Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ cổ PHẦN hóa DOANH NGHIỆP NHÀ nước của THÀNH PHỐ hải PHÒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (605.91 KB, 112 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ
Ban chấp hành
Công ty cổ phần
Cổ phần hóa
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp nhà nước
Giáo sư, Tiến sĩ
Hội đồng nhân dân
Hội đồng quản trị
Kinh tế-xã hội
Một thành viên
Phó Giáo sư, Tiến sĩ
Phó tiến sĩ
Sản xuất kinh doanh
Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Products)
Trách nhiệm hữu hạn
Ủy ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa

Chữ viết tắt
BCH
CTCP
CPH
CPH DNNN
DNNN
GS - TS
HĐND
HĐQT
KT - XH


MTV
PGS - TS
PTS
SXKD
GDP
TNHH
UBND
XHCN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

3

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CỔ PHẦN HÓA
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

13

1.1.

Những vấn đề lý luận chung về công ty cổ phần và cổ phần

1.2.
1.3.

hoá doanh nghiệp nhà nước
Sự cần thiết phải cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Một số kinh nghiệm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tại


13
34

Việt Nam, bài học cho Hải Phòng
Chương 2: THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ

38
49

2.1.

NƯỚC CỦA THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước của thành

49

2.2.

Phố Hải Phòng
Những thành tựu, hạn chế về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước của thành phố Hải Phòng

57

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CỔ
PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC CỦA THÀNH
PHỐ HẢI PHÒNG THỜI GIAN TỚI

3.1.


Quan điểm, mục tiêu và phương hướng cổ phần hoá doanh

3.2.

nghiệp nhà nước của thành phố Hải Phòng
Những giải pháp đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà

84
84

nước của Hải Phòng và xử lí những vấn đề phát sinh sau cổ
phần hoá
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

89
104
106
111


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta,
trong bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp và nền kinh tế còn nhiều
khó khăn gay gắt, doanh nghiệp nhà nước đã vượt qua nhiều thử thách, đứng
vững và không ngừng phát triển, góp phần quan trọng vào thành tựu to lớn

của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước. Doanh nghiệp nhà nước đã chi
phối được các ngành, lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh
tế; góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo, ổn định
và phát triển kinh tế - xã hội, tăng thế và lực đất nước; giúp nhà nước điều tiết
kinh tế vĩ mô và góp phần giữ vững tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên trong thực tiễn, qua tổng kết tình hình thực hiện công cuộc đổi mới qua
10 năm, 20 năm, Đảng và Nhà nước sớm nhận ra rằng không phải tất cả các
doanh nghiệp nhà nước đều có vai trò như vậy. Nhiều doanh nghiệp nhà nước
quy mô còn nhỏ, cơ cấu còn nhiều bất hợp lý, chưa thật tập trung vào những
ngành, lĩnh vực then chốt; trình độ công nghệ còn lạc hậu, quản lý còn yếu
kém, chưa thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh; kết
quả sản xuất kinh doanh chưa tương xứng với các nguồn lực đã có và sự hỗ
trợ, đầu tư của Nhà nước; hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp. Hiện nay,
doanh nghiệp nhà nước đang đứng trước thách thức gay gắt của yêu cầu đổi
mới, phát triển và chủ động hội nhập quốc tế. Trước tình hình như vậy, nếu
không được định hướng lại sẽ càng làm cho hệ thống doanh nghiệp nhà nước
mất đi vai trò thể hiện cần có. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến
những chủ trương mới của Đảng và Nhà nước trong sắp xếp lại các doanh
nghiệp nhà nước, trong đó có chủ trương về cổ phần hóa một bộ phận doanh
nghiệp nhà nước mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để thu hút thêm
vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, nâng cao sức
cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung.
3


Tuy nhiên, trong thời gian qua, bên cạnh những thành tích đáng khích
lệ, tốc độ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước so với yêu cầu và kế hoạch đề
ra còn chậm, nhất là thời gian gần đây. Các doanh nghiệp nhà nước đã cổ
phần hóa đi vào hoạt động phát sinh nhiều bất ổn. Tình hình này do nhiều
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về nhận thức, về cơ chế chính sách, về

bộ máy tổ chức chỉ đạo thực hiện và cả những nguyên nhân của tác động tiêu
cực sau cổ phần hóa không được quan tâm giải quyết thỏa đáng. Trong bối
cảnh chung như vậy, tình hình cổ phần hóa DNNN ở các bộ, ngành, các tập
đoàn, các tổng công ty, các địa phương trong cả nước nói chung và thành phố
Hải Phòng nói riêng đã gặp nhiều khó khăn, vướng mắc về CPH và hậu CPH
như: Tiến độ CPH DNNN rất chậm, vấn đề đất đai và quyền sở hữu tài sản
còn vướng mắc, khả năng tiếp cận vốn tín dụng thấp, lao động dôi dư và vấn
đề bán cổ phần còn nhiều bất cập, về công nghệ, về quản trị công ty còn yếu
kém, về nợ của doanh nghiệp và những vấn đề nảy sinh tranh chấp quyền lợi
sau CPH DNNN chưa có chính sách giải quyết thỏa đáng...,đòi hỏi phải
nghiên cứu một cách nghiêm túc nhằm làm sáng rõ những vấn đề lý luận và
thực tiễn, đánh giá được thực trạng việc CPH DNNN của Thành phố Hải
Phòng. Từ đó, đề xuất những giải pháp đẩy mạnh tiến trình, nâng cao chất
lượng, hiệu quả CPH DNNN của Thành phố Hải Phòng trong năm 2015 và
những năm tiếp theo; giúp những nhà nghiên cứu hoạch định chính sách,
những nhà quản lý thực tiễn, những nhà đầu tư và người lao động trong
DNNN đã, đang và sẽ thực hiện CPH có thêm tài liệu tham khảo. Đây cũng là
lý do khiến tác giả chọn “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước của Thành
phố Hải Phòng” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
CPH DNNN là một giải pháp ưu việt để tái cấu trúc DNNN, huy động
thêm vốn của xã hội, nâng cao năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới
phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh
4


nghiệp và nền kinh tế, phù hợp với thông lệ quốc tế trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay. Xuất phát từ yêu cầu thực tế đó, vấn đề cổ phần hóa
và sau cổ phần hóa một bộ phận DNNN đã được nghiên cứu trong nhiều đề
tài khoa học, nhiều bài viết, một số luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ. Qua tìm

hiểu, tác giả luận văn hệ thống và nêu ra một số công trình chủ yếu sau :
PTS Nguyễn Ngọc Quang (1996), Cổ phần hoá DNNN cơ sở lý luận
và thực tiễn, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội; PTS Đoàn Văn Hạnh (1998),
Công ty cổ phần và chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần,
NXB Thống kê, Hà Nội; Chu Viết Luân (2002), Cổ phần hóa – Giải pháp
quan trọng trong cải cách doanh nghiệp nhà nước, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội. Phạm Quang Huy (1998), Sự hình thành các doanh nghiệp
CPH ở tỉnh Khánh Hòa, Luận văn Tốt nghiệp, Đại học Thủy sản Nha
Trang. Nguyễn Thị Thu Nga (2007), Cổ phần hóa các doanh nghiệp thành
viên của Tổng công ty Tư vấn Thiết kế Giao thông Vận tải, Luận văn Tốt
nghiệp, Đại học Kinh tế Quốc dân.
Nguyễn Thị Thơm (1999), CPH DNNN ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ,
Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Đây là công trình
nghiên cứu và tổng kết khá công phu về lí luận và thực tiễn về CPH các
DNNN ở Việt Nam. Tuy nhiên, đây là công trình nghiên cứu chung về
CPH các DNNN ở những năm đầu của tiến trình CPH. Vì vậy, kết quả
nghiên cứu còn có những hạn chế. Từ đó đến nay đã hơn 10 năm, những
vấn đề của CPH các DNNN đã có sự thay đổi và mới. Những vấn đề của
CPH DNNN trước đây chưa phát sinh, nay đã có nhiều phát sinh phức tạp,
nhưng chưa được đề cập trong luận án.
Bùi Quốc Anh (2008), Vấn đề lí luận và thực tiễn về CPH và sau
CPH các DNNN ở Việt Nam: Lấy ví dụ trong ngành giao thông vận tải,
Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Luận án đã chỉ
ra việc CPH DNNN ở Việt Nam còn tồn tại tư tưởng bao cấp do cơ chế cũ
5


để lại, xu hướng tư nhân hóa, sự chậm chuyển đổi trong quản trị điều hành
doanh nghiệp và những vấn đề xã hội nảy sinh. Nhận thức về CPH còn
những vướng mắc, cơ chế chính sách còn bật cập, tính toán giá trị doanh

nghiệp chưa đầy đủ dẫn đến thất thoát nguồn lực của Nhà nước; bộ máy
thực hiện chưa thực sự chuyên nghiệp; tiến độ còn chậm và chủ yếu CPH
các DNNN có quy mô nhỏ; CPH còn mang tính khép kín và chậm đổi mới,
một số vấn đề tiêu cực sau CPH DNNN. Luận án đề xuất một số quan
điểm, phương hướng đẩy nhanh CPH DNNN và hạn chế tiêu cực nảy sinh
sau CPH. Tuy vậy, luận án cũng mới chỉ đưa ra một số giải pháp hạn chế
tiêu cực sau cổ phần hóa nói chung ở Việt Nam, còn nhiều bất cập chưa
được đề cập trong luận án do điều kiện lịch sử và phạm vi khảo sát.
Trần Đình Cường (2010), Hoàn thiện phương pháp xác định giá trị
doanh nghiệp trong CPH ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Luận án khẳng định cần thiết phải xác định giá trị
doanh nghiệp, đưa ra những giải pháp xác định giá trị doanh nghiệp có cơ sở
kế hoạch và phù hợp với điều kiện kinh tế ở Việt Nam, đưa ra một số phương
pháp xác định giá trị doanh nghiệp phổ biến trên thế giới phù hợp với Việt
Nam: Phương pháp thu nhập, phương pháp tài sản và phương pháp giá thị
trường. Luận án cũng nghiên cứu, phân tích lí luận về các mô hình xác định
giá trị doanh nghiệp đang được áp dụng rộng rãi trong nước và quốc tế. Sử
dụng phương pháp liệt kê, so sánh, phân tích, đánh giá, luận án đã làm nổi bật
nội dung căn bản, những ưu, nhược điểm đối tượng áp dụng của từng phương
pháp xác định giá trị doanh nghiệp kể cả mặt lí luận và thực tiễn. Góp phần
hoàn thiện hệ thống lí luận phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp cũng
như xác định tính chất ưu tiên khi lựa chọn phương pháp xác định giá trị
doanh nghiệp, luận án cũng khảo sát được kinh nghiệm của một số nước trên
thế giới về thực tiễn xác định giá trị doanh nghiệp từ đó rút ra bài học kinh
nghiệm và giải pháp phù hợp với điều kiện nên kinh tế ở Việt Nam. Luận án
6


đã chỉ ra những hạn chế trong các quy định về xác định giá trị doanh nghiệp,
đề xuất, bổ sung, sửa đổi các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp để

phản ánh đúng hơn giá trị DN và có tính khả thi cao trong thực tế. Tuy vậy,
luận án khảo sát đến năm 2008, thời gian đã lâu nhiều vấn đề đã có sự thay
đổi, mặt khác luận án viết vào thời điểm thực hiện Nghị định số
109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ về việc chuyển doanh
nghiệp 100% vốn Nhà nước thành công ty cổ phần. Đến nay, đã được thay thế
bằng Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 của Chính phủ.
Nguyễn Thị Huyền (2010), CPH các DNNN tại Việt Nam, thực trạng
và giải pháp hoàn thiện, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Ngoại thương, Hà nội.
Đề tài nghiên cứu đã nêu được các thành tựu và hạn chế cơ bản của CPH các
DNNN ở Việt Nam và các nguyên nhân, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện
hoạt động CPH các DNNN tại Việt Nam. Tuy nhiên, đề tài tác giả nghiên cứu
và bảo vệ từ tháng 5/2010, thời điểm CPH DNNN được điều chỉnh bởi Nghị
định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26 /6/2007 của Chính phủ, nên nhiều vấn đề
cho đến nay không còn phù hợp nữa. Bởi đã có hai Nghị định của Chính phủ
về vấn đề này thay thế, đó là Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 và
Nghị định số 189/2013/NĐ-CP ngày 20/11/2013.
Đã có những bài viết về từng mặt của những vấn đề nảy sinh trước,
trong và sau CPH DNNN như: “Các vấn đề tồn tại và phát sinh của DN sau
CPH và đa dạng hóa sở hữu” của TS. Trần Tiến Cường, tài liệu Hội thảo về
CPH năm 2001; “Một số vướng mắc về tài chính đối với DN sau CPH và đa
dạng sở hữu” của Lê Hoàng Hải, Trưởng ban CPH, Cục Tài chính DN, Bộ
Tài chính, tài liệu Hội thảo về CPH năm 2001; Một số bài viết: “Kinh nghiệm
quốc tế về đổi mới doanh nghiệp và cổ phần hóa” của Văn phòng Chính phủ,
tháng 4/1998; “Tiếp tục đẩy nhanh, mạnh CPH DNNN” của PGS.TS. Nguyễn
Thị Doan đăng trên Tạp chí Cộng sản, tháng 1/2002, đề cập đến thực trạng
CPH DNNN ở Việt Nam và đề xuất một số giải pháp thực hiện. Bài viết của
7


Thạc sỹ Nguyễn Duy Long “Bên cạnh những kết quả đạt được trong tiến

trình thực hiện cổ phần hóa DNNN, thực tế vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế bắt
nguồn từ cơ chế chính sách dẫn đến việc triển khai cổ phần hóa doanh
nghiệp chậm so với kế hoạch” đăng trên Tạp chí Tài chính, số 8/2013, phân
tích những bất cập từ cơ chế chính sách CPH DNNN tại Nghị định
59/2011/NĐ-CP về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty
cổ phần; đồng thời đưa ra những đề xuất sửa đổi, bổ sung về công tác CPH
DNNN. Bài viết của tác giả Đỗ Kim Dư “Để công cuộc tái cơ cấu DNNN
không đơn thuần là thay áo mới” đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số
1/2014. Bài viết của TS. Nguyễn Đức Kiên “ Vài suy nghĩ về CPH DNNN”
đăng trên Tạp Chí Tài chính số 11-2013. Bài “ Đẩy nhanh tiến trình đổi mới,
sắp xếp và CPH DNNN” của tác giả Tuấn Kiệt đăng trên Tạp chí Tài chính số
12-2013. Luận văn Thạc sỹ “ Cổ phần hóa DNNN trên địa bàn Hải Phòng”
của tác giả Nguyễn Quốc Khánh, Đại học Bách khoa Hà Nội, năm 2001. Luận
văn đã nghiên cứu về cổ phần hóa DNNN trên địa bàn Hải Phòng bao gồm cả
các DNNN thuộc các bộ, ngành ở Trung ương đóng trên địa bàn. Luận văn đã
đánh giá được một số thực trạng và đề xuất được một số giải pháp đẩy nhanh
tiến độ CPH DNNN trên địa bàn. Tuy vậy, các giải pháp của Luận văn chưa
có tính đột phá và mang tính khả thi cao, bởi vì thời điểm Luận văn nghiên
cứu là thời điểm mới thực hiện Nghị quyết TW 3 khóa IX của Đảng và Nghị
định số 64/2002/NĐ-CP của Chính phủ về chuyển DNNN thành CTCP. Mặt
khác, sự đòi hỏi bức xúc của thực tiễn chưa đủ để tạo nên áp lực đối với các
DNNN phải CPH. Đối với thành phố Hải Phòng, để thực hiện quá trình CPH
DNNN của Thành phố, đã có nhiều đề án, các báo cáo tổng kết hàng năm và
tổ chức nhiều cuộc hội thảo và họp bàn về CPH DNNN của Thành phố. Tuy
nhiên, đó là những văn bản và bài viết đơn lẻ về từng mặt, là những đề án
triển khai hoặc tổng kết có tính liệt kê số liệu, chưa có những đánh giá và
phân tích mang tính hệ thống và đầy đủ trên phương diện khoa học. Năm
8



2002, bản thân tác giả đã thực hiện Khóa luận tốt nghiệp cử nhân kinh tế, Đại
học Quốc gia Hà Nội với đề tài : “Cổ phần hóa DNNN ở thành phố Hải
Phòng” và năm 2006 đề tài tốt nghiệp Cao cấp lí luận chính trị , Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: “Chính sách đối với người lao động khi các
DNNN CPH ở Hải Phòng”. Những vấn đề tác giả đề cập trong hai đề tài trên,
một là, do thời gian nghiên cứu đã lâu, có nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn
đã thay đổi, hai là, chỉ đề cập chủ yếu đến chính sách đối với người lao động
khi DNNN của Hải Phòng CPH.
Tóm lại, những công trình và bài viết trên đã tiếp cận nghiên cứu CPH
DNNN chủ yếu ở phạm vi toàn quốc, các ngành, các địa phương khác nhau,
nội dung nghiên cứu ở một số mặt riêng biệt như : Phương pháp xác định giá
trị doanh nghiệp; Giải quyết lao động dôi dư; Vấn đề đa dạng hóa sở hữu;
Những vướng mắc về tài chính sau CPH,... Các công trình trên ở từng mặt đã
đề xuất được một số giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN ở Việt
Nam, ở từng ngành và từng địa phương như giải pháp về cơ chế, chính sách
giải quyết lao động dôi dư, sự chậm chuyển đổi trong quản lí điều hành,
những vướng mắc chưa thống nhất nhận thức về CPH, những tính toán giá trị
doanh nghiệp chưa đầy đủ dẫn đến thất thoát nguồn lực của Nhà nước, bộ
máy thực hiện công tác CPH DNNN chưa chuyên nghiệp,... Tuy vậy, những
công trình trên chưa đề ra được các giải pháp hữu hiệu có tính đột phá để đẩy
nhanh tiến độ CPH DNNN, đưa ra những giải pháp xử lí, đáp ứng yêu cầu
bức xúc của thực tiễn và tiến độ của CPH DNNN của Hải Phòng theo chỉ đạo
của Chính Phủ. Đồng thời khắc phục và giải quyết dứt điểm những vấn đề về
CPH và hậu CPH như: Vấn đề đất đai và quyền sở hữu tài sản, khả năng tiếp
cận vốn tín dụng, lao động dôi dư và vấn đề bán cổ phần, về công nghệ, về
quản trị công ty, về phân phối, về nợ của doanh nghiệp và các vấn đề xã hội
nảy sinh sau cổ phần hóa DNNN. Đặc biệt, chưa có công trình nào nghiên cứu
toàn diện về CPH DNNN của Thành phố Hải Phòng, nhất là trong thập niên
9



gần đây. Những hạn chế của các công trình trên là do điều kiện lịch sử và
phạm vi khảo sát, thời gian nghiên cứu đã lâu, có nhiều vấn đề cả về lí luận và
thực tiễn đến nay không còn phù hợp nữa. Vì vậy, đề tài nghiên cứu mà tác
giả lựa chọn cho Luận văn này là đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống và bài
bản tiến trình CPH DNNN của thành phố Hải Phòng, đề xuất các giải pháp và
các nhóm giải pháp mà các công trình trên chưa đề cập đến hoặc chưa đề cập
đầy đủ, nhằm đẩy nhanh tiến trình này theo đúng kế hoạch mà thành phố đã
đề ra, mặt khác đảm bảo chủ trương CPH DNNN thực sự là ưu việt với đầy
đủ tính khoa học của nó, không bị những vấn đề sau CPH DNNN làm méo
mó chủ trương đúng đắn này. Đây là một cách tiếp cận mới có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn, là một vấn đề rất được các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và
người lao động ở Hải Phòng quan tâm hiện nay. Đây cũng là công trình tiếp
nối của tác giả luận văn để đảm bảo tính hệ thống về CPH DNNN của thành
phố Hải Phòng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa lại một số khía cạnh lý luận và thực tiễn về cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước, phân tích và đánh giá thực trạng cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước của thành phố Hải Phòng, Luận văn sẽ đề xuất
một số phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước của thành phố thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa lại cơ sở lí luận và thực tiễn về cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước trong tình hình hiện nay.
- Trình bày, phân tích và đánh giá thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước của thành phố Hải Phòng.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước của thành phố Hải Phòng thời gian tới.
10



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
*Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về cổ phần hóa DNNN ở
Việt Nam nói chung và của thành phố Hải Phòng nói riêng.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Nghiên cứu cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước
trực thuộc Thành phố Hải Phòng
- Về thời gian: Nghiên cứu tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước của Thành phố Hải Phòng từ những năm đầu đổi mới, tập trung nghiên
cứu, đánh giá số liệu các DNNN đã CPH của Hải Phòng từ năm 2005 đến nay
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta; các chỉ thị, nghị quyết của Thành ủy,
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng về công tác cổ
phần hóa DNNN, đồng thời sử dụng số liệu khảo sát thực tế, tham khảo các
tài liệu có liên quan và kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa
học liên quan đã công bố.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế chính
trị, đó là phương pháp biện chứng duy vật, trừu tượng hóa khoa học. Ngoài ra,
Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân tích, so
sánh và quy nạp. Đặc biệt, để thực hiện việc nghiên cứu thực trạng CPH
DNNN của thành phố Hải Phòng, tác giả đã sử dụng phương pháp điều tra xã
hội học, thực hiện việc khảo sát các doanh nghiệp nhà nước đã CPH của Hải
Phòng để có những kết luận tương đối chính xác, phục vụ cho mục đích
nghiên cứu của Luận văn.
11



6. Ý nghĩa của đề tài
- Luận văn đã hệ thống hóa lại một số vấn đề lí luận và thực tiễn về cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
- Luận văn phân tích, làm rõ những kết quả và hạn chế của tiến trình
CPH DNNN của thành phố Hải Phòng cho đến nay, cùng những nguyên nhân
chủ yếu của chúng, và trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp chủ yếu thúc
đẩy CPH DNNN của thành phố trong tương lai.
- Nhờ đó, Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức
năng trong hoạch định cơ chế, chính sách tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới và các chính sách của hậu cổ phần
hóa. Đồng thời, Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy kinh
tế chính trị ở các trường cao đẳng, đại học.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các chữ viết tắt, danh mục các
bảng, biểu, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, Luận văn có 3 chương (7
tiết).

12


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CỔ PHẦN HÓA
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

1.1. Những vấn đề lý luận chung về công ty cổ phần và cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước
1.1.1. Công ty cổ phần
* Khái niệm

Công ty cổ phần là một loại hình tổ chức kinh doanh phổ biến trong
nền kinh tế thị trường hiện đại. Nhưng trên thực tế, công ty cổ phần đã xuất
hiện từ lâu trong lịch sử. Đến giữa thế kỷ 19, công ty cổ phần đã phát triển
rộng rãi và trở thành loại hình doanh nghiệp phổ biến ở các nước tư bản. Ở
các nước khác nhau, công ty cổ phần có thể có tên gọi khác nhau, ở Pháp là
công ty vô danh, ở Anh là công ty TNHH, ở Mỹ gọi là công ty kinh doanh và
ở Nhật Bản là công ty chung cổ phần,...
Ở Việt Nam, theo Điều 110, Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2015, công ty cổ phần được định nghĩa như
sau: Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:
Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; Cổ
đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là 03 và không hạn
chế số lượng tối đa; Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa
vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh
nghiệp; Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người
khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 và khoản 1 Điều 126 của
Luật này. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Công ty cổ phần có quyền phát hành cổ
phần các loại để huy động vốn.
Hiện nay, có ý kiến cho rằng công ty cổ phần là các doanh nghiệp xã hội
hoá. Điều này chỉ đúng về hình thức, vì nó có sự tham gia của tất cả các thành phần
13


kinh tế trong xã hội. Nhưng về bản chất, chúng ta phải xem xét quan hệ sở hữu
trong doanh nghiệp mới thấy rõ. Chúng ta biết rằng, xã hội hoá tư liệu sản xuất thực
chất là công hữu hoá tư liệu sản xuất, dưới hai hình thức: Sở hữu toàn dân và sở
hữu tập thể. Công ty cổ phần là tài sản của nhiều chủ sở hữu. Họ là những đồng chủ
sở hữu, tập thể các chủ sở hữu chứ không làm xuất hiện sở hữu tập thể. Một số
quan điểm cho rằng : Công ty cổ phần là mô hình tổ chức doanh nghiệp của kinh tế

tư nhân. Điều này chỉ đúng nếu công ty chỉ bao gồm những đồng sở hữu không
thuộc thành phần kinh tế Nhà nước và tập thể. Ở đây Nhà nước và tập thể cũng có
thể tham gia góp vốn vào công ty cổ phần, nếu xét thấy cần thiết. Như vậy, công ty
cổ phần là loại hình tổ chức doanh nghiệp với sự tham gia của tất cả các thành phần
kinh tế và vì thế trong mối quan hệ sở hữu nó cũng chấp nhận sự kết hợp của mọi
hình thức sở hữu trong xã hội gồm: Sở hữu Nhà nước, sở hữu tư nhân (gọi chung là
sở hữu hỗn hợp). Công ty cổ phần là hình thức tổ chức doanh nghiệp do nhiều
người cùng thoả thuận, cam kết lập lên, trên cơ sở tự nguyện đóng góp tài sản hoặc
khả năng tài chính của mình, thông qua hình thức mua cổ phiếu.
* Khái niệm về cổ phần, cổ phiếu
Theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2015 thì: Vốn điều lệ chia thành nhiều
phần bằng nhau gọi là cổ phần. Như vậy, cổ phần là những phần tiền bằng
nhau, được quy định trong điều lệ công ty cổ phần và mỗi người tham gia đầu
tư vào công ty này phải góp dưới hình thức mua cổ phiếu. Theo quy định và
khả năng của mình, mỗi cổ đông có thể mua một hay nhiều cổ phần và được
hưởng lợi tức cổ phần theo số lượng cổ phiếu đóng góp vào công ty.
Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi
sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó. cổ phiếu
có thể ghi tên hoặc không ghi tên nhưng phải có đủ nội dung chủ yếu quy
định tại Điều 85 của Luật Doanh nghiệp. Công ty cổ phần phải lập và lưu giữ
sổ đăng ký cổ đông từ khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, sổ
đăng ký cổ đông có thể là văn bản, tập dữ liệu điện tử hoặc cả hai.
14


* Những đặc trưng của công ty cổ phần
Thứ nhất, là tổ chức có tư cách pháp nhân độc lập: Pháp luật về công
ty của các nước đều xác lập một cách cụ thể về các quyền và nghĩa vụ pháp lý
của công ty cổ phần với tư cách là một pháp nhân độc lập, có năng lực và tư
cách chủ thể riêng, tồn tại độc lập và tách biệt với các cổ đông trong công ty.

Trong quá trình hoạt động, công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ của
công ty bằng chính tài sản của mình; với tư cách chủ thể là pháp nhân thông
qua người đại diện của mình theo qui định của pháp luật. Khi công ty mua
sắm các tài sản mới, thì tài sản đó thuộc sở hữu của công ty chứ không thuộc
sở hữu của các cổ đông công ty vì lúc này công ty cổ phần (CTCP) là một
pháp nhân, tách biệt hoàn toàn với các cổ đông.
Thứ hai, chuyển nhượng phần vốn góp một cách tư do: Hầu hết pháp
luật về công ty của các nước trên thế giới đều qui định và cho phép chuyển
nhượng một cách dễ dàng và tự do các loại cổ phiếu do công ty cổ phần phát
hành từ cổ đông sang chủ sở hữu mới. Vì khác với các loại công ty khác, vốn
điều lệ của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ
phần. Giá trị của mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu. Việc góp vốn vào
công ty cổ phần được thực hiện bằng cách mua cổ phiếu nên cổ phiếu được
xem là hình thức thể hiện phần vốn góp của các cổ đông. Các cổ phiếu do
công ty cổ phần phát hành là hàng hoá nên các cổ đông khi sở hữu cổ phiếu
có thể tư do chuyển nhượng; hơn thế nữa trách nhiệm của các cổ đông chỉ
giới hạn trong phạm vi giá trị các cổ phiếu mà họ sở hữu nên khi họ muốn rút
lui khỏi công việc kinh doanh hay muốn bán cổ phiếu của mình cho người
khác thì họ thực hiện rất dễ dàng.
Thứ ba, cấu trúc vốn và tài chính linh hoạt: Đối với công ty cổ phần
vốn là yếu tố quyết định và chi phối toàn bộ hoạt động, quan hệ nội bộ cũng
như quan hệ với các đối tác bên ngoài. Trong quan hệ nội bộ, vốn của công ty
được xem là cội nguồn của quyền lực. Với đặc trưng là loại hình công ty đối
15


vốn, quyền lực trong công ty cổ phần sẽ thuộc về những ai nắm giữ phần lớn
số vốn trong công ty. Trong quan hệ với bên ngoài, vốn của công ty cổ phần
là một dấu hiệu chỉ rõ thực lực tài chính của công ty. Tuy nhiên, khác với
nhiều yếu tố khác, vốn trong công ty cổ phần là yếu tố năng động nhất. Các

qui luật kinh tế thị trường chỉ ra rằng cùng với sự lưu thông hàng hoá là sự
lưu thông tiền tệ, tức là sự chu chuyển các nguồn vốn. Sự phát triển của
CTCP tỷ lệ thuận với sự luân chuyển các nguồn vốn trong nền kinh tế. Sự vận
động của vốn trong công ty cổ phần vừa chịu sự chi phối khách quan của các
qui luật kinh tế, vừa bị ảnh hưởng bởi ý chí chủ quan của con người. Điều này
đặt ra một đòi hỏi là con người phải tạo ra cách thức góp vốn, cách tổ chức và
quản lý vốn để có thể đáp ứng được sự vận động linh hoạt của vốn. Sự linh
hoạt trong vận động của vốn vừa phải thích ứng với yêu cầu đòi hỏi đa dạng
của nhà đầu tư, vừa không mất đi bản chất vốn có của CTCP. Điều đó có
nghĩa là phải tạo cho bản thân công ty cổ phần khả năng chuyển dịch các phần
vốn góp một cách dễ dàng, song tư cách pháp nhân của công ty không vì sự
chuyển nhượng đó mà bị thay đổi.
Thứ tư, các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn: Khi một tổ chức hay
cá nhân mua cổ phiếu của công ty cổ phần tức là họ đã chuyển dịch vốn của
mình theo những phương thức nhất định vào công ty cổ phần và trở thành tài
sản thuộc sở hữu của CTCP, nhưng cổ đông vẫn được hưởng các quyền và
nghĩa vụ phát sinh từ việc góp vốn. Vốn thuộc sở hữu công ty chính là giới
hạn sự rủi ro tài chính của các cổ đông trên toàn bộ số vốn đã đầu tư vào công
ty, nên trách nhiệm của những cổ đông đối với các nghĩa vụ của công ty được
hạn chế trong phạm vi mà họ đã đầu tư vào cổ phiếu của mình. Xét về
phương diện sự tách bạch về tài sản thì các cổ đông không có quyền đối với
tài sản của công ty cổ phần nên họ không chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ
của CTCP; công ty cổ phần chịu trách nhiệm bằng chính tài sản của mình. Cả
công ty cổ phần lẫn chủ nợ của công ty đều không có quyền kiện đòi tài sản
16


của cổ đông trừ trường hợp cổ đông nợ công ty do chưa đóng đủ tiền góp vốn
hoặc chưa thanh toán đủ cho công ty cổ phần số tiền mua cổ phiếu phát hành.
Đây là điểm khác nhau cơ bản về trách nhiệm của các chủ thể kinh doanh, đối

với công ty hợp danh hay doanh nghiệp tư nhân. Tính chất chịu trách nhiệm
hữu hạn trên đã thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư đầu tư vào công ty cổ phần
nhiều hơn so với đầu tư vào các loại hình doanh nghiệp khác mà ở đó họ phải
chịu trách nhiệm vô hạn.
Thứ năm, tính ổn định trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và không
hạn chế về thời gian tồn tại: Đối với công ty cổ phần thì hoạt động kinh doanh
của công ty hoàn toàn không phụ thuộc vào bất kỳ điều gì có thể xảy ra đối
với các cổ đông trong công ty; bởi vì công ty cổ phần có tư cách pháp nhân
độc lập nên nếu có bất kỳ sự rút lui, sự phá sản hoặc thậm chí cái chết có xảy
ra đối với các cổ đông thì công ty cổ phần vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển mà
hoàn toàn không hề bị ảnh hưởng gì. Đây chính là một ưu điểm bảo đảm cho
việc kinh doanh của công ty diễn ra một cách liên tục và ổn định. Mặt khác,
các luật công ty hiện đại của một số nước đều không hạn chế thời gian tồn tại
của công ty cổ phần trừ những trường hợp như: công ty phá sản hoặc các cổ
đông cùng thoả thuận chấm dứt hoạt động hay vì một lý do nào khác mà điều
lệ công ty qui định. Chính sự ổn định trong kinh doanh và thời gian hoạt động
lâu dài đã tạo cho các công ty cổ phần có được sự thu hút mạnh mẽ và được
ưa chuộng hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác.
Thứ sáu, có cơ chế quản lý tập trung cao: Với tư cách là một pháp nhân
độc lập, trong công ty cổ phần có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và cơ chế quản
lý. Đó là việc các cổ đông sẽ bầu ra Hội đồng quản trị và Ban giám đốc sẽ thay
mặt các cổ đông quản lý công ty. Như vậy, trong công ty cổ phần việc quản lý
được tập trung hoá cao vào Ban giám đốc mà không dàn trải đều việc quản lý
cho các cổ đông như đối với công ty hợp danh; bởi vì trong công ty hợp danh
việc quản lý công ty được thực hiện bởi các thành viên hợp danh với tư cách là
17


những người chịu trách nhiệm vô hạn hoặc liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về
các khoản nợ trong kinh doanh của công ty nên họ được toàn quyền quản lý

công ty và nhân danh công ty trong các hoạt động. Sự tách biệt giữa quyền sở
hữu và việc quản lý còn được thể hiện ở việc luật công ty hiện đại của một số
nước còn qui định cho phép giám đốc quản lý công ty có thể không phải là cổ
đông của công ty. Giám đốc có thể là người đại diện theo pháp luật của công ty
cổ phần, là người điều hành các hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty.
Rõ ràng việc qui định như vậy một mặt thu hút được những người quản lý
chuyên nghiệp được công ty thuê làm công tác quản lý, mặt khác tách biệt vai
trò chủ sở hữu với chức năng quản lý đã tạo cho công ty cổ phần có được sự
quản lý tập trung cao thông qua cơ chế quản lý hiện đại, lành nghề nên rất phù
hợp với điều kiện quản lý các doanh nghiệp có qui mô lớn.
* Những con đường hình thành công ty cổ phần:
Một là, thành lập mới công ty cổ phần: Khi thành lập CTCP thường người
ta phải giải quyết hàng loạt các vấn đề về kinh tế và biện pháp hết sức phức tạp.
Hai là, chuyển các doanh nghiệp không phải là CTCP thành CTCP:
- Chuyển các DNNN thành công ty cổ phần (hay CPH DNNN): Thực tế,
những nước có nền kinh tế thị trường phát triển như: Anh, Mỹ, Pháp,… đã cho
thấy việc CPH các DNNN là phức tạp và khó khăn. Để tháo gỡ những khó khăn
phức tạp của CPH các DNNN, đòi hỏi mỗi quốc gia, dân tộc phải có hệ thống
chính sách với nội dung cụ thể về CPH. Đặc biệt là xử lý lợi ích của nhà nước,
tập thể và người lao động; nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
- Chuyển các doanh nghiệp không phải là các DNNN thành các công ty cổ
phần: Các doanh nghiệp này do yêu cầu phát triển, tìm kiếm lợi ích, chuyển
hướng đầu tư, tránh bớt rủi ro trong kinh doanh, góp vốn hình thành các CTCP.
Như vậy, việc thành lập các công ty cổ phần ở doanh nghiệp ngoài quốc
doanh là thuận lợi, vì mọi cổ đông đều có chung một mục đích ngay từ đầu nên
họ đến với nhau thỏa thuận thành lập CTCP là hoàn toàn tự chủ và tự nguyện.
18


Vậy cổ phần hóa thực chất là phương thức đa dạng hóa sở hữu, chuyển

hình thức tổ chức quản lý SXKD của các doanh nghiệp.
1.1.2. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
* Khái niệm doanh nghiệp Nhà nước
Theo Luật doanh nghiệp Nhà nước do Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 20/4/1995, DNNN được định nghĩa như
sau: DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức
quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các
mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước giao. Như vậy, DNNN là tổ chức kinh tế
được Nhà nước thành lập để thực hiện những mục tiêu do Nhà nước giao và
DNNN do Nhà nước đầu tư vốn nên tài sản trong doanh nghiệp là thuộc sở
hữu Nhà nước, còn doanh nghiệp chỉ quản lý, sử dụng tài sản theo quy định
của chủ sở hữu là Nhà nước.
DNNN có tư cách pháp nhân có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu
trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh
nghiệp quản lý. Nghĩa là DNNN chịu trách nhiệm hữu hạn về số nợ và các
nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số tài sản do doanh nghiệp quản lý.
Tất cả các DNNN đều là tổ chức kinh tế do Nhà nước thành lập. Tài sản
trong doanh nghiệp là một bộ phận của tài sản Nhà nước do Nhà nước đầu tư
vốn và Nhà nước sở hữu về vốn. DNNN là một chủ thể kinh doanh nhưng chỉ
có quyền quản lý kinh doanh trên cơ sở sở hữu của Nhà nước. DNNN là đối
tượng quản lý trực tiếp của Nhà nước, chịu trách nhiệm trước Nhà nước về việc
bảo toàn và phát triển số vốn của Nhà nước giao cho, đồng thời thực hiện các
mục tiêu mà Nhà nước giao.
Theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX và Hội nghị
BCH TW lần thứ 3 khoá IX thì quan niệm về DNNN có đổi mới và được phát
triển thêm một bước quan trọng. Theo đó, DNNN không chỉ do Nhà nước
nắm giữ 100% vốn mà còn bao gồm cả doanh nghiệp do Nhà nước chiếm cổ
phần chi phối.

19



Theo Điều 1, Luật DNNN năm 2003 quy định: “DNNN là tổ chức kinh
tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối,
được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn”. Trong đó, công ty nhà nước giữ quyền chi phối doanh
nghiệp khác là công ty sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc là cổ phần, vốn góp
chiếm trên 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp khác, giữ quyền chi phối đối
với doanh nghiệp đó. Và quyền chi phối đối với doanh nghiệp là quyền định
đoạt đối với hoạt động, việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh
quản lý chủ chốt, việc tổ chức quản lý và các quyết định quản lý quan trọng
khác của doanh nghiệp đó (Điều 3, khoản 7.8 Luật DNNN 2003). Trên quan
điểm kế thừa và đổi mới Luật DNNN năm 2003, Điều 4, khoản 22 và khoản 1
Luật DNNN năm 2005 quy định: “DNNN là tổ chức kinh tế có tên riêng, có
tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định
của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh theo quy
định của pháp luật, trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ”. Như
vậy, đối tượng DNNN đã được mở rộng ra, trong mọi trường hợp, dù doanh
nghiệp được hình thành dưới bất kì hình thức nào, chỉ cần có trên 50% vốn
điều lệ thuộc sở hữu Nhà nước sẽ được coi là DNNN. Đặc biệt, điểm mới ở
đây là sự giải phóng về mặt quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp khi
loại bỏ điều kiện về “Cổ phần vốn góp chi phối” và “giữ quyền chi phối” đối
với doanh nghiệp.
Tuy vậy, do thực tiễn phát triển kinh tế của đất nước và xu thế hội nhập
sâu rộng quốc tế, nhất là hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện chủ trương của
Đảng và Nhà nước tái cơ cấu nền kinh tế, cơ cấu lại DNNN, đổi mới mô hình
tăng trưởng nên cần phải có một luật chung điều chỉnh các loại hình doanh
nghiệp. Do vậy, ngày 26/11/2014 Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ 8 đã thông
qua Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 có hiệu lực thi hành từ ngày
01/7/2015. Tại Luật này khái niệm DNNN vẫn dựa trên cơ sở phần vốn điều

20


lệ mà Nhà nước nắm giữ, nhưng tỉ lệ Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ
mới được gọi là DNNN.
* Cổ phần hoá (CPH): CPH nói chung có thể diễn ra tại các doanh
nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh và tại các
DNNN. CPH theo nghĩa rộng là quá trình chuyển một doanh nghiệp từ các
hình thức tổ chức kinh doanh khác sang hình thái công ty cổ phần.
* Cổ phần hóa DNNN:
Khái niệm: CPH DNNN là việc Nhà nước bán một phần hay toàn bộ
phần vốn của mình có trong doanh nghiệp nhà nước cho các đối tượng là tổ chức
kinh tế, tổ chức chính trị - xã hội, các tập thể và cá nhân trong và ngoài nước
bằng hình thức đấu giá công khai hay thông qua thị trường chứng khoán. CPH
DNNN là phương thức thực hiện xã hội hóa sở hữu, chuyển hình thức kinh
doanh một chủ sở hữu là Nhà nước trong doanh nghiệp thành CTCP với đa sở
hữu để tạo ra một mô hình doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị trường.
Xét về bản chất CPH DNNN chính là phương thức thực hiện xã hội hoá
sở hữu, chuyển hình thái kinh doanh một chủ sở hữu Nhà nước trong doanh
nghiệp thành nhiều chủ sở hữu, tức là chuyển từ hình thức sở hữu đơn nhất
sang đa chủ sở hữu thông qua việc chuyển một phần tài sản của doanh nghiệp
cho người khác để tạo ra một doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị trường,
những người này trở thành chủ sở hữu của doanh nghiệp theo tỷ lệ cổ phần mà
họ sở hữu. CPH DNNN chính là quá trình chuyển đổi toàn bộ những DNNN
mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn điều lệ thành công ty cổ phần.
CPH DNNN gắn liền với việc DNNN chuyển sang hoạt động dưới tên công ty
và luật Doanh nghiệp, không còn là DNNN nữa.
Ở Việt Nam, một số người còn nhầm lẫn giữa CPH DNNN và tư nhân
hoá. Một số nghiên cứu cho rằng việc thực hiện tư nhân hoá các doanh nghiệp
nhà nước cũng gần tương đồng với quá trình cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam.

Nhưng tư nhân hoá DNNN là một khái niệm rộng và được định nghĩa theo
21


nhiều cách khác nhau. Có thể hiểu tư nhân hóa DNNN là quá trình chuyển đổi
hình thức sở hữu từ Nhà nước sang tư nhân, đồng thời, chuyển các lĩnh vực
sản xuất kinh doanh từ Nhà nước độc quyền sang cho tư nhân đảm nhiệm.
Nhưng trên thực tế, CPH DNNN và tư nhân hoá DNNN về bản chất lại
khác nhau ở một số điểm sau:
Thứ nhất, CPH DNNN nhằm thực hiện đa dạng hoá sở hữu, nhưng Nhà
nước vẫn giữ tỷ lệ cổ phần chi phối 51% trở lên (đối với những Doanh nghiệp
được xác định là quan trọng đối với nền kinh tế), Nhà nước vẫn có thể chi
phối doanh nghiệp sau CPH DNNN. Trong khi tư nhân hoá DNNN, Nhà nước
thường bán lại toàn bộ doanh nghiệp cho tư nhân (có thể một vài cá nhân)
hoặc nếu Nhà nước có giữ lại cổ phần nhưng thường với tỷ lệ không lớn và
không phải là cổ phần chi phối.
Thứ hai, CPH DNNN nhằm tạo cho DNNN sau khi cổ phần hoá với cơ
chế hoạt động nhiều chủ sở hữu hơn, không khẳng định tầm quan trọng của
thành phần kinh tế nào hơn nhưng với tư nhân hoá theo một số quan điểm lại là
biện pháp nhằm tăng vai trò của thành phần kinh tế tư nhân, ví dụ như xoá bỏ
điều tiết Nhà nước, cho phép tư nhân tiếp cận thị trường trước cả DNNN.
Thứ ba, CPH DNNN là Nhà nước bán ra một hay nhiều phần hoặc
toàn bộ giá trị tư liệu sản xuất của một số DNNN cho các tổ chức, cá nhân, có
thể là quốc doanh, tập thể hoặc tư nhân. Tức là chuyển sang sở hữu nhiều chủ,
được gọi là các cổ đông, thuộc các thành phần kinh tế khác nhau chứ không
thuần tuý là tư nhân hoá. Ngoài sự khác biệt căn bản nêu trên, ta thấy rằng
Nhà nước quy định giới hạn với một số loại hình DNNN, đồng thời cụ thể
mức độ các tài sản được cổ phần hoá. Điều đó cho phép thực hiện CPH
DNNN nhưng không tư nhân hoá toàn bộ nền kinh tế.
* Vị trí và vai trò của cổ phần hóa DNNN

Môt là, cổ phần hóa DNNN giải tỏa được bế tắc khủng hoảng về vốn
cho doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa để tạo điều kiện cho nó mở rộng sản
22


xuất kinh doanh, giảm nhẹ gánh nặng tài chính cho Nhà nước, Nhà nước có
thể thu hồi vốn đầu tư ở doanh nghiệp để chuyển sang đầu tư các hoạt động
ưu tiên hơn nhằm tạo đòn bẩy thúc đẩy phát triển của toàn bộ xã hội, như đầu
tư cho kết cấu hạ tầng kỹ thuật công trình phúc lợi, giáo dục khoa học,...
Hai là, cổ phần hóa DNNN thông qua đa dạng hóa sở hữu tạo động lực
cho người lao động. Cổ phần hóa bảo đảm sở hữu hóa cho người lao động tại
công ty, xí nghiệp bằng cách cho họ tham gia đầu tư mua cổ phiếu, thực hiện
quyền làm chủ thực sự, có tính vật chất trên phần vốn đóng góp của họ và
thực sự phấn đấu hăng hái cho nâng cao hiệu quả đồng vốn có.
Ba là, cổ phần hóa cho phép dứt bỏ được chế độ bao cấp ngân sách của
Nhà nước, gạt bỏ chỉ đạo nhiều chi phí kinh tế của các cơ quan chủ quản bên
trên. Đồng thời làm cho doanh nghiệp thực sự trở thành chủ thể kinh doanh,
chỉ hoạt động vì mục tiêu của doanh nghiệp.
Bốn là, cổ phần hóa tạo điều kiện cải tiến, đổi mới công tác lãnh đạo
quản lý doanh nghiệp, tập trung vào đồng bộ thống nhất thực sự vì lợi ích
chung và lợi ích riêng trong doanh nghiệp.
Năm là, cổ phần hóa tạo điều kiện cho doanh nghiệp cổ phần được tự chủ,
chủ động trong quan hệ tự nguyện liên doanh, liên kết kinh tế với các tổ chức và
cá nhân trong và ngoài nước, mở ra khả năng tự nguyện hợp tác kinh doanh.
Như vậy, cổ phần hóa DNNN là con đường ngắn nhất vừa bảo toàn vốn
cho Nhà nước, giúp các doanh nghiệp tồn tại và phát triển, thực hiện những
chủ trương của Đảng và Nhà nước, thu hút được nguồn vốn trong dân, vừa
tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, khuyến khích được mọi thành phần kinh
tế tham gia đầu tư phát triển
- Mục đích CPH DNNN

Để đổi mới và phát triển có hiệu quả khu vực kinh tế Nhà nước nhằm
phát huy vai trò nòng cốt của nó trong nền kinh tế thị trường, việc cổ phần
hoá DNNN nhằm đáp ứng nhu cầu tăng vốn dài hạn cho nền kinh tế, nâng
23


cao năng lực, hiệu quả kinh doanh, tạo thêm việc làm và thu nhập cho người
lao động. Ở nước ta, CPH DNNN không phải là tư nhân hoá mà là quá trình
tăng cường sức mạnh kinh tế của đất nước, làm cho nền kinh tế hoạt động
hiệu quả theo nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng Xã hội Chủ
nghĩa. Đồng thời, CPH DNNN là biện pháp và phương hướng để thực hiện
công bằng xã hội. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng
12/1986) chủ trương tiến hành cổ phần hóa là “để huy động vốn, tạo thêm
động lực thúc đẩy DNNN kinh doanh có hiệu quả, làm cho tài sản nhà nước
ngày càng tăng lên,…”; Nghị quyết Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khóa VII
của Đảng “Để thu hút thêm các nguồn vốn, tạo thêm động lực, ngăn chặn tiêu
cực, thúc đẩy DNNN làm ăn hiệu quả cần thực hiện các hình thức CPH
DNNN có mức độ phù hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất kinh doanh;
trong đó sở hữu nhà nước chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối,…”; Nghị quyết số 10NQ/TW ngày 17/3/1995 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới để phát huy vai
trò DNNN “Tùy tính chất, loại hình DNNN mà tiến hành bán một số tỷ lệ cổ
phần cho cán bộ công nhân viên chức,… và cá nhân ngoài doanh nghiệp”.
Nghị quyết Đại hội VIII (7/1996) “Triển khai tích cực và vững chắc việc CPH
DNNN để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm
ăn hiệu quả, làm cho tài sản nhà nước ngày càng tăng,…”. Thông báo ý kiến
của Bộ Chính trị khóa VIII số 63-TB/TW ngày 04/4/1997, “CPH DNNN phải
xuất phát từ yêu cầu phát triển của DNNN nhằm huy động thêm vốn của cả
bên trong và bên ngoài doanh nghiệp để mở rộng ngành nghề, hiện đại hóa
công nghệ, tạo thêm việc làm, phân công lại lao động, phát triển sản xuất,
tăng thêm khả năng cạnh tranh, tích lũy cho doanh nghiệp, đóng góp cho ngân
sách, và thu nhập cho người lao động. CPH DNNN phải làm cho tiềm lực

kinh tế của Nhà nước tăng lên, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ngày
càng cao, góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước theo định hướng Xã hội
Chủ nghĩa”,… Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 của Chính phủ
24


nêu mục tiêu CPH DNNN : “Chuyển đổi những doanh nghiệp mà Nhà nước
không cần giữ 100% vốn sang loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu;
huy động vốn của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài để nâng cao năng
lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lí nhằm nâng cao
hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà
nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động trong doanh nghiệp. Thực
hiện công khai, minh bạch theo nguyên tắc thị trường; khắc phục tình trạng
CPH DNNN khép kín trong nội bộ doanh nghiệp; gắn với phát triển thị
trường vốn, thị trường chứng khoán”.
Đối với Thành phố Hải Phòng, ngay từ những năm đầu đổi mới đã sớm
tiếp nhận chủ trương CPH DNNN, coi CPH DNNN là một giải pháp quan
trọng trong cải cách DNNN. Xuất phát từ tình hình kinh tế-xã hội của thành
phố Hải Phòng; từ thực trạng các DNNN của Hải Phòng về quy mô vốn, quy
mô lao động, cơ cấu ngành nghề, hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả năng
cạnh tranh, Thành ủy, UBND thành phố đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo,
định hướng công tác sắp xếp lại DNNN, trong đó CPH DNNN được đặc biệt
quan tâm. Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 20/02/2002 của Ban Thường vụ
Thành ủy Hải Phòng về “thực hiện Nghị quyết TW3 Khóa IX”; Quyết định số
454/QĐ-UB ngày 27/02/2002 của UBND thành phố Hải Phòng về ban hành
“Chương trình hành động thực hiện nghị quyết TW3 khóa IX” đã chỉ rõ : Sắp
xếp, cổ phần hóa DNNN để DNNN của Hải Phòng có cơ cấu hợp lý, hoạt
động có hiệu quả và sức cạnh tranh cao, chiếm được thị trường phần lớn trong
những ngành và lĩnh vực kinh tế then chốt nhằm đảm bảo ổn định kinh tế vĩ
mô và các cân đối lớn của nền kinh tế thành phố, làm nòng cốt đẩy nhanh tăng

trưởng kinh tế và xây dựng công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất, công nghiệp
sản xuất công nghệ cao góp phần tạo nền tảng cho sự nghiệp CNH-HĐH đất
nước và thành phố. Phải đảm bảo thật tốt giữa ngành và lãnh thổ, phát huy cao
độ lợi thế của thành phố.
25


×