Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp quận, huyện ở TP cần thơ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (947.71 KB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------

TRƯƠNG KHÁNH LINH

NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TUYÊN GIÁO CẤP QUẬN,
HUYỆN Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------

TRƯƠNG KHÁNH LINH

NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TUYÊN GIÁO CẤP QUẬN,
HUYỆN Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ HIỆN NAY
Chuyên ngành : Triết học
Mã số

: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: PSG.TS. NGUYỄN VĂN CƯ

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, luận văn Thạc sĩ Triết học với đề tài “Nâng cao
trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp quận, huyện ở
thành phố Cần Thơ hiện nay” đây là công trình nghiên cứu riêng của tôi
dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Văn Cư.
Các số liệu, tài liệu tham khảo được sử dụng trong luận văn là trung
thực, các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được nêu rõ nguồn gốc, xuất
xứ rõ ràng.

Hà Nội, tháng 6 năm 2017
Tác giả

Trương Khánh Linh


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban
Giám hiệu, phòng Đào tạo sau Đại học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã
tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu. Xin cảm ơn Ban
Giám hiệu, phòng Đào tạo Trường Đại học An Giang đã tạo điều kiện về cơ
sở vật chất để tôi hoàn thành khóa học.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới giáo viên hướng dẫn PGS.TS
Nguyễn Văn Cư, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo những khuyết điểm, bổ
sung kiến thức, cũng cố thêm phương pháp nghiên cứu khoa học và chia sẻ

những kinh nghiệm thực tiễn quý báu trong suốt quá trình tôi thực hiện luận
văn.
Xin cảm ơn chân thành tất cả các Thầy giáo, Cô giáo của Khoa Triết,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, đã truyền đạt những kiến thức và những
kinh nghiệm sống cho lớp, giúp các bạn trong lớp và bản thân tôi có thêm
kiến thức và kinh nghiệm trong cuộc sống. Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn
đến gia đình, bạn bè của tôi cũng như cơ quan, tổ chức và đồng nghiệp, những
người luôn ở bên giúp đỡ và động viên tôi trong suốt quá trình học tập và thực
hiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, tháng 6 năm 2017
Tác giả

Trương Khánh Linh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 7
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 7
2. Lịch sử nghiên cứu ................................................................................... 9
3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................. 12
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu ..................................................... 13
4.1. Khách thể........................................................................................... 13
4.2. Đối tượng nghiên cứu........................................................................ 13
5. Giả thuyết khoa học ............................................................................... 13
6. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................. 13
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu ............................................................... 13
8. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 14
9. Cấu trúc đề tài ........................................................................................ 14
10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn ................. 14

10.1. Những luận điểm cơ bản ................................................................. 14
10.2. Đóng góp mới của luận văn ............................................................ 14
Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TUYÊN GIÁO CẤP
QUẬN, HUYỆN Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ HIỆN NAY ...................... 16
1.1. Cơ sở lý luận ........................................................................................ 16
1.1.1. Lý luận ............................................................................................ 16
1.1.2. Lý luận chính trị ............................................................................. 18
1.1.3. Trình độ lý luận chính trị ............................................................... 21
1.1.4. Nội dung nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ
tuyên giáo cấp quận, huyện ở thành phố Cần Thơ hiện nay.................... 28
1.2. Cơ sở thực tiễn .................................................................................... 34
1.2.1. Đặc điểm trình độ lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ tuyên giáo
cấp quận, huyện ở thành phố Cần Thơ hiện nay (05 quận, huyện) ......... 34
1.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc nâng cao trình độ lý luận chính
trị cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp quận, huyện ở thành phố Cần Thơ
hiện nay. ................................................................................................... 42
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 50
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CỦA VIỆC NÂNG CAO
TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TUYÊN
GIÁO CẤP QUẬN, HUYỆN Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ HIỆN NAY . 52
2.1. Thực trạng của việc nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ
cán bộ tuyên giáo cấp quận, huyện ở thành phố Cần Thơ hiện nay .... 52
2.1.1. Những thành tựu và nguyên nhân của thành tựu ........................... 52
2.1.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế............................................ 64
2.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao trình độ lý luận chính trị
cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp quận, huyện ở thành phố Cần Thơ
hiện nay ....................................................................................................... 67
5



2.2.1. Nhóm giải pháp đối với tổ chức, cấp ủy Đảng về nâng cao trình độ
lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp quận, huyện ở thành
phố Cần Thơ hiện nay .............................................................................. 68
2.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao trình độ lý luận chính trị đối với cá nhân
cán bộ tuyên giáo cấp quận, huyện ở thành phố Cần Thơ hiện nay ........ 75
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 90
KẾT LUẬN .................................................................................................... 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 94
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 101

6


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, tạo tiền đề vững chắc để đất
nước bước vào một giai đoạn phát triển mới – thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
Thành công đó là kết quả của sự nỗ lực cố gắng của toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân ta. Trong đó có sự đóng góp quan trọng của đội ngũ những người
làm công tác tư tưởng trên các lĩnh vực, các ngành, các cấp nói chung, đặc
biệt là đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp quận, huyện. Trong hệ thống tổ chức
Đảng cấp quận, huyện, Ban Tuyên giáo cấp quận, huyện có vai trò hết sức
quan trọng trong việc tham mưu, chỉ đạo và kiểm tra giúp cấp ủy triển khai
thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước trên địa bàn; Ban Tuyên giáo cấp quận, huyện và đội ngũ cán bộ làm
công tác tuyên giáo thực sự đã trở thành “cánh tay nối dài” trên mặt trận tuyên
truyền tư tưởng – văn hóa của Đảng.

Trong giai đoạn hiện nay, bên cạnh những thuận lợi, đội ngũ những
người làm công tác tuyên giáo cũng gặp không ít khó khăn, thách thức. Trên
thế giới cũng đang diễn ra nhiều sự kiện có tính “đảo lộn” cực kỳ phức tạp,
cuộc khủng hoảng kinh tế, xung đột vũ trang, chiến tranh sắc tộc, tôn giáo còn
xảy ra nhiều nơi. Tình hình tranh chấp lãnh thổ, biển đảo diễn biến phức tạp
làm ảnh hưởng đến hòa bình thế giới. Các thế lực thù địch lợi dụng chiêu bài
dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để xuyên tạc, kích động, gây chia rẽ khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta, hòng làm lung lạc niềm tin của
cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân, đồng thời nhằm xóa bỏ vai trò lãnh
đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng. Trong
nước, tình hình kinh tế - xã hội đã có những dấu hiệu phục hồi, phát triển,
7


nhưng hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đang tác động nhiều
tiêu cực đến nước ta. Công tác xây dựng Đảng và các tổ chức trong hệ thống
chính trị tuy đạt được những kết quả quan trọng nhưng vẫn còn một số hạn
chế nhất định. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về “một số vấn đề cấp bách
về xây dựng Đảng hiện nay” đã chỉ rõ “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, trong đó có những đảng viên đang giữ chức vị trí lãnh đạo, quản lý, kể
cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạc lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá
nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục
bộ, tham nhũng, lãng phí tùy tiện, vô nguyên tắc,…” đang làm giảm lòng tin
của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Từ những
yêu cầu đó thì việc nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ
tuyên giáo là hết sức cấp bách, nhằm tạo ra đội ngũ cán bộ tuyên giáo có bản
lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng của Đảng, có đạo đức
trong sáng, trí tuệ uyên thâm, sắc bén về lý luận sẵn sàng chiến đấu, đập tan

mọi luận điệu xuyên tạc của kẻ thù trên mặt trận văn hóa, tư tưởng, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Sau gần 31 năm thành phố Cần Thơ cùng cả nước thực hiện đường lối
đổi mới, đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên giáo từ thành phố đến cơ sở, đặc
biệt là đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp quận, huyện đã từng bước trưởng thành,
tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn. Cán bộ tuyên giáo
cấp quận, huyện đã giúp cấp ủy trong công tác tham mưu, chỉ đạo, tổ chức
thực hiện thắng lợi các chủ trương, nghị quyết của Trung ương, Thành ủy, của
cấp ủy địa phương về tình hình phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc
phòng và công tác xây dựng Đảng. Đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp quận,
huyện đã có nhiều cố gắng vươn lên, cơ bản đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ
đặt ra. Trình độ lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ tuyên giáo đã được nâng
lên một bước, thể hiện rõ trong việc đề ra định hướng công tác tư tưởng,
8


hướng dẫn, triển khai các hoạt động tuyên truyền và được thể hiện thông qua
việc kiểm tra, đánh giá hiệu quả công tác tư tưởng, trong việc giúp đỡ lực
lượng tuyên truyền trên địa bàn.
Bên cạnh kết quả đạt được, cán bộ tuyên giáo cấp quận, huyện còn
một số hạn chế nhất định như: trong triển khai thực hiện nhiệm vụ còn rập
khuôn, chưa vận dụng sáng tạo các chủ trương, chính sách của Đảng vào điều
kiện cụ thể của địa phương mình; một số còn thụ động, ỷ lại, chưa năng động
trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ; tư tưởng đề cao kinh nghiệm, hạn
chế đi xuống cơ sở, làm việc theo lối hành chính quan liêu đã làm ảnh hưởng
đến hiệu quả hoạt động trên lĩnh vực công tác tư tưởng.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, đội ngũ này phải
không ngừng rèn luyện, nâng cao trình độ về mọi mặt. Trong đó cần chú ý về
nâng cao trình độ lý luận chính trị, để từ đó, đội ngũ này mới có thể nắm bắt,

phản ánh đúng đắn các khả năng, các xu hướng, các giai đoạn vận động của
thực tiễn. Trên cơ sở đó, vận dụng những chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước một cách có hiệu quả, sát với tình hình và
điều kiện thực tế tại địa phương theo hướng phát triển toàn diện và vững chắc.
Xuất phát từ những lý do đó, tôi quyết định chọn đề tài “Nâng cao
trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp quận, huyện ở
thành phố Cần Thơ hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành
Triết học của mình với mong muốn góp một phần nhỏ bé vào việc nâng cao
trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp quận, huyện ở
thành phố Cần Thơ hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh
đạo từ khi ra đời đến nay luôn coi trọng vấn đề giáo dục, rèn luyện, nâng cao
trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên. Thời gian qua, vấn đề nâng cao trình
độ lý luận trong công tác tư tưởng của Đảng đã có nhiều công trình nghiên
cứu của nhiều tác giả đề cập ở nhiều gốc độ khác nhau, với những hình thức
9


thể hiện khác nhau được đăng tải trên sách, báo, tạp chí cả Trung ương và địa
phương có nội dung liên quan đến đề tài, đây là nguồn tư liệu quý báu giúp
tác giả tham khảo, kế thừa trong quá trình nghiên cứu để hoàn thiện bài luận
văn của mình. Liên quan đến đề tài nghiên cứu có 02 mảng tư liệu lớn:
Một là, nghiên cứu về lý luận chung về đào tạo, bồi dưỡng, nâng
cao năng lực tư duy lý luận của người cán bộ:
Đối với vấn đề lý luận chung, có đề tài “Nâng cao trình độ lý luận
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên trong công cuộc đổi
mới hiện nay” của Hoàng Thị Xuân Thanh, luận văn Thạc sĩ Triết học, 1998;
“Đổi mới tư duy về công tác cán bộ tuyên giáo” của Tiến sĩ Lương Khắc Hiếu
và Tiến sĩ Nguyễn Viết Thông, Tạp chí tư tưởng – văn hóa, số 2, 2002; “Vai

trò của giáo dục lý luận chính trị trong việc nâng cao năng lực tư duy lý luận
cho đội ngũ cán bộ cơ sở ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay” của Lăng Văn Thăng,
luận văn Thạc sĩ Chính trị học, 2004; “Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho
đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong tác phẩm Sửa đổi
lề lối làm việc” của Nguyễn Mạnh Hưởng, Tạp chí Cộng sản, 2007; “Nâng
cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh
Hà Tỉnh hiện nay”, của Trần Đình Tuấn, luận văn Thạc sĩ khoa học Chính trị,
2007; “Chú trọng giáo dục lý luận chính trị góp phần xây dựng hệ thống
chính trị cơ sở vững mạnh ở huyện Cao Lãnh” của Đinh Thị Thu Hà, Tạp chí
Cộng sản, số 93, 2014; “Mấy vấn đề then chốt của công tác tư tưởng, lý luận”
của Lê Duẩn, Tạp chí Cộng sản, số 103, 2015; “Lý luận – một trong những
công tác cực kỳ quan trọng của Đảng” của Nguyễn Văn Linh, Tạp chí Cộng
sản, số 103, 2015; “Đảng bộ thành phố Cần Thơ đẩy mạnh công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên” của Kim Thu, Thông tin tuyên giáo
Cần Thơ, số đặc biệt, 2015. Các công trình đã nghiên cứu sâu sắc về năng lực
tư duy lý luận cho người cán bộ, đảng viên, bên cạnh đó xây dựng những giải
pháp mang tính thực tiễn trong việc nâng cao năng lực tư duy lý luận của cán
bộ, đảng viên ở từng địa phương qua khảo sát.
10


Ngoài ra còn có các công trình như: “Nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn với việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho giảng viên
Mác-Lênin ở các Trường chính trị tỉnh” của Nguyễn Đình Trãi, Tạp chí Triết
học, số 1, 1993; “Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy lý
luận Mác-Lênin ở các Trường chính trị tỉnh” của Nguyễn Đình Trãi, luận án
Tiến sĩ Triết học, 2001; “Phương pháp giảng dạy lý luận chính trị dành cho
giáo viên giảng dạy lý luận chính trị tại Trung tâm Bồi dưỡng chính trị”, của
Ban Tuyên giáo Trung ương (biên soạn), Nxb Lao động xã hội, 2008; “Gắn
lý luận với thực tiễn – nguyên tắc cơ bản trong giảng dạy lý luận chính trị”,

của Thạc sĩ Võ Thị Bích Diễm, Thông tin Nghiên cứu – Giảng dạy Trường
chính trị Cần Thơ, số 17, 2013. Các công trình đã nghiên cứu sâu sắc về năng
lực tư duy lý luận và phương pháp giảng dạy cho người cán bộ làm nhiệm vụ
giảng dạy lý luận Mác-Lênin ở các Trường chính trị tỉnh.
Hai là, nghiên cứu sâu về năng lực tư duy, trình độ tư duy, tư duy lý
luận và trình độ tư duy lý luận, thực trạng nâng cao năng lực tư duy lý
luận của cán bộ:
“Xây dựng phong cách tư duy khoa học của người cán bộ đảng viên
theo gương Bác Hồ vĩ đại” của Lê Thanh Bình, Tạp chí Triết học, số 13,
1986; “Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi mới tư duy” của Nguyễn
Ngọc Long, Tạp chí Cộng sản, số 10, 1987; “Mấy ý kiến về đổi mới tư duy lý
luận” của Thái Ninh, Tạp chí Cộng sản, số 3, 1987; “Mấy vấn đề trong công
tác lý luận” của Đỗ Nguyên Phương, Tạp chí Công tác tư tưởng - văn hóa, số
3, 1992; “Quan hệ giữa lý luận và chính trị” của Nguyễn Thế Phấn, Tạp chí
Cộng sản, số 8, 1992; “Tư duy truyền thống Việt Nam trong quá trình đổi mới
tư duy ở nước ta” của Vũ Văn Viên, Tạp chí Lý luận chính trị, số 12, 2001;
“Tư duy lý luận với hoạt động của người cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn”,
đề tài khoa học cấp bộ năm 2002 do Trần Thành chủ nhiệm; “Nâng cao trình
độ tư duy lý luận cho phóng viên báo chí ở nước ta hiện nay”, đề tài khoa học
cấp bộ năm 2003 do Hoàng Đình Cúc chủ nhiệm. Các công trình đã đi sâu
11


vào việc nghiên cứu về mặt lý luận của năng lực tư duy, trình độ tư duy, tư
duy lý luận và trình độ tư duy lý luận, trở thành tài liệu nghiên cứu quý giá
cho các nhà khoa học khi thực hiện các đề tài liên quan.
Do giới hạn về mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu, nên đến
nay chưa có công trình cứu một cách chi tiết, đầy đủ, có hệ thống và chuyên
sâu về thực trạng cũng như nêu ra những chủ trương và giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp

quận, huyện ở thành phố Cần Thơ, cho nên việc nghiên cứu về nâng cao năng
lực tư duy lý luận của người cán bộ tuyên giáo cấp quận, huyện ở thành phố
Cần Thơ vẫn còn là mảng đề tài cần tiếp tục làm sáng tỏ. Do đó, việc nghiên
cứu đề tài sẽ góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
tuyên giáo cấp quận, huyện trong sự nghiệp đổi mới của đất nước nói chung,
góp phần từng bước khắc phục tình trạng đội ngũ cán bộ tuyên giáo trong
triển khai thực hiện nhiệm vụ còn rập khuông, chưa vận dụng sáng tạo các
chủ trương, chính sách của Đảng vào điều kiện cụ thể của địa phương mình;
một số còn thụ động, ỷ lại, chưa năng động trong quá trình tổ chức thực hiện
nhiệm vụ,…Chính vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Nâng cao trình độ lý luận
chính trị cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp quận, huyện ở thành phố Cần
Thơ hiện nay” để nghiên cứu. Trên cơ sở kế thừa những kết quả nghiên cứu
của các tác giả, các nhà khoa học nói trên, tác giả đi sâu nghiên cứu vấn đề
nâng cao trình độ lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ tuyên giáo, cố gắng tìm
ra những giải pháp mang tính khả thi nhằm góp phần xây dựng, nâng cao
trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp quận, huyện ở
thành phố Cần Thơ hiện nay đáp ứng yêu cầu thực tiễn của địa phương trong
giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ cơ sở khoa học của việc nâng cao trình độ lý luận
chính trị, đánh giá đúng thực trạng của đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp quận,
huyện, luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao trình độ lý
12


luận chính trị cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp quận, huyện ở thành phố Cần
Thơ hiện nay.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể
Khách thể nghiên cứu của luận văn là trình độ lý luận chính trị của đội

ngũ cán bộ tuyên giáo cấp quận, huyện ở thành phố Cần Thơ.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu việc nâng cao trình độ lý luận chính trị
cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp quận, huyện ở thành phố Cần Thơ hiện
nay.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu thực hiện đề tài này thì chúng ta sẽ xác định được việc nâng cao
trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp quận, huyện ở
thành phố Cần Thơ hiện nay là hết sức cấp thiết, góp phần tích cực vào việc
nắm bắt, phản ánh đúng đắn các khả năng, các xu hướng, các giai đoạn vận
động của thực tiễn, đồng thời góp phần xây dựng một đội ngũ cán bộ tuyên
giáo có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng của Đảng,
có đạo đức trong sáng, trí tuệ uyên thâm, sắc bén về lý luận sẵn sàng chiến
đấu, đập tan mọi luận điệu xuyên tạc của kẻ thù trên mặt trận văn hóa, tư
tưởng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Một là, luận văn làm rõ cơ sở khoa học của việc nâng cao trình độ lý
luận chính trị cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp quận, huyện ở thành phố Cần
Thơ hiện nay.
- Hai là, phân tích, đánh giá, làm rõ thực trạng trình độ lý luận chính
trị của đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp quận, huyện, từ đó đề xuất giải pháp
nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội này.

13


7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu việc nâng cao trình độ lý luận chính trị
cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp quận, huyện ở thành phố Cần Thơ hiện nay

(qua thực tế tại 05 quận, huyện: quận Ô Môn, quận Thốt Nốt, quận Bình
Thủy, huyện huyện Cờ Đỏ và huyện Phong Điền).
8. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng
các phương pháp phân tích và tổng hợp, lôgic, khái quát hóa, thống kê, so
sánh,…
9. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục
luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
10.1. Những luận điểm cơ bản
- Trình độ lý luận chính trị có tầm quan trọng vô cùng to lớn đối với
người cán bộ tuyên giáo, là yếu tố “then chốt” cho mọi hoạt động nhận thức
và thực tiễn của họ.
- Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo là
một yêu cầu cấp thiết trong điều kiện hiện nay trên mặt trận tư tưởng của
Đảng ta.
- Để nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo
cấp quận, huyện ở thành phố Cần Thơ trong điều kiện hiện nay thì cần tìm
được các nguyên nhân và thực hiện đồng bộ một số giải pháp cụ thể.
10.2. Đóng góp mới của luận văn
- Góp phần làm rõ vai trò, tầm quan trọng của lý luận chính trị đối với
cán bộ tuyên giáo cấp quận, huyện và tính tất yếu phải nâng cao trình độ lý
luận chính trị cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp quận, huyện ở thành phố Cần
Thơ hiện trong giai đoạn hiện nay.
14


- Luận văn vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ

Chí Minh, những quan điểm của Đảng về công tác giáo dục lý luận chính trị,
về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên giáo.
- Đánh giá được thực trạng trình độ lý luận và năng lực thực tiễn của
đội ngũ này. Trên cơ sở đó, đề xuất với thành phố một số giải pháp chủ yếu
để nâng cao trình độ lý luận lẫn thực tiễn cho họ, đáp ứng với yêu cầu của sự
nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới.

15


Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TUYÊN GIÁO
CẤP QUẬN, HUYỆN Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ HIỆN NAY
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Lý luận
Lý luận là một phạm trù khoa học phản ánh hiện thực khách quan, tồn
tại và phát triển cùng với sự phát triển của trí tuệ loài người trên mọi lĩnh vực
tự nhiên và xã hội, tư duy. Lý luận là sự tổng hợp về những tri thức tự nhiên
và xã hội được tích lũy trong quá trình lịch sử nhân loại. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là
tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch
sử” [47, tr.497].
Lý luận xuất phát từ thực tiễn và có vai trò định hướng, soi đường cho
hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Theo từ điển Tiếng Việt: Lý luận là tổng
thể có hệ thống những kinh nghiệm của loài người phát sinh từ thực tiễn để
chi phối và cải tạo thực tiễn. Như vậy, lý luận được hiểu là hệ thống tri thức
được khái quát từ thực tiễn khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy của
con người, được biểu đạt dưới dạng các khái niệm, phạm trù, quy luật, tư
tưởng, quan điểm,… nhằm giúp con người chi phối và cải tạo thực tiễn.

Để hiểu rõ nội hàm và ngoại diên của các khái niệm lý luận chúng ta
cần phải tìm hiểu mục đích hoạt động của con người và hoạt động bản năng
của con vật. Hoạt động thực tiễn của con người là quá trình đúc rút kinh
nghiệm xây dựng lý luận khác xa với con vật làm việc theo bản năng. Vì vậy,
con người làm việc gì cũng phải có ý thức, có sự suy tính, định hướng trước,
cao hơn nữa là phải có sự dẫn dắt của lý luận. Trong lao động sản xuất cần có
phương pháp, cách thức để cải tạo thế giới tự nhiên theo chiều hướng có lợi
tức là hoạt động sản xuất ra của cải vật chất để đảm bảo cuộc sống. Trong
16


hoạt động xã hội mục đích của con người là cải tạo xã hội, thay thế xã hội cũ
bằng một xã hội mới tiến bộ hơn, quá trình đó gọi là cách mạng. Trong hoạt
động cách mạng là một loại hoạt động khó khăn phức tạp, ở trình độ cao, cho
nên lại càng cần phải có lý luận soi đường. V.I.Lênin đã khẳng định: “Không
có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng, chỉ Đảng nào
được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò
chiến sĩ tiên phong” [32, tr.53]. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Đảng mà không
có lý luận dẫn đường thì cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn
chỉ nam” [41, tr.78-79].
Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chỉ
rõ rằng, mọi lý luận chân chính đều bắt nguồn từ thực tiễn, phản ánh đúng
thực tiễn và trở lại phục vụ thực tiễn. Lý luận, xét tới cùng là từ thực tiễn mà
đúc kết, khái quát lên. Không có thực tiễn thì không có lý luận. Lý luận và
thực tiễn có mối quan hệ hữu cơ biện chứng, luôn luôn gắn bó với nhau và
thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau, trong đó thực tiễn đóng vai trò là cơ
sở. Bởi vì, thực tiễn được hiểu một cách khái quát nhất đó là hoạt động của
con người nhằm đảm bảo cho xã hội tồn tại và phát triển, đó là quá trình
khách quan của hoạt động sản xuất vật chất với tính cách là cơ sở của đời
sống con người, đồng thời đó cũng là hoạt động cải tạo – cách mạng của các

lực lượng xã hội nhằm làm biến đổi thế giới. Còn lý luận là cái phản ánh thực
tiễn; lý luận được thể hiện dưới dạng hệ thống những tri thức đã được khái
quát, tạo ra những quan điểm tương đối hoàn chỉnh về các mối liên hệ cơ bản
và các quy luật của hiện thực khách quan. Hay nói cách khác, lý luận là kinh
nghiệm thực tiễn đã được khái quát trong ý thức con người, là hệ thống tương
đối độc lập của các tri thức có tác dụng tái hiện trong lôgic của các khái niệm
cái lôgic khách quan của hiện thực mà nó phản ánh. Thực tiễn còn là tiêu
chuẩn của chân lý, là căn cứ để kiểm chứng tính đúng đắn của lý luận. Mọi lý
luận đều phải đối diện với thực tiễn và được kiểm chứng trong thực tiễn. Tác
dụng và sức sống của lý luận phụ thuộc vào khả năng của chính nó trong việc
17


khái quát bản chất của hiện thực khách quan từ vô số các hiện tượng cụ thể;
phụ thuộc vào chỗ nó tạo ra sự tiến bộ của lịch sử, sự phát triển kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội và tập trung lại là để tạo ra cuộc sống tốt đẹp hơn cho con
người.
Lý luận phản ánh hiện thực khách quan và được nảy sinh trong những
điều kiện lịch sử nhất định, cho nên các khái niệm, các phạm trù lý luận đều
mang tính lịch sử; sự phát triển của hiện thực và sự thay đổi của điều kiện lịch
sử tất yếu đòi hỏi lý luận cũng cần được bổ sung và phát triển theo; nhờ thế
mà lý luận khoa học sẽ ngày càng trở nên phong phú hơn, chính xác hơn.
Không nên biến các nguyên lý lý luận thành các giáo điều khô cứng, máy
móc; điều cơ bản nhất là rút ra từ đó những giá trị về phương pháp luận. Nếu
coi những khái niệm, những mệnh đề lý luận là khuôn mẫu của mọi hiện thực
để từ đó bắt hiện thực phải vận động theo một cách máy móc thì sẽ phạm
những sai lầm tai hại. Nó không những chỉ làm cho lý luận bị thui chột, trở
nên khô héo mà có khi còn kìm hãm, thậm chí kéo lùi sự tiến bộ của lịch sử.
Căn cứ để xây dựng và phát triển lý luận chính trị là thực tiễn, phải tìm trong
thực tiễn và thường xuyên tổng kết thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói:

“Thực tiễn mà không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý
luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” [48, tr.268].
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: hoạt động lý luận của người cán bộ đều
phải đáp ứng nhu cầu của cách mạng; đồng thời phải vận dụng lý luận đó một
cách sáng tạo trước mọi biến đổi của cách mạng, không nên rập khuôn, máy
móc.
1.1.2. Lý luận chính trị
Lý luận chính trị là bộ phận quan trọng trong kho tàng lý luận của
nhân loại giới hạn trong lĩnh vực chính trị, phản ánh mối quan hệ của các giai
cấp trong việc giành và giữ chính quyền. Nói cách khác, lý luận chính trị là hệ
thống tri thức về lĩnh vực chính trị thể hiện thái độ và lợi ích giai cấp đối với

18


quyền lực Nhà nước trong xã hội có giai cấp, là kết quả của hoạt động nghiên
cứu khoa học và thực tiễn chính trị của nhiều người, qua nhiều thế hệ.
Lý luận chính trị là sản phẩm của hoạt động nghiên cứu về lý luận và
thực tiễn chính trị của giai cấp trong việc đấu tranh giành, giữ và xây dựng
chính quyền Nhà nước.
Lý luận chính trị nhằm trang bị thế giới quan và thúc đẩy hành vi thực
hiện mục tiêu, lý tưởng chính trị của giai cấp.
Lý luận chính trị của giai cấp vô sản là sự khái quát tri thức nhân loại
và tổng kết kinh nghiệm của phong trào công nhân thế giới làm công cụ đắc
lực cho việc giành và giữ chính quyền giai cấp công nhân ở mỗi quốc gia, dân
tộc. Theo Lênin, lý luận có vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp cách
mạng: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách
mạng” và “chỉ Đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có
khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong” [44, tr.30]. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng cho rằng: “Đảng không có chủ nghĩa cũng như người không có trí

khôn, tàu không có bàn chỉ nam” [44, tr.268].
Ở Việt Nam hiện nay, lý luận chính trị là hệ thống những nguyên lý
của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cùng những tinh hoa tư tưởng
chính trị của dân tộc và nhân loại. Nó phản ánh tính quy luật của các quan hệ
kinh tế - chính trị - xã hội, thể hiện lợi ích và thái độ của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, là công cụ quan trọng cho việc xây dựng và bảo vệ nước Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa Mác-Lênin cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống lý
luận không thể tách rời, khẳng định bản chất cách mạng và khoa học trong
quá trình cách mạng Việt Nam, nhất là trong quá trình đổi mới vừa qua. Đại
hội lần thứ VII của Đảng ta lần đầu tiên đã chính thức khẳng định sự song
hành gắn kết giữa chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh tạo thành
19


nền tảng tư tưởng vững chắc: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động” [14, tr.127].
Nghị quyết số 09-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa VII tiếp tục khẳng định:
“Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động của Đảng ta và cho cách mạng Việt Nam” [15, tr.35].
Bởi vì, Đảng ta là đại diện cho lợi ích quốc gia, dân tộc và có vai trò lãnh đạo
cách mạng bảo vệ lợi ích thiêng liêng đó.
Đại hội lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định nước ta kiên trì đi lên
con đường xã hội chủ nghĩa dựa trên nền tảng tư tưởng cả chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng
đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” [20, tr.20]. Có thể nói, chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử cách
mạng Việt Nam. Thực tế cách mạng Việt Nam cũng chứng minh rằng, khi
nào chúng ta vận dụng nhuần nhuyễn và sáng tạo hệ thống lý luận này thì gặt

hái được nhiều thành quả và ngược lại. Trong cách mạng dân tộc, dân chủ
nhờ vận dụng sáng tạo lý luận này mà chúng ta đã đánh bại các thế lực thực
dân, đế quốc và bè lũ tay sai; từ một nước thuộc địa bị xâm chiếm, chia cắt trở
thành một quốc gia độc lập, thống nhất đang trên đà phát triển. Trong tiến
trình lịch sử cách mạng của Việt Nam đã có lúc chúng ta vận dụng chưa đúng
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm ảnh hưởng đến quá trình
phát triển kinh tế xã hội của đất nước, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, từ
đó làm cho mọi người dân giảm sút lòng tin vào vị trí, vai trò lãnh đạo của
Đảng, làm cho tình trạng kinh tế nước nhà què quặt, nghèo nàn, lạc hậu có
nguy cơ tụt hậu là rất lớn. Trước tình hình đó, Đảng ta đã đúc rút bài học kinh
nghiệm qua các thời kỳ đại hội, đã nhận thức đúng đắn về vai trò nền tảng của
lý luận này và vận dụng sáng tạo nó trong thực tiễn mà chúng ta đã đưa đất
nước thoát khỏi khủng hoảng và từng bước phát triển vững chắc.

20


Lý luận chính trị bao gồm những tri thức tổng hợp, liên ngành mang
tính đảng, tính giai cấp rõ rệt, đồng thời có tính khái quát hóa, trừu tượng hóa
và tính dự báo khoa học cao. Điều này khẳng định vai trò và tầm quan trọng
to lớn của nó đối với nhận thức và hành động của từng cá nhân nói riêng và
sự phát triển của toàn xã hội nói chung, đồng thời cho thấy sự khó khăn, phức
tạp của quá trình sáng tạo, nhận thức và vận dụng lý luận chính trị.
1.1.3. Trình độ lý luận chính trị
* Trình độ lý luận chính trị
Lý luận được hiểu là hệ thống tri thức được khái quát từ thực tiễn
khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy của con người, được biểu đạt
dưới dạng các khái niệm, phàm trù, quy luật, tư tưởng, quan điểm,… Nhằm
giúp con người chi phối và cải tạo thực tiễn.
Như vậy, trình độ lý luận chính trị là sự kết tinh về trí tuệ lý luận của

nhân loại giới hạn trong lĩnh vực chính trị của từng cá nhân hay chủ thể được
đánh giá, phản ánh ý chiến đấu và nguyện vọng của giai cấp trong việc giành
và giữ chính quyền. Nói cách khác, trình độ lý luận chính trị là hệ thống tri
thức về lĩnh vực chính trị thể hiện thái độ của từng cá nhân, tập thể, giai cấp
quan tâm về lợi ích đối với quyền lực Nhà nước trong xã hội có giai cấp, là sự
kết tinh trí tuệ của hoạt động nghiên cứu khoa học và thực tiễn chính trị của
nhiều người, qua nhiều thế hệ.
Trình độ lý luận chính trị là sản phẩm của hoạt động nghiên cứu về lý
luận và thực tiễn chính trị của giai cấp trong việc đấu tranh giành, giữ và xây
dựng chính quyền Nhà nước nhưng được kết tinh trong từng cá nhân riêng
biệt.
Xét về bản chất, trình độ lý luận chính trị phản ánh quy luật của các
quan hệ kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội thể hiện lợi ích và thái độ của cá
nhân đối với quyền lực Nhà nước.

21


Người có trình độ lý luận chính trị xem đó là phương tiện cho các chủ
thể xây dựng phương pháp, động cơ phấn dấu thúc đẩy hành vi thực hiện mục
tiêu, lý tưởng chính trị của từng cá nhân và mục tiêu của giai cấp.
Trình độ lý luận của cán bộ, đảng viên là sự khái quát tri thức nhân
loại và tổng kết kinh nghiệm của phong trào công nhân thế giới làm công cụ
đắc lực cho việc giành và giữ chính quyền của giai cấp công nhân của mỗi
quốc gia, dân tộc được đúc kết trong mỗi con người cụ thể.
Nếu xem xét trình độ lý luận chính trị trên cơ sở để đánh giá cá nhân
đạt đến một trình độ nhất định thì phải tuân thủ theo ba cấp độ, đó là: trình độ
cao cấp lý luận chính trị, trình độ trung cấp lý luận chính trị và trình độ sơ cấp
lý luận chính trị, được quy định tại Quy định số 256-QĐ/TW, ngày 16/9/2009
của Ban Bí thư “về việc xác định trình độ lý luận chính trị đối với cán bộ,

đảng viên đã học lý luận chính trị ở các cơ sở đào tạo ngoài hệ thống Trường
Chính trị của Đảng hoặc Đại học Chính trị chuyên ngành và sau đại học tại
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh”.
* Trình độ lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp quận,
huyện
Trình độ lý luận chính trị của cán bộ tuyên giáo cấp quận, huyện là
tổng hợp năng lực trí tuệ, đạo đức, tác phong, tư cách làm việc, lập trường
chính trị,… được đúc kết trong một cá nhân tham gia làm công tác tuyên giáo
của Đảng.
Bất cứ một nghề nghiệp nào cũng cần có những yêu cầu quy định về
năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp, cán bộ làm việc ở lĩnh vực
chính trị phải có nhãn quan chính trị, có tầm nhìn chiến lược, có bản lĩnh
chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, đấu tranh phục vụ lợi ích cho một
giai cấp nhất định. Đối với lĩnh vực nghệ thuật phải có năng khiếu nghệ thuật
thể hiện rõ trình độ vượt trội của mình về lĩnh vực đó, có đạo đức nghề nghiệp
trong sáng. Đối với cán bộ tuyên giáo, lực lượng trực tiếp tuyên truyền chủ
trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với
22


nhân dân, phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, uyên
thâm về trí tuệ, sắc bén về lý luận, có năng lực thuyết trình, định hướng tốt dư
luận xã hội.
Từ những vấn đề trên thì trình độ lý luận chính trị của cán bộ tuyên
giáo cấp quận, huyện (quận Ô Môn, quận Bình Thủy, quận Thốt Nốt và huyện
Cờ Đỏ, huyện Phong Điền) ở thành phố Cần Thơ hiện nay cần phải có chuẩn
mực cơ bản sau:
Thứ nhất, cán bộ tuyên giáo phải có bản lĩnh chính trị vững vàng
Tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa X về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới, đã khẳng

định: “Công tác tư tưởng là công tác đối với con người, phải kết hợp yêu cầu
định hướng tư tưởng với sự tự nguyện, giữa lý trí với tình cảm, giữa lời nói và
việc làm. Giữa xây và chống, lấy xây làm chính, lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực”
[22, tr.153]. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu của công việc thì yêu cầu đầu tiên
của người cán bộ tuyên giáo phải có bản lĩnh chính trị, đó là kiên định mục
tiêu, lý tưởng cách mạng đã lựa chọn; trong bất cứ tình huống nào cũng không
dao động, giảm sút niềm tin và ý chí chiến đấu, có năng lực làm chủ trong
mọi tình huống, mọi hoàn cảnh, vượt qua khó khăn, thách thức để hoàn thành
nhiệm vụ.
Thứ hai, cán bộ tuyên giáo phải nói đúng, nói hay và có tính thuyết
phục; viết thành thạo, tốt và sắc sảo
Nói và viết là hai kỹ năng đặc thù của cán bộ làm công tác tuyên giáo,
là thước đo chất lượng chuyên môn tốt hay kém, là tiêu chí đánh giá mức độ
tin thông nghề nghiệp. Trong mọi thời điểm, nói trước hết phải đúng: đúng
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và đúng
với thực tiễn; Nói phải hay: dễ nghe, lưu loát, truyền cảm, nói phải có tính
thuyết phục cao tức là gây được sự ảnh hưởng tích cực đến người nghe và thu
hút sự hợp tác của họ để góp phần nâng cao nhận thức, chuyển biến hành vi,
thúc đẩy hành động vì mục tiêu. Người cán bộ tuyên giáo phải viết thành
23


thạo, đó là viết luôn chính xác, đúng và thành thực; viết tốt và sắc sảo là viết
có chất lượng, sâu sắc, có tính chiến đấu và hiệu quả cao.
Thứ ba, cán bộ tuyên giáo phải có phong cách công tác dân chủ, khoa
học và sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, nói đi đôi với làm
Trong đó phong cách dân chủ hay “cách làm việc dân chủ” là nội
dung quan trọng hàng đầu trong tư ưởng Hồ Chí Minh về phong cách công
tác. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định chế độ ta “Dân là chủ” thì cách
lãnh đạo cũng phải dân chủ. Mỗi người phải biết cách tập hợp được tài năng,

trí tuệ của nhiều người để phấn đấu cho mục tiêu chung, mà muốn làm được
như vậy, phải tạo ra được không khí dân chủ thực sự trong nội bộ. “Dân chủ,
sáng kiến, hăng hái” ba điều đó có quan hệ với nhau. Tuy nhiên, phong cách
dân chủ không có nghĩa là mạnh ai nấy làm, mà phải tuân theo nguyên tắc tập
trung dân chủ. Đối lập với phong cách dân chủ là phong cách quan liêu, độc
đoán, chuyên quyền,…
Phong cách khoa học còn gọi là cách làm việc khoa học. Phong cách
này đòi hỏi người cán bộ nói chung và cán bộ tuyên giáo nói riêng trước khi
làm việc gì cũng phải có kế hoạch và mục đích rõ ràng. Để vạch kế hoạch một
cách thực sự khoa học, phải xét kỹ hoàn cảnh mà xếp đặt công việc cho đúng.
Việc chính, việc gấp thì làm trước. Không có kế hoạch, gặp việc nào làm việc
nấy, thành thử việc nào cũng là việc chính nên lộn xộn, không ngăn nắp, vì
thế công việc nhiều khi “không chạy”. Một việc chính có thể có nhiều cách
thực hiện và phải nhiều nỗ lực mới hoàn thành được. Với ý nghĩa đó, Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn yêu cầu: “Chủ trương 1, biện pháp phải 10, quyết tâm 23,
30”. Nói quyết tâm phải 20, 30, tức là Người yêu cầu cán bộ sau khi đã có kế
hoạch phải có quyết tâm thực hiện và phải thực hiện đến nơi đến chốn, không
được “đánh trống bỏ dùi” [43, tr.281].
Phong cách khoa học còn đòi hỏi người cán bộ tuyên giáo sau mỗi
một việc cần phải rút kinh nghiệm tận gốc, xem vì đâu mà đạt kết quả, vì sao

24


mà thất bại, rồi phổ biến những kinh nghiệm đó cho tất cả mọi người để cùng
biết, từ đó phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế, yếu kém.
Thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, nói đi đôi với làm: là cán bộ
phải dứt khoát, phải có trình độ lý luận, nhất là cán bộ làm công tác tuyên
giáo. Dẫn lời của Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Không có lý luận
cách mạng thì không có phong trào cách mạng” [43, tr.233]. Vì vậy mỗi

người cán bộ phải không ngừng trau dồi lý luận, gắn học tập nghiên cứu lý
luận với công việc thực tế của mình, vì “lý luận như cái mũi tên, thực hành
cũng như cái đích để bắn, có tên mà không bắn được hoặc bắn lung tung,
cũng như không có tên” [43, tr.235].
Sức thuyết phục, sự lôi cuốn của cán bộ tuyên giáo với cấp dưới và
với nhân dân còn ở phong cách “lời nói đi đôi với việc làm”, “nói là phải
làm”. Nói đi đôi với làm, không chỉ là một chuẩn mực hành vi đạo đức truyền
thống của dân tộc ta mà còn là một nguyên tắc thực hành đạo đức cách mạng
của người cán bộ, đảng viên theo nguyên lý cơ bản của học thuyết Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nói đi đôi với làm vừa là phong cách công tác, vừa
là phương pháp hữu hiệu của người cán bộ cách mạng, giúp cán bộ, nhất là
cán bộ tuyên giáo làm tốt nhiệm vụ của công tác tư tưởng. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đặc biệt lưu ý rằng: đối với nhân dân không thể chỉ nói lý luận suông,
chính trị suông; nhân dân luôn đòi hỏi và rất cần nhìn thấy lợi ích thiết thực từ
những tấm gương sáng, những việc làm mẫu mực của cán bộ, đảng viên, để
hướng đến tin tưởng và làm theo.
Thứ tư, cán bộ tuyên giáo phải chủ động tham mưu đúng, dự báo giỏi
Nhằm thực hiện và hoàn thành tốt một trong những chức năng cơ bản
của ngành tuyên giáo, cán bộ tuyên giáo phải chủ động tham mưu, đề xuất
cho đúng, cho trúng, không thụ động ngồi chờ chỉ đạo của cấp trên. Đồng
thời, muốn dự báo giỏi cần phải nắm được dư luận xã hội, nắm được xu
hướng diễn biến tư tưởng của các đối tượng để có thể tham mưu xử lý, tác
chiến đúng hướng và có hiệu quả.
25


×