Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Dịch vụ công tác xã hội đối với thanh niên thuộc hộ nghèo từ thực tiễn tỉnh hà nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 92 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ VĂN KIÊN

DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI THANH NIÊN
THUỘC HỘ NGHÈO TỪ THỰC TIỄN TỈNH HÀ NAM

Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60.90.01.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS PHẠM HỮU NGHỊ

Hà Nội, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, luận văn Thạc sỹ Công tác xã hội với đề tài “Dịch vụ
công tác xã hội đối với thanh niên thuộc hộ nghèo từ thực tiễn tỉnh Hà
Nam” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS. TS Phạm Hữu Nghị.
Các số liệu, kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực,
được trích nguồn và trích dẫn đầy đủ.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI THANH NIÊN THUỘC HỘ NGHÈO ................................................ 11
1.1. Khái niệm nghèo, hộ nghèo, thanh niên thuộc hộ nghèo .................................. 11
1.2. Đặc điểm và nhu cầu của thanh niên thuộc hộ nghèo ....................................... 16
1.3. Lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với thanh niên thuộc hộ nghèo ........................22
1.4. Thể chế về dịch vụ công tác xã hội đối với thanh niên thuộc hộ nghèo ........... 31
1.5. Các yếu tố tác động đến dịch vụ công tác xã hội đối với thanh niên thuộc hộ
nghèo ........................................................................................................................ 35
Chương 2: THỰC TRẠNG DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI
THANH NIÊN THUỘC HỘ NGHÈO TẠI TỈNH HÀ NAM ............................ 39
2.1. Các điều kiện kinh tế, xã hội của tỉnh Hà Nam có ảnh hưởng đến dịch vụ công
tác xã hội đối với thanh niên thuộc hộ nghèo .......................................................... 39
2.2. Thực trạng thanh niên thuộc hộ nghèo tại tỉnh Hà Nam ................................... 41
2.3. Thực trạng dịch vụ công tác xã hội đối với thanh niên thuộc hộ nghèo từ thực
tiễn tỉnh Hà Nam ...................................................................................................... 50
2.4. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến dịch vụ CTXH đối với thanh niên thuộc
hộ nghèo ................................................................................................................... 60
Chương 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ
HỘI ĐỐI VỚI THANH NIÊN THUỘC HỘ NGHÈO TỪ THỰC TIỄN TỈNH
HÀ NAM ................................................................................................................. 68
3.1. Định hướng bảo đảm việc cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với thanh niên
thuộc hộ nghèo ......................................................................................................... 68
3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện dịch vụ công tác xã hội đối với thanh niên thuộc
hộ nghèo ................................................................................................................... 69
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 77
PHỤ LỤC



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BCH: Ban chấp hành
BHYT: Bảo hiểm y tế
CLB: Câu lạc bộ
CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CTXH: Công tác xã hội
DVXH: Dịch vụ xã hội
KTXH: Kinh tế xã hội
NXB: Nhà xuất bản
PVS: Phỏng vấn sâu
TBXH: Thương binh và Xã hội
THCS: Trung học cơ sở
THPT: Trung học phổ thông
UBND: Ủy ban nhân dân
XĐGN: Xóa đói giảm nghèo


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1. Chuẩn hộ nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011 - 2015 và giai đoạn 2016 –
2020 ......................................................................................................................... 12
Bảng 2.1. Bảng tổng hợp hộ nghèo và thanh niên thuộc hộ nghèo ........................ 40
Bảng 2.2. Tình trạng hôn nhân của thanh niên thuộc hộ nghèo ............................... 44
Bảng 2.3. Nghề nghiệp của thanh niên thuộc hộ nghèo ........................................... 46
Bảng 2.4. Nhu cầu cụ thể của thanh niên thuộc hộ nghèo ....................................... 47
Biểu đồ 2.1. Tỷ lệ Nam - Nữ trong tổng số thanh niên thuộc hộ nghèo .................. 41
Biểu đồ 2.2. Tỷ lệ thanh niên thuộc hộ nghèo tại nông thôn và thành thị ............... 42
Biểu đồ 2.3. Cơ cấu trình độ học vấn của thanh niên thuộc hộ nghèo ..................... 45
Biểu đồ 2.4. Thu nhập của thanh niên thuộc hộ nghèo (triệu đồng/năm) ................ 46
Biểu đồ 2.5. Tỷ lệ thanh niên thuộc hộ nghèo biết đến nghề CTXH ....................... 59



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đói nghèo là vấn đề xã hội phổ biến ở mọi quốc gia, vùng lãnh thổ và nhất là
với các nước đang phát triển.
Tỷ lệ người nghèo ở mỗi nước cũng khác nhau, đối với nước giàu thì tỷ lệ
đói nghèo nhỏ hơn các nước kém phát triển song khoảng cách giàu nghèo lại lớn
hơn rất nhiều. Thế kỷ XXI của con người đang diễn ra sôi động với bao thành tựu
đã đạt được trên mọi mặt của cuộc sống. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào một
tương lai tươi sáng về mọi mặt, chúng ta tiếp tục khám phá thế giới, tiếp tục tiến lên
và phát triển. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều người đang trong hoàn cảnh đói nghèo mà
không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người. Theo số liệu
của Ngân hàng thế giới (WB), hiện có khoảng 1,3 tỷ người sống dưới mức nghèo
khổ, trong đó phần lớn là phụ nữ và trẻ em, ngoài ra cũng có một tỷ lệ không nhỏ là
thanh niên thuộc các hộ nghèo. Đói nghèo là lực cản trên con đường tăng trưởng và
phát triển của quốc gia, của địa phương, nghèo khổ luôn đi liền với trình độ dân trí
thấp, tệ nạn xã hội, bệnh tật, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự an toàn xã hội,…
Đối với Việt Nam, vấn đề đói nghèo vẫn là một thách thức lớn. Mặc dù
chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu về mọi mặt từ sau công cuộc đổi mới được
khởi xướng, từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông
nghiệp, Việt Nam đã xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã
hội từng bước đáp ứng sự nghiệp CNH, HĐH, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực
xã hội cho phát triển. Diện mạo đất nước có nhiều thay đổi, kinh tế duy trì tốc độ
tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên (đạt ngưỡng thu nhập
trung bình); đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, cho đến nay tỷ
lệ hộ nghèo ở Việt Nam vẫn còn cao (hiện khoảng 10%). Trong đó tỷ lệ thanh niên
thuộc hộ nghèo chiếm khoảng trên 10%/tổng số người nghèo. Kết quả giảm nghèo
chưa bền vững, chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư chưa được thu
hẹp, nguồn lực thực hiện chính sách và Chương trình giảm nghèo hạn chế; Cơ chế
phối hợp, chỉ đạo, điều hành ở các cấp, cơ chế phân cấp, trao quyền còn nhiều hạn

1


chế, bất cập; chưa khơi dậy được tiềm năng thế mạnh của địa phương, sự tham gia
chủ động, tích cực, sáng tạo của người dân, của cộng đồng cùng nhau vươn lên
thoát nghèo, xây dựng nông thôn mới; Các chính giảm nghèo hiện hành còn chồng
chéo, phân tán, thiếu tính hệ thống. Nhiều chính sách chưa khuyến khích người
nghèo tích cực vươn lên thoát nghèo, đặc biệt chưa khơi dậy, thúc đẩy được tiềm
năng của thanh niên vươn lên thoát nghèo [3].
Người nghèo nói chung, thanh niên thuộc hộ nghèo nói riêng gặp nhiều khó
khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Trong khi đó, việc vận dụng các
phương pháp công tác xã hội, cung cấp các dịch vụ CTXH hỗ trợ người nghèo vẫn
còn khó khăn thách thức.
Mục đích của công tác xã hội, dịch vụ công tác xã hội với thanh niên thuộc
hộ nghèo nhằm giúp đỡ cá nhân, gia đình và cộng đồng nghèo nâng cao năng lực để
thoát nghèo bền vững, giúp họ đối mặt, vượt qua những rủi ro như thất học, thiếu
việc làm, thiếu vốn... Nhân viên công tác xã hội được coi là những người có trọng
trách lớn trong giúp đỡ họ tự vượt qua những khó khăn trong cuộc sống bằng những
kiến thức và kỹ năng chuyên môn đặc thù. Bên cạnh đó, còn thúc đẩy các điều kiện
xã hội để cá nhân, gia đình nghèo tiếp cận được các chính sách, nguồn lực xã hội,
đáp ứng nhu cầu cơ bản.
Hà Nam là tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng có địa giới hành chính
tiếp giáp với các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hòa Bình, Ninh Bình, Nam Định, Hưng
Yên. Những năm qua, kinh tế xã hội của tỉnh có bước phát triển khá, trật tự an toàn
xã hội được giữ vững. Tuy nhiên, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh còn cao. Theo kết quả
điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2015 (chuẩn nghèo đa chiều), tổng số
hộ nghèo toàn tỉnh là: 15.571 hộ, chiếm tỷ lệ 5,81%; số hộ cận nghèo: 12.857 hộ,
chiếm tỷ lệ 4,80%. Tỷ lệ thanh niên thuộc hộ nghèo chiếm khoảng 12 %/tổng số
người nghèo. Các nguyên nhân nghèo chủ yếu là do ốm đau bệnh nặng; không có
sức lao động; thiếu vốn sản xuất; thiếu phương tiện sản xuất, mắc tệ nạn xã hội.

Muốn đạt được hiệu quả thiết thực nhằm giảm nhanh và bền vững tỷ lệ hộ
nghèo, nâng cao mức sống cho người dân đặc biệt là đối với thanh niên thì mỗi địa

2


phương trong tỉnh phải có chương trình giảm nghèo cụ thể phù hợp với từng đối
tượng nghèo, trên từng địa bàn dân cư; xây dựng và cung cấp các dịch vụ xã hội
mang tính chuyên nghiệp nhằm trợ giúp người nghèo vươn lên thoát nghèo bền
vững.
Vấn đề đặt ra: với tình hình thực trạng nghèo đói của thanh niên trên địa bàn
tỉnh Hà Nam như vậy, các cấp chính quyền đã có những chính sách gì, bằng cách
nào, thực hiện các giải pháp nào trong đó có việc vận dụng các phương pháp, cung
cấp các dịch vụ công tác xã hội để hỗ trợ người nghèo, từ đó tạo những điều kiện,
tiền đề thuận lợi để các hộ vươn lên thoát nghèo và ko bị tái nghèo.
Chính vì vậy, tôi chọn đề tài: “Dịch vụ Công tác xã hội đối với thanh niên
thuộc hộ nghèo từ thực tiễn tỉnh Hà Nam” làm luận văn thạc sĩ của mình.
Với đề tài này, tôi mong muốn có được những đánh giá khách quan về thực
trạng các dịch vụ CTXH cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến việc cung cấp dịch vụ
CTXH đối với thanh niên thuộc hộ nghèo tại tỉnh Hà Nam; từ đó đề xuất một số giải
pháp dưới góc độ công tác xã hội nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ công tác xã hội
đối với thanh niên thuộc hộ nghèo, giúp cho đời sống một bộ phận thanh niên ngày
càng tốt hơn, phát huy được nội lực của thanh niên vào quá trình phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh nói riêng và của đất nước nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dịch vụ công tác xã hội đối với thanh niên thuộc hộ nghèo là nhằm giúp đỡ
thanh niên thuộc hộ nghèo, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực để thoát nghèo
bền vững, thúc đẩy các điều kiện xã hội để cá nhân, gia đình nghèo tiếp cận được
các chính sách, nguồn lực xã hội, đáp ứng nhu cầu cơ bản của mình. Dịch vụ công
tác xã hội đối với thanh niên thuộc hộ nghèo là hoạt động động chuyên nghiệp giải
quyết vấn đề nghèo đói và hướng tới bảo đảm an sinh xã hội. Cho nên vấn đề này

cần được quan tâm nghiên cứu ở nhiều khía cạnh và cách nhìn nhận khác nhau.
Hiện nay, tại Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung đã có nhiều công
trình nghiên cứu, nhiều ấn phẩm được đề cập trên các báo, luận án, luận văn thạc sĩ,

3


khóa luận tốt nghiệp đề cập đến vấn đề về nghèo đói, về người nghèo và về thanh
niên như:
- Nghiên cứu khoa học: “Tình trạng nghèo đói và chính sách xóa đói, giảm
nghèo ở Việt Nam hiện nay” của tác giải Lê Phương Thảo, năm 2010.
- Nghiên cứu: “Đói nghèo ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hằng và
Nguyễn Văn Thiều, NXB Bộ Lao động - TBXH Hà Nội 1993.
- Báo cáo tổng quan các nghiên cứu về giảm nghèo ở Việt Nam của Bộ Lao
động - TBXH và tổ chức phát triển Liên hợp quốc, năm 2015. Mục tiêu của Báo cáo
nhằm đánh giá tổng quan các kết quả chính của các nghiên cứu trong giai đoạn
2005 - 2013 về giảm nghèo Việt Nam. Báo cáo cho rằng các nghiên cứu về giảm
nghèo được thực hiện từ rất sớm, từđầu những năm 90 của thế kỷ trước, gắn liền với
việc thực hiện các chính sách giảm nghèo. Phần lớn là các nghiên cứu định lượng,
thậm chí thuần túy định lượng, không có nhiều các nghiên cứu định tính trong lĩnh
vực này. Các nghiên cứu giảm nghèo có sự tham gia của người dân cũng không
được thực hiện nhiều, đặc biệt là những nghiên cứu ở quy mô lớn. Thời gian gần
đây, xu hướng lồng ghép, gia tăng nghiên cứu định tính trong lĩnh vực giảm nghèo
được chú trọng nhiều hơn, nhằm đánh giá toàn diện hơn về các chiều cạnh của vấn
đề nghèo. Trên cơ sở đó, Báo cáo đã đưa ra những khuyến nghị, gợi ý sâu cho các
họa động giám sát theo Nghị quyết 621/NQ-UBTVQH13 ngày 22/7/2013 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội khóa 13.
- Báo cáo Quốc gia về thanh niên Việt Nam của Bộ Nội vụ và Quỹ dân số
liên hợp quốc tại Việt Nam (UNFPA), năm 2015. Mục tiêu của Báo cáo là tìm hiểu
thực trạng công tác giáo dục, việc làm và chăm sóc sức khỏe củathanh niên cũng

như sự tham gia của thanh niên trong quá trình xây dựng và thực thi các chính sách
nhằm đưa ra các khuyến nghị cho công tác hoạch định chính sáchphát triển lực
lượng thanh niên Việt Nam trong thời gian tới.
Ngoài ra, có nhiều nghiên cứu khác về nghèo đói, về CTXH và dịch vụ
CTXH đối với người nghèo.

4


Trong bài viết: “Thực trạng mạng lưới dịch vụ xã hội ở Việt Nam- Những
khuyến nghị giải pháp” tác giả Bùi Thị Xuân Mai (2014) đã đi sâu nghiên cứu nhu
cầu và thực trạng mạng lưới các cơ sở cung cấp dịch vụ hiện nay ở Việt Nam, qua
đó đưa ra các giải pháp nhằm phát triển hệ thống dịch vụ xã hội ở nước ta. [20]
Quan tâm tới nhóm yếu thế trong sự chuyên nghiệp hóa dịch vụ công tác xã
hội, trong bài viết: “Sự chuyên nghiệp trong dịch vụ công tác xã hội đối với nhóm
đối tượng yếu thế” tác giả Hà Thị Thư (2016) khẳng định nhu cầu dịch vụ CTXH ở
Việt Nam ngày càng cao, đặc biệt là đối với nhóm yếu thế. Tác giả đã phân tích vai
trò của dịch vụ CTXH với nhóm yếu thế và chỉ ra hai khía cạnh của sựu chuyên
nghiệp là “con người chuyên nghiệp” và “môi trường chuyên nghiệp”. [37]
Nghiên cứu “Đánh giá nhanh thực trạng và nhu cầu tham gia của thanh niên
trong xây dựng và thực thi chính sách liên quan về việc làm, giáo dục và y tế” của
Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh thực hiện năm 2013 đã đánh giá nhu cầu và
phương thức tham gia xây dựng và thực thi chính sách của thanh niên tại 04 tỉnh
Hải Dương, Hòa Bình, Quảng Bình và Bến Tre: Đánh giá định lượng được thực
hiện với 1.260 thanh niên thuộc 3 nhóm thanh niên nông thôn, thanh niên khu công
nghiệp và thanh niên sinh viên; đánh giá định tính được thực hiện với các cán bộ
các sở, ban, ngành liên quan và đoàn cơ sở. [39]
Tuy nhiên, chưa có đề tài nào trực tiếp, đi sâu nghiên cứu vào vấn đề dịch vụ
công tác xã hội đối với thanh niên thuộc hộ nghèo để có thể đưa ra các giải pháp
nâng cao hiệu quả công tác xã hội đối với đối với thanh niên thuộc hộ nghèo. Vì

vậy, với đề tài này tác giả không chỉ muốn tìm hiểu thực trạng về đời sống của
thanh niên thuộc hộ nghèo, thực trạng dịch vụ công tác xã hội đối với thanh niên
thuộc hộ nghèo trên địa bàn mà còn muốn góp phần tìm ra một số giải pháp để nâng
cao hơn nữa hiệu quả công tác xã hội đối với thanh niên thuộc hộ nghèo.
Việc nghiên cứu vấn đề dịch vụ công tác xã hội đối với thanh niên thuộc hộ
nghèo từ thực tiễn tỉnh Hà Nam sẽ bổ sung thêm vào những nghiên cứu về người
nghèo, thanh niên thuộc hộ nghèo.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

5


3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn (thông qua thực tiễn tại tỉnh Hà Nam) về dịch vụ công tác xã hội đối với
thanh niên thuộc hộ nghèo. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
dịch vụ công tác xã hội đối với thanh niên thuộc hộ nghèo từ thực tiễn tỉnh Hà Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nêu trên, đề tài cần giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ những vấn lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với thanh
niên thuộc hộ nghèo.
- Phân tích, đánh giá thực trạng, nhu cầu của thanh niên thuộc hộ nghèo tại
tỉnh Hà Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng dịch vụ công tác xã hội đối với thanh niên
thuộc hộ nghèo từ thực tiễn tỉnh Hà Nam.
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến dịch vụ công tác xã hội đối với thanh
niên thuộc hộ nghèo từ thực tiễn tỉnh Hà Nam.
- Đề xuất các giải pháp bảo đảm thực hiện dịch vụ công tác xã hội đối với
thanh niên thuộc hộ nghèo từ thực tiễn tỉnh Hà Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Dịch vụ công tác xã hội đối với thanh niên thuộc hộ nghèo từ thực tiễn tỉnh
Hà Nam.
4.2. Khách thể nghiên cứu
- Một số cán bộ công tác trong lĩnh vực giảm nghèo của tỉnh Hà Nam;
- Thanh niên thuộc hộ nghèo trên địa bàn tỉnh Hà Nam;
- Một số cán bộ chính quyền, đoàn thể tỉnh Hà Nam.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian: Đề tài nghiên cứu thực tiễn tại địa phương trong khoảng
thời gian từ năm 2012 đến năm 2016.
- Phạm vi không gian: Khảo sát trên địa bàn tỉnh Hà Nam.

6


- Giới hạn nội dung nghiên cứu: Dịch vụ công tác xã hội đối với thanh niên
thuộc hộ nghèo từ thực tiễn tỉnh Hà Nam tại cộng đồng.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận là hệ thống lý luận về phương pháp nghiên cứu, là hệ
thống các quan điểm, các nguyên tắc chỉ đạo con người tìm tòi, xây dựng, lựa chọn
và vận dụng các phương pháp trong nhận thức và thực tiễn. Tất cả những nguyên lý
nào có tác dụng gợi mở, định hướng, chỉ đạo đều là những lý luận và nguyên lý có ý
nghĩa phương pháp luận.
Nghiên cứu được tiến hành dựa trên cơ sở phương pháp luận chung là phép
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Công tác xã hội là một ngành khoa học xã
hội, có nền tảng là triết học Mác – Lê nin, do đó mọi phương pháp tiếp cận vấn đề
của khoa học này đều dựa trên nền tảng là phương pháp luận khoa học cơ bản nhất.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Với nội dung nghiên cứu của đề tài, chúng tôi đã sử dụng một số phương

pháp trong quá trình nghiên cứu nhằm đảm bảo các thông tin thu được khách quan,
khoa học, bao gồm:
- Phương pháp phân tích tài liệu
Phương pháp phân tích tài liệu là phương pháp phân chia, chia nhỏ những số
liệu, dữ liệu từ các nguồn tài liệu đã được công bố thành từng cụm, từng lĩnh vực,
từng chi tiết cụ thể để tìm ra những ý nghĩa của số liệu đó; sau đó lại tổng hợp lại,
đưa ra nhận định và những bình luận, làm sáng tỏ các quan điểm cần chứng minh.
Đề tài sử dụng một số tài liệu liên quan như Giáo trình nhập môn CTXH, lý thuyết
CTXH, báo cáo quốc gia về thanh niên Việt Nam; báo cáo tổng quan các nghiên
cứu về nghèo đói ở Việt Nam năm 2015; tài liệu hội nghị tổng kết công tác giảm
nghèo hàng năm; báo cáo tổng kết giai đoạn và báo cáo hàng năm của các Sở ngành
liên quan (Lao động - TBXH; Tỉnh Đoàn Hà Nam,…)

7


Phân chia, chia nhỏ những số liệu, dữ liệu thành từng cụm, từng lĩnh vực,
từng chi tiết cụ thể để tìm ra những ý nghĩa của số liệu đó; sau đó lại tổng hợp lại,
đưa ra nhận định và những bình luận, làm sáng tỏ các quan điểm cần chứng minh.
- Phương pháp phỏng vấn sâu
Là phương pháp thu thập thông tin qua hỏi đáp. Phương pháp này được sử
dụng để tìm hiểu sâu sác về các phản ứng, suy nghĩ, thái độ tình cảm, động cơ, quan
điểm, chính kiến của các đối tượng được phỏng vấn đối với các vấn đề liên quan.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả phỏng vấn 70 người, bao gồm 50 thanh
niên thuộc hộ nghèo và 20 người khác là lãnh đạo cấp xã, cán bộ Lao động Thương binh và Xã hội, cán bộ Đoàn thanh niên, hội phụ nữ.
- Phương pháp quan sát
Là phương pháp thu thập thông tin từ thực tế xã hội thông qua các tri giác
như nghe, nhìn nhằm đáp ứng mục tiêu nghiên cứu của đề tài, phương pháp quan
sát nhằm thu thập, bổ sung thông tin còn thiếu và kiểm tra đối chiếu, so sánh các
thông tin từ việc quan sát để đánh giá độ tin cậy của các thông tin thông qua việc

quan sát hoàn cảnh sống, thái độ, biểu hiện thể chất và tâm thần của người được
điều tra.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi đối với các đối tượng
Là phương pháp dựa trên hình thức hỏi đáp gián tiếp dựa trên bảng các câu
hỏi được soạn thảo trước, điều tra viên tiến hành phát bảng hỏi, hướng dẫn thống
nhất cách trả lời các câu hỏi, người được hỏi tự đọc các câu hỏi trong bảng hỏi rồi
ghi cách trả lời của mình vào phiếu hỏi rồi gửi lại cho các điều tra viên.
Đề tài xây dựng bộ công cụ bảng hỏi dành cho khách thể nghiên cứu là thanh
niên thuộc hộ nghèo, với các câu hỏi nhằm khai thác thông tin phục vụ cho việc
tổng hợp số liệu nghiên cứu.
Nội dung bảng hỏi gồm các thông tin:
Đặc điểm nhân khẩu: Giới tính, trình độ học vấn, độ tuổi, tình trạng
hôn nhân, nghề nghiệp, thu nhập…

8


Đặc điểm trợ giúp xã hội: về chăm sóc sức khỏe, đời sống tinh thần, lao động
sản xuất, trợ giúp từ các cá nhân, tổ chức, chính quyền.
Các lợi ích, cơ hội tiếp cận các quyền và thông tin về chính sách, thời sự,
kiến thức chăm sóc sức khỏe.
Những mong muốn, nguyện vọng của thanh niên thuộc hộ nghèo tại địa bàn
nghiên cứu.
Cỡ mẫu: Đề tài chọn 50 mẫu phỏng vấn thanh niên thuộc hộ nghèo tại 6 xã,
phường, thị trấn địa bàn tỉnh Hà Nam để nghiên cứu.
6. Ý nghĩa của luận văn
6.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài này thuộc nhóm đề tài nghiên cứu ứng dụng lý thuyết, phương pháp
công tác xã hội vào việc giải quyết một vấn đề xã hội cụ thể. Cụ thể là việc sử dụng
hệ thống khái niệm, lý thuyết, phương pháp công tác xã hội vào việc đánh giá, phân

tích và đưa ra phương pháp hỗ trợ thích hợp. Những thông tin thu được từ thực tế sẽ
đóng góp thêm vào nguồn tham khảo cho việc phân tích và nghiên cứu lí luận của
công tác xã hội với người nghèo nói chung, thanh niên thuộc hộ nghèo nói riêng ở
khía cạnh trợ giúp xã hội. Kết quả nghiên cứu đề tài “Dịch vụ công tác xã hội đối
với thanh niên thuộc hộ nghèo từ thực tiễn tỉnh Hà Nam” làm phong phú thêm hệ
thống lý luận của CTXH đối với người nghèo, đặc biệt là thanh niên thuộc hộ
nghèo.
Kết quả nghiên cứu cũng sẽ là nguồn tư liệu tham khảo cho nghiên cứu sau
về lĩnh vực này.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu làm sáng tỏ những chủ trương, chính sách hỗ trợ của
Đảng và Nhà nước ta đối với người nghèo, thanh niên thuộc hộ nghèo.
Kết quả nghiên cứu cũng góp phần giúp những người quản lý, những nhà
lãnh đạo, có thêm cái nhìn toàn diện, sâu sắc tích cực trong công tác tuyên truyền,
phổ biến chính sách, Luật pháp của Đảng và Nhà nước đến với người nghèo, thanh
niên thuộc hộ nghèo cũng như cộng đồng.

9


Giúp cho thanh niên thuộc hộ nghèo nhận ra vấn đề và tiềm năng giải quyết
vấn đề của mình. Bên cạnh đó, hiểu rõ các chế độ trợ cấp đối với họ và các dịch vụ
trợ giúp của công tác xã hội trong lĩnh vực này.
Giúp cho nhân viên công tác xã hội nói riêng và các ngành có liên quan hiểu
biết thêm về các chế độ trợ cấp, các dịch vụ hỗ trợ của công tác xã hội đối thanh
niên thuộc hộ nghèo và những yêu cầu cần thiết để trở thành nhân viên xã hội
chuyên nghiệp trong lĩnh vực chăm sóc, trợ giúp người nghèo.
Bản thân sau khi nghiên cứu đề tài sẽ củng cố, mở rộng kiến thức về công tác
xã hội nói chung và dịch vụ công tác xã hội đối với thanh niên thuộc hộ nghèo nói
riêng, từ đó rút ngắn khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực này khi

thực hiện nhiệm vụ chuyên môn.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu, các phụ lục, luận văn có 3
chương sau đây:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với thanh
niên thuộc hộ nghèo.
Chương 2: Thực trạng dịch vụ công tác xã hội đối với thanh niên thuộc hộ
nghèo tại tỉnh Hà Nam.
Chương 3: Giải pháp bảo đảm thực hiện dịch vụ công tác xã hội đối với
thanh niên thuộc hộ nghèo từ thực tiễn tỉnh Hà Nam.

10


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI THANH NIÊN THUỘC HỘ NGHÈO
1.1. Khái niệm nghèo, hộ nghèo, thanh niên thuộc hộ nghèo
1.1.1. Khái niệm nghèo và hộ nghèo
Khái niệm nghèo
Đói nghèo là vấn đề xã hội mang tính toàn cầu. Nó tồn tại ở mọi quốc gia,
vùng lãnh thổ và nhất là với các nước đang phát triển. Trong đó nổi lên các vấn đề
phân hóa giàu nghèo, phân tầng theo thu nhập, phân tầng theo khu vực sống, theo
mức sống.
Tùy theo hướng tiếp cận cũng như quan điểm của mỗi tổ chức, cá nhân
nghiên cứu nghèo mà có các khái niệm khác nhau.
Theo Tuyên bố Liên Hợp Quốc tháng 6/2008: Nghèo có nghĩa là không đủ
ăn, đủ mặc, không được đi học, không được khám bệnh, không có đất đai để trồng
trọt hoặc không có nghề nghiệp để nuôi sống bản thân, không được tiếp cận tín
dụng. Nghèo cũng có nghĩa là không an toàn, dễ bị bạo hành, không có quyền, bị

loại trừ, phải sống ngoài lề xã hội hoặc dễ gặp rủi ro, không được tiếp cận nước
sạch và vệ sinh. Nghèo là sự phủ nhận quyền lựa chọn và cơ hội, là sự vi phạm nhân
phẩm con người. Nghèo là thiếu năng lực tối thiểu để tham gia hiệu quả vào các
hoạt động xã hội.
Tại Hội nghị về chống nghèo đói do Ủy ban kinh tế xã hội khu vực Châu Á Thái bình dương (ESCAP) năm 1993 xác định rằng: ‘Nghèo khổ là tình trạng một
bộ phận dân cư không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người
mà những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội, phong tục tập
quán của từng vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa nhận”.
Theo Ngân hàng thế giới: Nghèo là một khái niệm đa chiều vượt khỏi phạm
vi túng thiếu về vật chất. Nghèo không chỉ gồm các chỉ số dựa trên thu nhập, mà
còn bao gồm các vấn đề liên quan đến năng lực như: dinh dưỡng, sức khỏe, giáo
dục, khả năng dễ bị tổn thương, không có quyền phát ngôn và không có quyền lực.

11


Tổ chức Liên hợp quốc (UN) cho rằng: “Nghèo là thiếu năng lực tối thiểu để
tham gia hiệu quả vào các hoạt động xã hội. Nghèo có nghĩa là không có đủ ăn, đủ
mặc, không được đi học, không được khám chữa bệnh, không có đất đai để trồng
trọt hoặc không có nghề nghiệp để nuôi sống bản thân, không được tiếp cận tín
dụng. Nghèo cũng có nghĩa là không an toàn, không có quyền, và bị loại trừ, dễ bị
bạo hành, phải sống trong các điều kiện rủi ro, không tiếp cận được nước sạch và
công trình vệ sinh”.
Các khái niệm nghèo đều phản ánh ba khía cạnh chù yếu của người nghèo là:
Có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư, không được thụ
hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho con người và thiếu cơ hội
lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng.
Như vậy, nghèo là một hiện tượng đa chiều, tình trạng nghèo không chỉ dừng
lại ở việc thiếu hụt về thu nhập mà cần được nhìn nhận là sự thiếu hụt các nhu cầu
cơ bản của con người.

Khái niệm hộ nghèo
Hộ gia đình là tập hợp những người cùng chung sống với nhau thành một
đơn vị xã hội nhỏ nhất - tế bào xã hội, gắn bó với nhau bằng các quan hệ kinh tế,
hôn nhân, huyết thống và các quan hệ khác.
Hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới chuẩn nghèo.
Căn cứ vào mức sống thực tế của các địa phương, Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội công bố chuẩn nghèo tính theo thu nhập bình quân đầu người cho
từng giai đoạn cụ thể. Trên cơ sở chuẩn nghèo quốc gia, các địa phương xác định
chuẩn nghèo phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của địa phương.
Bảng 1. Chuẩn hộ nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011 - 2015 và giai đoạn
2016 - 2020 như sau: [28], [29]
STT

Hộ
nghèo

Chuẩn hộ nghèo áp
dụng cho giai đoạn
2011 - 2015

Chuẩn hộ nghèo áp dụng cho giai
đoạn 2016 - 2020

1

Hộ
nghèo

Mức thu nhập bình
quân đầu người từ


Là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí
sau:

12


khu vực
nông
thôn

400.000
đồng/người/tháng
4.800.000
đồng/người/năm)
xuống

(từ
trở

- Có thu nhập bình quân đầu
người/tháng từ đủ 700.000 đồng trở
xuống;
- Có thu nhập bình quân đầu
người/tháng trên 700.000 đồng đến
1.000.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ
số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận
các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.

Là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí

sau:

2

Hộ
nghèo
khu vực
thành thị

Mức thu nhập bình
quân đầu người từ
500.000
đồng/người/tháng (từ
6.000.000
đồng/người/năm)
trở
xuống.

- Có thu nhập bình quân đầu
người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở
xuống;
- Có thu nhập bình quân đầu
người/tháng trên 900.000 đồng đến
1.300.000 đồng và thiếu hụt từ 03
chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp
cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.

1.1.2. Các phương pháp đánh giá nghèo
Nghèo đơn chiều
Phương pháp đánh giá nghèo đơn chiều thường dựa vào thu nhập hay chi

tiêu. Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại Copenhagen,
Đan Mạch năm 1995 đã đưa ra con số thu nhập để đánh giá nghèo: “Người nghèo là
tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới 01 đôla (USD) mỗi ngày cho mỗi người,
số tiền được coi như đủ mua những sản phẩm thiết yếu để tồn tại”.
Tổ chức Y tế Thế giới định nghĩa nghèo theo thu nhập. Theo đó một người là
nghèo khi thu nhập hàng năm ít hơn một nửa mức thu nhập bình quân trên đầu
người hàng năm (Per Capita Incomme, PCI) của quốc gia.
Nhà kinh tế học người Mỹ Galbraith đưa ra quan điểm: “Con người bị coi là
nghèo khổ khi mà thu nhập của họ, ngay dù khi thích đáng để họ có thể tồn tại, rơi
xuống rõ rệt dưới mức thu nhập của cộng đồng. Khi đó họ không thể có những gì

13


ma đa số trong cộng đồng coi như cái cần thiết tối thiểu để sống một cách đúng
mức”.
Ở Việt Nam ta, thời gian qua, chuẩn nghèo, tỷ lệ nghèo và xác định đối
tượng nghèo hoàn toàn dựa vào các tiêu chí thu nhập, trong đó chuẩn nghèo được
xác định theo phương pháp “chi phí cho các nhu cầu cơ bản”. Nhu cầu cơ bản là chi
cho nhu cầu tối thiểu về lương thực và chi cho phi lương thực thiết yếu (giáo dục, y
tế, nhà ở…). Như vậy, mặc dù một số hộ nghèo không đứng trong danh sách hộ
nghèo nhưng nhiều gia đình ở vùng sâu, vùng xa lại đang thiếu thốn các dịch vụ y
tế, nước sạch, giáo dục, ….
Nghèo đa chiều
Cách xác định hộ nghèo theo phương pháp thu nhập được xem là chuẩn của
nhiều quốc gia trong nhiều năm trước. Tuy nhiên, hiện nay việc đo lường nghèo đó
không còn phù hợp với xu thế mới. Một là, một số nhu cầu cơ bản của con người
không thể quy ra tiền (như tham gia xã hội, an ninh, vị thế xã hội…) hoặc không thể
mua được bằng tiền (tiếp cận giao thông, thị trường, đường xá và các loại cơ sở hạ
tầng khác, an ninh, môi trường, một số dịch vụ y tế/ giáo dục công…); Hai là, có

một số hộ có thu nhập trên chuẩn nghèo thì trong một số trường hợp thu nhập đó sẽ
không chi tiêu cho những nhu cầu tối thiểu như thay vì chi tiêu cho y tế, giáo dục thì
lại chi cho thuốc lá, rượu bia và các mục đích khác. Đối với nước ta- một nước đã
trở thành nước có thu nhập trung bình thấp vào năm 2010 với tốc độ đô thị hóa,
công nghiệp hóa và di cư rất nhanh, phương pháp tiếp cận nghèo này càng bộc lộ
nhiều hạn chế.
Do đó, các chuyên gia đã nghiên cứu, xác định thêm cách tính mới đó là
nghèo đa chiều. Nghèo đa chiều có thể đo bằng tiêu chí thu nhập và các tiêu chí phi
thu nhập. Nó đo lường mức sống của người dân một cách đầy đủ hơn, toàn diện
hơn, cả về mặt kinh tế lẫn chất lượng cuộc sống theo các chiều khác nhau như: Giáo
dục, y tế, môi trường, thông tin, dịch vụ cơ bản, rủi ro,…
Hiện nay, có 32 quốc gia trên thế giới đã nghiên cứu chuyển đổi và áp dụng
phương pháp tiếp cận đo lường nghèo đơn chiều dựa vào thu nhập sang đo lường

14


nghèo đa chiều nhằm mục đích xác định đối tượng nghèo, đánh giá và xây dựng các
chính sách giảm nghèo và phát triển xã hội
Tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa 13 đã thông qua Nghị quyết số
76/2014/QH13 về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm
2020, trong đó nêu rõ: xây dựng chuẩn nghèo mới theo phương pháp tiếp cận đa
chiều nhằm đảm bảo mức sống tối thiểu (thu nhập bao gồm chuẩn mức sống tối
thiểu và nghèo cùng cực) và đảm bảo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
Ngày 15 tháng 9 năm 2015 Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số
1614/QĐ-TTg phê duyệt Đề án tổng thể “Chuyển đổi phương pháp tiếp cận đo
lường nghèo từ đơn chiều sang đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020.” Chuẩn
nghèo giai đoạn 2016 - 2020 của Việt Nam được xây dựng theo hướng: sử dụng kết
hợp cả chuẩn nghèo về thu nhập và mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ
bản. Theo đó, tiêu chí đo lường nghèo được xây dựng dựa trên cơ sở: (1) Các tiêu

chí về thu nhập, bao gồm: chuẩn mức sống tối thiểu về thu nhập, chuẩn nghèo về
thu nhập, chuẩn mức sống trung bình về thu nhập. (2) Mức độ thiếu hụt trong tiếp
cận các dịch vụ xã hội cơ bản, bao gồm: tiếp cận về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch
và vệ sinh, tiếp cận thông tin. [27]
1.1.3. Khái niệm thanh niên thuộc hộ nghèo
Thanh niên là một khái niệm có thể được hiểu và định nghĩa theo nhiều cách.
Tùy thuộc vào nội dung tiếp cận, góc độ nhìn nhận hoặc cấp độ đánh giá mà người
ta đưa ra các định nghĩa khác nhau về thanh niên.
Về mặt sinh học, thanh niên là một giai đoạn xác định trong quá trình tiến
hóa của cơ thể. Các nhà tâm lý học thường nhìn nhận thanh niên là một giai đoạn
chuyển tiếp từ tuổi thơ phụ thuộc sang hoạt động độc lập với tư cách là một công
dân có trách nhiệm. Dưới góc độ kinh tế học, thanh niên được xem là một lực lượng
lao động xã hội, nguồn bổ sung cho đội ngũ lao động trên tất cả các lĩnh vực. Dưới
góc độ văn học, thanh niên lại được định nghĩa bằng cách so sánh hình tượng:
“thanh niên là tình yêu và mùa xuân của cuộc sống” là “bình minh của cuộc đời”.
Tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, đặc điểm truyền

15


thống, tuổi thọ bình quân v.v.. mà mỗi quốc gia có quy định độ tuổi thanh niên khác
nhau. Nhưng hầu hết các nước trên thế giới đều thống nhất tuổi thanh niên bắt đầu
từ 15 hoặc 16. Còn thanh niên kết thúc ở tuổi nào thì có sự khác biệt. Có nước quy
định là 25 tuổi, có nước quy định là 30 tuổi và cũng có nước cho đó là tuổi 40.
Nhưng xu hướng chung là nâng dần giới hạn kết thúc của tuổi thanh niên.
Liên hợp quốc định nghĩa thanh niên là nhóm người từ 15 đến 24 tuổi chủ
yếu dựa trên cơ sở phân biệt các đặc điểm về tâm sinh lý và hoàn cảnh xã hội so với
các nhóm lứa tuổi khác. Nhưng cũng Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về quyền
trẻ em lại xác định trẻ em đến dưới 18 tuổi.
Theo Từ điển tiếng Việt: Thanh niên là người còn trẻ đang ở độ tuổi trưởng

thành.
Luật Thanh niên Việt Nam năm 2005 quy định: Thanh niên là công dân Việt
Nam từ đủ mười sáu tuổi đến ba mươi tuổi.
Để nhìn nhận đánh giá thanh niên một cách tương đối toàn diện, có thể bao
hàm được các nội dung, ý nghĩa nêu trên, phạm vi đề tài này thanh niên được hiểu
là một nhóm nhân khẩu xã hội đặc thù có độ tuổi từ 16 tuổi đến 30 tuổi, gắn với vấn
đề nghèo đói, việc làm và tại một địa phương nhất định.
Trong đề tài này, chúng tôi sử dụng khái niệm thanh niên là người từ đủ
mười sáu tuổi đến ba mươi tuổi.
Thanh niên thuộc hộ nghèo là những người từ đủ mười sáu tuổi đến ba mươi
tuổi sống trong các hộ nghèo theo chuẩn nghèo của địa phương, trong đó, thanh
niên có thể là chủ hộ hoặc không là chủ hộ.
1.2. Đặc điểm và nhu cầu của thanh niên thuộc hộ nghèo
1.2.1. Đặc điểm của thanh niên thuộc hộ nghèo
Đặc điểm về tâm sinh lý: Thanh niên là những người có thể chất tốt, sức
khỏe dồi dào, tinh thần vui vẻ, trẻ trung, yêu đời, thích giao lưu, dám nghĩ, dám làm
và chấp nhận mạo hiểm. Đối với thanh niên thuộc hộ nghèo thì họ có đặc điểm
riêng.

16


Khi rơi vào hoàn cảnh nghèo khổ do mắc bệnh hiểm nghèo, bị dị tật, do tai
nạn, sức khỏe yếu hoặc không có sức lao động, nhiều thanh niên có biểu hiện tâm lý
mặc cảm, tự ti với hoàn cảnh cuộc sống không được bằng mặt bằng chung của cộng
đồng. Từ đó dẫn đến việc một số người nghèo ngại giao tiếp và tham gia vào các
hoạt động tập thể.
Tuy nhiên, thanh niên là lứa tuổi luôn ẩn chứa ý chí và sức sống mạnh mẽ,
họ là lực lượng xã hội to lớn, là nguồn nhân lực quan trọng, vì vậy họ đóng vai trò
quan trọng trong việc phát triển kinh tế gia đình và xã hội. Đối với những thanh

niên là chủ hộ nghèo, họ thường có quyền trong việc ra các quyết định chính trong
gia đình và có tiếng nói quan trọng hơn trong phân phối thu nhập, chi tiêu trong gia
đình, do đó những người này có tâm lý mạnh mẽ, tích cực hơn. Đối với những
thanh niên nghèo do khuyết thiếu về phương tiện sản xuất, vốn sản xuất kinh doanh,
hoặc bị rủi ro trong cuộc sống mà không phải do bản thân mắc tệ nạn xã hội thì họ
có đặc điểm tâm lý tích cực, trong họ luôn có một khát khao vươn lên, thoát khỏi
hoàn cảnh khó khăn, thoát khỏi danh sách hộ nghèo, đảm bảo cho bản thân và gia
đình một cuộc sống no đủ, bền vững.
Tuy nhiên, nhiều người có tiềm năng thoát nghèo nhưng vì mặc cảm, tự ti về
hoàn cảnh nghèo khó nên bản thân họ không nhận ra hết những giá trị và tiềm năng
sẵn có của mình, hoặc chưa có ai giúp họ phát hiện ra tiềm năng, chưa có môi
trường thuận lợi để họ phát huy tiềm năng đó.
Bên cạnh đó có một số nhỏ vẫn còn tư tưởng buông xuôi, phó mặc và chưa
thực sự quyết tâm vươn lên, không dám đấu tranh, không dám bộc lộ bản thân, ngại
thay đổi. Không mạnh dạn tham gia đề xuất ý kiến, họ nghĩ rằng lời nói của mình
không có trọng lượng, không được chấp thuận.
Đặc điểm kinh tế - xã hội: thanh niên thuộc hộ nghèo là những người có thu
nhập bình quân thấp dưới chuẩn nghèo quốc gia, thiếu vốn sản xuất kinh doanh,
thiếu phương tiện sản xuất đặc biệt là đất đai. Không biết cách làm ăn hoặc không
có tay nghề, đông người ăn theo. Đại bộ phận sống tại nông thôn và chủ yếu tham
gia làm nông nghiệp. Họ ít tham gia các hoạt động cộng đồng, giao lưu, hội họp.

17


Người nghèo nói chung, thanh niên thuộc hộ nghèo nói riêng luôn được xã
hội quan tâm hỗ trợ khắc phục những khó khăn nội tại, vướn lên thoát nghèo.
1.2.2. Nhu cầu của thanh niên thuộc hộ nghèo
Vận dụng Thuyết nhu cầu của Maslow chúng ta thấy rằng, về căn bản, nhu
cầu của con người nói chung được chia thành hai nhóm chính là nhu cầu cơ bản

(basic needs) và nhu cầu bậc cao (meta needs) với 5 thang bậc xếp từ thấp đến cao.
Đối với thanh niên thuộc hộ nghèo thì nhu cầu chủ yếu là ở những thang bậc thấp
với những nguyện vọng, mong muốn đặc thù tùy từng trường hợp, từng hoàn cảnh
cụ thể. Những nguyện vọng, mong muốn đó nhằm bù đắp những thiếu hụt cơ bản
của họ.
Nhu cầu về thể chất/sinh lý: Nhu cầu này được gọi là nhu cầu của cơ thể
hoặc nhu cầu sinh lý, bao gồm các nhu cầu cơ bản của con người như ăn, uống, ngủ,
không khí, tình dục, các nhu cầu làm cho con người thoải mái,… đây là những nhu
cầu cơ bản nhất, mạnh nhất của người nghèo. Họ chưa thể nghĩ đến, chưa thể xác
định các nhu cầu cao hơn nếu họ chưa được thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của họ,
của gia đình họ. Khi thanh niên thuộc hộ nghèo và gia đình họ còn đang bị đói, bị
yếu thì khi đó các nhu cầu khác chỉ là thứ yếu, không thể mời họ tham gia sinh hoạt
Đoàn và các hoạt động xã hội khác.
Nhu cầu về an toàn: Khi người nghèo đã được đáp ứng các nhu cầu cơ bản,
thì khi đó, các nhu cầu về an toàn sẽ xuất hiện. Nhu cầu an toàn này được thể hiện
trong cả thể chất lẫn tinh thần. Người nghèo mong muốn về sự ổn định trong cuộc
sống, được sống trong các khu phố an ninh, sống trong xã hội có pháp luật, môi
trường sống trong sạch hợp vệ sinh, có nhà cửa để ở,… Các chế độ bảo hiểm xã hội,
chế độ khi nghỉ việc, các kế hoạch để dành tiết kiệm,… cũng chính là thể hiện sự
đáp ứng nhu cầu an toàn này.
Qua nghiên cứu hai cấp bậc nhu cầu trên, chúng tôi thấy, muốn thanh niên
thuộc hộ nghèo phát triển ở mức cao hơn thì phải đáp ứng các nhu cầu bậc thấp của
họ trước. Các dịch vụ CTXH nhằm bù đắp những thiếu hụt của hộ nghèo như dịch

18


vụ về chăm sóc y tế (được tiếp cận dịch vụ y tế; được cấp thẻ bảo hiểm y tế), chất
lượng nhà ở; nguồn nước sạch; nhà tiêu hợp vệ sinh.
Nhu cầu về xã hội: Đây là nhu cầu về mối quan hệ giữa người với người,

quan hệ giữa con người và tổ chức, quan hệ giữa con người với tự nhiên. Nhu cầu
này thể hiện qua quá trình giao tiếp như việc tìm kiếm, kết bạn, tìm người yêu, lập
gia đình, tham gia một cộng đồng nào đó, tham gia các câu lạc bộ, làm việc nhóm.
Maslow đã nhắn mạnh rằng: nếu nhu cầu về xã hội không được thỏa mãn, đáp ứng
nó có thể gây ra các bệnh trầm trọng về tinh thần, thần kinh. Ví dụ người sống độc
thân thường hay mắc bệnh về tiêu hóa, thần kinh, hô hấp hơn những người sống với
gia đình.
Con người nói chung, người nghèo nói riêng luôn có nhu cầu yêu thương gắn
bó, họ muốn được giao tiếp, được quan hệ xã giao để phát triển.
Nhu cầu được tôn trọng: Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu tự trọng.
Người nghèo, đặc biệt là thanh niên nghèo có nhu cầu được người khác quý mến, nể
trọng thông qua các thành quả của bản thân, đồng thời chính họ cũng có nhu cầu
cảm nhận, quý trọng chính bản thân, danh tiếng của mình, có lòng tự trọng, sự tự tin
vào khả năng của bản thân về khả năng thoát nghèo cho bản thân và gia đình, vươn
lên một sự phát triển cao hơn, được cộng đồng, xã hội ghi nhận và đánh giá cao.
Nhu cầu được thể hiện mình: Nhu cầu của thanh niên nghèo mong muốn được
là chính mình, được làm những cái mà mình cần làm, muốn làm. Đây chính là nhu
cầu được sử dụng hết khả năng, tiềm năng của mình để tự khẳng định mình, để làm
việc, đạt các thành quả trong xã hội, giúp được bản thân và gia đình thoát nghèo bền
vững.
Tóm lại, thanh niên thuộc hộ nghèo có những nhu cầu từ cơ bản, tối thiểu
đến mức cao, để thỏa mãn các nhu cầu đó, họ có những nguyện vọng và mong
muốn đặc thù như mong muốn được hỗ trợ vay vốn ưu đãi, hỗ trợ đất, phương tiện
sản xuất, mong muốn được tư vấn dạy nghề, giới thiệu việc làm, xuất khẩu lao
động, hướng dẫn cách làm ăn hoặc trợ cấp xã hội. Việc phân tích các nhu cầu,

19


nguyện vọng của thanh niên thuộc hộ nghèo giúp nhân viên CTXH cung cấp, điều

phối các dịch vụ CTXH cho họ một cách chính xác nhất, hiệu quả nhất.
1.2.3. Nguyên nhân nghèo của thanh niên
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hoàn cảnh nghèo của thanh niên. Ở phạm vi nghiên
cứu này, tác giả phân tích một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến nghèo đói như sau:
- Nguồn lực hạn chế và nghèo nàn
Thanh niên nghèo và gia đình họ thường thiếu nhiều nguồn lực như vốn sản
xuất, đất canh tác, phương tiện sản xuất. Họ bị rơi vào vòng luẩn quẩn của sự nghèo
đói và thiếu nguồn lực. Người nghèo có khả năng tiếp tục nghèo vì họ không thể
đầu tư vào nguồn nhân lực của họ, đồng thời nguồn vốn nhân lực thấp lại cản trở họ
thoát khỏi nghèo đói.
- Trình độ học vấn thấp, việc làm thiếu và không ổn định
Những thanh niên thuộc hộ nghèo là những người thường có trình độ học
vấn thấp, ít có cơ hội kiếm được việc làm tốt và ổn định. Mức thu nhập của họ hầu
như chỉ đủ để đảm bảo cho nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu và do vậy không có điều
kiện nâng cao trình độ của mình trong tương lai để thoát nghèo.
Học vấn thấp và đói nghèo vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của nhau,
thường là bạn đồng hành miễn cưỡng đáng buồn của nhau. Đa số người nghèo làm
các công việc trong nông nghiệp có mức thu nhập rất thấp. Trình độ học vấn thấp
dẫn đến không biết cách làm ăn, không có tay nghề, làm hạn chế khả năng kiếm
việc làm trong các khu vực khác, trong các ngành phi nông nghiệp, những công việc
mang lại thu nhập cao và ổn định. Các khu công nghiệp và khu đô thị mới ngày
càng phát triển là cơ hội cho thanh niên nhưng đồng thời đây cũng là thách thức lớn
đối với thanh niên nghèo, bởi lẽ do trình độ học vấn thấp họ khó có thể tìm được
việc làm tốt hơn trong các khu công nghiệp, nếu tìm được chỗ làm cũng chỉ là lao
động phổ thông. Đây là một thực trạng phổ biến trong cả nước.
- Nguyên nhân về nhân khẩu học
Quy mô, cơ cấu hộ gia đình có ảnh hưởng đến mức thu nhập bình quân của
các thành viên trong hộ và là một trong những nguyên nhân dẫn đến nghèo đói đối

20



×