tộc và luật tục của Thái ở
Việt Nam
2.3.1. Các công trình nghiên cứu về dân tộc học, lịch sử, bản sắc văn
hóa liên quan đến người Thái ở Việt Nam
Từ năm 1991 đến nay Viện Việt Nam học và khoa học phát triển - Đại
học Quốc gia Hà Nội đã sáng lập Chương trình Thái học với sáu lần Hội thảo
khoa học vào những năm: 1991, 1998, 2002, 2006, 2009, 2012. Các công
trình được giới thiệu tại các Hội thảo đã bước đầu lý giải nhiều vấn đề mà bấy
lâu nay còn gây tranh luận trong giới nghiên cứu văn hóa, lịch sử, có thể
khẳng định đây là môi trường thuận lợi để gợi mở, tìm hiểu, bảo tồn và phát
huy các giá trị truyền thống của các tộc người ngôn ngữ hệ Thái – Kaidai Việt
Nam và thế giới [21,22,23,24,25,26].
Cầm Trọng (1978), “Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam”, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội [87], công trình nghiên cứu về lịch sử, kinh tế, xã hội, tập quán
14


người Thái Tây Bắc Việt Nam. Đây gần như là tác giả Việt Nam đầu tiên giới
thiệu khá sâu sắc về văn hóa, phong tục tập quán của người Thái ở Tây Bắc
nước ta.
Nguyễn Đình Lộc (1993), “Các dân tộc thiểu số ở Nghệ An”, Nxb
Nghệ An, Vinh [44], công trình này giới thiệu một cách khái quát về lịch sử,
văn hóa, truyền thống của người Thái ở Nghệ An.
Đồng tác giả Cầm Trọng, Phan Hữu Dật (1995), “Văn hóa Thái Việt

Nam”, Nxb Văn hóa dân tộc [88], công trình giới thiệu tổng quan về người
Thái, Thái học về văn hóa Thái trong cộng đồng các quốc gia Đông Nam Á...
nghiên cứu mối tương quan giữa văn hóa Thái với văn hóa các dân tộc nói
ngôn ngữ Môn – Khơme ở Tây Bắc và một số dân tộc thiểu số ở miền Bắc
nước ta.
Cao Văn Thanh (Chủ biên) (2004), “Bảo tồn và phát triển văn hóa
truyền thống của người Thái Bắc Trung bộ hiện nay”, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội [72], công trình giới thiệu nội dung mang tính chất đại cương về
người Thái và văn hóa người Thái ở Bắc Trung bộ Việt Nam, khái quát thực
trạng văn hóa và đưa ra giải pháp để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
trong giai đoạn hiện nay.
Bên cạnh các công trình tiêu biểu nêu trên, còn rất nhiều các công trình
về văn hoá nghệ thuật, giới thiệu về ca dao, dân ca, hát giao duyên, truyện cổ,
truyện thơ dân tộc Thái, cụ thể như: “Hát giao duyên người Thái Nghệ An”
của tác giả Lò Khánh Xuyên [108]; Công trình “Ngôn ngữ với việc hình
thành âm điệu đặc trưng trong dân ca Thái Tây Bắc Việt Nam" của tác giả
Dương Minh Sơn [66]; Tác giả Quán Vi Miên có khá nhiều công trình, đó là:
“Ca giao - Dân ca Thái Nghệ An”, Tập 1, Tập 2 [53]; “Tang lễ của người
Thái ở Nghệ An” [54]; “Tục ngữ Thái giải nghĩa” [55]; “Chương Han” của
tác giả Vương Trung [91; Lò Vũ Vân (2010), “Văn hóa dân gian người
Thái”, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội [102].
Các công trình nghiên cứu kể trên đã mang lại một hệ thống tri thức
phong phú và cái nhìn tổng quan về lịch sử, dân tộc học và văn hóa Thái.
15


Đồng thời cũng đã trở thành viên nam châm có sức hút về văn hóa, lịch sử
dân tộc học người Thái đối với các nhà nghiên cứu. Góp phần vào việc bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
3.2.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến luật tục của người

Thái ở Việt Nam
Đặng Nghiên Vạn (Chủ biên), Cầm Trọng, Khà Tiến, Tòng Kim Ân
(1977) “Tư liệu về lịch sử và xã hội dân tộc Thái”, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội [99], cuốn sách này tập hợp các nội dung giới thiệu về: Truyện kể bản
mường; Lai lịch dòng học Hà Công; Lệ Mường; Luật Mường; Tục lệ người
Thái đen ở Thuận Châu – Sơn La.
Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Nghiên cứu
Văn hóa dân gian (2000) “Luật tục và phát triển nông thôn Việt Nam hiện
nay”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội [46], tập hợp các công trình nghiên
cứu của nhiều tác giả. Tại đây, có những bài viết của nhiều tác giả nghiên cứu
về vận dụng luật tục, cụ thể như: “Luật tục và chiến lược phát triển nông thôn
ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Duy Quí; “Vai trò của luật tục vùng cao
trong công tác giao đất khoán rừng và quản lý tài nguyên thiên nhiên”, của
tác giả Hoàng Xuân Tý; “Vai trò của phong tục tập quán và việc kế thừa
phong tục tập quán trong xây dựng pháp luật”; “Luật tục và vấn đề quản lý
tài nguyên thiên nhiên: những gợi ý nhằm hoà hợp luật thành văn và luật tục
ở Châu Á” của tác giả John Ambler; Một số bài viết về luật tục người Thái,
điển hình như: “Luật tục Thái với việc bảo vệ môi trường” của tác giả Cầm
Trọng; “Phong tục trong hôn nhân và gia đình của người Thái Mường Tấc
(Phù Yên - Sơn La)” của tác giả Hoàng Lương.
Vì Văn An (1999), “Thiết chế bản - mường truyền thống của người
Thái ở miền Tây Nghệ An”, Luận án Tiến sỹ Luật học, Hà Nội [1], công trình
có nội dung đề cập tới vấn đề thiết chế quản lý xã hội của cộng đồng dân tộc
Thái ở Việt Nam. Trong đó tập trung vào nghiên cứu thiết chế bản mường
người Thái huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An (ngày nay), đó là Mường Quạ và
Mường Chai. Luận án đã rút ra những kết luận quan trọng, có ý nghĩa lý luận
16


về lịch sử, nguồn gốc quản lý xã hội trong cộng đồng dân tộc Thái lúc bấy

giờ.
Lò Thị Hạnh, Lò Văn Biến, Nguyễn Mạnh Hùng (2005), “Tìm hiểu một
số tục cúng vía của người Thái đen ở Mường Lò”, Nxb Văn hóa thông tin, Hà
Nội [32], công trình bàn về tục cúng vía của người Thái Đen ở Mường Lò.
Cúng vía là hình thức sinh hoạt tín ngưỡng trong cộng đồng người Thái. Cúng
vía, tức là gọi hồn, gọi vía, một nghi lễ tín ngưỡng. Theo quan niệm của
người Thái, người sống có vía của người sống (phi khuôn), người chết có vía
(phi tai), một số con vật, cây cối, rừng núi, đất đai… người ta quan niệm đều
có hồn, vía hay có thể nói trong ý thức hệ của người Thái thì "vạn vật hữu
linh". Theo tục lệ, có thể cúng vía theo định kỳ, theo chu kỳ hoặc có thể cúng
vía đột xuất do có các sự kiện vui, buồn… khác nhau phát sinh trong đời sống
thường nhật.
Cầm Trọng (2005), “Những hiểu biết về người Thái ở Việt Nam”, Nxb
Chính trị Quốc gia Hà Nội [90]. Đây là công trình có phương pháp tiếp cận
mới, đa chiều, nhiều chi tiết khi luận giải về cội nguồn lịch sử, văn hóa Thái
đã gắn liền với cội nguồn lịch sử, văn hóa của người Việt. Tác giả tiếp tục
nghiên cứu giới thiệu bổ sung về lịch sử, văn hóa, kinh tế, xã hội, tín ngưỡng
tôn giáo người Thái Việt Nam.
Đặc biệt tác giả Vì Văn Sơn đã có hẳn 02 công trình khoa học liên quan
đến nghiên cứu và vận dụng Luật tục Thái, đó là:“Luật tục Thái trong tự quản
của cộng đồng bản dân tộc Thái tỉnh Nghệ An”, Luận văn Thạc sỹ Luật học,
Hà Nội (2008) [67], tại công trình này tác giả đã nêu lên một hệ thống các vai
trò và vận dụng luật tục Thái vào trong tự quản cộng đồng dân tộc Thái ở
Nghệ An; “Luật tục người Thái và sự vận dụng trong quản lý nhà nước đối
với cộng đồng người Thái ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam”, Luận án Tiến
sỹ Luật học, Hà Nội (2015) [68]. Công trình đã đưa ra hệ thống cơ sở lý luận
nghiên cứu liên quan đến việc vận dụng và đưa ra hệ thống các giải pháp thực
tiễn để vận dụng những giá trị trong luật tục Thái vào trong quản lý nhà nước
đối với cộng đồng người Thái ở các tỉnh Bắc Trung bộ nước ta. Cũng trong
17



công trình nghiên cứu trên, tác giả đã trình bày mối tương quan giữa pháp luật
và luật tục trong vai trò quản lý và điều hành xã hội.
Vi Văn Biên (2009) “Một số phong tục và lễ hội truyền thống của
người Thái ở Thanh Hóa và Nghệ An”, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội [11].
Công trình nghiên cứu về người Thái ở phạm vi hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ
An và có phân tích khái quát bước đầu về những giá trị văn hóa, phong tục
tập quán trong đời sống người Thái ở Bắc Trung bộ Việt Nam.
Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam (2012), “Thơ ca, nghi lễ dân tộc
Thái”, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội [62]. Công trình giới thiệu về ca dao,
dân ca, truyện thơ của dân tộc Thái.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều góc
cạnh, vấn đề liên quan đến luật tục, phong tục, ý nghĩa của chúng đối với
quản lý xã hội và sự phát triển của xã hội. Các công trình nghiên cứu đã tìm ra
các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục ý thức pháp luật, vai trò của ý
thức và mối quan hệ giữa phong tục, tập quán, luật tục với pháp luật… Nhưng
khi tìm hiểu sự tác động của Luật tục Thái đối với việc thực hiện pháp luật
của người Thái tại tỉnh Sơn La hiện nay thì chưa có công trình nào nghiên cứu
mang tính hệ thống. Chúng tôi sẽ tiếp thu những giá trị của các công trình
nghiên cứu trước để làm cơ sở lý luận, tài liệu tham khảo trong quá trình thực
hiện luận văn của mình.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những giá trị trong luật tục, mối quan hệ giữa
luật tục Thái với việc thực hiện pháp luật, đề tài nhằm nâng cao ý thức, thái
độ tuân thủ pháp luật cho người Thái tại tỉnh Sơn La và các địa phương khác
trong giai đoạn hiện nay.
4. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của luận văn là luật tục Thái tại tỉnh Sơn La.

4.2. Đối tƣợng nghiên cứu

18


Sự tác động của luật tục Thái đối với việc thực hiện pháp luật của
người Thái tại tỉnh Sơn La hiện nay.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu nghiên cứu thành công đề tài sẽ góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ
giữa luật tục Thái đối với việc thực hiện pháp luật của người Thái tại tỉnh Sơn
La hiện nay, đồng thời góp phần phát huy sự tác động theo hướng tích cực và
khắc phục những hạn chế của luật tục đối với việc thực hiện pháp luật của
người Thái tại tỉnh Sơn La và một số địa phương khác.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Giới thiệu sơ lược về luật tục Thái, pháp luật, thực hiện pháp luật.
- Làm rõ mối quan hệ giữa luật tục Thái và thực hiện pháp luật trên cơ
sở mối tương quan giữa pháp luật và luật tục Thái.
- Phát hiện, tìm tòi những giá trị tích cực trong Luật tục Thái có ý nghĩa
đối với việc nâng cao ý thức thực hiện pháp luật.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao ý thức thực hiện pháp luật
của người Thái tại tỉnh Sơn La theo tinh thần luật tục Thái.
7. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu
Phân tích luật tục Thái trong cuốn “Luật tục Thái ở Việt Nam” của
đồng tác giả Ngô Đức Thịnh và Cầm Trọng được nhà xuất bản Văn hóa dân
tộc xuất bản 1999, 2003 trên phương diện những giá trị có ý nghĩa đối với vấn
đề nâng cao ý thức thực hiện pháp luật.
Nghiên cứu thực hiện pháp luật tập trung chủ yếu vào 3 hình thức:
Tuân thủ; thi hành; sử dụng.
Nghiên cứu mối tương quan giữa pháp luật và luật tục Thái; giữa luật
tục Thái với thực hiện pháp luật.

8. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
và một số phương pháp chuyên ngành: nghiên cứu tài liệu có sẵn, phỏng vấn,
quan sát, điền giã, phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn dịch, lôgic - lịch sử ...

19


9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 2 chương 6 tiết.
10. Tóm tắt các luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
10.1. Những luận điểm cơ bản
Luật tục Thái là một bộ phận quan trọng trong đời sống và có mối quan
hệ mật thiết với việc thực hiện pháp luật của người Thái tại tỉnh Sơn La.
Là một sản phẩm của ý thức xã hội mang tính lịch sử luật tục Thái
mang giá trị tích cực, đồng thời cũng tồn tại những hạn chế.
Đề xuất những giải pháp mang tính hệ thống, khách quan, khoa học,
biện chứng sẽ góp phần phát huy tác động tích cực và khắc phục hạn chế
trong luật tục Thái đối với việc thực hiện pháp luật của người Thái.
10.2. Đóng góp mới của luận văn
Về mặt lý luận: Nghiên cứu một cách có hệ thống sự tác động của luật
tục Thái đối với việc thực hiện pháp luật của người Thái tại tỉnh Sơn La hiện
nay.
Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu sự tác động của luật tục Thái đối với việc
thực hiện pháp luật, từ đó đề xuất được những giải pháp nhằm phát huy
những tác động tích cực và khắc phục những hạn chế của luật tục Thái đối với
việc thực hiện pháp luật hiện nay của người Thái tại tỉnh Sơn La và một số
địa phương khác.


20


CHƢƠNG 1
KHÁI LƢỢC VỀ PHÁP LUẬT VÀ LUẬT TỤC THÁI
1.1. Pháp luật
1.1.1. Pháp luật
Pháp luật là một sản phẩm mang tính lịch sử, được ra đời cùng với sự
hình thành nhà nước, khi lực lượng sản xuất xã hội nhất là công cụ lao động
đã phát triển đến một trình độ nhất định, nói như Mác: Khi người nguyên thủy
đầu tiên nung chảy kim loại, anh ta đã vô tình nung chảy cả xã hội cộng sản
nguyên thủy. Khi mới tách khỏi thế giới tự nhiên để trở thành một bộ phận có
tính độc lập tương đối, con người sống chủ yếu dựa vào săn bắt và hái lượm,
tìm kiếm những vật phẩm có sẵn trong tự nhiên dựa trên công cụ lao động thô
sơ, năng suất lao động thấp, của cải kiếm được thường chỉ đủ để duy trì cuộc
sống, không có dư thừa để tích lũy. Có thể nói, trong lúc này trật tự xã hội
được duy trì trên nền tảng đạo đức và uy tín của người đứng đầu (những
người được mọi người trong bộ tộc bầu lên hoặc bãi miễn dựa trên nguyên tắc
dân chủ). Đứng trên bình diện chủ nghĩa duy vật về lịch sử, chúng ta thấy đây
là một thể chế xã hội dân chủ và bình đẳng sơ khai.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất, nhất là sự xuất hiện kế tiếp nhau
của các công cụ lao động từ đồ đá đến kim loại, đã tạo bước tiến lớn trong cải
tiến năng suất và chất lượng lao động. Của cải xã hội từ chỗ thiếu, đủ đã vượt
nhu cầu tiêu dùng của xã hội, trở nên dư thừa và tích lũy, những người có địa
vị đã chiếm làm của riêng, dần dần trở nên giàu có và có quyền chi phối đến
hoạt động của những người khác trong bộ tộc. Cùng với quá trình tích lũy và
phân cực trong nội bộ, các bộ tộc lớn mạnh đã tiêu diệt, thôn tính và bóc lột
những kẻ yếu hơn, quan hệ giai cấp đối kháng được hình thành.
Sự tư hữu đã dẫn đến ra đời của giai cấp, đó là những người khác nhau
về quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất của xã hội, khác nhau về phần của

cải họ được hưởng. Sự đối lập về lợi ích kinh tế, dẫn đến hình thành mâu
thuẫn đối kháng giữa các giai cấp đối lập, biểu hiện về mặt xã hội của nó trở
thành các cuộc đấu tranh giữa giai cấp thống trị và bị trị. Đấu tranh vũ trang
21


giữa các giai cấp đối lập đặt lợi ích của bọn thống trị và xã hội loài người
trước nguy cơ bị diệt vong. Để bảo vệ lợi ích của mình và cứu vớt xã hội ra
khỏi thảm họa tiêu tan, một lực lượng sinh ra trong xã hội nhưng tựa hồ như
đứng trên xã hội có vai trò như một thiết chế, công cụ trấn áp, quản lý, điều
hành xã hội được hình thành, đó là nhà nước. Nhà nước thực hiện chức năng
quản lý xã hội thông qua hệ thống các thiết chế, thể chế của kiến trúc thượng
tầng. Trong đó, pháp luật là công cụ có vai trò tác động mạnh nhất thể hiện ý
chí và quyền lực của giai cấp thống trị.
Trên thực tế pháp luật là vấn đề phức tạp trong nhận thức luận khoa học
pháp lý của nhân loại từ xưa đến nay chưa có sự kiến giải mang tính thống
nhất.
Ở phương Tây qua góc nhìn của trường phái pháp luật tự nhiên được
khởi xướng bởi Grotiut người Hà Lan, họ khẳng định pháp luật là những quy
tắc mà con người cũng như các sự vật phải có và sẽ tồn tại bất biến như thuộc
tính của con người, sự vật và hiện tượng. Tiêu biểu là quan niệm của
Montesquieu: "Luật, theo nghĩa rộng nhất là những quan hệ tất yếu từ trong
bản chất của sự vật. Với nghĩa này thì mọi vật đều có luật của nó. Thế giới
thần linh, thế giới vật chất, những trí tuệ siêu việt, cho đến các loài vật và
loài người đều có luật của mình" [95, tr.94].
Ở Trung Quốc cổ đại cũng tồn tại những quan niệm quan trọng về pháp
luật, tiêu biểu có quan niệm của phái Pháp gia, Hàn Phi Tử coi pháp luật là
thứ tiêu chuẩn để biết đâu là chính đâu là tà, để khen đúng người phải, để
trách đúng người quấy. Pháp luật, đó là "...hiến lệnh công bố ở các công sở,
thưởng hay phạt dân tin chắc là thi hành, thưởng người cẩn thận giữ pháp

luật phạt kẻ phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ theo pháp" [95, tr.94], theo đó pháp
luật là cái quy, cái củ, cái thủy chuẩn dùng để làm tiêu chuẩn hay thước đo
hành vi, quan hệ của con người.
Quan niệm thần học coi pháp luật là sản phẩm của ý chí của thượng đế,
sản phẩm của tinh thần tối cao và nó mang tính "nhất thành, bất biến". Tiêu
biểu là Heghen đã cho rằng pháp luật cũng như nhà nước đều là sản phẩm
22


hiện thực của ý niệm đạo đức, là hiện tượng lý tính của quá trình nhận thức.
Theo ông: "Pháp luật là ở chỗ tồn tại hiện có của ý chí tự do, do vậy pháp
luật là tự do nói chung như ý niệm" [95, tr.95].
Đứng trên quan điểm duy vật về lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin đã
khẳng định sự hiện diện khách quan của pháp luật trong đời sống xã hội có
giai cấp. Theo đó pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc
chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các mối quan
hệ xã hội theo mục tiêu, định hướng cụ thể. Theo cách tiếp cận này, pháp luật
chính là thứ chuẩn mực xã hội, là thước đo của hành vi được hình thành bằng
con đường nhà nước và mang tính quyền lực nhà nước. Đó chính là công cụ
để giai cấp thống trị sử dụng để thực hiện chức năng quản lý và hợp pháp hóa
quan hệ thống trị đối với xã hội.
Theo từ điển Luật học, pháp luật: Hệ thống các quy tắc xử sự mang tính
bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội, phục vụ và bảo vệ quyền lợi của các tầng lớp dân cư trong xã
hội [8, tr.606].
Khái quát những nét chung từ các quan điểm, định nghĩa trên, có thể
quan niệm về pháp luật như sau: Pháp luật là một hệ thống các quy tắc xử sự
có tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí
của nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội và được bảo đảm thực hiện
bằng quyền lực nhà nước thông qua các chế tài, hình phạt.

Pháp luật với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, tự bản thân nó
không thể điều chỉnh các mối quan hệ xã hội mà phải bằng hoạt động có ý
thức của con người thông qua thực hiện chúng trong thực tế đó là thực hiện
pháp luật.
1.1.2. Thực hiện pháp luật
1.1.2.1. Quan niệm về thực hiện pháp luật
Chúng ta đều biết rằng, pháp luật được ban hành là để điều chỉnh các
quan hệ xã hội, trật tự hóa, củng cố và phát triển theo định hướng mong muốn

23


nhằm đạt mục đích nhất định. Lênin cho rằng: vấn đề quan trọng không phải
là ban hành thật nhiều luật, mà quan trọng là thực hiện chúng trên thực tế.
Khi bàn về thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay có nhiều quan điểm
khác nhau:
- Có quan điểm cho rằng: "Thực hiện pháp luật là hành vi (hành động
hoặc không hành động) của con người phù hợp với những quy định của pháp
luật. Nói khác đi, tất cả những hoạt động nào của con người, của các tổ chức
mà thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật thì đều được coi là biểu
hiện của việc thực hiện thực tế các quy phạm pháp luật" [52, tr.7].
- Một xu hướng khác lại cho rằng: "Thực hiện pháp luật là hiện tượng,
quá trình có mục đích làm cho các quy định của pháp luật trở thành hoạt
động thực tế của các chủ thể pháp luật" [52, tr.7].
- Theo Đào Trí Úc thì "Áp dụng (thực hiện) pháp luật là toàn bộ những
việc làm, những hoạt động, những phương thức nhằm thực hiện những yêu
cầu đặt ra trong pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội" [52,
tr.7].
- Theo Đào Thị Mai: "Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích
của con người, của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội

nhằm làm cho các quy phạm pháp luật đi vào cuộc sống, tạo ra những giá trị
văn minh vật chất và văn minh tinh thần phong phú cho con người và xã hội.
Tất cả những xử sự được tiến hành phù hợp với các yêu cầu của quy phạm
pháp luật đều được coi là sự thực hiện thực tế các quy phạm pháp luật đó"
[52, tr.8].
- Theo Nguyễn Minh Đoan: "Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục
đích nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật, làm cho chúng đi vào
cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp
luật" [28, tr.15].
- Theo từ điển Luật học: Thực hiện pháp luật là hành vi của chủ thể
(hành động hoặc không hành động) được tiến hành phù hợp với quy định, với
yêu cầu của pháp luật, tức là không trái, không vượt quá khuôn khổ mà pháp
24


luật đã quy định [8, tr.758]. Chúng tôi đồng tình với quan niệm về thực hiện
pháp luật như khái niệm được nêu trong từ điển Luật học.
1.1.2.2. Các hình thức thực hiện pháp luật
* Tuân thủ pháp luật (không làm những điều mà pháp luật cấm)
Tuân thủ pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật
ngăn cấm. Các quy phạm pháp luật ngăn cấm được thực hiện ở hình thức này.
Ví dụ: Điều 75 Luật Giáo dục Việt Nam năm 2005 quy định: Nhà giáo tự
kiềm chế mình để không xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể
của người học; không gian lận trong tuyển sinh, thi cử; không đánh giá sai kết
quả học tập; rèn luyện của người học; không xuyên tạc nội dung giáo dục và
không ép học sinh học thêm để thu tiền [29, tr.228].
* Thi hành (chấp hành) pháp luật (thực hiện nghĩa vụ pháp lý)
Thi hành pháp luật còn gọi là chấp hành pháp luật là một hình thức thực
hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của

mình bằng hành động tích cực. Các quy phạm pháp luật quy định bắt buộc
được thực hiện ở hình thức này. Ví dụ: Điều 72 Luật Giáo dục Việt Nam năm
2005 quy định đối với nhà giáo: Phải giáo dục, giảng dạy theo đúng mục tiêu,
nguyên lý giáo dục, thực hiện đầy đủ và có chất lượng chương trình giáo dục;
gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và điều
lệ nhà trường; giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo, tôn trọng nhân
cách của người học, đối xử công bằng với người học, bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của người học [29, tr.229].
* Sử dụng pháp luật (thực hiện quyền hợp pháp)
Sử dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể pháp luật thực hiện quyền tự do pháp lý của mình (những hành vi mà
pháp luật cho phép chủ thể tiến hành). Các quy phạm pháp luật quy định về
quyền tự do pháp lý của các tổ chức, cá nhân được thực hiện ở hình thức này.
Ở hình thức này các chủ thể có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền tự
do pháp lý của mình chứ không bị bắt buộc phải thực hiện. Vd: Điều 73 Luật
25


×