Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ HUY ĐỘNG vốn CHO xây DỰNG NÔNG THÔN mới ở THÀNH PHỐ hải PHÒNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (528.67 KB, 102 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM VỀ HUY ĐỘNG
VỐN CHO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở THÀNH
PHỐ HẢI PHÒNG

1.1.
1.2.
1.3.

3

9

Quan niệm về vốn và huy động vốn cho xây dựng
nông thôn mới ở Hải Phòng
9
Các yếu tố ảnh hưởng đến huy động vốn cho xây dựng
nông thôn mới ở thành phố Hải Phòng
21
Kinh nghiệm huy động vốn cho xây dựng nông thôn mới ở một
số tỉnh, thành phố và bài học rút ra cho Thành phố Hải Phòng
24

Chương 2 THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CHO XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI Ở THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
33
THỜI GIAN QUA

2.1.



2.2.

Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội và tình hình
xây dựng nông thôn mới ở thành phố Hải Phòng hiện
nay
33
Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra
trong huy động vốn cho xây dựng nông thôn mới trên ở
thành phố Hải Phòng thời gian qua
40

Chương 3 QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU HUY
ĐỘNG VỐN CHO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở
65
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG TRONG THỜI GIAN TỚI

3.1.

Quan điểm cơ bản chỉ đạo huy động vốn cho xây dựng
nông thôn mới ở thành phố Hải Phòng thời gian tới
65
3.2
Giải pháp chủ yếu nhằm huy động vốn cho xây dựng
nông thôn mới ở thành phố Hải Phòng thời gian tới
75
KẾT LUẬN
91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
93

PHỤ LỤC
98


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Nông thôn Hải Phòng có vị trí, vai trò quan trọng trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa thành phố, là lực lượng to lớn góp phần phát triển
kinh tế- xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh quốc
phòng; giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa và bảo vệ môi trường sinh thái ở
nông thôn. Sau hơn 10 năm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn của Trung ương và Thành ủy, nhất là từ khi thực hiện
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 20102020, nông thôn Hải Phòng, đã có những bước chuyển mới, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ,
giảm tỷ trọng của nông nghiệp. Sản xuất nông, lâm, nghiệp, thủy sản phát
triển. Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền
vững với nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao; đảm bảo an ninh lương thực
trước mắt và lâu dài, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân thành phố; phục
vụ du lịch, xuất khẩu và đảm bảo yêu cầu cạnh tranh trong hội nhập quốc tế.
Đời sống vật chất, tinh thần của dân cư được nâng cao; xã hội nông thôn ổn
định, giàu bản sắc văn hóa; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được
bảo vệ. Hệ thống chính trị nông thôn được củng cố và tăng cường, an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững…
Tuy nhiên, kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và
yêu cầu đặt ra. Phát triển nông thôn còn thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội nhiều nơi trong thành phố còn chưa đồng bộ; quy mô sản xuất nông
nghiệp còn nhỏ, chưa hình thành khu vực chuyên môn hóa chế biến nông sản;
hạn chế trong việc áp dụng khoa học, kỹ thuật tiên tiến vào quá trình sản xuất;
môi trường khu vực nông thôn nhiều nơi rơi vào tình trạng ô nhiễm ở mức

báo động… Có nhiều nguyên nhân dẫn đế tình trạng trên, trong đó nguồn vốn
đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn còn ít, việc phân bổ nguồn vốn
3


còn chậm và chưa đồng đều; việc huy động các nguồn vốn từ cộng đồng cư
dân tại chỗ còn gặp nhiều khó khăn, việc quản lý và sử dụng các nguồn vốn
còn thiếu sự công khai, minh bạch… là một trong những nguyên nhân quan
trọng hàng đầu.
Để chương trình nông thôn mới của thành phố được hoàn thành, Hải
Phòng cần tập trung huy động mọi nguồn lực để tạo sức mạnh tổng hợp cho
thực hiện nhiệm vụ. Trong đó huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn
cho xây dựng nông thôn mới đóng vai trò vị trí đặc biệt quan trọng. Xác định
được tầm quan trọng và tính cấp thiết của vấn đề, tác giả chọn “Huy động vốn
cho xây dựng nông thôn mới ở thành phố Hải Phòng hiện nay” làm đề tài
luận văn tốt nghiệp thạc sỹ Kinh tế - chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Hiện nay đã có nhiều công trình khoa học được nghiên cứu có liên
quan đến đề tài dưới các góc độ khác nhau, trong số đó tiêu biểu là:
Cuốn sách “Huy động vốn trong nước phát triển nông nghiệp vùng
đồng bằng sông Hồng” của tác giả Phạm Thị Khanh, do Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia, Hà Nội, xuất bản năm 2004. Cuốn sách tập trung phân tích thực
trạng và đề ra các giải pháp huy động vốn từ ngân sách Nhà nước; vốn của
các doanh nghiệp nhà nước; vốn trong nhân dân trên địa bàn vùng đồng bằng
Sông Hồng nhằm phục vụ cho phát triển nông nghiệp giai đoạn 1991 - 2000
trên địa bàn sông Hồng.
Cuốn sách “Huy động và sử dụng các nguồn lực trong phát triển kinh
tế nông thôn, thực trạng và giải pháp” do Chu Tiến Quang (chủ biên), Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2005. Cuốn sách bàn về các nguồn lực cho
phát triển nông nghiệp như: Đất đai, lao động, vốn. Đồng thời, đưa ra nhóm

các giải pháp nhằm phân bổ và sử dụng các nguồn lực trên một cách có hiệu
quả cho sự phát triển nông nghiệp, nông thôn của nước ta.
4


Sách: “Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới” của PGS-TS
Nguyễn Sinh Cúc, Nxb Thống kê năm 2003. Công trình cung cấp hệ thống tư
liệu về nông nghiệp, nông thôn Việt Nam sau gần 20 năm đổi mới. Trên cơ sở
phân tích quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn thời kỳ đổi mới, tác giả
đưa ra những giải pháp có tính thuyết phục cao cho nông nghiệp, nông thôn
nước ta trong thời gian tới với một số vấn đề cụ thể như: Đầu tư, nâng cao khả
năng cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu nông sản, hạn chế phân hóa giàu nghèo.
Nguyễn Văn Lai, “Những giải pháp chủ yếu nhằm huy động vốn
trong nước phục vụ phát triển kinh tế Việt Nam” - Luận án tiến sĩ kinh tế,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 1996. Trên cơ sở
phân tích thực trạng huy động và sử dụng vốn, nhất là những yếu kém, bất
cập trong thời gian gần 10 năm đổi mới, tác giả luận án đã đề xuất các giải
pháp như: ổn định kinh tế vĩ mô; chú trọng phát triển kinh tế thị trường và
mở rộng thị trường vốn; hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế… cho phát
triển kinh tế - xã hội.
Đinh Văn Phượng, “Thu hút và sử dụng vốn đầu tư để phát triển kinh
tế miền núi phía Bắc nước ta hiện nay”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 2000. Từ phân tích đặc điểm
kinh tế – xã hội kém phát triển của miền núi phía Bắc, tác giả luận án khẳng
định vai trò quan trọng của vốn, đánh giá thực trạng thu hút và sử dụng vốn
đầu tư đối với phát triển kinh tế của vùng trong thời gian từ 1986 – 1998; đề
xuất phương hướng và giải pháp cơ bản huy động và sử dụng có hiệu quả vốn
đầu tư cho phát triển kinh tế ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Nguyễn Lương Thành, “Tăng cường huy động vốn đầu tư xây dựng
các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Ninh trong thời kỳ

đổi mới”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, năm
2006. Tác giả đã phân tích hiện trạng huy động vốn cho đầu tư cho phát triển
KCHT kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Ninh, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp đổi
5


mới chính sách kinh tế vĩ mô, cải thiện môi trường chính trị, pháp lý, đa dạng
hoá các hình thức huy động vốn.
Lưu Thị Hương, “Phương thức huy động vốn để phát triển vận tải
hành khách công cộng ở đô thị Việt Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế, đại học
Kinh tế quốc dân, Hà Nội, năm 1995. Trong đề tài, tác giả đã hệ thống hoá
các phương thức chủ yếu có thể sử dụng để huy động vốn nhằm phát triển vận
tải hành khách công cộng ở đô thị và kinh nghiệm một số nước trên thế giới
về huy động vốn cho lĩnh vực này như Singarpor, Nhật Bản… Trên cơ sở
đánh giá thực trạng hoạt động của vận tải hành khách công cộng ở đô thị nước
ta trong những năm qua, luận án khẳng định cần có một quan điểm huy động
vốn phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội đất nước và tiềm năng của các
thành phần kinh tế. Theo đó, luận án nhấn mạnh vai trò của phương thức
HĐV ngân sách nhà nước với mục tiêu điều chỉnh vĩ mô để định hướng các
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đầu tư vào xây dựng hệ thống vận tải
hành khách công cộng.
Nguyễn Đình Tài, "Sử dụng công cụ tài chính - tiền tệ để huy động vốn
cho đầu tư phát triển”, Nxb Tài Chính, Hà Nội, năm 1997. Trên cơ sở phân
tích công cụ tài chính - tiền tệ, sự cần thiết trong sử dụng công cụ tài chính
tiền tệ để huy động vốn. Tác giả đã khái quát kinh nghiệm huy động vốn của
Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan…; phân tích các công cụ huy động vốn ở
nước ta trong giai đoạn 1986 – 1991.
Nguyễn Văn Hiến, “Khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA
trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế ở nước ta”, Tạp chí
Ngân hàng, số 10/2003, tr.58-62.

Nguyễn Văn Sửu, “Đổi mới phương pháp huy động và sử dụng vốn
nhằm đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở thủ đô Hà Nội”, Luận án tiến sĩ kinh
tế Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, năm 1996. Trên cơ sở khẳng định vai
trò của vốn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn Hà Nội, tác giả
6


đi sâu phân tích các phương pháp huy động vốn tương thích với đặc điểm
kinh tế - xã hội riêng của Thủ đô và cơ chế thị trường. Trong đó tác giả đặc
biệt nhấn mạnh phương pháp đẩy mạnh tiết kiệm tiêu dùng trong dân chúng;
cải cách chính sách tài chính theo sự vận động của thị trường…
Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận
văn, song cho đến nay vấn đề huy động vốn cho cho xây dựng nông thôn mới
ở Hải Phòng chưa có công trình nào nghiên cứu được công bố. Vì vậy, đề tài
luận văn không trùng lặp với các công trình đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn, đề xuất quan điểm giải pháp huy
động vốn cho xây dựng nông thôn mới ở Hải Phòng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải cơ sở lý luận và kinh nghiệm huy động vốn cho xây
dựng nông thôn mới ở Hải Phòng.
- Đánh giá thực trạng huy động vốn cho xây dựng nông thôn mới ở Hải
Phòng, phân tích nguyên nhân và những vấn đề đặt ra cần giải quyết.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp huy động vốn cho xây dựng nông
thôn mới ở Hải Phòng trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Huy động vốn cho xây dựng nông thôn mới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu huy động, quản lý và sử dụng vốn

tài chính, gồm: Vốn ngân sách nhà nước; vốn tính dụng; vốn huy động từ sự
đóng góp của nhân dân và vốn tài trợ từ các tổ chức, các doanh nghiệp trong
và ngoài nước.
- Về không gian: Huy động vốn cho phát triển nông thôn mới trên địa
bàn thành phố ở Hải Phòng.
7


- Về thời gian: Các số liệu được khảo sát từ năm 2011 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Đề tài dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và các
Nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hải Phòng về vốn để xây
dựng nông thôn mới của thành phố, đồng thời tham khảo và kế thừa kết quả
nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đến đề tài đã công bố.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu đặc thù của
kinh tế chính trị Mác – Lênin là phương pháp trừu tượng hóa khoa học và các
phương pháp: kết hợp lôgíc và lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh
và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài góp phần cung cấp thêm cơ sở khoa học cho việc xác định chủ
trương, biện pháp huy động vốn cho xây dựng nông thôn mới ở Hải Phòng.
Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu khoa học
và giảng dạy kinh tế - chính trị Mác – Lênin ở các học viện, trường đại học
trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm phần mở đầu, 3 chương (7 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.


8


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM VỀ HUY ĐỘNG VỐN
CHO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

1.1. Quan niệm về vốn và huy động vốn cho xây dựng nông thôn
mới ở Hải Phòng
1.1.1. Vốn và vai trò của vốn
* Quan niệm về vốn:
Vốn là điều kiện giữ vai trò đặc biệt trong sự phát triển kinh tế- xã hội
của mỗi quốc gia. Đối với các Chương trình mục tiêu quốc gia, nhất là đối với
Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, vốn càng có tầm
quan trọng. Vì thế, nhận thức về huy động và sử dụng vốn có hiệu quả cho xây
dựng nông thôn mới ở thành phố Hải Phòng hiện nay là một trong những điều
kiện tiên quyết để thực hiện hoàn thành quá trình xây dựng nông thôn mới đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội trong tình hình mới. Khi bàn về
vốn, trong lịch sử có nhiều quan niệm khác nhau, định nghĩa khác nhau về vốn và
cho đến nay vẫn tiếp tục có sự tranh luận về định nghĩa này:
Trường phái trọng thương đề cao vai trò của Nhà nước cầm quyền
trong hoạt động kinh tế và quyền lợi của giới doanh thương. Trường phái này,
đã nhìn nhận được vai trò của vốn dưới dạng tích lũy tiền tệ của quốc gia, họ
rất coi trọng hoạt động của ngoại thương và cho rằng: “sự giàu có thịnh
vượng của một quốc gia dựa vào hoạt động thương mại, đặc biệt là hoạt động
ngoại thương”. Coi tiền là biểu hiện của giàu có và tiền là tư bản để sinh lời.
Tiền là của cải duy nhất nên phải tích trữ tiền. Đặc biệt coi trọng vai trò của
vàng bạc, cho rằng một quốc gia càng có nhiều vàng bạc thì càng giàu có. Đất
nước nào nếu có vàng thì khai thác, còn không thì cách duy nhất để tích lũy

vàng bạc là hoạt động ngoại thương.
Trường phái trọng nông tiếp cận tới khái niệm vốn dưới hình thức sản
xuất nông nghiệp. Coi trọng đất đai và cho rằng “Chính đất đai đẻ ra của cải,
9


là cha mẹ của của cải”. Nguồn gốc thuần túy của sự giàu có của mỗi quốc gia
là từ sản xuất nông nghiệp hay các dạng phát triển đất đai khác, đề cao vai trò
của sản xuất nông nghiệp và nông dân. Cho rằng tiền chỉ là vật trung gian,
làm phương tiện lưu thông, làm môi giới giữa người bán và người mua, chống
việc tích trữ tiền.
David Ricacdo (1772 - 1823) đã có quan niệm cụ thể, khoa học hơn về vốn:
“Tư bản là một bộ phận của cải trong nước, được dùng vào việc sản xuất bao gồm
thức ăn, đồ mặc, các công cụ, nguyên liệu, vật liệu, máy móc… để lao động”.
Theo P.Samuelson: “Vốn là các hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ
cho quá trình sản suất mới, là đầu vào của hoạt động sản xuất của một doanh
nghiệp (máy móc, trang thiết bị, vật tư, nguyên vật liệu…).
Dưới góc độ các yếu tố sản xuất, vốn được C.Mác khái quát hóa thành
phạm trù tư bản. C.Mác cho rằng: Vốn (tư bản) là giá trị đem lại giá trị thặng
dư, là đầu vào của quá trình sản xuất. Định nghĩa này có một tầm khái quát
lớn và bao hàm đầy đủ cả bản chất và vai trò của vốn. Bản chất của vốn là giá
trị được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: tài sản cố định, nhà
cửa, nguyên vật liệu, tiền công... Vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư và nó
tạo ra sự sinh sôi về giá trị thông qua các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tại Khoản 10 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2005 quy định: “Vốn nhà nước là
vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh,
vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn đầu tư khác của Nhà nước”.
Tại Luật Đấu thầu năm 2013 quy định: “Vốn nhà nước bao gồm vốn
ngân sách Nhà nước; công trái quốc gia, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu
chính quyền địa phương; vốn hỗ trợ phát triển chính thức, vốn vay ưu đãi của

các nhà tài trợ; vốn từ quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp; vốn tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước; vốn tín dụng do Chính phủ bảo lãnh; vốn vay được
bảo đảm bằng tài sản của Nhà nước; vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp
nhà nước; giá trị quyền sử dụng đất”.
10


Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí cũng có quy định: “Vốn nhà
nước bao gồm vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do Chính phủ bảo lãnh
và vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn đầu tư phát triển của
doanh nghiệp nhà nước và các vốn khác do Nhà nước quản lý”.
Tại Nghị quyết số 49/2010/QH12 của Quốc hội quy định: “Vốn nhà
nước bao gồm vốn ngân sách nhà nước; vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh,
vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước; vốn đầu tư phát triển của doanh
nghiệp nhà nước và vốn khác do Nhà nước quản lý”.
Trên cơ sở kề thừa từ những quan điểm của các nhà kinh tế học, tác
giả đưa ra khái niệm về vốn: Vốn là tổng giá trị bằng tiền phản ánh dưới
dạng tài sản (tài sản hữu hình, tài sản vô hình, tài sản tài chính) tham gia
vào tiến hành xây dựng phát triển sản xuất kinh doanh nhằm mục đích tối
đa hóa lợi nhuận.
Theo đó, vốn cho xây dựng nông thôn mới ở thành phố Hải Phòng là: Tông giá
trị bằng tiền của những tài sản (tài sản hữu hình, tài sản vô hình, tài sản tài chính) tham
vào quá trình xây dựng nông thôn mới ở thành phố Hải Phòng.
*Phân loại vốn:
Căn cứ vào những tiêu thức khác nhau, có thể phân vốn thành nhiều loại:
- Dựa vào phạm vi lãnh thổ: Vốn chia làm hai loại là vốn trong nước và
vốn ngoài nước. Trong đó vốn trong nước là chủ yếu, vốn huy động từ nước
ngoài là quan trọng.
- Dựa vào thời gian hoạt động, có vốn ngắn hạn (lượng tiền sử dụng
đầu tư trong khoảng thời hạn 1 năm); vốn trung hạn (từ 3 đến 5 năm) và vốn

dài hạn (từ 5 năm trở lên).
- Dựa vào quan hệ sở hữu: Vốn được phân làm hai loại là vốn chủ sở
hữu (vốn tự có của các doanh nghiệp) và vốn vay.
- Dựa vào giá trị của vốn đầu tư trong thực tế: Bao gồm vốn thực (tư
bản thật) và vốn ảo (tư bản giả như cổ phiếu, trái phiếu...)...
11


Mỗi loại vốn có một vai trò vị trí khác nhau trong hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp. Vì vậy, các chủ thể phải tuỳ thuộc vào thời điểm lịch sử và mục
đích huy động vốn mà xác định các hình thức huy động cho phù hợp; khắc phục
tình trạng hoặc quá đề cao hình thức này mà xem nhẹ các hình thức khác.
* Vai trò của vốn cho xây dựng nông thôn mới ở Hải Phòng
Trước hết, phải khẳng định rằng vốn là cơ sở tiền đề để lập kế hoạch, xây
dựng và thực hiện 19 tiêu chí nông thôn mới. Bởi vì, vốn không chỉ tồn tại dưới
dạng là tiền có giá trị mà vốn còn tồn tại dưới dạng đất đai, tài nguyên, nguyên
nhiên vật liệu mà những yếu tố này là cơ sở để xây dựng và thực hiện các tiêu
chí nông thôn mới. 19 tiêu chí xây dựng và thực hiện nông thôn mới như: giao
thông, thủy lợi, cơ sở vật chất văn hóa, nhà ở dân cư… có thực hiện được hay
không nhất thiết phải có vốn.
Vốn là điều kiện để áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến hiện đại vào quá
trình phát triển nông thôn mới. Muốn đầu tư xây dựng và phát triển 19 tiêu chí
về nông thôn mới, cần phải có quá trình nghiên cứu, khảo sát thực tế, xây dựng
kế hoạch, lập chiến lược phát triển, quy hoạch chi tiết cụ thể đối với từng địa
phương, đơn vị từ đó có thể lựa chọn áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại như: hệ
thống máy móc về xây dựng giao thông, thủy lợi; hệ thống sản xuất và bảo quản
nông sản; hệ thống xử lý rác thải đảm bảo an toàn môi trường… Việc nghiên
cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ là động lực, là khâu đột phá
quan trọng trong việc tạo ra nhiều giống cây trồng, vật nuôi và quy trình nuôi
trồng tạo ra những vùng sản xuất nông sản an toàn, công nghệ cao, năng suất,

chất lượng, hiệu quả.
Vốn quyết định về số lượng, quy mô các công trình của 19 tiêu chí xây dựng
nông thôn mới. Vốn lớn sẽ có điều kiện kiện để nhanh chóng hoàn thành các tiêu
chí đảm bảo tiến độ, chất lượng yêu cầu đề ra và có thể thực hiện với quy mô lớn
hơn. Qua khảo sát cho thấy, những địa phương nào huy động được nguồn vốn lớn
thì xây dựng nông thôn mới ở nơi đó về đích sớm, ngược lại địa phương nào còn
12


hạn chế trong quá trình huy động vốn, còn trông chờ ỷ lại từ nguồn đầu tư của Nhà
nước thì xây dựng nông thôn mới ở địa phương ấy sẽ chậm hoàn thành.
1.1.2. Quan niệm, nội dung, phương thức huy động vốn cho xây dựng
nông thôn mới ở Hải Phòng
* Quan niệm về xây dựng nông thôn mới ở Hải Phòng
Là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống
chính trị của thành phố cùng đồng lòng thực hiện hoàn thành 19 tiêu chí trong
Bộ Tiêu chí Quốc gia về xây dựng nông thôn mới để xây dựng thôn, xã, gia
đình của mình khang trang, sạch đẹp; phát triển sản xuất toàn diện (nông
nghiệp, công nghiệp, dịch vụ); có nếp sống văn hoá, môi trường và an ninh
nông thôn được đảm bảo; thu nhập, đời sống vật chất, tinh thần của người dân
được nâng cao.
Theo Quyết định số 491/QĐ-TTg, ngày 16/4/2009 và Quyết định số
800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 về phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia
về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010- 2020, nội dung của chương trình
xây dựng nông thôn bao gồm 5 nhóm và 19 tiêu chí.
+ Nhóm 1: Quy hoạch

- 1 tiêu chí

+ Nhóm 2: Hạ tầng kinh tế - xã hội


- 8 tiêu chí

+ Nhóm 3: Kinh tế và tổ chức sản xuất

- 4 tiêu chí

+ Nhóm 4: Văn hoá – Xã hội – Môi trường

- 4 tiêu chí

+ Nhóm 5: Hệ thống chính trị

- 2 tiêu chí

* Quan niệm về huy động vốn
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thì “huy động là điều động,
tập trung số đông các yếu tố vào để thực hiện một mục tiêu nào đó” .
Theo đó, huy động vốn cho xây dựng nông thôn mới ở Hải Phòng là hoạt
động tích cực, chủ động của chính quyền các cấp ở địa phương trong việc điều
động, tập trung, thu hút các nguồn vốn trong xã hội theo đúng quy định của
pháp luật, đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn của thành phố Hải Phòng.
13


Quan niệm này chỉ ra:
Mục đích huy động vốn: để xây dựng 19 tiêu chí của nông thôn mới, theo
Chương trình mục tiêu quốc về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn thành phố
Hải Phòng.
Chủ thể huy động vốn cho xây dựng nông thôn mới ở thành phố Hải

Phòng là các cấp ủy đảng, chính quyền của thành phố trên cơ sở rà soát, lập quy
hoạch, kế hoạch triển khai thực hiện huy động vốn cho xây dựng nông thôn mới
theo đúng mục tiêu chương trình quốc gia.
Vốn có thể huy động dưới các dạng:
Tài sản tài chính: ngân sách nhà nước, ngân sách địa phương; tiền từ ngân
hàng, các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước; tiền đóng góp từ cộng động dân cư.
Tài sản hữu hình: đất đai, nhân công, nguyên vật liệu…
Tài sản vô hình: sự gắn kết, đồng thuận của cộng đồng dân cư; các mô
hình hay, cách làm sáng tạo, các điển hình tiên tiến, bài học kinh nghiệm của
mỗi địa phương, tổ chức và cá nhân.
Các nguồn vốn có thể huy động cho phát triển nông thôn mới:
Theo Quyết định số 800/QĐ-TTg, và Nghị quyết số 10 đã cụ thể hóa vốn
cho xây dựng nông thôn mới trên địa bàn thành phố Hải Phòng bao gồm:
Thứ nhất là vốn ngân sách (Trung ương và địa phương)
Việc quy định tỷ lệ huy động từ nguồn vốn ngân sách nhà nước chiếm
đến 40% trong xây dựng nông thôn mới là rất quan trọng, thể hiện sự quan
tâm của Đảng và Nhà nước trong phát triển nông thôn, đặc biệt là trong bối
cảnh kinh tế - xã hội nông thôn hiện nay đang có nhiều thay đổi.
Vốn từ các chương trình mục tiêu quốc gia và chương trình dự án hỗ trợ
có mục tiêu trên địa bàn (bao gồm cả vốn trái phiếu Chính phủ): 23%
Vốn trực tiếp cho chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn
mới để thực hiện theo các nội dung quy định: 17%
Vốn từ ngân sách địa phương.
14


Thứ hai là vốn tín dụng (bao gồm tín dụng đầu tư phát triển và tín
dụng thương mại): 30%
Nguồn vốn này được hình thành từ các ngân hàng và được thực hiện theo quy
định, chương trình, kế hoạch của Nhà nước thông qua hệ thống các ngân hàng. Phần lớn

nguồn vốn này phụ nhiều vào cơ chế thu hút đầu tư, lãi suất, thu hồi, thời hạn cho vay…
Thứ ba là vốn từ các doanh nghiệp, hợp tác xã và các loại hình kinh tế
khác: 20%
Đây là nguồn vốn được hình thành từ quá trình đầu tư của các doanh
nghiệp, hợp tác xã và các loại hình kinh tế trên địa bàn. Nguồn vốn đầu tư này
phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Cơ chế chính sách thu hút đầu tư, khả năng của các
doanh nghiệp, mức thuế của nhà nước,
Thứ tư là vốn từ các khoản đóng góp của cộng đồng dân cư và các nguồn
hợp pháp khác: 10%
Các khoản đóng góp của cộng đồng dân cư là nguồn tự tích lũy và tự có
trong nhân dân (bằng tiền, hiện vật hoặc ngày công lao động). Nguồn vốn này
phần lớn phụ vào thu nhập của nhân dân, thực chất đó là khoản tiền dôi ra sau
khi đã trừ đi chi tiêu sinh hoạt tối thiểu của hộ gia đình. Để huy động được
nguồn vốn này, nhân dân phải được bàn bạc dân chủ, đảm bảo đúng Pháp lệnh
34 và Nghị định số 24/1999/NĐ-CP ngày 16/4/1999 của Chính phủ về quy chế
huy động vốn, quản lý sử dụng các khoản đóng góp tự nguyện của nhân dân.
Theo đó, thành phố quy định rõ các cơ chế, chính sách hỗ trợ đầu tư
xây dựng hạ tầng nông thôn mới trên địa bàn thành phố Hải Phòng giai đoạn
2013-2015, định hướng đến năm 2020; tỷ lệ đóng góp của ngân sách xã và
nhân dân vào các công trình, dự án cụ thể như sau:

15


Khu vực I
Các khoản đóng góp

Tổng Ngân
sách
mức

đầu tư thành

Ngân
sách
huyện

Ngân
sách
xã và
nhân
dân

Ngân
sách
thành
phố

Ngân
sách
huyện

Ngân
sách
xã và
nhân
dân

100%

70%


10%

20%

60%

10%

30%

100%

40%

10%

50%

30%

10%

60%

100%

42%

20%


38%

32%

20%

48%

100%
100%

70%
60%

10%
10%

20%
30%

60%
50%

10%
10%

30%
40%


100%
100%
Khả
năng
NS và
XHH
100%
Khả
năng
NS và
XHH

70%
70%
200
trđ/
thôn

10%
10%

20%
20%

10%
10%

30%
30%


-

Còn
lại

60%
60%
100
trđ/
Thôn

-

Còn
lại

70%
500
trđ/
thôn

10%

20%
Còn
lại

60%
300
trđ/

Thôn

10%

30%
Còn
lại

phố

Xây dựng đường giao thông đến
trung tâm xã
Xây dựng đường giao thông thôn,
xóm
Xây dựng đường giao thông nội
đồng
Xây dựng kênh mương nội đồng
Xây dựng công trình thoát nước
thải khu dân cư
Xây dựng trường học đạt chuẩn
Xây dựng trạm y tế xã
Xây dựng công trình thể thao
nông thôn
Xây dựng nhà văn hóa xã
Xây dựng Nhà văn hóa thôn

Khu vực II

-


-

( Khu vực I: các xã có tỷ lệ hộ nghèo tại thời điểm năm 2012 là trên 6%;
Khu vực II: gồm các xã còn lại)
* Nội dung, phương thức huy động vốn:
- Nội dung huy động vốn:
+ Xây dựng cơ chế chính sách tạo khuôn khổ pháp lý cho huy động vốn:
Để triển khai thực hiện Chương trình xây dựng và thực hiện nông thôn mới
phù hợp với các quy định, hướng dẫn của Trung ương và điều kiện thực tế của
các địa phương trên địa bàn thành phố Hải Phòng, Thành ủy và chính quyền
thành phố đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách thu hút và phân bổ vốn đầu tư
cho nông thôn để thực hiện hiệu quả Chương trình. Các chính sách chủ yếu
16


tập trung vào việc tạo sức hấp dẫn đầu tư, giảm bớt thủ tục hành chính, ưu
tiên các nguồn vốn ngân sách cho phát triển kinh tế- xã hội nông thôn như:
chính sách quy định tỷ lệ hỗ trợ của ngân sách theo các tiêu chí phân loại cụ
thể: hiệu quả, quản lý thuận lợi, huy động sức mạnh của cộng đồng dân cư;
đảm bảo có sự ưu tiên, hỗ trợ đối với các xã có tỷ lệ hộ nghèo cao, các xã
miền núi, hải đảo; các chính sách tăng cường, huy động vốn cho lĩnh vực y tế,
giáo dục, văn hóa, xã hội… Nhìn chung, các chính sách cơ bản phù hợp với
địa phương, đã phát huy vai trò đòn bẩy trong việc huy động các nguồn lực để
thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
+ Tổ chức bộ máy huy động, quản lý và sử dụng vốn: Ngay khi Chương
trình xây dựng nông thôn mới được đưa vào triển khai thực hiện, các cấp ủy đảng,
chính quyền thành phố quan tâm đến vấn đề thành lập bộ máy hoạt động điều
hành Chương trình, đặc biệt là bộ máy huy động, quản lý và sử dụng vốn công
khai, minh bạch, đúng quy định, tránh thất thoát, lãng phí. Thành phố thành lập
Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới và giao Văn phòng điều phối thực hiện

Chương trình là cơ quan thường trực giúp Ban Chỉ đạo tham mưu, đề xuất, đôn
đốc, hướng dẫn cơ sở triển khai thực hiện. Theo đó, cấp huyện cũng thành lập Ban
Chỉ đạo do đồng chí Bí thư huyện ủy hoặc Chủ tịch UBND huyện làm trưởng
ban, trưởng các phòng, ban, ngành, đoàn thể là thành viên; cấp xã thành lập Ban
Chỉ đạo và Ban Quản lý chương trình; cấp thôn thành lập Ban Phát triển thôn.
+ Thực hành huy động vốn qua các hình thức: Trên cơ sở pháp luật quy
định các nguồn vốn sử dụng cho xây dựng nông thôn mới, hiện nay thành phố
Hải Phòng thực hiện một số hình thức huy động cụ thể như sau:
Huy động vốn từ nguồn ngân sách nhà nước: Bao gồm vốn ngân sách
Trung ương hỗ trợ trực tiếp cho chương trình được Trung ương lập dự toán và
cân đối phân bổ theo từng năm hoặc từng tiêu chí cụ thể. Vốn ngân sách địa
phương bao gồm vốn hỗ trợ trực tiếp cho chương trình từ nguồn chi sự nghiệp
17


trong dự toán ngân sách hàng năm của thành phố, huyện, xã và vốn lồng ghép từ
các chương trình, dự án khác.
Huy động vốn theo hình thức tín dụng: bao gồm vốn tín dụng đầu tư và
vốn tín dụng thương mại, là hình thức vay vốn trên cơ sở các quy định hiện
hành về tín dụng. Vốn tín dụng đầu tư phát triển được sử dụng vào thực hiện
Chương trình kiên cố hóa kênh mương, phát triển đường giao thông nông
thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản và cơ sở hạ tầng làng nghề ở nông
thôn. Các DN đầu tư ở khu vực nông thôn có dự án thuộc danh mục các dự án
vay vốn tín dụng đầu tư hoặc có hợp đồng xuất, nhập khẩu các mặt hàng
thuộc danh mục mặt hàng vay vốn tín dụng xuất khẩu sẽ thuộc đối tượng
hưởng chính sách tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu theo Nghị định
75/2011/ NĐ-CP ngày 30/8/2011 sẽ được hỗ trợ lãi suất.
Vốn tín dụng thương mại được thực hiện thông qua chính sách tín dụng
phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn tại Nghị định 41/2010/NĐ-CP
ngày 12/4/2010. Theo đó nguồn vốn cho vay của các tổ chức tín dụng đối với

lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn gồm: (i) Nguồn vốn huy động của các tổ
chức tín dụng và các tổ chức cho vay khác; (ii) Vốn vay, vốn nhận tài trợ, ủy
thác của các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước; (iii) Nguồn vốn
ủy thác của Chính phủ cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; (iv) Vốn vay
Ngân hàng Nhà nước. Các ngân hàng, tổ chức tài chính thực hiện cho vay các
đối tượng chính sách, các chương trình kinh tế của Chính phủ ở nông thôn,
được Chính phủ bảo đảm nguồn vốn cho vay từ ngân sách chuyển sang hoặc
cấp bù chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay của tổ chức tín
dụng. Đặc biệt, phạm vi và đối tượng cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn được mở rộng, mức cho vay tối đa không phải đảm bảo bằng tài
sản được nâng lên so với quy định tại Quyết định 67/1999/QĐ-TTg ngày
30/3/1999 và Quyết định 148/1999/QĐ-TTg ngày 07/7/1999 sửa đổi bổ sung
Quyết định 67/1999/QĐ-TTg ngày 30/3/1999 về một số chính sách tín dụng
ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.
18


Nguồn vốn tín dụng được huy động chủ yếu thông qua hệ thống Ngân
hàng chính sách xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt
Nam; Ngân hàng phát triển Việt Nam. Để thực hiện được 19 tiêu chí ấy, đặc
biệt là các tiêu chí về xây dựng các công trình ở địa phương thì các tổ chức hoặc
cá nhân, hoặc chính quyền địa phương đứng ra vay vốn, từ đó chính quyền địa
phương và nhân dân có thể có được các khoản vay ngắn hạn, trung hạn và dài
hạn đáp ứng được yêu cầu thực hiện xây dựng nông thôn mới.
Huy động vốn theo hình thức từ các doanh nghiệp, hợp tác xã và các loại
hình kinh tế khác là hình thức huy động chủ yếu từ doanh nghiệp thực hiện chủ
yếu thông qua hình thức hỗ trợ tiền mặt hoặc sản phẩm của doanh nghiệp (như:
xi măng, sắt thép, gạch, ngói….), tham gia đầu tư trực tiếp. Chính phủ đã ban
hành Nghị định 210/2013/ NĐ-CP ngày 19/12/2013. Theo đó, DN đầu tư vào
nông nghiệp, nông thôn được hưởng các ưu đãi và hỗ trợ đầu tư bổ sung của

Nhà nước thông qua chính sách về đất đai như miễn, giảm tiền sử dụng đất,
miễn giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước của Nhà nước; được hỗ trợ thuê đất,
mặt nước của hộ gia đình, cá nhân; được miễn, giảm tiền sử dụng đất khi
chuyển mục đích chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Ngoài ra còn được hỗ
trợ đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ phát triển thị trường, trong đó hỗ trợ chi
phí quảng cáo đến 70%, được hỗ trợ dịch vụ tư vấn, hỗ trợ áp dụng khoa học
và công nghệ, hỗ trợ cước phí vận tải…
Huy động vốn từ cộng đồng cư dân là hình thức huy động đóng góp từ
cộng đồng dân cư, phụ thuộc nhiều vào điều kiện kinh tế của người dân khu
vực nông thôn. Theo đó, chính quyền địa phương không quy định bắt buộc
nhân dân đóng góp, chỉ vận động bàng các hình thực thích hợp để nhân dân tự
nguyện đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội của địa phương.
Người dân có sự chủ động trong việc huy động đóng góp nguồn lực và tham
gia vào quá trình xây dựng nông thôn mới thông qua việc bàn bạc mức tự
nguyện đóng góp cụ thể cho từng dự án. Có thể huy động từ cộng đồng bao
19


gồm tiền mặt, hiện vật như: đất đai, hoa màu và các tài sản gắn liền với đất…
ngày công lao động và các hình thức xã hội hóa khác.
Ngoài ra, nguồn vốn ODA và nguồn vốn vay ưu đãi cũng được ưu tiên
sử dụng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Điều này được khẳng định tại
điểm 4, điều 7, Nghị định 38/2013/NĐ-CP ngày 23/4/2013.
* Phương thức huy động vốn:
Có nhiều phương thức để thực hiện việc huy động vốn cho xây dựng
nông thôn mới, bởi mỗi nguồn vốn có vị trí, vai trò, đặc điểm riêng khác
nhau, tùy theo từng thời điểm, từng mục đích sử dụng có thể chọn phương
thức huy động cho phù hợp và hiệu quả nhất. Hiện nay, trên địa bàn thành
phố Hải Phòng thực hiện một số phương thức huy động vốn cơ bản như sau:
Phương thức huy động theo chỉ tiêu, kế hoạch phân bổ: Đây là phương

thức huy động các nguồn ngân sách của Nhà nước trong đó có ngân sách của
địa phương theo chỉ tiêu, kế hoạch cho xây dựng và thực hiện nông thôn mới,
việc phân bố và bảo đảm ngân sách cho thực hiện các tiêu chí được lập kế
hoạch chi tiết, cụ thể, rõ ràng.
Phương thức huy động vốn theo phương thức cơ chế thị trường: là
phương thức huy động mà nhà nước và chính quyền các cấp ở thành phố
thông qua cơ chế thị trường để huy động các nguồn vốn của các tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước thông qua hình thức tín dụng cho thực hiện nông
thôn mới.
Phương thức huy động vốn theo phương thức vận động sự đóng góp
của nhân dân: là phương thức thông qua các tổ chức chính quyền, đoàn thể,
các hội vận động nhân dân tham gia góp: đất, tiền, nhân công, nguyên nhiên
vật liệu…
Ngoài ra, huy động vốn cho xây dựng và thực hiện nông thôn mới ở
Hải Phòng được thực hiện theo phương thức hỗn hợp đó là việc kết hợp
phương thức kế hoạch hóa và phương thức cơ chế thị trường.
20


1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến huy động vốn cho xây dựng nông
thôn mới ở thành phố Hải Phòng
Các nguồn vốn ở trên là những nguồn vốn có khả năng huy động cho
xây dựng nông thôn mới ở Hải Phòng, tuy nhiên, đó mới là khả năng, để khả
năng trở thành hiện thực còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố tác động đến quá
trình huy động vốn trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực, như:
Một là, huy động vốn chịu ảnh hưởng của tình hình kinh tế đất nước,
kinh tế thành phố Hải Phòng.
Huy động vốn cho xây dựng và thực hiện Chương trình mục tiêu quốc
gia nông thôn mới diễn ra trong bối cảnh tình hình kinh tế đất nước nói chung
và kinh tế Hải Phòng nói riêng đang từng bước phục hồi, kinh tế Hải Phòng

có chuyển biến tích cực, tạo bước chuyển biến quan trọng và có đột phá, đặt
ra cho Hải Phòng nhiều cơ hội thu hút đầu tư từ nhiều nơi, đặc biệt là việc
triển khai thực hiện hai dự án lớn của thành phố là Cảng hàng không Cát Bi
và cầu Tân Vũ- Lạch Huyện hứa hẹn sẽ phát triển giao thương mạnh mẽ. Với
điều kiện cơ hội thuận thuận lợi như vậy song nguồn ngân sách của thành phố
phải phân bổ cho nhiều ngành nghề và lĩnh vực khác, do đó không thể hỗ trợ
100% để đầu tư thực hiện các tiêu chí xây dựng nông thôn mới, vì vậy cần có
sự kết hợp nguồn vốn dân góp (tiền, đất đai, ngày công...). Tuy nhiên, mức
đóng góp của người dân phụ thuộc nhiều vào thu nhập và trình độ nhận thức
của họ, nên mức đóng góp của nhân dân ở mỗi địa phương có sự khác nhau.
Qua khảo sát cho thấy, trình độ dân trí của người dân ảnh hưởng lớn đến nhận
thức của họ về Chương trình xây dựng nông thôn mới, ở những nơi trình độ
dân trí cao, sớm tiếp cận với các cơ chế, chính sách của Nhà nước thì huy
động nhân dân đóng góp được nhanh chóng và dễ dàng hơn, ngược lại với
những địa phương có trình độ dân trí còn hạn chế việc huy động sức dân gặp
rất nhiều khó khăn, thậm chí không huy động được.
21


Hai là, huy động vốn chịu ảnh hưởng của luật pháp, cơ chế chính sách huy
động vốn hiện nay.
Hiện nay, vốn đầu tư cho xây dựng nông thôn mới chủ yếu vẫn là từ vốn
ngân sách Nhà nước, việc huy động vốn ở các địa phương, vốn từ dân cư chịu
ảnh hưởng trực tiếp từ các chính sách, cơ chế pháp luật của Nhà nước. Các chính
sách về tín dụng, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào nông
nghiệp, nông thôn chính là hành lang pháp lý để doanh nghiệp và nhân dân lấy
đó làm căn cứ tiến hành tham gia xây dựng nông thôn mới. Song, các cơ chế
chính sách của Trung ương và của Thành phố ban hành còn bộc lộ một số hạn chế
nhất định như: còn phân tán với nhiều đối tượng được hỗ trợ, trong khi nguồn lực
hạn chế, đặc biệt là nguồn ngân sách thành phố chưa đảm bảo, làm giảm hiệu quả

của chính sách. Các chính sách đề xuất có tính chất hỗ trợ, đều sử dụng ngân
sách nhà nước, trong khi đó còn thiếu đề xuất chính sách phát triển nguồn thu
cho cấp tỉnh, việc huy động các nguồn lực đầu tư xã hội còn khó khăn. Việc
rà soát, đánh giá chính sách không được thực hiện thường xuyên nên chưa cập
nhật được một số nội dung theo các tiêu chí của nông thôn mới. Hiện vẫn còn
một số lĩnh vực quan trọng chưa có cơ chế, chính sách tác động, hoặc chính
sách đã hết hiệu lực chưa có bổ sung, như: chính sách về đầu tư trạm y tế đạt
chuẩn; cơ chế, chính sách đầu tư cơ sở vật chất trường học (mầm non, tiểu
học, trung học cơ sở) đạt chuẩn; cơ chế đầu tư xây dựng nhà văn hóa xã và
khu thể thao, nhà văn hóa thôn và khu thể thao đạt chuẩn.
Ba là, huy động vốn chịu ảnh hưởng của đặc điểm xây dựng nông thôn
mới ở thành phố Hải Phòng.
Xây dựng nông thôn mới là quá trình triển khai thực hiện lâu dài vì thế
cấp ủy, chính quyền thành phố xác định phải từng bước thực hiện và thực hiện
theo từng giai đoạn, không thể vội vàng đốt cháy giai đoạn để huy động một
lúc tối đa mọi nguồn lực. Xét thấy việc gì cần thiết, quan trọng hơn thì ưu tiên
làm trước, việc chưa cần thiết thì lui lại làm sau và cùng chung mục đích hướng
22


tới hoàn thành các chỉ tiêu về xây dựng nông thôn mới, tiến tới xây dựng nông
thôn khá, nông thôn tiên tiến. Chính quyền các cấp căn cứ vào tình hình cụ thể
của từng địa phương, cân đối nguồn thu chi để phân bổ nguồn vốn phù hợp, đạt
hiệu quả cao. Mức độ huy động đóng góp của nhân dân căn cứ vào thu nhập
thực tiễn của nhân dân, từng đối tượng đóng góp cụ thể để họ có thể tham gia
và không ảnh hưởng quá lớn đến cuộc sống hiện tại của người dân. Trong quá
trình tiến hành thực hiện nông thôn mới, việc huy động vốn không chỉ để tiến
hành xây dựng mà còn phải dành một khoản nhất định để bảo trì, duy tu, bảo
dưỡng, sửa chữa để đảm bảo tính ổn định và phát triển bền vững.
Bốn là, huy động vốn còn phụ thuộc lớn vào uy tín của tổ chức chính quyền

đoàn thể, sự đồng thuận, phong tục tập quán của nhân dân địa phương
Huy động vốn cho xây dựng và thực hiện nông thôn mới không chỉ từ
nguồn vốn của ngân sách Nhà nước mà còn bằng nhiều hình thức huy động
khác, trong đó có nguồn vốn dân đóng góp (hiến đất, giải phóng mặt bằng,
ngày công lao động…). Việc huy động vốn phụ thuộc rất lớn vào uy tín của
tổ chức chính quyền, đoàn thể chính trị- xã hội, sự đồng thuận của cộng
đồng dân cư và phong tục tập quán ở mỗi địa phương. Thực tiễn cho thấy, ở
địa phương nào coi trọng công tác dân vận của chính quyền, thực hiện tốt
dân chủ ở cơ sở, tích cực tuyên truyền, phổ biến cho nhân dân thấy được lợi
ích thiết thực từ việc thực hiện nông thôn mới, thì nơi đó nhân dân nhiệt tình
hưởng ứng tham gia tích cực vào quá trình huy động, quản lý và sử dụng
vốn. Mặt khác, địa phương nào không tạo được sự đồng thuận của dân cư,
chính quyền mất uy tín, thì việc huy động vốn cho xây dựng nông thôn mới
là rất khó khăn. Điểm đáng chú ý là phong tục tập quán của mỗi địa phương
luôn có những nét riêng khác nhau, nên các hình thức tham gia vào huy động
vốn cho xây dựng nông thôn mới cũng khác nhau, chính quyền cơ sở cần
phải linh động áp dụng để không trái quy định pháp luật và đạt được mục
tiêu đặt ra.
23


Tuy nhiên, trên địa bàn thành phố hiện nay, chính quyền ở một số địa
phương chưa thực sự chủ động ưu tiên nguồn lực từ địa phương cho Chương
trình, việc đầu tư chủ yếu trông chờ từ hỗ trợ ngân sách cấp trên, việc huy động
nguồn lực chưa bám sát phương châm “Huy động nguồn lực từ cộng đồng là
quyết định, sự tham gia của doanh nghiệp và xã hội là quan trọng, sự hỗ trợ từ
ngân sách nhà nước là cần thiết”. Thu nhập của người dân nông thôn còn thấp
nên huy động nguồn lực trong dân còn khó khăn dẫn đến tiến độ triển khai
chương trình, xây dựng công trình kéo dài ảnh hưởng đến hiệu quả chung của
chương trình.

1.3 Kinh nghiệm huy động vốn cho xây dựng nông thôn mới ở một số
tỉnh, thành phố và bài học rút ra cho Thành phố Hải Phòng
1.3.1. Kinh nghiệm huy động vốn cho xây dựng nông thôn mới của một
số tỉnh, thành phố
Kinh nghiệm của thành phố Hà Nội: Thành phố Hà Nội với diện tích
khoảng 3.500 km2 chủ yếu là diện tích đồng bằng phù sa màu mỡ với 30 đơn
vị hành chính cấp huyện gồm 12 quận, 17 huyện và 1 thị xã. Ngay khi
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới được triển khai thực
hiện, thành phố Hà Nội chỉ đạo thực hiện thí điểm tại 19 xã, số xã còn lại tiếp
tục từng bước thực hiện theo kế hoạch cụ thể, qua việc thực hiện thí điểm đúc
rút nhiều bài học kinh nghiệm, cách làm hay, sáng tạo để áp dụng cho những
xã làm sau. Thành ủy Hà Nội cụ thể hóa mục tiêu quốc gia xây dựng nông
thôn mới bằng việc ban hành Chương trình số 02-CTr/TU, ngày 29/8/2011 về
"Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, từng bước nâng cao đời
sống nông dân giai đoạn 2011-2015”, đến nay đã đạt được nhiều kết quả
quan trọng làm thay đổi rõ nét bộ mặt nông thôn thủ đô.
Theo đề án xây dựng nông thôn mới khi phê duyệt, bình quân mỗi xã
cần khoảng 200-250 tỷ đồng để hoàn thành các tiêu chí hạ tầng, sau 4 năm
triển khai Chương trình 02, tổng kinh phí đầu tư cho nông thôn mới toàn
24


thành phố đã đạt trên 21,1 nghìn tỷ đồng, trong đó ngân sách thành phố hỗ trợ
chương trình chỉ gần 6.200 tỷ đồng, chiếm chưa đầy 1/3 tổng nguồn vốn. Số
vốn còn lại được huy động thông qua các nguồn vốn lồng ghép của chương
trình mục tiêu quốc gia khác, vốn doanh nghiệp, vốn xã hội hóa, đặc biệt là
nguồn vốn do nhân dân đóng góp. Toàn thành phố đã có hàng chục nghìn hộ
gia đình tham gia hiến đất, góp ngày công, góp hiện vật và kinh phí cho
phong trào xây dựng nông thôn mới.
Công tác dồn điền đổi thửa được xác định là khâu đột phá trong việc

huy động tối đa nguồn lực từ các doanh nghiệp và cộng đồng cư dân để xây
dựng nông thôn mới. Để công tác này nhanh chóng hoàn thành, thành phố hỗ
trợ toàn bộ kinh phí đo đạc, cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xây
dựng bản đồ, quy hoạch đồng ruộng, quy hoạch hệ thống giao thông, thủy lợi
nội đồng theo quy định của Nhà nước...Từ chỗ sản xuất nông nghiệp còn
manh mún, nhỏ lẻ, giá trị sản xuất nông nghiệp không cao, nhiều hộ dân có
tâm lý chán ruộng, bỏ ruộng bỏ sản xuất, doanh nghiệp không giám đầu tư
nhiều vào sản xuất nông nghiệp vì sợ không thu hồi được vốn đến nay sản
xuất nông nghiệp đã được quy hoạch thành từng vùng, từng khu vực, các
doanh nghiệp chủ động đầu tư mạnh vào lĩnh vực này và xây dựng được
nhiều sản phẩm mang thương hiệu nổi tiếng với cả nước và thế giới như Bưởi
Diễn, Sữa Ba Vì…Hình thành nhiều vùng sản xuất chuyên canh như: vùng
sản xuất lúa; 31 vùng rau an toàn với tổng diện khoảng 2.100 ha; vùng sản
xuất hoa tập trung với quy mô từ 20ha/vùng trở lên tại các huyện Từ Liêm,
Mê Linh, Tây Hồ và Đan Phượng; vùng trồng cây cảnh, cây ăn quả; vùng
chăn nuôi xa khu dân cư, nuôi trồng thủy sản. Trong những năm qua, toàn
thành phố đã dồn được 75.965/76.365 ha, bằng 99,48% kế hoạch, tạo điều
kiện cho công tác quy hoạch và đào đắp giao thông, thuỷ lợi nội đồng theo
tiêu chuẩn, tiêu chí nông thôn mới; giá trị sản xuất nông nghiệp trung bình
của Hà Nội đã đạt 231 triệu đồng/ha/năm, hoàn thành chỉ tiêu phấn đấu của
25


năm 2015, là tiền đề, nền tảng vững chắc để Hà Nội phát triển bền vững, bứt
phá trong thời gian tới.
Đồng hành với dồn điền đổi thửa, là việc sắp xếp đầu tư theo thứ tự ưu
tiên để phân bổ nguồn vốn cho hợp lý. Những công trình thiết yếu phục vụ
đời sống dân sinh; công trình phục vụ sản xuất, hệ thống kênh mương thủy lợi
nội đồng được ưu tiên đầu tư trước để thúc đẩy sản xuất phát triển. Những
công trình xây dựng cơ bản như trường học, trụ sở nhà văn hóa, trụ sở làm

việc của các xã... tuy xuống cấp nhưng nếu còn bảo đảm điều kiện tối thiểu
thì sửa chữa, nâng cấp để đạt chuẩn, tiết kiệm tối đa kinh phí. Trong khi
nguồn vốn đầu tư của thành phố có những thời điểm bị chậm, hầu hết các
huyện, thị xã và các xã đã chủ động bố trí nguồn vốn và huy động các nguồn
vốn xã hội hóa khác của doanh nghiệp, hộ gia đình tập trung chỉ đạo và tổ
chức thực hiện. Các huyện Đông Anh, Thanh Trì, Đan Phượng, Hoài Đức,
Phúc Thọ, Thường Tín, Sóc Sơn... là những ví dụ điển hình trong việc linh
động, tạo nguồn thu từ đấu giá quyền sử dụng đất để có vốn xây dựng nông
thôn mới.
Kinh nghiệm của tỉnh Thái Bình: Thực hiện Chương trình mục tiêu
quốc gia về xây dựng nông thôn mới, tỉnh Thái Bình có 267 xã thuộc 7 huyện
nằm trong danh sách triển khai Chương trình giai đoạn 2011-2020. Đây là chủ
trương lớn và khó, lộ trình thực hiện lâu dài, phạm vi rộng, liên quan trực tiếp
đến đời sống của nhân dân khu vực nông thôn của thành phố, đòi hỏi vừa làm
vừa phải điều chỉnh, rút kinh nghiệm. Thái Bình đã ban hành Nghị quyết số 02
của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh và Đề án xây dựng nông thôn mới tỉnh Thái
Bình giai đoạn 2011- 2015, định hướng đến năm 2020 và xác định một trong

những yếu tố quan trọng, góp phần đẩy nhanh tiến độ, sớm hoàn thành các
tiêu chí xây dựng nông thôn mới đó là việc mở rộng và phát huy đầy đủ, triệt
để quyền làm chủ của nhân dân. Thực hiện xây dựng nông thôn mới với
phương châm “nhân dân là chủ thể, là người trực tiếp thực hiện, trực tiếp
26


×