Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ GIẢI QUYẾT VIỆC làm CHO LAO ĐỘNG THU hồi đất NÔNG NGHIỆP ở QUẬN hà ĐÔNG, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.01 KB, 93 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO
LAO ĐỘNG DIỆN THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP Ở
QUẬN HÀ ĐÔNG THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ KINH

3
11

NGHIỆM TRONG NƯỚC

1.1.

Thu hồi đất nông nghiệp và tác động của nó đến việc
làm của lao động diện thu hồi đất
Quan niệm, nội dung và các yếu tố tác động đến giải
quyết việc làm cho lao động diện thu hồi đất nông
nghiệp ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho lao động diện thu
hồi đất nông nghiệp ở một số quận, huyện và bài học rút
ra cho quận Hà Đông

11

Chương 2 THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO

33

1.2.


1.3.

19
28

ĐỘNG DIỆN THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP Ở QUẬN
HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN QUA

2.1.

Tổng quan tình hình thu hồi đất nông nghiệp ở quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội
Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra
trong giải quyết việc làm cho lao động diện thu hồi đất nông
nghiệp ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội thời gian qua

33

Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC

60

2.2.

36

LÀM CHO LAO ĐỘNG DIỆN THU HỒI ĐẤT NÔNG
NGHIỆP Ở QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
THỜI GIAN TỚI


3.1.
3.2.

Quan điểm cơ bản định hướng giải quyết việc làm cho lao
động diện thu đất nông nghiệp quận Hà Đông, thành phố
Hà Nội
Giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho lao động diện
thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn quận Hà Đông,
thành phố Hà Nội thời gian tới

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

60
65
80
82
88

MỞ ĐẦU

2


1. Lý do chọn đề tài

Việc làm không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề xã hội có tính
chất toàn cầu, là mối quan tâm hàng đầu của toàn nhân loại nói chung, của

mỗi quốc gia, dân tộc nói riêng. Chất lượng, hiệu quả của GQVL cho người
lao động luôn gắn liền với sự ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền vững
của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, vấn đề GQVL cho người lao động nói
chung và lao động diện thu hồi đất, thu hồi đất nông nghiệp nói riêng luôn
được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng đã xác định: “Thực hiện tốt các chính sách về lao động, việc
làm, tiền lương, thu nhập nhằm khuyến khích và phát huy cao nhất năng lực
của người lao động. Bảo đảm quan hệ hài hòa, cải thiện môi trường và điều
kiện lao động. Đẩy mạnh dạy nghề và tạo việc làm” [12, tr.125].
Là một quận nội thành của Thủ đô Hà Nội, những năm qua, quận Hà
Đông đã đạt được nhiều thành tựu về GQVL cho người lao động đặc biệt là
lao động diện thu hồi đất nông nghiệp thông qua việc triển khai và tổ chức
thực hiện hàng loạt các chương trình phát triển KT - XH gắn với giải quyết
các vấn đề về GQVL. Chủ trương phát triển KT - XH và gắn với vấn đề
GQVL của Thành phố Hà Nội nói chung và của quận Hà Đông nói riêng đã
có tác động tích cực đến tăng cầu SLĐ, thúc đẩy TTSLĐ phát triển, cơ cấu lại
lực lượng lao động, góp phần nâng cao chất lượng lao động, tạo môi trường
và nhiều cơ hội cho lao động diện thu hồi đất nông nghiệp tìm được việc làm,
ổn định đời sống. Tuy nhiên, kết quả trên chưa phải là nhiều trong điều kiện
sức ép về việc làm của Thành phố, của Quận đặc biệt là đối với lao động diện
thu hồi đất nông nghiệp ngày càng gia tăng dưới tác động của quá trình đô thị
hoá, CNH, HĐH. Trong quá trình cơ cấu, sắp xếp lại DN, một bộ phận lao
động chưa đáp ứng được yêu cầu mới về tuyển dụng, nhưng không thể đào
tạo lại, bị mất việc làm; vấn đề chuyển đổi ngành nghề, đào tạo, phục hồi thu
nhập cho số lao động trong diện thu hồi đất để phục vụ yêu cầu của quá trình

3


CNH, HĐH và đô thị hoá còn nhiều khó khăn... càng làm cho vấn đề GQVL

trở nên bức xúc.
Xuất phát từ những lý do đó, tác giả lựa chọn nội dung: “Giải quyết việc
làm cho lao động diện thu hồi đất nông nghiệp ở quận Hà Đông, thành phố
Hà Nội” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Liên quan đến vấn đề nghiên cứu đã có nhiều công trình được công bố
trên các góc độ tiếp cận khác nhau:
- Lê Du Phong làm chủ biên (2007): “Thu nhập, đời sống, việc làm

của người có đất bị thu hồi để xây dựng các KCN, khu đô thị, kết cấu hạ tầng
KT - XH, các công trình công cộng phục vụ lợi ích Quốc gia”. Tác giả đã
cung cấp những luận cứ khoa học, cơ sở thực tiễn và làm rõ tính tất yếu của
quá trình thu hồi đất đai để thực hiện mục tiêu CNH, HĐH đất nước cùng
những phát sinh trong quá trình này về thu nhập, đời sống và việc làm của
người có đất bị thu hồi. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất một số giải pháp
then chốt góp phần hạn chế các vấn đề phát sinh, bảo đảm quyền lợi của
người dân cũng như phục vụ tốt cho lợi ích quốc gia.
- Nguyễn Chí Mỳ và Hoàng Xuân Nghĩa đồng chủ biên (2009): “Vấn

đề hậu giải phóng mặt bằng ở Hà Nội - Thực trạng và giải pháp” (2009).
Đây là cuốn sách tập hợp các bài viết của nhiều tác giả khác nhau cùng đề cập
đến vấn đề bảo đảm lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người nông dân
sau khi thu hồi đất và các biện pháp nhằm giải quyết vấn đề nảy sinh hậu giải
phóng mặt bằng ở Hà Nội và một số địa phương khác trong cả nước.
- Nguyễn Thị Thơm và Phí Thị Hằng đồng chủ biên (2010) : “Giải

quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hoá ”. Các
tác giả bàn về những vấn đề nảy sinh do quá trình CNH, HĐH, đô thị hoá,
phát triển các KCN, cụm công nghiệp như: đất sản xuất nông nghiệp bị thu
hẹp, người nông dân mất tư liệu sản xuất chủ yếu đồng nghĩa với việc mất


4


hoặc thiếu việc làm đồng thời xuất hiện nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Trên
cơ sở đánh giá thực trạng của tỉnh Hải Dương - một tỉnh trọng điểm vùng
đồng bằng sông Hồng - nhóm tác giả đã đưa ra một số dự báo và giải pháp
góp phần GQVL cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hoá ở
nước ta.
- Trần Thị Minh Ngọc làm chủ biên (2010): “Việc làm của nông dân

trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá vùng đồng bằng sông Hồng đến
năm 2010”. Trên cơ sở phân tích, đánh giá những thuận lợi, khó khăn cũng như
những thành tựu, hạn chế trong quá trình GQVL cho nông dân vùng đồng bằng
sông Hồng trong quá trình CNH, HĐH, các tác giả đã đề xuất phương hướng và
giải pháp cụ thể nhằm thực hiện có hiệu quả vấn đề GQVL cho nông dân: điều
chỉnh cơ cấu đầu tư, phát triển các ngành kinh tế nhằm GQVL; đồng thời tác giả
cũng đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao năng lực cho người lao động để tăng
cơ hội tìm kiếm được việc làm và các giải pháp hoàn thiện các chính sách của
Nhà nước về việc làm cho người lao động.
- Nguyễn Chí Mỳ (2011) "Giải phóng mặt bằng ở Hà Nội - hệ luỵ và

phương hướng giải quyết". Cuốn sách đề cập đến các vấn đề chung về giải
phóng mặt bằng: đô thị hoá, giải phóng mặt bằng và hậu giải phóng mặt bằng.
Từ đó chỉ ra các nguyên tắc chung liên quan tới công tác giải phóng mặt bằng
và xử lý vấn đề hậu giải phóng mặt bằng đặc biệt là vấn đề GQVL. Sau khi
phân tích thực trạng và các vấn đề nảy sinh trong công tác hậu giải phóng mặt
bằng, tác giả cũng đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công
tác giải phóng mặt bằng và xử lý tốt các vấn đề phát sinh sau khi giải phóng
mặt bằng.

- Đỗ Đức Quân chủ biên (2010): “Một số giải pháp nhằm phát triển

bền vững nông thôn vùng đồng bằng Bắc bộ trong quá trình xây dựng, phát
triển các khu công nghiệp (Qua khảo sát các tinh Vĩnh Phúc, Hải Dương,
Ninh Bình)”. Qua khảo sát một số vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, các tác

5


giả đã chỉ ra tình trạng chung ở nông thôn trong quá trình CNH, HĐH hiện
nay đó là hiện tượng thu hẹp diện tích đất sản xuất nông nghiệp làm cho một
bộ phận dân cư nông thôn mất việc làm, thiếu hụt các nguồn lực dành cho
phát triển nông thôn... Từ đó, nhóm tác giả đã đề xuất một số nhóm giải pháp
về KT – XH và các giải pháp khác nhằm khắc phục.
- Nguyễn Văn Sửu, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học

Quốc gia Hà Nội (2011): Báo cáo "Tác động của công nghiệp hoá và đô thị
hoá đến sinh kế nông dân Việt Nam: trường hợp một làng ven đô Hà Nội".
Báo cáo tập trung phân tích về các tác động của việc thu hồi đất nông nghiệp
đến sinh kế của người nông dân. Tuy chỉ nghiên cứu một trường hợp điển
hình tại một làng ven đô Hà Nội, song báo cáo cũng chỉ ra nhiều đặc trưng
cũng như những tác động phổ biến của việc thu hồi đất nông nghiệp đến sinh
kế người dân. Thực tế đã có những đổi thay rõ rệt trong thu nhập, cơ cấu
ngành nghề của nhiều hộ gia đình. Tuy nhiên, chiều hướng của sự chuyển
dịch không đáp ứng được sự kì vọng của các cơ quan quản lý cũng như các hộ
gia đình. Những giảm sút thấy rõ của thu nhập từ ngành nông nghiệp, và
những hướng sinh kế mới chuyển đổi lại thiếu bền vững là những hệ quả được
nhận diện rõ rệt nhất. Thêm vào đó, những hệ quả xã hội khác từ việc thu hồi
đất nông nghiệp của các hộ gia đình cũng diễn ra khá phức tạp như sự bất ổn,
rủi ro và bất bình đẳng, phân hoá giàu nghèo... gia tăng.

- Nguyễn Tiệp (2008): Đề tài "Xây dựng một số mô hình tạo việc làm

đối với lao động bị mất việc làm tại các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng
đất". Báo cáo đưa ra nhiều vấn đề nổi cộm trong quá trình chuyển đổi mục
đích sử dụng đất ở nước ta hiện nay. Thông qua quá trình thống kê, phân tích
số liệu từ các cuộc điều tra, tác giả đã chỉ ra những khó khăn trong quá trình
giải quyết vấn đề việc làm cho lao động tại các hộ gia đình bị thu hồi đất nông
nghiệp như: chuyển đổi nghề nghiệp khó khăn do trình độ thấp, ngoài độ tuổi
tuyển dụng của doanh nghiệp, sự ỷ nại của người lao động vào chính sách hỗ

6


trợ của nhà nước; các hỗ trợ của nhà nước chưa thực sự hiệu quả. Ngoài việc
phân tích những khó khăn của người dân tại các vùng chuyển đổi mục đích sử
dụng đất, tác giả cũng đưa ra và phân tích một số giải pháp tạo việc làm hiệu
quả ở một số địa phương hiện nay điển hình như đào tạo nghề, thu hút lao
động làm việc tại các KCN; triển khai các quy hoạch phát triển KT - XH, mở
rộng mạng lưới đào tạo nghề tại địa phương vùng chuyển đổi mục đích sử
dụng đất gắn với GQVL cho người lao động.
- Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam( 2012): Báo cáo

"Đánh giá thực trạng lao động việc làm ở các khu vực bị thu hồi đất nông
nghiệp và hiệu quả của các chính sách hỗ trợ nhóm nông dân mất đất".
Thông qua ba địa bàn được lựa chọn nghiên cứu là Hải Dương, Nam Định và
Nghệ An, báo cáo đi sâu phân tích các vấn đề về đời sống, việc làm cũng như
hiệu quả của các hỗ trợ dành cho nhóm nông dân mất đất. Theo đó, báo cáo
chỉ ra những khó khăn là tìm kiếm, chuyển đổi việc làm, thất nghiệp và dư
thừa lao động; thiếu hoặc không còn đất nông nghiệp để canh tác. Bên cạnh
việc đó, báo cáo còn chỉ ra các khó khăn của người dân thuộc diện thu hồi đất,

phân tích các tác động khác của quá trình thu hồi đất đến điều kiện kinh tế- xã
hội của địa phương cũng như những chuyển dịch trong cơ cấu việc làm và thu
nhập của các hộ gia đình. Trong đó chiều hướng chuyển dịch chính được chỉ
ra là các công việc bấp bênh từ hoạt động làm thuê ngoài. Tỷ lệ người dân
được hưởng lợi từ hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp hay các dịch vụ
liền kề doanh nghiệp vì thế chỉ chiếm tỷ lệ khá thấp. Khó khăn về việc làm,
thu nhập thường trực cộng với sự gia tăng của các loại hình tệ nạn xã hội cùng
sự biến đổi, ô nhiễm môi trường làm cho nhiều người dân cảm thấy băn
khoăn với các quyết định chuyển đổi mục đích sử dụng đất hiện nay.
- Luận án tiến sỹ kinh tế của NCS Nguyễn Văn Nhường (2010):

"Chính sách an sinh xã hội đối với người nông dân sau khi thu hồi đất để
phát triển các cụm công nghiệp (nghiên cứu tại Bắc Ninh). Tác giả đi sâu

7


phân tích những nội dung lý luận về chính sách an sinh xã hội đối với nông
dân bị thu hồi đất để xây dựng các KCN, đồng thời đánh giá thực trạng đời
sống người dân bị thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các KCN tại Bắc
Ninh. Qua việc chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân bằng sử dụng
mô hình SWOT, tác giả đề xuất các giải pháp xây dựng và hoàn thiện chính
sách về an sinh xã hội đối với người nông dân bị thu hồi đất để xây dựng các
khu công nghiệp.
- Nguyễn Tiệp (2011): "Tạo việc làm ở nước ta - Từ chính sách đến

thực tiễn", tạp chí Tạp chí Kinh tế và phát triển (số 3, 2011). Tác giả đánh giá
các chính sách của Nhà nước trong GQVL cho người lao động; những vấn đề
còn tồn tại và đề xuất các giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả của
chính sách GQVL cho lao động ở nước ta.

- Hồng Minh (2011): "Hà Nội giải quyết việc làm cho lao động khu

vực chuyển đổi mục đích sử dụng đất", tạp chí Lao động và xã hội (số 2,
2011). Tác giả đã chỉ ra những biến đổi về xã hội sau giải phóng mặt bằng ở
ngoại thành Hà Nội: thu nhập, lối sống, sử dụng tiền đền bù và thất nghiệp đối
với người nông dân sau thu hồi đất.
- Trần Thị Lan (2012)"Giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất

ở Thành phố Hà Nội", tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông (số 4, 2012).
Tác giả đề cập đến vấn đề việc làm của nông dân khi thu hồi đất ở Hà Nội còn
có những hạn chế: số việc làm tạo ra chưa nhiều, nông dân được làm việc
trong các dự án thu hồi đất còn ít. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số quan
điểm cần phải quán triệt và các giải pháp trong GQVL cho đối tượng trên.
Các công trình, đề tài của các tác giả, nhóm tác giả đã đề cập đến
những khí cạnh khác nhau của tác động thu hồi đất nói chung, đất nông
nghiệp nói riêng đến việc làm của các đối tượng bị thu hồi đất cũng như đề
xuất những quan điểm, giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm đời sống, việc làm, thu
nhập cho những người bị thu hồi đất. Mặc dù vậy, đến nay chư có một công

8


trình nào nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm cho lao động diện thu hồi đất
nông nghiệp trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn GQVL cho lao động diện thu hồi đất
nông nghiệp; trên cơ sở đó đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu
góp phần GQVL cho lao động diện thu hồi đất nông nghiệp ở quận Hà Đông,
thành phố Hà Nội thời gian tới.

* Nhiệm vụ:
- Luận giải cơ sở lý luận về GQVL và kinh nghiệm GQVL cho lao động
diện thu hồi đất nông nghiệp ở một số quận ở Thủ đô Hà Nội.
- Đánh giá thực trạng GQVL cho lao động diện thu hồi đất nông nghiệp ở
quận Hà Đông, thành phố Hà Nội thời gian qua. Chỉ rõ những nguyên nhân của
những thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra cần giải quyết.
- Đề xuất một số quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu góp phần GQVL
cho lao động diện thu hồi đất nông nghiệp ở quận Hà Đông, thành phố Hà
Nội thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: GQVL cho lao động diện thu hồi đất nông nghiệp.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung và không gian: Đề tài nghiên cứu GQVL cho lao động diện thu
hồi đất nông nghiệp dưới góc độ của chuyên ngành Kinh tế chính trị Mác - Lênin ở
một địa phương cụ thể là quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
- Về thời gian: Những phân tích, đánh giá tình hình thực tế, chủ yếu dựa trên
các số liệu thống kê từ năm 2005 (đặc biệt là từ năm 2009, khi Hà Đông chính thức
trở thành 1 quận của Thủ đô Hà Nội) đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận nghiên cứu:

9


Luận văn được triển khai nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, những nguyên lý của kinh tế chính trị học Mác Lênin, tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm kinh tế của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
* Phương pháp nghiên cứu:
Để tài được triển khai nghiên cứu bằng việc sử dụng tổng hợp các phương
pháp nghiên cứu như: phương pháp trừu tượng hóa, phân tích, tổng hợp, so sánh,

thống kê, hệ thống hóa, khái quát hóa, phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của công trình có thể là cơ sở cho việc hoạch định các
chính sách, chủ trương của lãnh đạo, chính quyền và các cơ quan chức năng trên
địa bàn Hà Nội và các quận, huyện trực thuộc trong GQVL cho lao động diện
thu hồi đất nông nghiệp. Đồng thời, kết quả nghiên cứu của luận văn cũng có thể
được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, học tập, giảng dạy bộ
môn kinh tế chính trị trong hệ thống các trường đại học, cao đẳng trong và ngoài
quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Gồm: 3 chương, 7 tiết, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

Chương 1

10


CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG DIỆN
THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP Ở QUẬN HÀ ĐÔNG THÀNH PHỐ HÀ

NỘI VÀ KINH NGHIỆM TRONG NƯỚC
1.1. Thu hồi đất nông nghiệp và tác động của nó đến việc làm của
lao động diện thu hồi đất
1.1.1. Đất nông nghiệp và sự cần thiết của việc thu hồi đất nông
nghiệp
Đất đai có nguồn gốc từ tự nhiên, cùng với vòng quay của bánh xe thời
gian, con người xuất hiện và tác động vào đất đai, cải tạo đất đai và biến đất
đai từ sản phẩm của tự nhiên thành sản phẩm mang trong mình sức lao động
của con người, tức cũng là sản phẩm của của xã hội.
Đất đai là một tài nguyên thiên nhiên quý giá của mỗi quốc gia và nó

cũng là yếu tố mang tính quyết định sự tồn tại và phát triển của con người và
các sinh vật khác trên trái đất. C.Mác khẳng định, đất đai là tài sản mãi mãi
với loài người, là điều kiện để sinh tồn, là điều kiện không thể thiếu được để
sản xuất, là tư liệu sản xuất cơ bản trong nông, lâm nghiệp . Bởi vậy, nếu
không có đất đai thì không có bất kỳ một ngành sản xuất nào, con người
không thể tiến hành sản xuất ra của cải vật chất để duy trì cuộc sống và duy
trì nòi giống đến ngày nay. Trải qua một quá trình lịch sử lâu dài con người
chiếm hữu đất đai, biến đất đai từ một sản vật tự nhiên thành một tài sản của
cộng đồng, của một quốc gia. Đối với Việt Nam, đất đai là tài nguyên quốc
gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng
hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng
các cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ
nhân dân ta đã tốn bao công sức, xương máu mới tạo lập, bảo vệ được vốn đất
đai như ngày nay. Do vậy, đất đai còn có ý nghĩa rất lớn về mặt chính trị. Tài
sản quý giá ấy phải được bảo vệ bằng cả xương máu và vốn đất đai mà một
quốc gia có được luôn là một yếu tố thể hiện sức mạnh của quốc gia đó, ranh

11


giới quốc gia thể hiện chủ quyền của một quốc gia. Đất đai còn là nguồn của
cải, quyền sử dụng đất đai là nguyên liệu của thị trường nhà đất, nó là tài sản
đảm bảo sự an toàn về tài chính, có thể chuyển nhượng qua các thế hệ...
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, các quan
hệ đất đai rất phong phú, trong đó quyền sử dụng đất được trao đổi, mua bán,
chuyển nhượng và hình thành một thị trường đất đai. Lúc này, đất đai được
coi như là một hàng hoá và là một hàng hoá đặc biệt. Thị trường đất đai có
liên quan đến nhiều thị trường khác và những biến động của thị trường này có
ảnh hưởng đến nền kinh tế và đời sống dân cư. Luật Đất đai 2013 của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn

dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao
quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định”. Căn cứ vào mục
đích sử dụng, Luật Đất đai phân loại đất đai thành các nhóm sau: Nhóm đất
nông nghiệp; nhóm đất phi nông nghiệp .
* Đất nông nghiệp
Theo Từ điển Bách khoa Nông nghiệp (năm 1991): “Đất nông nghiệp
là các loại đất được sử dụng cho sản xuất nông nghiệp: trồng trọt các loại cây
hằng năm hay lâu năm, trồng cỏ cho chăn nuôi. Các mặt nước để nuôi trồng
thủy sản”. Luật Đất đai năm 1993 quy định về đất nông nghiệp tại Điều 42
như sau: “Đất nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng và sản
xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản hoặc nghiên
cứu thí nghiệm về nông nghiệp”. Khắc phục những hạn chế của các văn bản
quy phạm pháp luật trước về khái niệm đất nông nghiệp, Luật Đất đai năm
2013 nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã xác định nhóm đất nông
nghiệp bao gồm các loại đất sau đây: Đất trồng cây hàng năm gồm đất trồng
lúa và đất trồng cây hàng năm khác; đất trồng cây lâu năm; đất rừng sản xuất;
đất rừng phòng hộ; đất rừng đặc dụng; đất nuôi trồng thủy sản; đất làm muối;
đất nông nghiệp khác gồm đất sử dụng để xây dựng nhà kính và các loại nhà

12


khác phục vụ mục đích trồng trọt, kể cả các hình thức trồng trọt không trực
tiếp trên đất; xây dựng chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại
động vật khác được pháp luật cho phép; đất trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng
thủy sản cho mục đích học tập, nghiên cứu thí nghiệm; đất ươm tạo cây
giống, con giống và đất trồng hoa, cây cảnh.
* Sự cần thiết khách quan của việc thu hồi đất nông nghiệp
Một là: xuất phát từ nhu cầu, nhiệm vụ công nghiệp hóa
Công nghiệp hóa được Đảng ta xác định là nhiệm vụ trung tâm của thời

kỳ quá độ lên CNXH. Mục tiêu lâu dài của CNH, HĐH ở nước ta là xây dựng
cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH dựa trên một nền khoa học và công nghệ
tiên tiến, tạo ra lực lượng sản xuất mới với quan hệ sản xuất ngày càng tiến
bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống
vật chất, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
“Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 được xác định là Chiến
lược tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển nhanh, bền vững” hướng tới
mục tiêu tổng quát là: “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại…” [12, tr. 30-31]. Để tiến hành thành công
CNH, HĐH, tất yếu phải thu hồi đất (chủ yếu là đất nông nghiệp) nhằm cung
cấp mặt bằng cho các khu KCN, khu chế xuất, khu kinh tế; mặt bằng SX - KD
của các DN và mặt bằng cho xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ
CNH, HĐH.
Hai là: xuất phát từ nhu cầu đô thị hóa
Đô thị hóa là sự mở rộng của đô thị , tính theo tỉ lệ phần trăm giữa số dân
đô thị hay diện tích đô thị trên tổng số dân hay diện tích của một vùng hay khu
vực. Nó cũng có thể tính theo tỉ lệ gia tăng của hai yếu tố đó theo thời gian... Đô
thị hóa là quá trình tất yếu đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, đặc biệt là các
nước châu Á, trong đó có Việt Nam. Nền kinh tế càng phát triển thì quá trình đô
thị hóa diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh. Đô thị hóa góp phần đẩy mạnh phát

13


triển KT - XH, nâng cao đời sống nhân dân. Quá trình đô thị hóa có nhu cầu rất
cao về đất cho xây dựng các khu đô thị, khu chung cư, các loại biệt thự, căn
hộ…; đất xây dựng các công trình phúc lợi; đất cho phát triển thương mại, dịch
vụ đô thị: trung tâm thương mại, siêu thị, các thiết chế văn hóa đô thị…Vì vậy,
cùng với quá trình đô thị hóa đòi hỏi phải được chuyển đổi một phần không nhỏ
diện đất canh tác nông nghiệp cho nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã

hội và các công trình đồng bộ của đô thị.
Ba là: xuất phát từ chính nhu cầu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn,
xây dựng nông thôn mới
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 (khóa X) chỉ rõ: “Nông
nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp CNH, HĐH,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc
phòng… Các vấn đề nông nghiệp, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ gắn
với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa đất nước… Giải quyết vấn đề nông
nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của hệ thống chính trị và toàn xã hội”.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành nhiều chính
sách, thực hiện nhiều chương trình, dự án để đẩy mạnh CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới đã và đang xuất hiện nhu cầu
thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp cho xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế nông thôn; đất xây dựng các công trình của thiết chế văn hóa xã hội nông thôn; đất cho cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; cụm làng
nghề; đất nghĩa trang; đất chôn lấp, xử lý rác thải… Điều đó cho thấy, việc
thu hồi đất nông nghiệp trở thành một đòi hỏi khách quan của quá trình CNH,
HĐH nông nghiệp nông thôn và xây dựng nông thôn mới.
Bốn là: Thu hồi đất nông nghiệp còn do yêu cầu nhiệm vụ tăng cường
củng cố quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc

14


Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là 2 nhiệm vụ chiến lược của cách mạng
Việt Nam. Trong khi chăm lo phát triển kinh tế, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
luôn dành sự quan tâm, đầu tư đặc biệt cho nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng
toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và xây dựng, củng cố khu vực
phòng thủ vững chắc. Trong tình hình mới hiện nay, nhiệm vụ QP - AN bảo vệ
Tổ quốc đã và đang đặt ra nhu không nhỏ về đất đai để xây dựng và hiện đại hóa

doanh trại, trụ sở làm việc, khu nhà ở công vụ, chung cư phục vụ cho các cơ
quan quân sự, công an…; xây dựng thao trường, bãi tập, trường bắn; xây dựng
các công trình phòng thủ dân sự, các căn cứ (sở chỉ huy, căn cứ hậu phương,
căn cứ hậu cần - kỹ thuật trong khu vực phòng tỉnh, huyện…Do vậy, việc thu
hồi đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng là vấn đề cần thiết ở các địa
phương trên cả nước nói chung, trong đó có Hà Nội.
1.1.2. Tác động của thu hồi đất nông nghiệp đến việc làm của lao
động bị thu hồi đất
* Việc làm và việc làm cho lao động diện thu hồi đất nông nghiệp
Luật Lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013 đã xác định: “Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không
bị pháp luật cấm”.
Như vậy, từ khái niệm trên có thể thấy, việc làm: Trước hết được hiểu
là hoạt động lao động của con người; đồng thời đó cũng là hoạt động lao động
nhằm mục đích tạo ra thu nhập; và vì vậy, đó là hoạt động không bị pháp luật
ngăn cấm. Bất cứ ai, có khả năng lao động và có nhu cầu được lao động đều
được làm việc ở những lĩnh vực mà luật pháp không ngăn cấm. Việc làm là
một khái niệm rộng, nhu cầu về việc làm phát triển cùng với sự phát triển của
phân công lao động xã hội. Vì vậy việc phân loại về việc làm cũng là vấn đề
phức tạp. Dựa vào tính pháp lý của vấn đề, việc làm có thể phân thành 2 loại:
Việc làm chính thức và việc làm không chính thức.
Việc làm chính thức: là công việc chính mang lại thu nhập chính (đối

15


với những việc làm được trả công) và những thu nhập về của cải vật chất cho
bản thân và gia đình (đối với việc làm không được trả công: nội trợ gia đình,
tự trồng trọt, chăn nuôi phục vụ nhu cầu bản thân... ).
Việc làm không chính thức: là những công việc làm thêm ngoài việc

làm chính. Đối với người nông dân, việc làm chính của họ là sản xuất nông
nghiệp trong mùa vụ, còn việc làm không chính thức là những việc làm thêm
trong lúc nông nhàn.
Từ quan niệm về việc làm có thể quan niệm về việc làm cho lao động
diện thu hồi đất nông nghiệp như sau: Việc làm cho lao động diện thu hồi đất
nông nghiệp là hoạt động kinh tế mà người lao động sau khi bị thu hồi đất có
thể tiếp cận và sử dụng chúng (cả chính thức và không chính thức)để tạo ra
nguồn thu nhập hợp pháp cho bản thân và gia đình.
* Tác động của việc thu hồi đất nông nghiệp đến việc làm của lao
động diện bị thu hồi
Tác động của thu hồi đất nông nghiệp đến việc làm của chính những
những người trong diện đó là một hệ quả tất yếu. Những tác động này bao
gồm cả những vấn đề được nhìn nhận và chưa được nhìn nhận; cả trước mắt
và lâu dài; cả về kinh tế, xã hội, văn hóa, môi trường, an ninh; cả tích cực và
tiêu cực. Ở đây, chỉ tập trung làm rõ ở hai khía cạnh chung nhất là tác động
tích cực và tác động tiêu cực. Đó là:
Một là, tạo cơ hội tìm kiếm việc làm mới cho người lao động diện thu
hồi đất
Như trên đã đề cập, việc thu hồi đất nông nghiệp ở nước ta hiện nay nói
chung, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội nói riêng do nhiều yêu cầu, trong đó có
yêu cầu thu hồi để xây dựng các KCN, Cụm công nghiệp. Việc làm này tuy làm
cho diện tích đất nông nghiệp giảm đi, những lại mở ra các ngành nghề mới như
lao động trong các KCN, cụm công nghiệp. Đó chính là cơ hội mới cho lao động
lao nghiệp trong diện thu hồi chuyển đổi nghề nghiệp và tiếp cận các ngành nghề

16


mới để nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống. Mặt khác, đô thị xuất hiện, các
KCN, các DN, các cơ sở SX - KD phát triển cũng làm cho "cầu" về nguyên vật

liệu, "cầu" về nông sản phẩm (lương thực thực phẩm) tăng. Để đáp ứng yêu cầu
này đòi hỏi quanh các đô thị và các DN, KCN... phải xây dựng, phát triển các
vùng sản xuất nguyên liệu tập trung, các vùng nông nghiệp sản xuất hàng hoá, tạo
điều kiện mở rộng, phát triển chính bản thân ngành nông nghiệp, tạo nhiều việc
làm cho lao động nông nghiệp. Đô thị phát triển, công nghiệp phát triển cung cấp
tư liệu sản xuất, tiến bộ khoa học công nghệ, hỗ trợ vốn,... cho nông nghiệp, cho
người lao động, tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất
hàng hoá, tập trung trên quy mô lớn, thu hút nhiều lao động.
Việc thu hồi đất phục vụ quá trình CNH, HĐH và đô thị hoá làm
kinh tế ở các đô thị mới tăng trưởng nhanh chóng nhờ sự tập trung lực
lượng sản xuất, tạo ra năng suất lao động cao, cách tổ chức lao động hiện
đại. Do đó, quá trình tăng trưởng kinh tế đô thị cũng tạo cơ hội để tăng việc
làm. Quá trình đó vừa làm tăng tổng việc làm vừa làm chuyển đổi cơ cấu
kinh tế. Ngược lại, việc chuyển đổi cơ cấu các ngành kinh tế làm tăng
trưởng kinh tế theo chiều sâu, tăng năng suất lao động xã hội, tăng GRDP
và GDP bình quân đầu người.
Sự phát triển của các DN, KCN và các đô thị một mặt sẽ tạo ra một
lượng lớn việc làm cho lao động tại đây, đồng thời thu hút và làm giảm đáng
kể lượng lao động nông nhàn góp phần làm tăng năng suất lao động tại các
vùng này. Ngoài số lao động làm việc chính thức tại các cơ sở sản xuất, kinh
doanh, còn phải kể đến một lực lượng lớn lao động làm việc trong các ngành
dịch vụ, thương mại, xây dựng cơ bản... và các khu vực phi chính thức khác
phục vụ cho phát triển các đô thị và khu công nghiệp.
Hai là, thúc đẩy nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động
Các DN, KCN và các cơ sở SX - KD phát triển sẽ trực tiếp tác động
đến kỹ năng của người lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh và giảm bớt

17



sự cách biệt giữa lao động thành thị và lao động nông thôn. Ngoài ra, nó còn
là động lực kích thích sự thay đổi nếp nghĩ, cách làm và tác phong làm việc
của họ. Những người nông dân quen với công việc nhà nông khi tiếp xúc với
điều kiện và yêu cầu làm việc mới sẽ phải thay đổi tác phong làm việc với
tính kỷ luật và nhanh nhẹn hơn trước đây, đồng thời họ có cơ hội được đào
tạo, đào tạo lại hoặc tự đào tạo nâng cao trình độ để có thể thích nghi trong
điều kiện sản xuất mới.
Ba là, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động của
các địa phương
Việc thu hồi đất hình thành các KCN và khu đô thị mới tạo ra quá trình
chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ, chính vì vậy nó cũng làm cho tỷ trọng về cơ cấu lao
động trong các ngành kinh tế cũng biến đổi theo hướng lao động trong các ngành
công nghiệp và dịch vụ tăng còn lao động trong ngành nông nghiệp giảm.
Việc hình thành các KCN và đô thị mới vừa tạo ra “sức ép” vừa góp phần
nâng cao trình độ cho người lao động, thúc đẩy TTSLĐ phát triển... Điều đó tạo
ra cơ hội chuyển đổi việc làm cho lao động nông nghiệp. Họ có thể chuyển sang
làm việc ở các lĩnh vực kinh tế khác. Đây cũng là vấn đề có tính quy luật, nó sẽ
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tiến bộ. Do đó, những người
trước đây sống dựa vào nguồn thu nhập từ sản xuất nông nghiệp, nay bị mất
nguồn thu nhập hoặc thu nhập bị giảm sút, họ phải chuẩn bị nghề nghiệp và
tham gia vào lực lượng lao động phi nông nghiệp nên làm tăng cung lao động ở
thị trường này. Thu hồi đất để hình thành các KCN và khu đô thị sẽ thúc đẩy
chuyển dịch lao động nông thôn sang làm các công việc phi nông nghiệp, với
các hoạt động rất đa dạng tại các vùng trung tâm, thị trấn, thị tứ, các vùng nông
thôn ven các thành phố, thị xã hình thành và phát triển TTSLĐ, đòi hỏi người lao
động phải có sự thích ứng kịp thời.
Bốn là, khi bị thu hồi đất nông nghiệp, nhân dân và lao động vùng thu

18



hồi đất phải hứng chịu những tác động không mong muốn, thậm chí một bộ
phận dân cư không còn nguồn mưu sinh, cuộc sống bất ổn. Đất đai nông nghiệp
bị thu hẹp tạo ra sức ép không nhỏ về việc làm đối với lao động diện thu hồi đất.
Diện tích đất bị thu hồi phục vụ nhiệm vụ phát triển KT - XH, QP - AN thường
có diện tích lớn và chủ yếu tập trung vào đất nông nghiệp, thường chiếm khoảng
70 - 80% tổng số đất nông nghiệp, có địa phương thậm chí phải thu hồi 100%
diện tích đất nông nghiệp. Vì vậy, đã và đang tạo ra sức ép rất lớn về việc làm và
GQVL cho người lao động tại khu vực này.
Như vậy, quá trình thu hồi đất làm cho một bộ phận lớn dân cư sống
dựa vào nông nghiệp bị mất tư liệu sản xuất chủ yếu, do đó gây nhiều khó
khăn về việc làm đối với người lao động - những người nông dân trước đây
gắn bó với ruộng vườn, sau khi bị thu hồi đất, trở thành dân cư đô thị.
Đặc biệt, thu hồi đất nông nghiệp làm nguy cơ thất nghiệp của nhóm
người lao động ở độ tuổi trên 35 là rất lớn. Đây là lực lượng có kinh nghiệm sản
xuất nông nghiệp, song khi bị thu hồi đất thì đây lại là bộ phận có nguy cơ thất
nghiệp lớn nhất vì ở độ tuổi này, số lao động chưa qua đào tạo rất nhiều và việc
tham gia các khoá đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp đối với họ cũng không dễ
dàng như đối với lao động trẻ. Số lao động này thực tế rất khó để tìm được việc
làm mới. Hơn nữa, nhận thức của người lao động còn thụ động, ỷ lại vào chính
sách hỗ trợ của Nhà nước, vào tiền đền bù mà không cố gắng vượt qua khó khăn
tìm kiếm việc làm. Tâm lý chờ nhận sự ưu đãi của Nhà nước và các DN mà
không có sự chuẩn bị nghề nghiệp mới đang tồn tại một cách phổ biến ở người
lao động thuộc các vùng bị thu hồi đất nông nghiệp.
Bên cạnh đó, việc thu hồi đất nông nghiệp còn làm tăng nguy cơ xuất hiện
các việc làm phi pháp tại địa phương. Do không có việc làm, nên thu nhập cũng
không có. Nhưng nhu cầu chi tiêu cho bản thân người lao động và gia đình
không thể không có. Điều đó dẫn đến việc một bộ phân lao động không có khả
năng kiếm việc làm chân chính buộc phải tìm cách làm các nghề mà pháp luật


19


không cho phép như sản xuất các loại hàng giả, hàng nhái, buôn lậu, mại dâm,
buôn người.v.v.
1.2. Quan niệm, nội dung và các yếu tố tác động đến giải quyết việc
làm cho lao động diện thu hồi đất nông nghiệp ở quận Hà Đông, thành
phố Hà Nội
1.2.1. Quan niệm và nội dung giải quyết việc làm cho lao động diện
thu hồi đất nông nghiệp ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
*Quan niệm GQVL cho lao động diện thu hồi đất nông nghiệp ở quận
Hà Đông, thành phố Hà Nội
GQVL theo nghĩa rộng, là tổng thể những biện pháp, chính sách KT
- XH của Nhà nước, cộng đồng và bản thân người lao động tác động đến
mọi mặt của đời sống xã hội để đảm bảo cho mọi người có khả năng lao
động đều được lao động (có việc làm) và có thu nhập ổn định. Theo nghĩa
hẹp, GQVL là các biện pháp, chính sách chủ yếu hướng vào đối tượng thất
nghiệp, thiếu việc làm nhằm tạo ra chỗ làm việc cho người lao động để
giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp. Theo các nghĩa nêu trên, thực chất của GQVL
là quá trình tạo ra và kết hợp các yếu tố sản xuất bao gồm sức lao động, tư
liệu sản xuất và các điều kiện KT - XH khác để đảm bảo cho người có khả
năng lao động được lao động và duy trì hoạt động lao động đó.
Tác giả Đinh Thị Nga Phượng, trong luận văn thạc sĩ ngành Luật Kinh
tế với đề tài "Pháp luật lao động về việc làm và GQVL ở Việt Nam trong thời
kỳ hội nhập" đã đưa ra một cách hiểu khái quát về GQVL là quá trình tạo ra
điều kiện và môi trường bảo đảm cho mọi người trong độ tuổi lao động, có
khả năng lao động, đang có nhu cầu tìm việc làm với mức tiền công thịnh
hành trên thị trường đều có cơ hội làm việc [35].
Khi nghiên cứu về vấn đề việc làm và thu nhập của người dân mất đất

tại Huế, tác giả Hà Thị Hằng đưa ra quan niệm về GQVL thông qua đề tài
"Việc làm cho người lao động sau thu hồi đất trong quá trình đô thị hoá ở

20


thành phố Huế hiện nay". Theo tác giả, nội dung của GQVL bao gồm toàn bộ
những vấn đề liên quan đến việc phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn
nhân lực. Quá trình đó diễn ra từ giáo dục, đào tạo, phổ cập nghề nghiệp,
chuẩn bị cho người lao động bước vào cuộc đời lao động, cho đến tự do lao
động, tái sản xuất sức lao động và hưởng thụ xứng đáng với giá trị lao động
mà mình làm ra [13].
Tác giả Nguyễn Văn Nhường thì lại cho rằng: Chính sách đào tạo nghề
và GQVL là những quy định cụ thể của Nhà nước, nhằm giúp cho người nông
dân mất đất sản xuất có thể được học một nghề mới và tìm được việc làm,
duy trì được mức thu nhập ổn định..." [22].
Ngoài ra, theo "GQVL cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị
hoá" - cuốn sách do tác giả Nguyễn Thị Thơm và Phí Thị Hằng làm chủ biên cho
rằng: GQVL chính là tạo ra các cơ hội để người lao động có việc làm và tăng thu
nhập, phù hợp với lợi ích của bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội [38].
Tựu chung lại, các quan niệm khác nhau về GQVL của các tác giả đều
bao hàm nội dung chủ yếu: tạo việc làm cho người lao động chính là việc sử
dụng một cách hợp lý nhất nguồn lực con người, nguồn lực về tài nguyên
thiên nhiên để tạo ra của cải cho đất nước nói chung và tạo ra nguồn thu nhập
một cách chính đáng, tương xứng với đóng góp của người lao động cũng như
người sử dụng lao động. Tạo việc làm cho người lao động là quá trình tạo ra
số lượng, chất lượng tư liệu sản xuất, số lượng chất lượng sức lao động và các
điều kiện KT - XH khác để kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động. Với các
quan niệm khác nhau như trên đã tạo ra nhiều cách hiểu khác nhau về
GQVL. Đặc biệt là chưa có sự thống nhất trong việc đưa ra quan điểm về

GQVL cho lao động diện thu hồi đất nông nghiệp.
Từ các quan niệm trên đây về GQVL tác giả cho rằng GQVL làm cho
lao động diện thu hồi đất nông nghiệp ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội là
tổng thể các hoạt động của cả hệ thống chính trị, các cơ quan, ban ngành,

21


đoàn thể, doanh nghiệp của thành phố Hà Nội trong tạo lập môi trường pháp
lý, điều kiện KT - XH cần thiết, xây dựng và thực thi các chính sách hỗ trợ
đào tạo và đào tạo lại nghề, chuyển đổi nghề nghiệp, phát triển SX - KD hàng
hoá và dịch vụ cùng với sự nỗ lực của cá nhân người lao động nhằm bảo đảm
việc làm, thu nhập hợp pháp, sinh kế lâu dài cho lao động sau bị khi thu hồi
đất nông nghiệp.
Từ quan niệm trên có thể thấy: GQVL cho người lao động nói
chung và GQVL cho lao động diện thu hồi đất nông nghiệp là hoạt động
có chủ đích, có định hướng. Mục đích của GQVL cho lao động diện thu
hồi đất nông nghiệp là nhằm tạo cho lao động diện thu hồi đất nông
nghiệp có việc làm ổn định và thu nhập hợp pháp, có sinh kế lâu dài, từng
bước cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của họ và gia
đình, khai thác đến mức tối đa tiềm năng trong dân (vốn, kỹ thuật và kinh
nghiệm làm ăn...) phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng vùng,
từng phường và nguyện vọng của người dân và hướng tới mục tiêu chung:
xây dựng một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”.
Chủ thể GQVL cho lao động diện thu hồi đất nông nghiệp ở quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội là lãnh đạo, chính quyền, các cơ quan, ban ngành,
đoàn thể quần chúng, cộng đồng các doanh nghiệp và bản thân lao động diện
thu hồi đất. Trong đó, cấp ủy địa phương có vai trò lãnh đạo, chỉ đạo; chính
quyền thực hiện chức năng quản lý, điều hành; các cơ quan, ban ngành (đặc

biệt là Phòng Lao động Thương binh và Xã hội, Phòng Kinh tế, Ban Xóa đói
giảm nghèo và Giải quyết việc làm...) thực hiện chức năng tham mưu và tổ
chức thực hiện các chương trình, kế hoạch GQVL; cộng đồng doanh nghiệp
và các tổ chức đoàn thể quần chúng (Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên,
Hội Phụ nữ, Hội Nông dân...) là những chủ thể tích cực tham gia GQVL cho
người lao động. Đặc biệt, người lao động diện thu hồi đất nông nghiệp vừa là

22


đối tượng GQVL, vừa là chủ thể quan trọng tham gia vào quá trình này.
Phương thức giải quyết việc làm là vừa dựa vào kế hoạch chương trình,
dự án về giải quyết việc làm của Nhà nước, thành phố, vừa dựa vào sự tham
gia của các doanh nghiệp, của các tổ chức chính trị - xã hội và sự nỗ lực của
cá nhân người lao động; kết hợp kế hoạch và thị trường trong giải quyết các
quan hệ cung cầu về sức lao động.
Từ quan niệm cũng cho thấy, để GQVL cho lao động trọng diện thu hồi
đất nông nghiệp đòi hỏi phải sử dụng đồng bộ các biện pháp cả kinh tế, giáo
dục, chính trị, pháp lý một cách linh hoạt, trong đó cần chú ý các biện pháp
kinh tế, chính trị. Yêu cầu GQVL cho lao động diện thu hồi đất nông nghiệp:
* Nội dung giải quyết việc làm cho lao động diện thu hồi đất nông nghiệp
Một là: soạn thảo, ban hành chủ trương, chính sách, kế hoạch GQVL
cho lao động diện thu hồi đất nông nghiệp
Trước lãnh đạo, chính quyền Quận cần phải nghiên cứu, quán triệt
hệ thống pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luận của Nhà nước, củ
các bộ, ban ngành Trung ương và của Thành phố Hà Nội có liên quan đến
vấn đề GQVL nói chung và việc làm cho lao động diện thu hồi đất nông
nghiệp nói riêng.
Trên cơ sở quan triệt các văn bản đó, lãnh đạo, chính quyền Quận tiếp
tục chỉ đạo và tổ chức cho các cơ quan tham mưu xây dựng cụ thể các chương

trình, kế hoạch đào tạo, dạy nghề và GQVL cho lao động diện thu hồi đất trên
địa bàn. Yêu cầu việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch tổng thể về
việc thu hồi đất nông nghiệp phải gắn ngay từ đầu với các chương trình, kế
hoạch GQVL cho nông dân khi thu hồi đất. Trước khi tiến hành thu hồi đất,
cần dựa trên quy hoạch tổng thể về kế hoạch sử dụng đất do Chính phủ và
Thành phố ban hành để thực hiện việc thu hồi như: tổng diện tích đất thu hồi,
vị trí đất thu hồi. Sau đó, Quận tiến hành điều tra, đánh giá xã hội ban đầu để
nắm được chính xác đặc điểm cộng đồng dân chuyển cư, nguồn lao động của

23


cộng đồng người sẽ bị ảnh hưởng bởi dự án; thống kê, phân tích thực trạng cơ
cấu và chất lượng nguồn lao động của nhóm dân cư đó theo tuổi, theo trình
độ học, theo nghề nghiệp, theo đặc điểm gia đình và theo mức sống; đánh giá
tổng quát những ảnh hưởng của việc thu hồi đất đến đời sống, việc làm của
người nông dân.
Dựa trên việc đánh giá những tác động của thu hồi đất đến việc làm của
nông dân, Quận xây dựng các văn bản pháp quy, ban hành các chính sách tạo
việc làm và GQVL để hỗ trợ người dân mất đất sản xuất nông nghiệp theo
hướng bảo đảm ổn định việc làm và thu nhập hợp pháp cho bản thân người lao
động và gia đình của họ. Bên cạnh đó, để các chương trình, kế hoạch GQVL
thực sự đi vào cuộc sống, còn cần phải xây dựng, củng cố một số cơ quan, bộ
phận chuyên trách, có trách nhiệm tham mưu cho lãnh đạo, chính quyền Quận
và trực tiếp tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình, kế hoạch đã được
phê duyệt, thông qua.
Hai là: đào tạo, dạy nghề cho lao động diện thu hồi đất nông nghiệp
góp phần tăng chất lượng nguồn cung SLĐ
Đào tạo, đào tạo lại, dạy nghề là một nội dung quan trọng góp phần
GQVL cho người lao động nói chung và lao động diện thu hồi đất nông

nghiệp nói riêng, bởi lao động nông nghiệp không thể dịch chuyển một cách
cơ học đơn giản từ nông nghiệp sang các ngành công nghiệp và dịch vụ. Trên
thực tế, đa số người lao động diện thu hồi đất có trình độ văn hóa thấp, chưa
qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật, hoạt động sản xuất của họ chủ yếu dựa vào
kinh nghiệm truyền thống được truyền lại từ đời này sang đời khác; tư duy,
nếp nghĩ, cách làm, tác phong và kỷ luật làm việc không phù hợp với yêu cầu
của thị trường SLĐ. Chính vì vậy, việc đào tạo, đào tạo lại và dạy nghề cho
lao động diện thu hồi đất nông nghiệp trở nên cấp bách và cần thiết giúp họ
có cơ hội đổi nghề, chuyển nghề sau khi bị thu hồi đất.
Khi nói đến phát triển, nâng cao chất lượng nguồn cung SLĐ từ lực lượng

24


lao động diện thu hồi đất nông nghiệp tức là nói đến vấn đề đào tạo, đào tạo lại
và dạy nghề cho lực lượng này. Đây là vấn đề lớn, liên quan đến nhiều ngành,
nhiều lĩnh vực, trong đó vai trò của gia đình, hệ thống các trường, trung tâm, cơ
sở dạy nghề và xã hội cũng như bản thân người lao động diện thu hồi đất nông
nghiệp đóng vai trò quyết định. Chất lượng nguồn cung SLĐ được thể hiện
thông qua các chỉ số cơ bản, cụ thể như: trình độ học vấn, trình độ chuyên
môn kỹ thuật; nhận thức chính trị, trạng thái tâm lý, ý thức nghề nghiệp,
kỷ luật lao động, kỹ năng và mức độ thành thục với công việc… Do vậy,
phát triển, nâng cao chất lượng nguồn cung SLĐ cũng chính là quá trình
tập trung, đầu tư để không ngừng hoàn thiện các chỉ số cơ bản đó.
Hoạt động đào tạo, dạy nghề cho lao động diện thu hồi đất nông
nghiệp góp phần tăng số lượng và chất lượng nguồn cung SLĐ được tiến hành
với nhiều hình thức, biện pháp đa dạng, phong phú: đào tạo tập trung, đào tạo
tại chức; đào tạo dài hạn (từ 1 năm trở lên) và đào tạo ngắn hạn; đào tạo tại
chỗ (vừa học, vừa làm) và tự đào tạo, mở các lớp tập huấn, dạy nghề…Lực
lượng tham gia đào tạo, dạy nghề cho lao động diện thu hồi đất nông nghiệp

gồm các cơ sở đào tạo của Nhà nước, của nước ngoài, của các thành phần
kinh tế…Ngành nghề đào tạo cũng phong phú, đa dạng, phù hợp với từng đối
tượng cụ thể, nguyện vọng của người lao động và nhu cầu của thị trường.
Ba là: đa dạng hóa các hình thức GQVL góp phần tăng cầu SLĐ
Đa dạng hóa các hình thức GQVL là một trong những vấn đề có ý
nghĩa quyết định chất lượng, hiệu quả GQVL cho người lao động nói chung
và lao động diện thu hồi đất nông nghiệp nói riêng, bởi nó quyết định đến
lượng cầu SLĐ. Đối với lao động diện thu hồi đất nông nghiệp, đa dạng hóa
hình thức tạo việc làm, GQVL luôn có ưu thế vượt trội, bởi thông qua việc đa
dạng hóa hình thức GQVL, lao động diện thu hồi đất nông nghiệp có nhiều cơ
hội lựa chọn, tìm kiếm việc làm phù hợp dù họ có nhiều vốn hay ít vốn, thậm
chí không có vốn; họ có thể được đào tạo hoặc không có trình độ chuyên môn

25


kỹ thuật; họ có thể là lao động trẻ hoặc là lao động đã lớn tuổi; họ có thể tự
mình làm việc để kiếm sống hoặc “bán” SLĐ trên thị trường…
Hình thức tạo việc làm, GQVL cho người lao động nói chung và lao
động diện thu hồi đất nông nghiệp nói riêng rất đa dạng, phong phú như: quan
tâm đầu tư, khuyến khích phát triển DN và các loại hình SX - KD để tiếp
nhận lao động nói chung và lao động diện thu hồi đất nông nghiệp vào làm
việc (đặc biệt, với những chủ đầu tư được nhận mặt bằng sản xuất từ quỹ đất
nông nghiệp bị thu hồi sẽ phải có trách nhiệm góp phần GQVL cho lao động
diện thu hồi đất theo hợp đồng, giao ước với cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền); GQVL cho lao động diện thu hồi đất thông qua các nguồn vốn cho
vay của Trung ương, Thành phố, NHCSXH, từ vốn ngân sách của Quận được
ủy thác qua NHCSXH; GQVL thông qua việc quy hoạch, lập kế hoạch xét
duyệt, cấp đất dịch vụ cho các hộ diện thu hồi đất nông nghiệp phát triển các
hộ SX - KD phi nông nghiệp; GQVL thông qua việc khôi phục, phát triển các

làng nghề nói chung và làng nghề truyền thống nói riêng; GQVL với sự tham
gia của các đoàn thể quần chúng như: Hội cự Chiến Binh, Hội Nông dân, Hội
Phụ nữ, Đoàn Thanh niên Cộng sản… ; GQVL trên cơ sở động viên, khuyến
khích người lao động tích cực, chủ động tự tạo việc làm đồng thời với hợp tác
đưa lao động đi làm việc, lao động ở nước ngoài.
1.2.2. Những yếu tố tác động đến giải quyết việc làm cho lao động
diện thu hồi đất nông nghiệp
Thứ nhất, chính sách vĩ mô của Nhà nước
Chính sách vĩ mô của Nhà nước có vai trò to lớn trong việc tạo việc
làm, GQVL đồng thời điều chỉnh việc làm phù hợp với mục tiêu, trình độ
phát triển của nền kinh tế trong từng thời kỳ.
Các chính sách chủ yếu tác động tới phát triển nguồn nhân lực và
GQVL như: chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần; chính sách
khuyến khích sản xuất hàng hoá xuất khẩu; chính sách tín dụng ưu đãi để các

26


×