Tải bản đầy đủ (.pdf) (137 trang)

Quản lý hoạt động đánh giá kết quả học tập của học sinh trường THCS ngô quyền, quận lê chân, thành phố hải phòng theo yêu cầu đổi mới giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (932.62 KB, 137 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ NGÔ QUYỀN, QUẬN LÊ CHÂN,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
THEO YÊU CẦU ĐỔI MỚI GIÁO DỤC

Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60.14.01.14

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

HÀ NỘI – 2017

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ NGÔ QUYỀN, QUẬN LÊ CHÂN,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
THEO YÊU CẦU ĐỔI MỚI GIÁO DỤC

Chuyên ngành: Quản lý giáo dục


Mã số: 60.14.01.14

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN XUÂN HẢI

HÀ NỘI - 2017

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi. Các
số liệu và tài liệu được trích dẫn trong luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu
này không trùng với bất cứ công trình nào đã được công bố trước đó.
Tôi chịu trách nhiệm với lời cam đoan của mình
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thanh Huyền

3


DANH MỤC KÝ HIỆU VIẾT TẮT

BGD&ĐT:

Bộ Giáo dục và Đào tạo


BGH

Ban giám hiệu

CBQL:

Cán bộ quản lý

CNTT:

Công nghệ thông tin

CSVC:

Cơ sở vật chất

DH:

Dạy học

ĐTBhk:

Điểm trung bình học kỳ

ĐTBcn:

Điểm trung bình cả năm

GD&ĐT:


Giáo dục và Đào tạo

GV

Giáo viên

HĐDH:

Hoạt động dạy học

HS:

Học sinh

KN:

Kỹ năng

MT:

Mục tiêu

ND:

Nội dung

PPDH:

Phương pháp dạy học


QLGD:

Quản lý giáo dục

SGK:

Sách giáo khoa

TNTL:

Trắc nghiệm tự luận

TNKQ:

Trắc nghiệm khách quan

THCS:

Trung học cơ sở

THPT:

Trung học phổ thông

TTCN:

Trung tâm công nghiệp

UBND:


Ủy ban nhân dân

4


MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Nhằm thực hiện mục tiêu “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài” phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá
đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng quan tâm đến đổi mới giáo dục.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI khẳng định “Giáo dục là quốc sách
hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển bền vững” [26]. Đó
là nhận thức chung của nhiều quốc gia trên thế giới với một nguyên lí phát
triển: GD&ĐT nâng cao dân trí là điều kiện quan trọng nhất cho sự đi lên của
mỗi địa phương, mỗi dân tộc cũng như của một đất nước. Ở Việt Nam, giáo
dục và đào tạo đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là điều kiện quyết định
để đưa đất nước phát triển sánh vai với các cường quốc năm châu. Mục tiêu
của nhà trường phổ thông Việt Nam hiện nay là đào tạo con người mới, phát
triển toàn diện, phù hợp với yêu cầu, điều kiện và hoàn cảnh của đất nước cũng
như phù hợp với sự phát triển của thời đại.
Điều 28 của Luật Giáo dục 2005 (sửa đổi năm 2009): “Phương pháp
giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của
học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương
pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập
cho học sinh” [19].
Như vậy, vấn đề đổi mới giáo dục đào tạo nói chung và đổi mới phương
pháp dạy học nói riêng luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm và được đặt ra
một cách cấp thiết ở trường phổ thông. Đổi mới phương pháp dạy học còn là

một trong những biện pháp hữu hiệu để nhà trường và giáo viên hoàn thành
những mục tiêu giáo dục đào tạo thời kỳ đổi mới. Một cuộc “cách mạng về
phương pháp giáo dục sẽ đem lại một bộ mặt mới, sức sống mới cho nhà
trường ở thời đại mới”.

5


Đổi mới phương pháp dạy học không thể tách rời đổi mới đánh giá. Bởi
vì mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập của
học sinh là những thành tố quan trọng của quá trình dạy học ở trường phổ
thông, có quan hệ mật thiết và biện chứng với nhau. “Đánh giá có vai trò vô
cùng quan trọng được coi như là một biện pháp để nâng cao chất lượng dạy
học bộ môn, đó là khâu mở đầu của quá trình dạy học, đồng thời cũng là khâu
kết thúc của quá trình dạy học này để mở ra một quá trình dạy học khác cao
hơn đồng thời có tác động điều tiết trở lại quá trình giáo dục và đào tạo” [9] .
Dạy học là một quá trình khép kín, để điều chỉnh quá trình này một cách có
hiệu quả cả người dạy và người học đều phải tiếp thu được những thông tin
ngược từ việc kiểm tra, đánh giá tri thức. Việc đánh giá kết quả học tập có
nhiệm vụ làm sáng rõ tình hình lĩnh hội kiến thức của học sinh, sự hình thành
kỹ năng, kỹ xảo, góp phần phát huy tính tích cực, chủ động, độc lập, tự giác
trong mỗi học sinh. Đồng thời thông qua đánh giá kết quả học tập của học sinh
giáo viên có thể rút kinh nghiệm quá trình dạy học của mình để từ đó có những
điều chỉnh biện pháp sư phạm hợp lý hơn.
Song thực tiễn việc đánh giá kết quả học tập của học sinh trong dạy học
ở trường THCS cho thấy: quan niệm về đánh giá của giáo viên, học sinh và xã
hội cũng có nhiều bất cập, đánh giá còn nặng về ghi nhớ mà không kiểm tra
được học sinh hiểu và vận dụng; kỹ năng đánh giá học sinh chưa thực sự được
giáo viên quan tâm; việc đánh giá còn nặng về hình thức, về điểm, độ chính
xác chưa cao. Chính vì vậy, việc đánh giá kết quả học tập của học sinh chưa

phát huy được đúng vai trò và khả năng của nó. Để đánh giá học sinh, giáo
viên gần như chỉ dùng một phương pháp: ra đề kiểm tra. Đã vậy, cách ra đề
kiểm tra còn phiến diện, đơn điệu, thiếu cơ sở khoa học. Kết quả đánh giá còn
nhiều sai số hệ thống.
Đánh giá không chỉ là để cho điểm, đánh giá học sinh là hoạt động bắt
buộc và quen thuộc đối với tất cả giáo viên đứng lớp. Nhưng phần lớn các giáo
viên đều quan niệm việc ra đề kiểm tra cho học sinh đơn giản là có điểm số ghi
vào sổ điểm. Từ đó, có căn cứ để cuối học kỳ, cuối năm đánh giá học sinh.
6


Còn các cán bộ quản lý giáo dục thì cho rằng, đó là công việc của giáo viên
chứ không phải của hiệu trưởng.
Xu hướng quốc tế hiện nay xem mục đích chính của việc đánh giá là
nâng cao chất lượng học tập của học sinh. Để nâng cao chất lượng giảng dạy
và học tập, giáo viên phải xem đánh giá là quá trình và là một phần không thể
thiếu trong hoạt động giảng dạy của mình.
Mặt khác, đánh giá kết quả học tập của học sinh không còn hoạt động
của riêng giáo viên mà phải là của hiệu trưởng các trường học. Hiệu trưởng sử
dụng việc đánh giá thường xuyên (không chỉ thông qua các bài kiểm tra) để
hướng dẫn học sinh học tập, giáo viên giảng dạy và giám sát, nâng cao chất
lượng trường học.
Trường THCS Ngô Quyền nằm ở trung tâm thành phố Hải Phòng với bề
dày thành tích, đội ngũ giáo viên có nhiều kinh nghiệm, số lượng học sinh
đông. Song nhiều năm gần đây, chất lượng giảng dạy chưa thực sự xứng đáng
với tiềm năng và lợi thế của trường, đánh giá kết quả học tập theo yêu cầu của
đổi mới giáo dục của học sinh ở trường THCS Ngô Quyền còn tồn tại nhiều
điều bất cập. Trước thực trạng đó của nhà trường, để đáp ứng yêu cầu đổi mới
căn bản và toàn diện theo tinh thần của Nghị quyết 29 ngày 4 tháng 11 năm
2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: "Quản lý

hoạt động đánh giá kết quả học tập của học sinh trường THCS Ngô Quyền,
quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng theo yêu cầu đổi mới giáo dục " để
nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động đánh giá kết quả học tập
của học sinh theo yêu cầu đổi mới giáo dục nhằm góp phần nâng cao chất
lượng quá trình dạy học tại trường THCS Ngô Quyền, quận Lê Chân, thành
phố Hải Phòng.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về đánh giá và quản lý hoạt động đánh giá
kết quả học tập của học sinh theo yêu cầu đổi mới giáo dục.
7


3.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động đánh giá và quản lý hoạt
động đánh giá kết quả học tập của học sinh trường THCS Ngô Quyền, quận Lê
Chân, thành phố Hải Phòng theo yêu cầu đổi mới giáo dục.
3.3. Đề xuất biện pháp quản lý hoạt động đánh giá kết quả học tập của
học sinh theo yêu cầu đổi mới giáo dục trường THCS Ngô Quyền, quận Lê
Chân, thành phố Hải Phòng. Đồng thời, đề tài tiến hành khảo nghiệm tính cần
thiết và khả thi của các biện pháp đã đề xuất.
4. Khách thể, đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động đánh giá kết quả học tập của học sinh THCS theo yêu cầu đổi
mới giáo dục.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý hoạt động đánh giá kết quả học tập của học sinh trường THCS
Ngô Quyền, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng theo yêu cầu đổi mới giáo
dục.
5. Giả thuyết khoa học

Quản lý hoạt động đánh giá kết quả học tập của học sinh trường THCS
Ngô Quyền, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng theo yêu cầu đổi mới giáo
dục còn nhiều bất cập, chưa đạt yêu cầu về lập kế họach, thực hiện kế hoạch,
đội ngũ chuyên trách, sự phối hợp giữa các lực lượng giáo dục. Nếu vận dụng
một cách đồng bộ các biện pháp đề xuất trong luận văn như nâng cao nhận
thức, thực hiện quy trình đánh giá, xây dựng đội ngũ cốt cán và đảm bảo các
điều kiện cho thực hiện họat động đánh giá kết quả học tập của học sinh THCS
sẽ góp phần nâng cao chất lượng quá trình dạy học tại trường THCS Ngô
Quyền, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn đối tượng và địa bàn nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động và quản lý hoạt động đánh giá
kết quả học tập của học sinh THCS theo yêu cầu đổi mới giáo dục.

8


Luận văn được thực hiện nghiên cứu tại Trường THCS Ngô Quyền,
quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.
6.2. Giới hạn khách thể khảo sát
- Số lượng : 248 người
- Thành phần:
+ Cán bộ quản lý (từ tổ trưởng bộ môn trở lên): 8 người.
+ Giáo viên: 90 người.
+ Học sinh: 150 em.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu, phân tích các tài liệu có liên quan đến đề tài:
- Phân loại, nghiên cứu hệ thống hóa, khái quát hóa các nội dung về lí
luận dạy học trong nhà trường phổ thông.

- Nghiên cứu các văn bản pháp quy, những quy định của ngành có liên
quan đến đánh giá kết quả học tập của học sinh.
- Trên cơ sở đó để xây dựng cơ sở nghiên cứu lí luận của đề tài.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Điều tra viết bằng bảng hỏi:
Thông qua việc xây dựng các phiếu điều tra, hệ thống câu hỏi với các đối
tượng là cán bộ quản lý, giáo viên, các cán bộ chuyên môn phụ trách công tác
kiểm tra của nhà trường. Lấy trưng cầu ý kiến đánh giá của giáo viên về một
số nội dung chỉ đạo quản lý hoạt động đánh giá kết quả học tập của học sinh
trường THCS Ngô Quyền theo yêu cầu đổi mới giáo dục.
- Phỏng vấn:
Thiết kế câu hỏi để phỏng vấn trực tiếp cán bộ quản lý, giáo viên và học
sinh về thực trạng quản lý hoạt động đánh giá kết quả học tập của học sinh
trường THCS Ngô Quyền theo yêu cầu đổi mới giáo dục.
- Quan sát:
Phương pháp này được thực hiện bằng cách tiếp cận, xem xét, thu thập
dữ liệu từ những hoạt động thực tế của hoạt động đánh giá kết quả học tập của
9


học sinh, hoạt động coi thi, coi kiểm tra, chấm bài, vào điểm của giáo viên,
đánh giá của Hiệu trưởng.
- Nghiên cứu sản phẩm hoạt động học tập:
Nghiên cứu các hình thức đánh giá, sản phẩm hoạt động dạy và học
thông qua các đề thi, công tác chấm thi, công bố kết quả thi, bảo quản và lưu
trữ kết quả thi, kiểm tra của học sinh.
- Chuyên gia:
Phương pháp chuyên gia được dùng để xin góp ý kiến nhận xét của các
chuyên gia quản lý giáo dục về các lĩnh vực liên quan đến đề tài, từ đó rút ra
những kinh nghiệm quý báu trong công tác chỉ đạo và quản lý hoạt động đánh

giá kết quả học tập của học sinh theo yêu cầu đổi mới giáo dục.
7.3. Phương pháp bổ trợ
Sử dụng các phần mềm tin học và thống kê toán học để tổng hợp, xử lý,
phân tích kết quả định tính và định lượng thu được kết quả qua khảo sát, khảo
nghiệm.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, danh mục các tài liệu
tham khảo, nội dung luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động đánh giá kết quả học tập của
học sinh THCS theo yêu cầu đổi mới giáo dục.
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động đánh giá kết quả học tập của học
sinh trường THCS Ngô Quyền, quận Lê Chân, thành phố Hải
Phòng theo yêu cầu đổi mới giáo dục.
Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động đánh giá kết quả học tập của học
sinh trường THCS Ngô Quyền, quận Lê Chân, thành phố Hải
Phòng theo yêu cầu đổi mới giáo dục.

10


CHƯƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ
HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
THEO YÊU CẦU ĐỔI MỚI GIÁO DỤC

1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Trên thế giới
Lịch sử phát triển giáo dục và thực tiễn cho thấy: trong dạy học việc
đánh giá tri thức của học sinh là khâu không thể thiếu được trong quá trình dạy
học, đánh giá vừa là động lực, vừa là nhân tố nâng cao chất lượng dạy học

trong các nhà trường. Đây là vấn đề lớn, đã có từ ngay khi nhà trường xuất
hiện trong xã hội loài người. Khi xã hội loài người phát triển việc truyền thụ
những kinh nghiệm sản xuất, những thành tựu khoa học, những tri thức cuộc
sống cho thế hệ sau là điều cần thiết để tiến hành được điều đó, con đường
ngắn nhất và hiệu quả nhất là dạy học, dạy học được coi là hoạt động đặc trưng
của xã hội loài người. Để đánh giá được hiệu quả của quá trình truyền thụ và
tiếp thu tri thức đạt đến đâu thì phải thông qua đánh giá. Chính vì vậy, ngay từ
khi xuất hiện mô hình nhà trường thì các hình thức đánh giá mức độ nhận thức
của học sinh cũng ra đời.Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi quốc gia có
khác nhau nhưng cũng đều đưa ra quy định chuẩn phù hợp cho việc đánh giá
theo yêu cầu của xã hội hiện tại.
Ở các nước Châu Âu, đã từ lâu việc đánh giá tri thức của học sinh được
quy định dưới dạng các kỳ thi hoặc kiểm tra với các mức độ hình thức khác
nhau. Các hình thức thi khá phong phú và đa dạng được tiến hành bằng mạn
đàm, nói chuyện, tranh luận, trao đổi, hay trình bày những hiểu biết về thế giới
và các vấn đề triết học, tôn giáo, luân lí và đạo đức nhằm phát hiện và tuyển
lựa nhân tài cho đất nước. Sau này, khoa học phát triển các ngành có ranh giới
rõ rệt và nhu cầu của xã hội cũng đến lúc cần những ngành khoa học theo
những lĩnh vực chuyên biệt, giáo dục sẽ phát triển đi theo hướng đó. Cho đến
đầu thế kỷ XVI, ông tổ của nền sư phạm cận đại J.A Comenxki ( 1592 - 1670)
11


- nhà giáo dục người Sec Slovakia, đã đưa ra nhiều mô hình nhà trường và
được nhiều quốc gia áp dụng. Đó là nhà trường phân theo cấp học, bậc học ở
những lứa tuổi nhất định; các môn học ở trong nhà trường cũng được quy định
chặt chẽ có chương trình, có nội dung cụ thể thống nhất. Thời gian đào tạo
cũng được ấn định, đương nhiên, cách đánh giá cũng được quy định rõ ràng.
Trong giai đoạn từ năm 1950 đến đầu năm 1970, xuất phát từ những yêu
cầu của ngành giáo dục, nâng cao chất lượng học sinh trên cơ sở nâng cao tính

độc lập, tự giác, tích cực của người học, việc nghiên cứu trong giai đoạn này
chủ yếu nhằm hoàn thiện quá trình dạy học trong đó có đánh giá tri thức học
sinh phổ thông. Một số công trình đã làm sáng tỏ chức năng đánh giá như:
Chức năng giáo dục, phát huy tính độc lập tự giác cho học sinh, tìm ra hình
thức đánh giá thích hợp cho các đối tượng học sinh và từng môn học, chẳng
hạn như công trình của E.I. Petrovxki và X.E Aung. Từ những năm 1970 trở
lại đây, có rất nhiều công trình nghiên cứu đã giải quyết từng vấn đề cụ thể
trong đó có xác định một cách khoa học nội dung đánh giá kết quả học tập của
học sinh, như: “Những vấn đề lí luận dạy học của việc đánh giá tri thức” của
V.M. Palomxki, “Con đường hoàn thiện việc kiểm tra tri thức kĩ năng” của
X.V Uxova, “Các hướng nâng cao tính khách quan trong việc đánh giá tri
thức học sinh” của A.M.Levitov; các phương tiện điểm số, bài trắc nghiệm
(test) được sử dụng rộng rãi, tự đánh giá cũng được nghiên cứu như công trình
của B.R Goyal - Ấn Độ,... Các công trình nghiên cứu khác như: Mô hình đánh
giá theo mục tiêu (Goal - Based Model) hay mô hình E B Taylor; mô hình
CIPP do L.D. Sutufflebeam đề xuất năm 1966; mô hình đánh giá sự khác biệt
(Discrepancy Evaluation Model),... Các nhà nghiên cứu đã phân tích và phát
triển lý luận kiểm tra đánh giá ở các góc độ: vai trò, ý nghĩa, mục tiêu, nội
dung, nguyên tắc và phương pháp nhằm đảm bảo tính khách quan của việc
đánh giá. Tác giả B.S. Bloom cùng George F. Madaus và J.Thomas Hastings
năm 1971 đã cho ra đời cuốn sách “Evaluation to Improve Learning” (Đánh
giá thúc đẩy học tập). Đây là cuốn sách viết về kỹ thuật đánh giá kết quả học
tập của học sinh dành cho giáo viên, cuốn sách hướng tới việc hoàn thiện và sử
12


dụng các câu hỏi, các bài kiểm tra đánh giá quá trình học tập và các dạng bài
kiểm tra khác do giáo viên tự làm được áp dụng cho học sinh một cách có hệ
thống để tăng cường khả năng học tập của học sinh. Thông qua việc liên kết
các kỹ thuật đánh giá tốt nhất, cuốn sách hỗ trợ các giáo viên sử dụng đánh giá

như một công cụ để cải tiến cả quy trình dạy và học. Các công trình nghiên
cứu chuyên biệt về đánh giá tri thức, kỹ năng kỹ xảo của học sinh đã tăng
nhanh so với trước kia.
Về mặt nội dung và chất lượng nghiên cứu, các tác giả đã hướng việc
nghiên cứu của mình vào việc giải quyết ngày càng có hiệu quả các vấn đề
trong hệ thống đánh giá kết quả học tập học sinh. Mỗi công trình đều có những
điểm mạnh, điểm yếu và những mục đích đánh giá riêng. Nhưng điểm chung
nhất của các nghiên cứu là cùng tập trung nhấn mạnh ý nghĩa, tầm quan trọng
của đánh giá kết quả học tập của học sinh để đánh giá và nâng cao chất lượng
giáo dục đáp ứng nhu cầu của xã hội.
1.1.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, đánh giá kết quả học tập của học sinh (hình thức thi, kiểm tra
văn hóa) đã có từ thời Lí thế kỷ XI - XII thông quá các cuộc thi như: Thi Hương
để chọn Tú tài, thi Đình để chọn Trạng nguyên,... Mục đích qua các cuộc thi để
tìm ra người tài giỏi làm quan giúp nước. Khoa thi Nho học đầu tiên của nước ta
vào thời Lí Nhân Tông (1075). Các kỳ thi thường được tổ chức tại các tỉnh, các
vùng và toàn quốc, đồng thời còn có các cuộc kiểm tra thường xuyên như bình
văn, thi đấu.
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nền giáo dục Việt Nam mang nặng
tính chất nền giáo dục nô dịch thuộc địa kiểu Pháp (số ít); còn với đại đa số thì
chúng thực hiện chính sách ngu dân để dễ cai trị.Trong thời kỳ này, các kỳ thi
tuyển được tổ chức rất nghiêm túc được đảm bảo bằng pháp luật. Trung tâm
khảo thí là một đơn vị độc lập với Bộ GD&ĐT. Công tác đánh giá chất lượng
giáo dục luôn gắn liền với mục tiêu đào tạo của thực dân phong kiến.
Từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay, cùng với hoàn cảnh của
đất nước, nền giáo dục Việt Nam đã trải qua ba lần cải cách với mỗi lần mục
13


tiêu được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới của đất nước. Hoạt động

đánh giá kết quả học tập của học sinh có cải tiến thay đổi về cách thức nhằm
mục đích đánh giá được chính xác và khách quan hơn.
Với sự phối hợp những thành tựu khoa học của thế giới nghiên cứu, cải
tiến quá trình đánh giá chất lượng giáo dục nói chung và đánh giá kết quả học
tập học sinh nói riêng, các tác giả khẳng định: Vấn đề đánh giá kết quả học tập
của học là một phạm trù của lí luận dạy học, đánh giá là mắt xích không thể
tách rời trong quá trình dạy học.Trong những năm gần đây, với mục tiêu đổi
mới nền giáo dục hiện đại sao cho phù hợp với nền kinh tế phát triển của đất
nước nền giáo dục nói chung các mục tiêu đổi mới về mục tiêu, đổi mới về nội
dung, chương trình sách giáo khoa thì công tác đổi mới về đánh giá kết quả
học tập của học sinh cũng được xem là một khâu quan trọng của đổi mới đánh
giá giáo dục, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay.
Trong nhiều năm trở lại đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước
hoạt động nghiên cứu lý luận về vấn đề này ngày càng được nâng lên tầm cao
mới. Đã có nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra những yêu cầu về chất lượng thi,
đánh giá kết quả học tập của học sinh nhằm đáp ứng mục tiêu đào tạo con
người trong thời kỳ phát triển. Dưới đây là một số tài liệu nghiên cứu về đánh
giá của các chuyên gia Việt Nam:
- Nguyễn Công Khanh (2004), Đánh giá và đo lường trong giáo dục,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Đặng Bá Lãm (2003), Kiểm tra- đánh giá trong dạy học đại học, NXB
Giáo dục, Hà Nội [17].
- Lâm Quang Thiệp (2003), Đo lường đánh giá trong giáo dục.
- Trần Bá Hoành với công trình: Đánh giá trong giáo dục.

- Nguyễn Kế Hào với công trình: Đổi mới phương pháp dạy học và
phương pháp đánh giá đối với giáo dục phổ thông, cao đẳng và đại học sư
phạm [12].
- Trần Thị Tuyết Oanh với công trình: Đánh giá và đo lường kết quả
học tập [24].

14


- Lê Đức Ngọc với công trình: Đo lường và đánh giá thành quả học tập
và Nâng cao năng lực xây dựng cấu trúc đề thi và biểu điểm trong đào tạo
giáo viên THCS [22].
Hầu hết các công trình này đều có hai phần nội dung chính là đề cập tới
cơ sở lí luận của hoạt động giảng dạy nói chung, hệ thống lí luận về hoạt động
đánh giá, các khái niệm công cụ và quan trọng là xây dựng cơ sở lí luận của
các phương pháp, nội dung, hình thức đánh giá, các kĩ thuật xây dựng công cụ
đo và đánh giá.
Cùng hướng nghiên cứu với đề tài còn có một số công trình nghiên cứu
khoa học Luận văn Thạc sĩ QLGD như:
- Biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý của hiệu trưởng đối với công tác
kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh và trường THPT thành phố Hải
Phòng của tác giả Đào Thế Lữ ( 2003), Đại học Sư phạm Hà Nội.
- “ Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh
trường THCS quận Kiến An thành phố Hải Phòng” của tác giả Trần Thị Tuyết
(2014), Đại học Sư phạm Hà Nội.
Các công trình này đã xây dựng được hệ thống lí luận đánh giá; có công
trình thiên về đánh giá quá trình dạy học, đánh giá chương trình, có công trình
thiên về đánh giá kết quả học tập của người học, và ở công trình nào tác giả
cũng đánh giá được thực trạng của hoạt động đánh giá làm sơ sở để xây dựng
được các biện pháp quản lý đánh giá của chủ thể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động đánh giá nói riêng và nâng cao chất lượng học tập, đào tạo nói chung.
Để nâng cao chất lượng quá trình dạy học tại trường THCS Ngô Quyền,
quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, đã có một số đề tài nghiên cứu về các
lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do sự thay đổi về
phương pháp giảng dạy, sự thay đổi trong đội ngũ giáo viên nên chất lượng
giảng dạy và học tập của nhà trường chưa thực sự xứng tầm. Do vậy, đề tài:

“Quản lý hoạt động đánh giá kết quả học tập của học sinh trường THCS
Ngô Quyền, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng theo yêu cầu đổi mới giáo
dục" là vấn đề mang tính cấp thiết trong công tác giáo dục và đào tạo tại
15


trường THCS Ngô Quyền, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng trong giai
đoạn hiện nay.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lý, quản lý nhà trường
1.2.1.1. Quản lý
Khoa học quản lý xuất hiện cùng với sự phát triển của xã hội loài người.
Nó là phạm trù tồn tại khách quan, được ra đời một cách tất yếu do nhu cầu
của mọi chế độ xã hội, mọi tổ chức, mọi quốc gia, mọi thời đại.
Lao động quản lý là một lĩnh vực lao động trí tuệ và thực tiễn phức tạp
nhất của con người nhằm điều khiển lao động thúc đẩy xã hội phát triển trên
tất cả các bình diện, khoa học quản lý gắn liền với tiến trình phát triển của xã
hội loài người, mang tính lịch sử, giai cấp, dân tộc, thời đại. Quản lý là một
khoa học sử dụng tri thức của nhiều môn khoa học xã hội, đồng thời quản lý
còn là một nghệ thuật đòi hỏi sự khôn khéo và tinh tế cao độ để đạt được mục
đích. Chính vì vậy, có thể tiếp nhận khái niệm quản lý theo nhiều cách khác
nhau. Theo C.Mác, quản lý là chức năng được sinh ra từ tính chất xã hội hoá
lao động. Quản lý có tầm quan trọng đặc biệt vì mọi sự phát triển của xã hội
đều thông qua quản lý. Người viết: Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay
lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần
đến một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện như
chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác
với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm
tự điều khiển lấy mình, còn dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng.
Ngày nay, thuật ngữ quản lý đã trở nên khá phổ biến nhưng có nhiều

quan điểm khác nhau với những góc độ khác nhau phụ thuộc vào cái nhìn chủ
quan và tính mục đích của hoạt động. Có thể điểm qua một số khái niệm:
Theo F.W.Taylo (1856 – 1915) “Quản lý là biết được chính xác điều
mình muốn người khác làm và sau đó biết được họ làm việc đó có tốt hay
không, có rẻ nhất không” [trích theo 3 và 4, tr 28].

16


Theo Henry Fayol (1841 – 1925) xuất phát từ các loại hình quản lý cho
rằng: “Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng
các hoạt động (chức năng) kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra” [trích
theo 4, tr31]. Các nhà nghiên cứu người Mỹ Harold Koontz, Cyril O’Donnell,
Heinz Weihrich trong cuốn “Những vấn đề cốt yếu của quản lý” thì cho rằng:
“Quản lý là một loại hoạt động thiết yếu nhằm đảm bảo sự phối hợp, nỗ lực
của các nhân hướng vào mục tiêu tổ chức – Đó là hình thành một môi trường
có những điều kiện tốt nhất, thời gian ít nhất, công sức bỏ ra ít nhất, sự bất
mãn cá nhân ít nhất để đạt hiệu quả cao nhất” [trích theo 3 và 4, tr 39].
Theo Mary Parker Follfet (Mỹ): “Quản lý là nghệ thuật khiến công việc
được thực hiện thông qua người khác”, “… Trong quản lý cần chú trọng tới
những người lao động với toàn bộ đời sống của họ, cả yếu tố kinh tế lẫn yếu tố
tinh thần và tình cảm,…” [trích theo 3 và 4, tr 50].
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu cũng có những định nghĩa khác nhau
về thuật ngữ “Quản lý” tùy theo cách tiếp cận khác nhau:
Đại Từ điển tiếng Việt: “Quản lý là hoạt động của con người tác động
vào tập thể người khác để phối hợp điều chỉnh phân công thực hiện mục tiêu
chung” [32].
Theo Trần Kiểm, “Quản lý là các hoạt động được thực hiện nhằm đảm
bảo sự hình thành công việc qua nỗ lực của người khác”. Hoặc: “Quản lý là
công tác phối hợp có hiệu quả các hoạt động của những người cộng sự khác

cũng có chung một tổ chức” [15, tr 12,13].
Theo tác giả Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt: “Quản lý là một quá trình
định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý có hệ thống là quá trình tác động
đến hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này
được đặc trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý mong
muốn” [20, tr 255].
Tác giả Trần Khánh Đức khẳng định "Quản lý là hoạt động có ý thức
của con người nhằm phối hợp hành động của một nhóm người, hay một cộng

17


đồng người để đạt được các mục tiêu đề ra một cách hiệu quả nhất" [8,
tr.328].
Thuật ngữ “Quản lý” (Tiếng Việt gốc Hán) lột tả được bản chất của hoạt
động này trong thực tiễn, bao gồm hai quá trình tích hợp vào nhau, quá trình “
Quản” gồm coi sóc, giữ gìn, duy trì ở trạng thái “ổn định”, quá trình “Lý” gồm
sự sửa sang, sắp xếp, đổi mới hệ, đưa hệ vào thế “phát triển”. Nếu người đứng
đầu trong một tổ chức chỉ lấy việc “Quản” làm chính thì tổ chức dễ bị trì trệ,
ngược lại nếu chỉ quan tâm đến “Lý” thì sự phát triển của tổ chức không bền
vững. Do vậy, người quản lý phải luôn xác định và phối hợp tốt, sao cho trong
“Quản” phải có “Lý” và trong “Lý” luôn phải có “Quản”, làm cho trạng thái
của hệ thống mình quản lý luôn luôn ở trạng thái cân bằng động [2].
Như vậy, từ cách tiếp cận trên ta thấy khái niệm quản lý bao hàm một số
ý nghĩa chung:
- Quản lý là quá trình hoạt động lao động có mục đích để điều khiển lao
động.
- Có sự tương tác giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý.
- Liên quan tới môi trường xác định.
Từ các dấu hiệu chung đó, có thể khái quát như sau: Quản lý là một quá

trình tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản
lý nhằm sử dụng hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt
được mục tiêu đề ra.
1.2.1.2. Quản lý nhà trường
 Khái niệm nhà trường
Nhà trường (trường học) là nhân tố sinh thành hệ thống giáo dục.
Không có nhà trường thì không thể có giáo dục theo đúng nghĩa. Trường học
là một tổ chức giáo dục cơ sở trực tiếp làm công tác đào tạo, giáo dục thế hệ
trẻ. Trường học là tế bào của bất cứ hệ thống giáo dục quốc dân nào. Nói cách
khác, trường học là thành tố cơ bản của tất cả các cấp quản lý giáo dục, lại vừa
là thành tố độc lập tự quản của xã hội.

18


Theo Từ điển Tiếng Việt: “Nhà trường (trường học) là nơi tiến hành
giảng dạy, đào tạo toàn diện hay một lĩnh vực chuyên môn nào đó cho học
sinh, sinh viên hoặc là nơi rèn luyện, bồi dưỡng con người về mặt nào đó”
[32].
Theo Đặng Quốc Bảo "Trường học là một thiết chế xã hội trong đó diễn
ra quá trình đào tạo, giáo dục với sự hoạt động tương tác của hai nhân tố:
Thầy - Trò. Trường học là một bộ phận của cộng đồng và guồng máy của hệ
thống GDQD” [2].
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng tôi sử dụng khái niệm
Nhà trường của tác giả Trần Kiểm: “Nhà trường là thiết chế chuyên biệt của
xã hội, nơi tổ chức, thực hiện và quản lý quá trình giáo dục và đào tạo. Quá
trình này được thực hiện bởi hai chủ thể: người được giáo dục và đào tạo
(người học) và người giáo dục và đào tạo (người dạy). Trong quá trình giáo
dục và đào tạo, hoạt động của người học và hoạt động của người dạy luôn
luôn gắn bó, tương tác, hỗ trợ lẫn nhau, tựa vào nhau để thực hiện mục tiêu

giáo dục và đào tạo theo yêu cầu của xã hội” [15, tr13].
 Quản lí nhà trường
Nhà trường là một dạng thiết chế tổ chức chuyên biệt và đặc thù của xã
hội, được hình thành do nhu cầu tất yếu khách quan của xã hội, nhằm thực
hiện chức năng truyền thụ các kinh nghiệm xã hội cần thiết cho từng nhóm dân
cư nhất định trong cộng đồng và xã hội. Nhà trường là một bộ phận của xã hội,
là tổ chức giáo dục cơ sở của hệ thống giáo dục quốc dân. Quản lý hoạt động
giáo dục trong nhà trường phổ thông chính là xây dựng mối quan hệ quản lý
giữa các hình thức công tác tập thể, cách đối xử giữa học sinh và giáo viên. Tất
cả những điều đó đặt ra yêu cầu cao đối với việc quản lý nhà trường, việc tổ
chức hợp lý quá trình giáo dục, học tập, việc xây dựng các điều kiện vật chất
kỹ thuật, tổ chức sư phạm và việc tạo ra những điều kiện khác của lao động,
của giáo viên, của học sinh.

19


Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lí trường học là quản lý giáo
dục được thực hiện trong phạm vi xác định của một đơn vị giáo dục - nhà
trường - ở từng bậc học khác nhau” [25].
Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lí trường học là thực hiện đường lối
giáo dục của Đảng trong phạm vi chuyên trách của mình, tức là đưa nhà
trường vận hành theo nguyên lí giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục
tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh”;
“Quản lí nhà trường là hệ thống xã hội sư phạm chuyên biệt, hệ thống này đòi
hỏi những tác động có ý thức, có kế hoạch và hướng đích của chủ thể quản lý
lên tất cả các mặt của đời sống nhà trường để đảm bảo sự vận hành tối ưu xã
hội - kinh tế và tổ chức sư phạm của quá trình dạy học và giáo dục thế hệ đang
lớn lên” [15].
Theo tác giả Bùi Minh Hiền và Nguyễn Vũ Bích Hiền: “Quản lý nhà

trường quá trình tác động có mục đích, có định hướng, có kế hoạch của các
chủ thể quản lý (đứng đầu là hiệu trưởng nhà trường) đến các đối tượng quản
lý (giáo viên, cán bộ nhận viên, người học, các bên liên quan...) và huy động,
sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả các nguồn lực nhằm thực hiện sứ mệnh
của nhà trường đối với hệ thống giáo dục và đào tạo cới cộng đồng và xã hội
nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục đã xác định trong một môi trường luôn luôn
biến động” [13, tr 31,32].
Tóm lại, Quản lí nhà trường là hệ thống tác động có mục đích, có kế
hoạch, hợp quy luật khách quan của chủ thể quản lý nhằm làm cho nhà trường
vận hành theo nguyên lí giáo dục đạt được mục tiêu giáo dục đào tạo đề ra.
Quản lý nhà trường chính là những công việc mà người cán bộ quản lý
nhà trường thực hiện chức năng quản lý để thực hiện các nhiệm vụ công tác
của mình. Vì vậy, quản lý nhà trường là quản lý toàn diện. Bao gồm:
- Quản lý đội ngũ nhà giáo.
- Quản lý học sinh.
- Quản lý quá trình dạy học.
- Quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học.
20


- Quản lý tài chính trường học.
- Quản lý mối quan hệ giữa con người và cộng đồng.
Tận dụng các nguồn lực đầu tư cũng như các lực lượng xã hội đóng góp,
xây dựng hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà trường đạt được
mục tiêu, kế hoạch đào tạo, đưa nhà trường đến một trạng thái mới.
1.2.2. Đánh giá
Thuật ngữ đánh giá (Evaluation) là đưa ra nhận định tổng hợp về các dữ
kiện đo lường được qua các kỳ kiểm tra/lượng giá (Assessement) trong quá
trình và kết thúc bằng cách đối chiếu, so sánh với những tiêu chuẩn đã được
xác định rõ ràng trước đó trong các mục tiêu.

Có một số nước đưa ra những nghĩa khác như sau:
Robert F.Macger (Pháp): “Đánh giá là việc miêu tả tình hình của học
sinh và giáo viên để dự đoán công việc phải tiếp tục và gúp học sinh tiến bộ”
[trích theo 21].
Philippines: “Đánh giá là sự phân tích tác động của chương trình vào
cá nhân, vào hệ thống giáo dục và vào hệ thống phát triển kinh tế - xã hội của
cộng đồng” [33].
Đánh giá là thông tin phản hồi trong quá trình có điều khiển. Đánh giá
được xem như toàn bộ quá trình thu thập các số liệu và thông tin cần thiết về
chương trình học cụ thể để cung cấp bằng chứng, cơ sở cho các hoạch định
chương trình, có những quyết định liên quan đến chương trình, kế hoạch đào
tạo. Chính vì thế, “đánh giá là biểu thị một thái độ, đòi hỏi một sự phù hợp,
theo một chuẩn nhất định. Nhờ đó mà người đánh giá (thầy giáo, nhà sư
phạm) cho một thông tin tổng hợp, đôi khi con số đối với người đánh giá”
[21].
Theo Đại Từ điển tiếng Việt: “Đánh giá là nhận định giá trị” [32].
Theo tác giả Đặng Bá Lãm (2003): “Đánh giá là một quá trình có hệ
thống bao gồm việc thu thập, phân tích, giải tích thông tin nhằm xác định mứ
độ người học đạt được các mục tiêu dạy học” [17].

21


Theo tác giả Trần Thị Tuyết Oanh: “Đánh giá trong giáo dục là quá
trình tiến hành có hệ thống để xác định mức độ mà đối tượng đạt được các
mục tiêu giáo dục nhất định” [24].
Các khái niệm này đều nhấn mạnh đến sự phù hợp giữa mục tiêu và
việc thực hiện, cũng có nghĩa là xem xét sự phù hợp với mục đích đánh giá và
đối tượng đánh giá.
Đánh giá là quá trình thu thập, xử lí thông tin để lượng tình hình và kết

quả công việc giúp quá trình lập kế hoạch, quyết định và hành động có hiệu
quả.
Đánh giá là một hoạt động nhằm nhận định, xác định giá trị thực trạng
về: Mức độ hoàn thành nhiệm vụ, chất lượng, hiệu quả công việc, trình độ, sự
phát triển, những kinh nghiệm được hình thành,... ở thời điểm hiện tại đang xét
so với mục tiêu hay những chuẩn mực đã được xác lập.Trên cơ sở đó, nêu ra
những biện pháp uốn nắn, điều chỉnh và giúp đỡ đối tượng hoàn thành nhiệm
vụ.
Đánh giá là thái độ đối với những hiện tượng xã hội, hành vi của con
người, xác định những giá trị của chúng tương xứng với những nguyên tắc và
chuẩn mực nhất định (khen ngợi hay lên án, đồng tình hay phản đối lên án)
được xác định bằng vị trí xã hội, thế giới quan, trình độ văn hoá. Mặt khác có
tính động cơ, phương tiện và mục đích hành động, điều kiện và vị trí trong cả
hệ thống cách xử sự của cá nhân là điều kiện cần thiết cho việc đánh giá đúng
đắn.Việc đánh giá là việc là có giá trị đối với ý nghĩa cuối cùng dẫn đến sự cải
tiến hoạt động của cá nhân và tập thể.
Như vậy, đánh giá trong giáo dục được hiểu là: “Sự thu thập, chỉnh lí, xử
lí, phân tích một cách toàn diện, khoa học, hệ thống những thông tin về sự
nghiệp giáo dục, để rồi phán đoán giá trị của nó nhằm thúc đẩy công cuộc cải
cách giáo dục, nâng cao trình độ phát triển của giáo dục, đáp ứng ngày càng
cao của cộng đồng xã hội” [5].
Từ những ý kiến trên, có thể thấy đánh giá trong giáo dục là quá trình
thu thập và xử lí kịp thời có hệ thống thông tin về hiện trạng, khả năng hay
22


nguyên nhân của chất lượng và hiệu quả giáo dục căn cứ vào mục tiêu dạy
học, mục tiêu đào tạo làm cơ sở cho chủ trương, biện pháp và hành động giáo
dục tiếp theo.
Như vậy, đánh giá trong giáo dục là sự xem xét, so sánh độ tương thích

giữa những thông tin thu nhận được về quá trình giáo dục với chuẩn mực, tiêu
chuẩn tương ứng nhằm đưa ra những quyết định về người học và việc tổ chức
quá trình dạy học [5] [6].
Đánh giá trong nhà trường gồm nhiều lĩnh vực, nhiều khía cạnh có ý
nghĩa phong phú: Có thể là dự đoán khả năng diễn biến tâm sinh lí hay sự việc,
hiện tượng. Xác định khả năng tiếp thu kiến thức, mức độ hiểu biết tri thức có
thể thể hiện qua điểm số hoặc lời nhận xét của giáo viên. Đánh giá là phương
tiện củng cố cho học sinh vào sức mình và khả năng của mình, cũng là phương
tiện để bù trừ những sai lầm trong học tập, cuộc sống của học sinh. Qua đánh
giá cũng hình thành ở học sinh khả năng tự đánh giá tự ý thức về bản thân.
1.2.3. Quản lý hoạt động đánh giá
Quản lý hoạt động đánh giá là hoạt động của chủ thể quản lý tác động
vào quá trình đánh giá làm cho hoạt động đánh giá được chính xác, khách
quan, trung thực, phản ánh đúng thực trạng chất lượng dạy học, để từ đó tìm ra
nguyên nhân và biện pháp cải thiện thực trạng, nâng cao chất lượng dạy học
cũng như chất lượng giáo dục tổng thể.
Nếu làm tốt công tác quản lý đánh giá thì người quản lý sẽ có được
thông tin chính xác, kịp thời, có hệ thống, đảm bảo tính pháp lý,… về chất
lượng quá trình dạy học, quá trình giáo dục, mức độ đạt được mục tiêu quản lý
đã đề ra cũng như hiệu quả quản lý. “Kết quả của đánh giá kết quả học tập là
cơ sở để chứng thực kết quả học tập xếp loại học lực của học sinh, đánh giá
năng lực và hiệu quả giảng dạy cũng như việc đổi mới phương pháp dạy học
của giáo viên, đánh giá việc sử dụng các nguồn lực trong và ngoài nhà
trường, và sau đó là đánh giá hiệu quả quản lý của hiệu trưởng” [29]. Vì vậy,
kết quả thu được từ đánh giá phải tin cậy để công khai hóa các nhận định về

23


năng lực học tập của từng học sinh, của tập thể lớp, tạo cơ hội cho học sinh

phát triển năng lực tự đánh giá.
Từ góc độ quản lý chung, quản lý hoạt động đánh giá bao gồm 3 mảng
lớn liên quan mật thiết đến nhau, đó là: chính sách về đánh giá, quản lý hoạt
động đánh giá và quản lý nguồn nhân lực đánh giá.
Quản lý hoạt động đánh giá được thực hiện bằng cách hoạt động quản lí
như lập kế hoạch, tổ chức, đánh giá – tự đánh giá, chỉ đạo – tự chỉ đạo. Đối
tượng của những hoạt động này không phải nội dung học vấn, mà là kết quả
học tập và rèn luyện, thời gian, tiến độ học tập, hành vi học tập, nhu cầu và
thái độ học tập, phong cách, cường độ và nhịp độ học tập, các nguồn lực học
tập như học liệu, phương tiện, dụng cụ, thiết bị, môi trường học tập. Hoạt động
đó gồm các khâu:
- Lập kế hoạch đánh giá: môn học nào, tương ứng vào thời điểm nào?
Hình thức đánh giá? Kiến thức cần đạt đối với từng mức độ? Cấu trúc đề kiểm
tra?...
- Tổ chức, chỉ đạo, giám sát: ra đề, coi kiểm tra (thi), chấm bài, lấy
điểm, đánh giá – xếp loại.
- Sử dụng kết quả đánh giá vào việc điều chỉnh phương pháp dạy của
giáo viên và phương pháp học tập của học sinh, cũng như điều chỉnh mục tiêu
dạy học và giáo dục.
Hoạt động đánh giá được diễn ra theo quy trình sau:
- Xác định mục tiêu: Thông thường hiệu phó chuyên môn cùng các
nhóm trưởng chuyên môn căn cứ chuẩn kiến thức kỹ năng của mỗi môn học,
cùng thảo luận để xây dựng mục tiêu của môn học. Ngoài ra, có thể tham khảo
cán bộ quản lý của các đơn vị giáo dục khác. Trên cơ sở mục tiêu của môn học
sẽ yêu cầu giáo viên giảng dạy xây dựng mục tiêu cụ thể của từng môn học và
công bố trong kế hoạch giảng dạy môn học.
- Xây dựng kế hoạch đánh giá: Kế hoạch đánh giá được thực hiện ở các
trường THCS là một bảng biểu bao gồm thời điểm thực hiện, tiết thực hiện,
nội dung kiểm tra đối với mỗi môn học cụ thể.
24



- Chọn các phương pháp, hình thức đánh giá phù hợp: Các phương pháp
đánh giá phải phù hợp với mục tiêu, không chỉ là mục tiêu của môn học mà
còn là mục tiêu của cả chương trình môn học cho nên phải do nhà quản lý
quyết định. Việc chọn lựa phương pháp đánh giá chính xác sẽ ảnh hưởng rất
lớn đến việc nâng cao chất lượng.
- Tiến hành triển khai theo kế hoạch: Bao gồm các công việc xây dựng
ngân hàng các câu hỏi kiểm tra, tiến hành kiểm tra, chấm trả bài.
Báo cáo, sử dụng kết quả đánh giá: Báo cáo kết quả đánh giá phải chỉ ra
được những điểm mạnh và những điểm yếu của người học, đồng thời phải chỉ
ra được những ưu, nhược điểm của các đối tượng liên quan như: học sinh, giáo
viên, cán bộ quản lý.
- Đánh giá toàn bộ quy trình đánh giá: Đây là bước cuối cùng trong quy
trình đánh giá. Nhà trường thông qua các buổi họp chuyên môn phải có đánh
giá, nhận xét việc thực hiện quy trình đánh giá đối với từng môn, chỉ rõ những
thuận lợi, khó khăn khi thực hiện. Từ đó, sẽ đưa ra những vấn đề cần chỉnh sửa
(kế hoạch, chính sách, quy trình,…) giúp cho các lần thực hiện tiếp theo sẽ có
kết quả cao hơn.
Những nội dung quản lý hoạt động đánh giá được xác định một cách có
hiệu quả, khoa học sẽ là những yếu tố quyết định đến việc thực hiện tốt các
chức năng của đánh giá.
1.2.4. Quản lý hoạt động đánh giá kết quả học tập theo yêu cầu đổi mới giáo
dục
Quản lý hoạt động đánh giá kết quả học tập là hoạt động của chủ thể
quản lý tác động vào quá trình đánh giá kết quả học tập làm cho hoạt động
đánh giá được chính xác, khách quan, trung thực, phản ánh đúng thực trạng
chất lượng dạy học, để từ đó tìm ra nguyên nhân và biện pháp cải thiện thực
trạng, nâng cao chất lượng dạy học cũng như chất lượng giáo dục tổng thể.
Trong thời điểm hiện nay, chất lượng đang là vấn đề mang tính thời sự,

cấp thiết. Để nâng cấp chất lượng giáo dục, bên cạnh việc đổi mới mục tiêu,
cải tiến nội dung, phương pháp, nâng cao chất lượng đánh giá là vô cùng cần
25


×