MỤC LỤC
Tran
g
3
MỞ ĐẦU
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA QUÁ TRÌNH ĐÔ
THỊ HÓA ĐẾN LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1
1.2
Những vấn đề chung về đô thị hóa, lao động và việc làm.
Tác động của quá trình đô thị hóa đến lao động và việc làm
trên địa bàn Quận Hà Đông
11
11
22
Chương 2 THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN LAO
ĐỘNG, VIỆC LÀM TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HÀ ĐÔNG,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1
2.2
Quận Hà Đông và lao động việc làm trên địa bàn Quận hiện nay
Thực trạng tác động của quá trình đô thị hóa đến lao động và
35
35
việc làm trên địa bàn Quận Hà Đông thời gian qua, nguyên
nhân và những vấn đề đặt ra cần giải quyết
43
Chương 3 QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP PHÁT HUY TÁC ĐỘNG TÍCH
CỰC, HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA ĐÔ THỊ HÓA
ĐẾN LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HÀ
ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN TỚI
3.1
62
Những quan điểm cơ bản phát huy tác động tích cực, hạn chế
tác động tiêu cực từ quá trình đô thị hóa đến lao động và việc
3.2
làm trên địa bàn quận Hà Đông thời gian tới
Những giải pháp chủ yếu phát huy tác động tích cực, hạn chế
63
tác động tiêu cực từ quá trình đô thị hóa đến lao động và việc
làm trên địa bàn quận Hà Đông thời gian tới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
71
86
88
93
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đô thị hóa là quá trình tất yếu đối với các quốc gia chậm phát triển khi
bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường
và hội nhập. Đô thị hóa có tác động tích cực, sâu sắc tới mọi mặt đời sống
kinh tế - xã hội nói chung, tới khu vực nông thôn nói riêng. Bên cạnh những
tác động tích cực, quá trình đô thị hóa cũng phát sinh những vấn đề mới liên
quan chặt chẽ với khu vực nông nghiệp, nông thôn, trực tiếp là vấn đề lao
động, việc làm và an ninh xã hội cần được nhận thức và giải quyết do quy mô
của sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp, lao động nông nghiệp và nông thôn vốn
đã luôn thiếu việc làm, nay càng khó khăn hơn về việc làm trong tiến trình
CNH, HĐH đất nước. Nếu không có một chiến lược giải pháp cụ thể, sẽ nảy
sinh tiếp những vấn đề xã hội phức tạp.
Hà Đông là một quận của thành phố Hà Nội từ tỉnh Hà Tây được sáp
nhập vào Thủ đô. Là một quận lớn, với diện tích gần 5.000 ha, Hà Đông là địa
bàn có tốc độ đô thị hóa nhanh. Về hình thức, cấp quận đơn vị hành chính nội
thành, nhưng Hà Đông vẫn chưa thoát khỏi những dấu ấn của kinh tế ngoại
thành Hà Nội.
Trong khoảng năm năm gần đây, trên địa bàn Quận Hà Đông đã có
nhiều khu đô thị mới, các chung cư và khu nhà ở mới được triển khai xây
dựng. Tuy nhiên, do tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh, đã phát sinh một số vấn
đề “nóng”. Việc thu hẹp qũy đất nông nghiệp vừa làm gia tăng áp lực về lao
động, việc làm cho số lao động đôi dư và lao động gia tăng hàng năm, đồng
thời cũng đặt các ngành công nghiệp, tiểu công nghiệp và các ngành dịch vụ
trước cả cơ hội phát triển và áp lực mới. Thời gian qua, Quận Hà Đông đã
tích cực chủ động giải quyết các vấn đề trên và đạt được những kết quả quan
trọng. Tuy nhiên, do chính sách giải quyết việc làm và bảo đảm đời sống cho
người dân có đất bị Nhà nước thu hồi còn những bất cập; công tác quy hoạch
3
khu đô thị thiếu đồng bộ; còn tồn tại những yếu kém trong quy hoạch tổng
thể, chưa có cơ cấu đào tạo nghề phù hợp để đáp ứng nhu cầu bức thiết của xã
hội...dẫn đến những tồn tại trong giải quyết thấu tình, đạt lý vấn đề việc làm và
bảo đảm đời sống cho người lao động khi thu hồi đất, làm nảy sinh những vấn đề
xã hội phức tạp.
Như vậy, vấn đề đô thị hóa trên địa bàn Quận Hà Đông, Hà Nội thực sự
đã có những tác động tới lao động và việc làm và các vấn đề xã hội trên địa
bàn Quận, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, giải đáp thấu đáo, cung cấp cơ sở
khoa học cho lãnh đạo và chính quyền và các cơ quan chức năng của Quận có
những động thái tích cực để giải quyết nhằm phát huy mặt tác động tích cực,
hạn chế tác động tiêu cực từ quá trình đô thị hóa đến lao động và việc làm
trên địa bàn Quận Hà Đông. Với lý do đó, đề tài nghiên cứu: “Tác động của
đô thị hóa đến lao động, việc làm trên địa bàn Quận Hà Đông, thành phố Hà
Nội” được học viên lựa chọn làm đề tài Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về tác động của quá trình đô thị hóa đến lao động và việc
làm cho đến nay đã có nhiều nhà khoa học, các bài viết và các tác giả quan
tâm, cụ thể:
- “Bàn về công nghiệp hóa, đô thị hóa nông thôn”, Đào Thế Tuấn, Kỷ
yếu hội thảo Hậu GPMB, Hà Nội, 2009.
Tác giả nghiên cứu một số mô hình CNH- HĐH nông nghiệp trên thế
giới và Trung Quốc tại khu vực sông Châu Giang. Chỉ ra rằng thế giới đi theo
con đường hình thành các siêu thị đô thị và tạo nên sự đối lập nông thôn thành thị. Còn Trung Quốc thì theo con đường khác, đó là phi tập trung hóa
và phát triển các khu cụm công nghiệp vừa và nhỏ xen lẫn trong nông thôn,
tạo nên sự hài hoà giữa hai khu vực nông thôn và thành thị. Từ đây, đề xuất
mô hình CNH- HĐH nông thôn Hà Nội nên đi theo hướng phi tập trung để
hạn chế lấy đất nông nghiệp và giảm thiểu mâu thuẫn giữa hai khu vực, gắn
4
kết giữa hai quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa với phát triển bền vững
nông nghiệp, nông thôn. Theo tác giả, Hà Nội dựa vào thế mạnh các làng
nghề và truyền thống thâm canh lâu đời, với các sản phẩm và ngành nghề
độc đáo, có thể đi theo hướng phát triển các khu cụm hay vành đai làng nghề
- du lịch sinh thái gắn với thâm canh nông nghiệp công nghệ cao.
- “Việc làm của nông dân sau khi thu hồi đất”, Nguyễn Văn Nam, Kỷ
yếu Hội thảo đề tài Hậu GPMB, Hà Nội, 2009.
Tác giả phân tích các bức xúc về giải quyết lao động việc làm cho
người nông dân ven đô bị mất nông nghiệp. Chỉ ra rằng, công nghiệp hóa và
đô thị hóa chỉ thành công khi chuyển đổi được người nông dân thành một
công dân đô thị, giúp cho họ tránh được các “cú sốc” để hội nhập vào đời
sống đô thị và văn minh thị trường - công nghiệp. Một trong những khả năng
này là tạo cho họ quỹ đất dịch vụ và giúp cho người dân có tổ chức kinh tế
độc lập của mình. Ví dụ, như các hợp tác xã mua bán hay kinh doanh ngành
nghề dịch vụ nhằm đáp ứng cho chính ngay các nhu cầu dân sinh thiết yếu
vùng đô thị hóa. Đây cũng chính là giải pháp cải thiện chất lượng sống và
chất lượng đô thị hóa.
- “Mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng lao động với giải quyết việc
làm trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, do PGS.TS
Trần Văn Chử làm chủ nhiệm đề tài, 2001.
Các tác giả của đề tài đã phân tích làm rõ mối quan hệ giữa nâng cao
chất lượng lao động với giải quyết việc làm trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước và cho rằng: Việc nâng cao chất lượng nguồn lao động
không chỉ nhằm đáp ứng yêu cầu của phát triển, mà còn góp phần giải quyết
việc làm, giảm thất nghiệp. Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng đội ngũ lao động và giải quyết việc làm ở nước ta trong thời gian tới.
- “Việc làm ở nông thôn, thực trạng và giải pháp”, Chu Tiến Quang,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội (2001)
5
Tác giả đã phân tích làm rõ vấn đề việc làm ở nông thôn Việt Nam và
cho rằng, việc làm cho người lao động và thất nghiệp là một trong những vấn đề
toàn cầu. Từ đó đưa ra phương pháp tiếp cận tổng quát về chính sách việc làm,
hệ thống khái niệm về lao động, việc làm, đánh giá thực trạng vấn đề việc làm ở
Việt Nam. Nội dung của công trình đã đề xuất hệ thống các quan điểm, giải pháp
giải quyết việc làm và khuyến nghị một số chính sách cụ thể về việc làm, chống
thất nghiệp trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay.
- “Những vấn đề KT - XH ở nông thôn trong quá trình CNH-HĐH”,
Kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, (2010)
Nội dung đề cập toàn diện các vấn đề “tam nông” trong giai đoạn đẩy
mạnh CNH - HĐH hiện nay ở nước ta. Đó là các vấn đề xã hội nảy sinh từ
chính sách thu hồi đất đai nông nghiệp, sự phân hóa giàu nghèo trong nông
thôn, các thách thức xóa đói giảm nghèo ở nông thôn; sự biến đổi lợi ích kinh
tế của nông dân do tác động của CNH - HĐH, vấn đề đào tạo nghề, đảm bảo
việc làm và thu nhập cho nông dân; vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn, ảnh hưởng của di chuyển lao động tới cơ cấu kinh tế hộ gia đình nông
dân; vấn đề thu hẹp đất canh tác và đảm bảo an ninh lương thực, vấn đề phát
triển thị trường đất đai và chuyển đổi mục đích sử dụng đất hiện nay; các vấn
đề bức xúc về ô nhiễm môi trường, xuống cấp về văn hóa, lối sống và phát
triển bền vững nông thôn nước ta; vấn đề phát triển các KCN - KCX, phát
triển làng nghề, CNH - HĐH nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; một số
nghiên cứu các thay đổi trong nông thôn tại một số địa phương điển hình như
Hà Nội, Thanh Hóa, Thái Bình...., các kinh nghiệm và bài học của quốc tế, có
Trung Quốc và phát triển nông nghiệp, nông thôn...
- “Đô thị hóa và lao động việc làm ở Hà Nội”, Hoàng Văn Hoa, Nxb
Lao động Xã hội, Hà Nội, (2007)
Tác giả nêu lên các khái niệm và lý thuyết về ĐTH, lao động việc làm.
Đánh giá tình hình đô thị hóa nhanh ở Hà Nội thời gian qua, cho thấy bức tranh
6
có cả mặt tích cực và tiêu cực. Theo kết quả điều tra, chiếm tỷ lệ lớn người dân
bị thu hồi đất không được học nghề và chuyển đổi nghề; trong số được học nghề
thì tỷ lệ người tìm được việc làm cũng rất thấp. Nguyên nhân là, giữa đào tạo
nghề trong nhà trường và thực tế nhu cầu công việc không ăn khớp; không có sự
gắn kết, chia sẻ trách nhiệm giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp. Có tình hình
đào tạo ra không bố trí được việc làm; trong khi doanh nghiệp lại thiếu hụt trầm
trọng nguồn nhân lực, thậm chí là thiếu cả lao động phổ thông.
- “Nguồn nhân lực nông thôn ngoại thành trong quá trình ĐTH trên
địa bàn thành phố Hà Nội”, Nguyễn Tiệp, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội,
2005.
Các tác giả nghiên cứu các khái niệm và lý thuyết về nguồn nhân lực
nói chung, nguồn nhân lực nông thôn, nguồn nhân lực nông thôn cho CNHHĐH. Đánh giá tình hình nguồn nhân lực nông thôn ngoại thành Hà Nội, cho
thấy tình trạng yếu kém, nhất là về chất lượng, Hà Nội đang thiếu nhân lực
chất lượng cao phục vụ cho CNH- HĐH. Từ đây, các tác giả đề xuất các
phương án đào tạo nghề cho những địa bàn ngoại thành khác nhau, để phù
hợp với hoàn cảnh, yêu cầu và khả năng của các địa phương.
- “Đô thị hóa ở Việt Nam - từ góc nhìn nông nghiệp, nông thôn, nông
dân”, GS. TS. Phùng Hữu Phú, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.
Tác giả cho rằng đô thị hóa đã làm cho địa bàn nông thôn xuất hiện
những khu công nghiệp, khu chế xuất, trung tâm dịch vụ...từ đó tạo nhiều cơ
hội cho người nông dân có thêm ngành nghề mới, tạo thêm việc làm, đời sống
văn hóa tinh thần được nâng lên rõ rệt. Song quá trình đô thị hóa vẫn còn
nhiều mâu thuẫn, thách thức, nhất là vấn đề về quy hoạch, quản lý, sử dụng
đất, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sự ùn tắc lao động nông nghiệp, văn hóa,
môi trường suy thoái...Từ những vấn đề trên, tác giả đã đề xuất một số giải
pháp mang tính khái quát nhằm đảm bảo cho quá trình đô thị hóa ở khu vực
nông thôn đi đúng quy luật khách quan của nó.
- “Tác động của CNH - ĐTH tới cộng đồng dân cư nông thôn và chính
7
sách sử dụng đất”, Đặng Ngọc Dinh, Kỷ yếu Hội thảo Hậu GPMB, Hà Nội, 2009.
Công trình điều tra đánh giá các tác động tích cực và tiêu cực tới đời sống, kinh tế,
xã hội nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng trong quá trình CNH - ĐTH nhanh;
đề xuất các kiến nghị và giải pháp đồng bộ nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực
phát triển KT - XH nông thôn nước ta trong giai đoạn mới.
Những công trình nghiên cứu về lĩnh vực công nghiệp hóa, hiện đại hóa
rất nhiều và đã đề cập đến tác động của nó tới lao động và việc làm nói chung,
tuy nhiên, nghiên cứu về tác động của đô thị hóa đến lao động và việc làm
trên địa bàn quận Hà Đông thì đến nay chưa có tác giả nào đề cập đến. Vì
vậy, đề tài nghiên cứu “Tác động của quá trình đô thị hóa đến lao động và
việc làm trên địa bàn Quận Hà Đông” được học viên lựa chọn làm đề tài luận
văn tốt nghiệp thạc sĩ kinh tế là không trùng lắp với các công trình khoa học
đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về tác động của quá trình đô thị hóa
đến lao động và việc làm trên địa bàn Quận Hà Đông; trên cơ sở đó đề xuất
quan điểm và giải pháp nhằm phát huy những tác động tích cực, hạn chế
những tác động tiêu cực đối với lao động và việc làm tại Quận Hà Đông thời
gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải cơ sở lý luận về tác động của quá trình đô thị hóa tới lao
động và việc làm.
- Đánh giá thực trạng tác động của quá trình đô thị hóa đến lao động
và việc làm trên địa bàn Quận Hà Đông, chỉ rõ nguyên nhân của những tác
động đó.
- Đề xuất những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm phát
huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của quá trình đô thị hóa đến
8
lao động và việc làm trên địa bàn Quận Hà Đông thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Tác động của quá trình đô thị hóa đến lao
động và việc làm.
* Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi nghiên cứu về nội dung, luận văn nghiên cứu tác động của
quá trình đô thị hóa tới lao động, việc làm theo hai chiều hướng tích cực và
tiêu cực.
+ Phạm vi nghiên cứu về không gian: địa bàn quận Hà Đông.
+ Phạm vi nghiên cứu về không gian: từ năm 2008 (từ khi Hà Đông
được sát nhập vào Hà Nội) đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Đề tài luận văn được tiến hành trên cơ sở sử dụng phương pháp của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để nghiên cứu về tác
động của quá trình đô thị hóa đến lao động và việc làm trên địa bàn Quận Hà
Đông trong điều kiện của kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Từ đó có cách nhìn nhận đánh giá khách quan về những tác động của
quá trình đó đến lao động và việc làm trên một địa bàn cụ thể là Quận Hà
Đông thành phố Hà Nội dưới góc độ của kinh tế chính trị học.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đề
tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế chính trị Mác –
Lênin: trừu tượng hóa khoa học, kết hợp lôgíc và lịch sử, phân tích, tổng hợp,
thống kê, so sánh và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận chung và thực tiễn tác
động của quá trình đô thị hóa tới lao động và việc làm.
9
- Cung cấp thêm luận cứ khoa học làm cơ sở để Đảng bộ, chính quyền
Quận Hà Đông đề ra chủ chương, chính sách nhằm phát huy những tác động
tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của quá trình đô thị hóa tới lao động
việc làm thời gian tới.
- Luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu, vận dụng vào quá trình giảng dạy
và học tập bộ môn Kinh tế chính trị ở các nhà trường trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
đề tài kết cấu thành 3 chương (6 tiết).
10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN
LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HÀ ĐÔNG,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Những vấn đề chung về đô thị hóa, lao động và việc làm
1.1.1. Đô thị hóa, đặc trưng và vai trò của đô thị trong quá trình phát
triển kinh tế, xã hội
Đô thị là một không gian kinh tế - xã hội phức tạp, có nhiều đặc trưng
phong phú, vì vậy có thể tiếp cận nghiên cứu về đô thị theo nhiều góc độ khác
nhau. Để có quan niệm đúng và đầy đủ đối với vấn đề đô thị hóa, cũng như
những tác động của đô thị đối với lao động, việc làm, cần bắt đầu từ quan
niệm về đô thị.
* Đô thị.
Trong từ điển Tiếng Việt, đô thị được quan niệm là nơi dân cư đông
đúc, là trung tâm thương nghiệp và có thể cả công nghiệp, thành phố hoặc thị
trấn [44, tr. 322]. Còn theo từ điển Bách khoa Việt Nam, đô thị là một không
gian cư trú của cộng đồng người sống tập trung và hoạt động trong những khu
vực kinh tế phi nông nghiệp [43, tr. 836]. Trong văn bản quản lý Nhà nước
của các cơ quan của Chính phủ về đô thị, đô thị được xác định là điểm tập
trung dân cư với mật độ, chủ yếu là lao động nông nghiệp, cơ sở hạ tầng thích
hợp, là trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên ngành có vai trò thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, hoặc của một vùng.
Tuy nhiên, dù tiếp cận từ khía cạnh nào thì đô thị cũng là sự biểu hiện
tập trung ở những đặc trưng về kinh tế xã hội sau đây:
Thứ nhất, sự xuất hiện của đô thị và xu hướng gia tăng của nó (đô thị
hóa) là vấn đề có tính toàn cầu, sự gia tăng của đô thị làm nảy sinh và tập
trung nhiều vấn đề kinh tế xã hội mới. Nói đô thị hóa là vấn đề có tính toàn cầu
11
là nói đến vấn đề mang tính quy luật trong quá trình phát triển kinh tế, trực tiếp
là quá trình CNH, HĐH làm nảy sinh. Còn nói đô thị và sự phát triển của đô thị
(đô thị hóa) làm nảy sinh các vấn kinh tế xã hội mới về môi trường, dân số và
vấn đề tổ chức không gian và môi trường là nói đến tốc độ tăng quá nhanh về
công nghiệp hoá và đô thị hoá dẫn đến phá huỷ một phần môi trường sinh thái,
gây ô nhiễm môi trường, trong khi khắc phục các sự cố đó rất chậm chạp, không
đầy đủ vì nhiều nguyên nhân. Trong đó có nguyên nhân quan trọng là tài chính
hạn chế, nhận thức chưa đầy đủ, về vấn đề dân số, tốc độ gia tăng quá nhanh về
dân số và dân số đô thị, hai hướng chuyển dịch dân cư là chuyển dịch theo chiều
rộng và theo chiều sâu diễn ra song song sẽ làm gia tăng áp lực về lao động việc
làm ở cả hai khu vực, khu vực đô thị mới ra đời và không gian nông nghiệp nông
thôn còn lại sau sự phát triển của đô thị. Về vấn đề tổ chức không gian và môi
trường, quy mô dân số đô thị tập trung quá lớn so với trình độ quản lý, dẫn đến
không điều hoà gây bế tắc trong tổ chức môi trường sống đô thị.
Thứ hai, hệ thống thị trường đô thị có những đặc trưng riêng biệt. Thị
trường đô thị là một hệ thống hoặc địa điểm, ở đó diễn ra việc mua bán, trao
đổi hàng hoá và dịch vụ. Những thị trường chủ yếu của đô thị bao gồm: Thị
trường lao động, thị trường đất và bất động sản, thị trường giao thông, thị
trường hạ tầng đô thị, thị trường dịch vụ, thị trường tài chính.
Các đặc trưng khác như quan hệ thành thị và nông thôn luôn tồn tại, ngày
càng trở nên quan trọng. Về mặt không gian kinh tế của đô thị có đặc điểm giống
như một nền kinh tế quốc dân: Vì đô thị cũng được giới hạn về mặt hành chính,
hoạt động của nó có tính độc lập tương đối. Về tính kế thừa về kinh tế và văn
hóa, đô thị mang tính kế thừa của nhiều thế hệ cả về cơ sở vật chất, kinh tế, văn
hóa. Nền văn hoá được kế thừa và phát triển với bản sắc dân tộc.
- Vai trò của đô thị đối với sự phát triển kinh tế, xã hội:
Sự xuất hiện của đô thị dù với tính chất nhỏ lẻ về quy mô (ban đầu) và
gia tăng sau đó (đô thị hóa) có vai trò nhất định đối với sự phát triển kinh tế 12
xã hội. Nói đến điều này đồng nghĩa với việc nói đến tác động tích cực từ quá
trình đô thị hóa đem lại cho đời sống KT-XH. Theo đó có thể dẫn ra các vấn
đề sau:
+ Một là: đô thị đóng vai trò là trung tâm kinh tế, chính trị, thương
mại, văn hóa của xã hội; là sản phẩm mang tính kế thừa của nhiều thế hệ cả
về cơ sở vật chất kỹ thuật và văn hóa.
+ Hai là: đô thị có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển
kinh tế, là điều kiện cho giao thương và sản xuất phát triển, tối ưu hóa việc sử
dụng năng lượng, con người và máy móc, tạo ra thị trường linh hoạt có năng
suất lao động cao; tạo điều kiện thuận lợi phân phối sản phẩm và phân bố
nguồn nhân lực giữa không gian đô thị, ven đô, ngoại thành và nông thôn.
+ Ba là: đô thị giữ vai trò đầu tàu cho sự phát triển, dẫn dắt các cộng
đồng nông thôn đi trên con đường tiến bộ và văn minh.
Như vậy, đô thị có vai trò hết sức quan trọng, thúc đẩy sự phát triển KT XH của cả nước, của một vùng lãnh thổ hay một địa bàn của một địa phương.
Do có vai trò quan trọng như vậy nên các quốc gia trên con đường phát
triển của mình, đặc biệt là trong thời kỳ tiến hành công nghiệp hóa đất nước
đều có những việc làm vừa thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa vừa thúc đẩy
sự ra đời của hệ thống các đô thị, tình hình đó làm xuất hiện một quá trình
biến đổi kinh tế xã hội mang tính xu hướng, đó là quá trình đô thị hóa.
* Đô thị hóa:
Đô thị hóa là quá trình gia tăng của đô thị về mặt dân cư, mở rộng về
quy mô các thành phố, thị xã và lan tỏa phương thức sản xuất, văn hóa, lối sống
đô thị về khu vực nông thôn, tạo ra những biến đổi về các mặt kinh tế, văn hóa
xã hội và thu hẹp không gian sống của cư dân nông thôn. Đồng thời đó là quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất nông nghiệp giảm, sản
xuất phi nông nghiệp tăng. Theo nghĩa rộng, bộ mặt đô thị ngày càng hiện đại,
không gian đô thị mở rộng, đô thị hóa còn có thể được quan niệm là quá trình
13
phát triển đô thị về các mặt kinh tế, dân số, không gian và kết cấu hạ tầng kỹ
thuật đô thị làm biến đổi và phân bố các lực lượng sản xuất trong nền kinh tế
quốc dân theo hướng công nghiệp hóa; là sự thay đổi điều kiện sản xuất, lối
sống và văn hóa của một bộ phận nông thôn theo cách của đô thị.
Đô thị hóa cũng có nghĩa là sự mở rộng của đô thị tính theo tỷ lệ phần
trăm giữa số dân đô thị, hay diện tích đô thị trên tổng số dân hay diện tích của
một vùng hay khu vực; nó cũng có thể tính theo tỷ lệ gia tăng của hai yếu tố đó
theo thời gian. Nếu tính theo số dân đô thị trên tổng số dân thì được gọi là mức
độ đô thị hóa. Nếu tính theo diện tích đô thị trên tổng diện tích của một vùng
hay khu vực gọi là tốc độ đô thị hóa. Đô thị các nước phát triển phần lớn đã ổn
định nên tốc độ đô thị hóa thấp hơn nhiều so với các nước đang phát triển.
Đô thị hóa còn là sự biến đổi toàn diện kinh tế - xã hội nhiều mặt, trên
cái nhìn hẹp hơn đó là hiện tượng dịch chuyển dân cư, nghề nghiệp từ lĩnh vực
nông nghiệp sang phi nông nghiệp, tư khu vực nông thôn sang khu vực đô thị
với tất cả hệ quả của nó. Và đô thị hóa là quá trình kinh tế - xã hội tất yếu sẽ
xảy ra mà không ngoại trừ bất kỳ quốc gia nào.
Như vậy, đô thị hóa chính là bước quá độ từ hình thức sống nông
nghiệp, nông thôn lên hình thức sống đô thị của các nhóm dân cư; là quá trình
thu hẹp không gian nông nghiệp, phát triển không gian công nghiệp, dịch vụ;
đồng thời cũng là quá trình phát triển nông thôn và phổ biến lối sống thành phố
cho nông thôn. Đó là xu hướng có tính quy luật trong quá trình CNH, HĐH.
Tuy có nhiều cách tiếp cận với nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm
đô thị hóa, song với trong bối cảnh chung khi đô thị hóa gắn liền với công
nghiệp hóa đang diễn ra mạnh mẽ và phổ biến ở nhiều nước trên thế giới thì
quan niệm phổ biến nhất về đô thị hóa là quá trình biến đổi và phân bố lực
lượng sản xuất cùng với quan hệ sản xuất tương ứng trong nền kinh tế quốc
dân; bố trí dân cư, hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống
theo kiểu đô thị; phát triển đô thị hiện có theo chiều sâu trên cơ sở hiện đại
14
hóa cơ sở vật chất kỹ thuật và tăng quy mô dân số; đồng thời với đó là sự
biến đổi một bộ phận không gian vốn trước đây là nông thôn nay trở thành đô
thị. Quan niệm này cũng phản ánh thực tế quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện
nay.
Các nhân tố ảnh hưởng đến đặc điểm của quá trình đô thị hóa:
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến quá trình đô thị hóa, song chủ yếu vẫn
là các nhân tố sau:
Thứ nhất, điều kiện tự nhiên.
Điều kiện tự nhiên là tổng hợp của tất cả yếu tố vị trí địa lý, tài nguyên
thiên nhiên, khí hậu, sông ngòi, thủy văn, địa chất. Thời kỳ kinh tế chưa phát
triển, đô thị hóa phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên. Những vùng có
khí hậu thời tiết tốt, có nhiều khoáng sản, giao thông thuận lợi và những lợi
thế khác nhau sẽ thu hút dân cư mạnh hơn và do đó sẽ được đô thị hóa sớm
hơn, quy mô lớn hơn. Ngược lại những vùng khác sẽ đô thị hóa chậm hơn,
quy mô nhỏ hơn.
Thứ hai, điều kiện xã hội.
Mỗi phương thức sản xuất sẽ có một hình thái đô thị tương ứng và do đó,
quá trình đô thị hóa có những đặc trưng riêng của nó. Sự phát triển của lực lượng
sản xuất là điều kiện để công nghiệp hóa, hiện đại hóa và là tiền đề cho đô thị
hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản
của nền kinh tế sẽ tạo ra quá trình đô thị hóa nông thôn và các vùng ven biển.
Mỗi chế độ xã hội đều tạo điều kiện thuận lợi hay không thuận lợi cho
quá trình đô thị hóa và quy định những đặc trưng riêng của nó. Nước ta phát
triển theo định hướng XHCN, do đó đô thị hóa không chỉ là mục tiêu mà còn
là phương tiện để phát triển KT-XH phục vụ “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”.
Thứ ba, trình độ phát triển kinh tế.
Trình độ phát triển kinh tế là nhân tố giữ vai trò quyết định trong quá
15
trình đô thị hóa. Trình độ phát triển kinh tế, trước hết được thể hiện ở trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất cao hay thấp; trình độ phân công lao động
xã hội; năng suất lao động; quy mô, tốc độ tăng trưởng GDP.
Thứ tư, tình hình chính trị và văn hóa dân tộc.
Tình hình chính trị ảnh hưởng đến đô thị hóa trên hai góc độ: Một mặt,
nó quyết định đường lối, phương hướng, nhiệm vụ, chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch đô thị hóa. Mặt khác, tình hình chính trị của thành phố, của đất nước ổn
định sẽ tạo ra sự đồng thuận, đoàn kết nhất trí cao trong nhân dân, trong xã
hội về quyết tâm xây dựng đô thị văn minh, hiện đại, giàu bản sắc văn hóa
dân tộc, văn hóa địa phương; tạo sự yên tâm, tin tưởng cho các nhà đầu tư. Ở
nước ta từ sau 1975, tốc độ đô thị hóa ngày càng cao, các đô thị mới mọc lên
nhanh chóng. Đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, với các chính sách mở cửa nền
kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần thì
đô thị hóa đã tạo ra sự phát triển kinh tế vượt bậc.
Văn hóa dân tộc ảnh hưởng tới tất cả các vấn đề kinh tế, chính trị, xã
hội nói chung và hình thái đô thị nói riêng.
1.1.2. Quan niệm về lao động và việc làm
* Quan niệm về lao động:
Lao động là một phạm trù có nội hàm phong phú, nên có thể tiếp cận
nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau. Tùy theo góc độ nghiên cứu mà người ta đưa ra các quan niệm về "lao
động" tương ứng. Tuy nhiên, các quan điểm đều tập trung chủ yếu vào hai khía cạnh:
Thứ nhất, coi lao động là hoạt
động, là phương thức tồn tại của con người. Thứ hai, coi lao động chính là bản thân con người, là sự nỗ lực vật chất và
tinh thần của con người dưới dạng hoạt động tạo ra những sản phẩm vật chất và tinh thần để thỏa mãn nhu cầu của con
người. Trên bình diện của khoa học kinh tế chính trị, C.Mác là người có những nghiên cứu về lao động hết sức sâu sắc.
Trong tác phẩm "Tư bản", C.Mác coi lao động là hành động biểu hiện
trực tiếp quan hệ giữa con người với tự nhiên, nhằm tạo ra sản phẩm nuôi
chính con người. Lao động là hành động xã hội, hành động cải tạo thế giới
của con người, thông qua lao động con người cũng cải tạo chính mình. Lao
động "là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó, bằng hoạt động của chính
16
mình, con người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên" [
23, tr. 266]
Khi coi lao động là hành động xã hội, C.Mác cũng đã chỉ ra các yếu tố cơ bản tạo nên cấu trúc của lao động
là: đối tượng lao động, tư liệu lao động và chủ thể lao động người lao động. Con người sử dụng những tư liệu lao động
tác động vào đối tượng lao động nhằm mục đích tạo ra của cải vật chất để nuôi sống con người. Như vậy, chủ thể lao
động là con người với tất cả đặc điểm tâm sinh lý, xã hội được hình thành và phát triển trong quá trình xã hội hóa cá
nhân. Và để tiến hành lao động sản xuất họ phải có những tư liệu sản xuất nhất định (là sự hợp thành của đối tượng lao
động và tư liệu lao động, chúng có thể là đất đai, nhà máy, hầm mỏ, máy móc...)
Lao động - vấn đề được bàn luận trong luận văn này được tiếp cận từ
góc độ là những chủ thể lao động, hay đó là những sức lao động - điều đã
được C.Mác bàn kỹ lưỡng trong tác phẩm "Tư bản". Ở cấp độ tổng thể đó là
lực lượng lao động, không tiếp cận từ góc độ là quá trình con người tác động
vào giới tự nhiên thông qua công cụ lao động với tính cách là hoạt động quan
trọng nhất của con người, nhằm tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần
của xã hội.
Lực lượng lao động theo nghĩa rộng là nguồn lực của một quốc gia,
một vùng lãnh thổ, là một bộ phận nguồn lực có thể huy động được để tham
gia vào quá trình phát triển đất nước.
Theo nghĩa hẹp, lực lượng lao động là bộ phận của dân số trong độ tuổi
lao động theo quy định của pháp luật có khả năng tham gia lao động (bộ phận
dân số đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người thất nghiệp. Ở Việt
Nam hiện nay thường sử dụng khái niệm này trong thống kê. Như vậy, lực
lượng lao động bao gồm những người có việc làm (trong tuổi lao động và trên
tuổi lao động) và những người chưa có việc làm nhưng đang tìm việc làm
(thất nghiệp). Lực lượng lao động không bao gồm những người trong tuổi lao
động nhưng nằm trong các tình trạng: làm nội trợ chính trong gia đình, học
sinh, sinh viên, những người không có nhu cầu làm việc…
Cần có sự phân biệt sự giống và khác nhau giữa lực lượng lao động
với nguồn nhân lực và nguồn lực lao động . Nguồn nhân lực: là một bộ phận
dân số trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực
được xem xét, đánh giá ở hai phương diện: số lượng và chất lượng nguồn
17
nhân lực. Số lượng nguồn nhân lực là chỉ quy mô, cơ cấu tuổi, giới tính…chất
lượng nguồn nhân lực là khả năng tổng hợp về thể lực, trí lực, kỹ năng, phong
cách, đặc điểm lối sống, tinh thần và đặc biệt là khả năng nghiên cứu, sáng
tạo, tiếp thu tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới phục vụ phát triển
kinh tế - xã hội. Trong khi đó, nguồn lực lao động là bộ phận dân số trong độ
tuổi lao động có khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động
(trên độ tuổi lao động) đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân.
Nguồn lực lao động được coi là cung tiềm năng về lao động. Nguồn lực lao
động luôn được xem xét trên hai mặt biểu hiện đó là số lượng và chất lượng.
Nguồn lực lao động xét về mặt số lượng bao gồm: dân số đủ 15 tuổi trở lên có
việc làm và dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang
thất nghiệp, đang đi học, đang làm công việc nội trợ trong gia đình, không có
nhu cầu làm việc và những người thuộc tình trạng khác (bao gồm cả những
người nghỉ hưu trước tuổi quy định) [36]
Như vậy nguồn lực lao động có nội hàm rộng hơn lực lượng lao động.
Trong điều kiện ngày nay (nền kinh tế thị trường, hội nhập với nền
kinh tế khu vực và thế giới, nền kinh tế tri thức,...) việc không ngừng nâng
cao chất lượng lực lượng lao động có ý nghĩa quan trọng đặc biệt, số lượng
lao động đông đảo không còn chiếm ưu thế, nhất là với lao động có chất
lượng thấp. Song song với vấn đề chất lượng lực lượng lao động, ở nước ta
hiện nay, trong điều kiện đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH và tốc độ đô thị
hóa đang diễn ra nhanh chóng, vấn đề toàn dụng lao động lại luôn là vấn đề
thời sự và được Đảng và Nhà nước ta dành cho sự quan tâm sâu sắc, đặc biệt
là lao động nông nghiệp dôi ra trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp và quá
trình đô thị hóa.
Điểm đáng lưu ý của lao động nông nghiệp là mọi hoạt động lao động, sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực
nông nghiệp đều gắn liền với đối tượng cây trồng, vật nuôi - là những cơ thể sống với những đặc điểm riêng biệt, không
thể xóa bỏ, làm cho lao động nông nghiệp mang sắc thái riêng, không giống với lao động trong một số ngành kinh tế
khác. Đặc biệt là tính chất thời vụ của lao động nông nghiệp, làm cho lao động nông nghiệp lúc thì căng thẳng, lúc lại
nhàn rỗi; tình trạng thiếu việc làm tạm thời là khá phổ biến.
18
Lao động vấn đề đang được bàn luận ở đây được đặt trong mối quan hệ
trực tiếp và gắn bó chặt chẽ với qúa trình đô thị hóa (sự mở rộng không gian
kinh tế - xã hội của đô thị dẫn tới sự thu hẹp tương ứng không gian kinh tế xã hội khu vực nông thôn), xem xét nó trong sự tác động của quá trình đô thị
hóa sẽ tạo ra những vấn đề kinh tế xã hội gì cần giải quyết để toàn dụng lực
lượng lao động đó trên các địa bàn mà khi đô thị "bành trướng" ra và lực
lượng lao động vốn trước đây thuộc khu vực nông thôn nay phải chịu những
tác động từ quá trình "bành trướng" đó của đô thị.
*Quan niệm chung về việc làm:
Việc làm là khái niệm thể hiện sự tổng hợp các yếu tố của quá trình
phát triển kinh tế - xã hội, nhân khẩu, chất lượng lao động … Việc làm là một
trong những chỉ tiêu quan trọng của đời sống xã hội, do vậy đã có nhiều nhà
khoa học quan tâm, nghiên cứu và có nhiều cách hiểu khác nhau về việc làm.
Xét dưới góc độ kinh tế - xã hội, việc làm được hiểu là các hoạt động
tạo ra, đem lại lợi ích thu nhập cho người lao động được xã hội thừa nhận.
Theo tổ chức lao động quốc tế: Việc làm là những hoạt động lao động
được trả công bằng tiền và bằng hiện vật.
Theo Bộ luật lao động nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
“Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều
được thừa nhận là việc làm”. Khái niệm này được vận dụng trong các cuộc
điều tra về thực trạng lao động và việc làm hàng năm của Việt Nam.
Việc làm trước hết là vấn đề của mỗi cá nhân, xuất phát từ nhu cầu
mưu sinh của mỗi cá nhân. Con người vì muốn thỏa mãn các nhu cầu của bản
thân nên tiến hành các hoạt động lao động nhất định. Một hoạt động được coi
là việc làm cần thỏa mãn hai điều kiện: Thứ nhất, hoạt động đó phải có ích và
tạo ra thu nhập cho người lao động và các thành viên trong gia đình; Thứ hai,
hoạt động đó không bị pháp luật ngăn cấm. Hai điều kiện này có quan hệ chặt
chẽ với nhau, là điều kiện cần và đủ của một hoạt động được thừa nhận là
19
việc làm. Người có việc làm chính là khái niệm dùng để chỉ những người hiện
đang tham gia các hoạt động đó. Tùy theo mức độ tham gia và thu nhập từ các
hoạt động này mà có thể chia đối tượng này thành hai loại là: người có việc
làm đầy đủ và người có việc làm không đầy đủ.
Việc làm đầy đủ là việc làm nó cho phép người lao động có đủ điều
kiện để sử dụng thời gian lao động theo quy định và mang lại thu nhập không
thấp hơn mức thu nhập tối thiểu. Nếu không đảm bảo một trong hai yếu tố
này thì gọi là bán thất nghiệp. Việc làm không đầy đủ hay thiếu việc làm: là
những người làm việc ít hơn mức mà mình mong muốn. Người lao động
không có đủ việc làm theo thời gian quy định trong tuần, trong tháng, làm
những công việc có thu nhập quá thấp không đảm bảo cuộc sống.
Tuy nhiên, con người không sống đơn lẻ và hoạt động lao động của mỗi
cá nhân cũng không đơn lẻ mà nằm trong tổng thể các hoạt động của sản xuất xã
hội. Do đó, bên cạnh ý nghĩa là vấn đề cá nhân là tăng thêm thu nhập cho cá
nhân, người thân, gia đình và cộng đồng mà việc làm còn là vấn đề của cộng
đồng của xã hội. Điều này đòi hỏi phải có những chính sách và biện pháp nhất
định phù hợp từ phía Nhà nước nhằm tăng số lượng việc làm và chất lượng việc
làm, đảm bảo đời sống dân cư, kiềm chế nạn thất nghiệp và thông qua đó để giải
quyết các vấn đề xã hội khác trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, ở đâu có lợi nhuận, các doanh nghiệp sẽ
tăng cường sử dụng lao động, tăng sản lượng, khối lượng việc làm sẽ tăng lên.
Mặt khác khi nhu cầu thị trường suy giảm, các doanh nghiệp sẽ cắt giảm sản
lượng, khối lượng việc làm sẽ giảm.
Trong xu thế CNH, HĐH nền kinh tế, khoa học công nghệ phát triển
mạnh mẽ, được ứng dụng nhanh chóng vào sản xuất và tất cả các lĩnh vực
khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội đã làm cho khối lượng công việc có
yêu cầu về mặt kỹ thuật cao tăng nhanh chóng.
20
Mặt khác, năng suất lao động tăng đã làm ảnh hưởng rất lớn tới "cầu"
lao động và "cơ cấu" lao động. Nếu người lao động không tự nâng cao tay
nghề, nâng cao trình độ của mình để theo kịp với yêu cầu của sản xuất kinh
doanh; phân công lao động xã hội không phát triển, không tạo ra được nhiều
chỗ làm mới cho người lao động thì tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm là
điều khó tránh khỏi.
Trong nông nghiệp, lao động mang tính thời vụ, do vậy thời kỳ căng
thẳng, khối lượng công việc nhiều tăng đột biến. Tuy nhiên, lúc nhàn rỗi
khối lượng công việc giảm đột ngột, thậm chí có lúc người nông dân không
có việc làm. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay dân số ở khu vực nông thôn
vẫn tăng nhanh, đất canh tác không tăng thậm chí có xu hướng giảm xuống
vì nhu cầu đất ở gia tăng, cùng với đó là do xu hướng ứng dụng tiến bộ
khoa học công nghệ, sử dụng lao động bằng máy móc thay cho lao động thủ
công cũng gia tăng làm cho năng suất lao động tăng nhanh đã giải phóng
một lượng lao động lớn ra khỏi ngành nông nghiệp, bộ phận này có nhu cầu tìm việc làm mới.
Đặc biệt hơn nữa, do quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh chóng và mạnh mẽ đã khiến diện
tích đất nông nghiệp bị thu hẹp tương ứng, một lượng lớn lao động nông nghiệp sẽ thiếu đất canh tác làm xuất hiện nhu
cầu tìm kiếm việc làm mới....Tình hình đó nếu không được giải quyết sẽ nảy sinh những vấn đề xã hội phức tạp. Sẽ có
một bộ phận lao động chuyển dịch từ lao động nông nghiệp sang lao động dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp, song một
lượng lao động khác sẽ định cư ra các đô thị và các khu công nghiệp tìm kiếm việc làm gây nhiều vấn đề phức tạp cho
việc quản lý lao động, quản lý xã hội, tình trạng xóm liều, phố liều, tệ nạn xã hội gia tăng.
1.2. Tác động của đô thị hóa đến lao động và việc làm trên địa bàn
Quận Hà Đông
1.2.1. Đặc điểm quá trình đô thị hóa ở Quận Hà Đông
Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng bộ Quận nhiệm kỳ 2010 2020 đặt mục tiêu xây dựng Quận Hà Đông trở thành đô thị với tốc độ phát
triển nhanh, mạnh, toàn diện và bền vững và là một trong những Quận phát
triển hàng đầu của Thủ đô. Do vậy, Quận Hà Đông tập trung triển khai đồng
bộ công tác quy hoạch, phát triển đô thị, quá trình đó được thể hiện ở những
đặc điểm chính như sau:
21
Một là: Tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh, nhiều vấn đề phức tạp, công
tác quản lý gặp nhiều khó khăn
Hà Đông là một Quận lớn nhưng là quận mới của Hà Nội, vốn là tỉnh lỵ
của tỉnh Hà Tây cũ nên khá lạc hậu so với các quận nội thành cũ của Thủ đô,
do đó khi trở thành quận của Hà Nội, tốc độ đô thị hóa ở quận Hà Đông diễn
ra khá nhanh.
Từ năm 2006 đến nay, trên địa bàn Quận có 132 dự án lớn nhỏ được
phê duyệt và khởi công. Một lọat các dự án có quy mô lớn như: Dự án khu đô
thị Văn Quán - Yên Phúc, khu đô thị Mỗ Lao, Văn Khê, khu trung tâm hành
chính mới, khu đô thị Văn Phú, trục đô thị phía bắc và khu đô thị Dương Nội,
trục đô thị phía nam và khu đô thị Thanh Hà đồng loạt được khởi công... trên
địa bàn Quận 16 khu đô thị mới và 64 khu nhà ở, chung cư được triển khai
xây dựng. Quận cũng tập trung đầu tư xây dựng nhiều công trình phục vụ dân
sinh, phúc lợi xã hội tại các phường, nhất là bảy phường mới thành lập. Nhiều
chợ, trung tâm thương mại trên địa bàn Quận được đầu tư xây dựng lại khang
trang, đáp ứng nhu cầu kinh doanh và mua sắm của nhân dân. Cùng với đó là
hệ thống giao thông phục vụ cho quá trình đô thị hóa và nội quận cũ đều được
đưa vào kế hoạch và triển khai.
Tốc độ đô thị hóa quá nhanh - "nóng" đã làm cho quá trình đô thị hóa ở
quận Hà Đông có nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh. Theo đó các vấn đề như
công tác quản lý trật tự xây dựng đô thị đứng trước hàng loạt vấn đề phải
cùng đồng thời giải quyết; Vấn đề di dân từ nông thôn ra thành thị dẫn đến
mật độ dân số ở thành thị tăng cao, gây mất cân đối giữa thành thị và nông
thôn, đồng thời đặt ra những vấn đề nan giải về giải quyết công ăn việc làm,
thất nghiệp tại chỗ, nhà ở và tệ nạn xã hội làm cho trật tự xã hội ngày càng
thêm phức tạp. ...
Do sự chuyển biến mạnh mẽ mang tính khách quan theo hướng "làng
lên phố” nên hầu hết các hộ dân và các hợp tác xã nông nghiệp và làng nghề
22
đều gặp khó khăn trước “cơn lốc” đô thị hóa. Hàng loạt vấn đề mới phát sinh
trước xu hướng vận động "làng trở thành phố" đặt ra cho chính quyền Quận
Hà Đông, từ các vấn đề kinh tế, giáo dục, xã hội, an ninh trật tự đến xây dựng
nếp sống văn hóa đô thị... đòi hỏi được giải quyết đồng thời nhằm hạn chế
những hành vi xấu gây mất ổn định xã hội, để quá trình đô thị hóa song hành
với xây dựng xã hội đô thị ổn định, bền vững.
Hai là: có nhiều khó khăn mới xuất hiện trong công tác quản lý đô thị.
Là địa bàn có tốc độ đô thị hóa nhanh nên công tác quản lý đô thị trong
quá trình đô thị hóa ở Quận Hà Đông gặp không ít khó khăn, đòi hỏi phải giải
quyết, nhưng khó triệt để trong ngắn hạn. Những vi phạm xảy trong xây dựng,
nhất là xây dựng nhà dân sinh do các hộ tự bỏ tiền xây nhà ở, mặt bằng kinh
doanh, xây nhà cho thuê... xảy ra thường xuyên và gây bức xúc không nhỏ
cho người dân. Mặc dù lường trước được khó khăn, phức tạp này, Quận ủy
Hà Đông đã chỉ đạo xây dựng Chương trình 04 về "Tăng cường công tác quản
lý đô thị" và chọn làm khâu đột phá trong nhiệm kỳ 2010 - 2015...nhiều điểm
phức tạp về trật tự đô thị như ngã ba Ba La, cầu Mai Lĩnh, chợ Xốm… đã
được giải quyết; qua đó nhắc nhở 2.121 trường hợp; thu giữ hơn 8.300 biển
quảng cáo…; tháo dỡ 680 lều lán, mái vẩy lấn chiếm lòng, lề đường; lập biên
bản xử lý 491 trường hợp vi phạm; nhưng thực tiễn cho thấy kết quả chưa đạt
được yêu cầu mong đợi. Việc phải đối diện với khó khăn này vẫn là vấn đề
còn phải tiếp tục .
Cùng với khó khăn, phức tạp trong quản lý xây dựng là công tác xây
dựng và quản lý văn minh đô thị và công tác quản lý đô thị. Nhận thức rõ tầm
quan trọng của công tác xây dựng và quản lý văn minh đô thị, Quận Hà Đông
đã sớm triển khai và thực hiện Chỉ thị số 01/CT-UBND ngày 02/01/2014 của
Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội và Kế hoạch số 05/KH-UBND ngày
09/01/2014 của UBND quận về thực hiện “Năm trật tự văn minh đô thị 2014”: Đã tiến hành xử lý, giải toả, cưỡng chế tháo dỡ các vi phạm lấn chiếm
23
hành lang an toàn giao thông, hè đường; rà soát, giải toả các điểm trông giữ
phương tiện không phép, sai phép, để phương tiện không đúng nơi quy định;
kinh doanh dịch vụ lấn chiếm lòng đường vỉa hè; sắp xếp, giải toả chợ cóc lấn
chiếm hè phố, lòng đường, cản trở giao thông đảm bảo trật tự, kỷ cương, mỹ
quan đô thị. Tập trung xử lý vi phạm trật tự đô thị tại các tuyến, địa bàn trọng
điểm, giáp ranh với các quận, huyện khác, các khu vực bệnh viện, trường học,
bến xe, nơi công cộng... Tổ chức tháo dỡ mái che, mái vẩy, xóa bỏ quảng cáo,
rao vặt làm mất mỹ quan đô thị; Dẹp bỏ họp chợ, kinh doanh buôn bán, để vật
liệu xây dựng, rửa xe, trông, gửi xe ô tô, xe máy trên hè, đường không đúng
quy định.
Cùng với đó, Quận đã triển khai Chương trình 04-CTr/QU của Quận ủy
và Kế hoạch số 46/KH-UBND của UBND quận về “Tăng cường công tác quản
lý đô thị”; chỉ đạo thực hiện các Quyết định 20/QĐ-UBND và 46/QĐ-UBND
của UBND thành phố Hà Nội, Kế hoạch số 63/KH-UBND của UBND quận về
tăng cường công tác quản lý bán hàng rong, quản lý lòng đường, vỉa hè; thực
hiện phong trào “Gọn nhà, sạch phố, đẹp Thủ đô”. Xây dựng và triển khai kế
hoạch thực hiện quy chế dân chủ trong công tác quản lý trật tự xây dựng trên
địa bàn quận. Chỉ đạo nâng cao chất lượng quy hoạch, quản lý quy hoạch, thẩm
định các công trình xây dựng cơ bản tuân thủ quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội Thủ đô và quận theo định hướng chỉ đạo của Thành uỷ tại
Chương trình số 06-CTr/TU ngày 08/11/2011 và Kế hoạch số 37-KH/QU ngày
01/02/2012 của Quận uỷ về "Đẩy mạnh công tác quy hoạch, xây dựng và quản
lý đô thị giai đoạn 2011 - 2015". Tuy nhiên, cũng như công tác quản lý trật tự
xây dựng đô thị, vấn đề quản lý văn minh đô thị, quản lý đô thị vẫn còn là vấn
đề phải giải quyết theo hướng liên tục và quyết liệt.
Ba là: quá trình đô thị hóa làm nảy sinh những khó khăn và phức tạp
về công tác quản lý đất đai,
24
Vấn đề đất đai và quản lý đất đai trong quá trình đô thị hóa là vấn đề
mang tính quy luật chung, mà các quốc gia đi trước nước ta đã phải dối diện.
Với Quận Hà Đông cũng không phải là ngoại lệ. Nhận thức rõ vấn đề này,
Quận ủy Hà Đông đã triển khai Chương trình 09-CTr/QU, ngày 21/4/2009 về
"Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo trong quản lý, sử dụng đất đai trên
địa bàn quận Hà Đông". Ủy Ban nhân dân Quận đã cho lập quy hoạch sử
dụng đất giai đoạn 2011 - 2020, kế hoạch sử dụng đất 5 năm giai đoạn 2011 2015 trình UBND thành phố Hà Nội phê duyệt, làm công cụ quản lý đất đai
trên địa bàn Quận trong quá trình đô thị hóa và đã đạt được những kết quả
nhất định. Trong 10 tháng đầu năm 2014, UBND quận đã cấp 4.581 GCN
quyền sử dụng đất, đạt 57,25% so với chỉ tiêu Thành phố giao, ước năm 2014
cấp 9.591 GCN quyền sử dụng đất, đạt 119,8% kế hoạch; nâng tổng số GCN
cấp trên địa bàn quận đến hết năm 2014 là 67.747 GCN (đạt tỷ lệ 98,61%).
Cấp đổi, cấp lại GCNQSD đất cho 189 trường hợp; cấp GCN đối với các
trường hợp chuyển QSD đất, sở hữu nhà ở cho 5.403 trường hợp; đăng ký
giao dịch bảo đảm cho 6.610 trường hợp. Xét duyệt 3.085 trường hợp giao đất
dịch vụ, tương ứng 1.618 lô đất; tổng số trường hợp đã xét duyệt trên toàn
quận đến nay 20.199 trường hợp, tương ứng 17.578 lô đất (đạt 87,9% nhu
cầu). Cùng với đó, Quận cũng chỉ đạo các phường thực hiện công tác điều tra
giá đất chuyển nhượng thực tế trên thị trường của các phường, tổng hợp kết quả
điều tra, báo cáo Sở Tài nguyên và Môi trường về kết quả và đề xuất giá đất năm
2015. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy, vẫn còn khá nhiều vấn đề còn cần được
nghiên cứu giải quyết. Bởi quá trình đô thị hóa trên địa bàn Quận vẫn chưa thể
hoàn thành trong ngắn hạn
1.2.2. Quan niệm về sự tác động của đô thị hóa đến lao động và việc
làm trên địa bàn Quận Hà Đông
Vấn đề tác động của quá trình đô thị hóa đến lao động và việc làm được
xem xét từ phạm trù xuất phát - sự tác động.
25
Trong từ điển tiếng Việt, tác động được hiểu là "làm cho một đối tượng
nào đó có những thay đổi nhất định" [43, tr. 851]. Một đối tượng nào đó chịu
sự tác động từ một đối tượng khác sẽ có những thay đổi theo những chiều
hướng nhất định, có thể cùng chiều, cũng có thể trái chiều nhau. Như thế, tác
động cũng có thể được xem như là kết quả như dự định hoặc không như dự
định; có thể là tích cực hoặc tiêu cực; có thể đạt được ngay hoặc đạt được sau
một thời gian nhất định.
Vận dụng nhận thức chung về tác động nói trên vào xem xét vấn đề tác
động của quá trình đô thị hóa đến lao động và việc làm nói chung trong đó
có địa bàn Quận Hà Đông. Có thể hiểu đó là những biến đổi tất yếu theo
những chiều hướng khác nhau tới lao động và việc làm do quá trình đô thị hóa
gây ra. Những tác động đó có thể là tích cực, nghĩa là phù hợp với quá trình phát
triển; cũng có thể là tiêu cực, nghĩa là không phù hợp với sự phát triển của nền
kinh tế của địa bàn trước những tác động của quá trình đô thị hóa. Đây là vấn đề
mang tính quy luật nói chung, từ tính quy luật chung đó cho phép xem xét hai
hướng tác động của quá trình đô thị hóa đến lao động và việc làm trên địa bàn
Quận Hà Đông.
* Hai hướng tác động của quá trình đô thị hóa đến lao động và việc
làm trên địa bàn Quận Hà Đông.
Đô thị hóa tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến xu hướng vận động và
phát triển kinh tế nông thôn theo hai hướng cơ bản là: Thu hẹp không gian
kinh tế nông nghiệp, nông thôn và làm thay đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
nông thôn. Hai hướng tác động này đều đưa ra những hệ quả mới cho kinh tế
nông nghiệp, nông thôn theo hai hướng chính như sau:
Thứ nhất: Đô thị hóa tác động mạnh mẽ đến qúa trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn, qua đó gián tiếp thúc
đẩy hiện thực hóa một trong hai nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
góp phần thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội. Theo các chuyên
26