Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ THU bảo HIỂM xã hội ở THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.16 MB, 96 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
3
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM VỀ THU BẢO
1.1
1.2

HIỂM XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Những vấn đề chung về bảo hiểm xã hội
Khái niệm, nội dung, vai trò của thu bảo hiểm xã hội ở

12
12
22

1.3.

thành phố Hà Nội
Kinh nghiệm thu bảo hiểm xã hội ở một số nước trên thế

giới, bài học cho thành phố Hà Nội
Chương 2 THỰC TRẠNG THU BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở THÀNH

33

PHỐ HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2012 - 2014
Thành tựu, hạn chế thu bảo hiểm xã hội ở thành phố Hà Nội
Nguyên nhân của thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra

45


45

về thu bảo hiểm xã hội ở thành phố Hà Nội
Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG THU BẢO HIỂM

58

XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN TỚI
Quan điểm về tăng thu bảo hiểm xã hội ở thành phố Hà Nội
Giải pháp cơ bản nhằm tăng thu bảo hiểm xã hội ở thành

67
67

2.1
2.2

3.1.
3.2.

phố Hà Nội thời gian tới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

76
86
89
93



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bảo hiểm thuộc lĩnh vực phân phối lại, là một bộ phận trong hệ thống
tài chính của một quốc gia. Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một chính sách quan
trọng trong hệ thống an sinh xã hội của tất cả các nước trên thế giới, vì nó liên
quan trực tiếp đến con người và sự an toàn xã hội của mỗi quốc gia. Ở nước
ta, bảo hiểm xã hội là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, góp phần
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội và
phát triển kinh tế - xã hội. Cùng với công cuộc đổi mới đang diễn ra trên khắp
các lĩnh vực, chính sách bảo hiểm xã hội cũng từng bước được sửa đổi để phù
hợp với sự phát triển chung của nền kinh tế - xã hội. Vì vậy, nghiên cứu cơ sở
lý luận và thực tiễn về bảo hiểm xã hội là một vấn đề cấp bách và cơ bản
không những của các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý, mà còn cả những
người lao động với tư cách vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của chính sách
bảo hiểm xã hội.
Chính sách bảo hiểm xã hội đang là một vấn đề bức thiết trong điều
kiện phát triển nền kinh tế thị trường hiện nay. Trong xã hội, sự phân hóa giàu
nghèo đang có sự chênh lệch khá lớn, do đó, người lao động cần có sự tương
trợ của cộng đồng, phát huy vai trò của cộng đồng để giảm bớt những khó
khăn trong cuộc sống do các rủi ro mang lại. Với nhu cầu này, chính sách bảo
hiểm xã hội hướng tới mục tiêu vì cuộc sống tốt đẹp của con người và văn
minh của toàn xã hội.
Xác định đúng vị trí và vai trò của chính sách bảo hiểm xã hội trong
công cuộc đổi mới, ngày 29/6/2006 Quốc hội đã ban hành Luật Bảo hiểm xã
hội (có hiệu lực thi hành từ 01/01/2007) nhằm thực hiện thống nhất chính
sách bảo hiểm xã hội trong phạm vi cả nước, ở mọi thành phần kinh tế. Tuy
nhiên, trong thời gian vừa qua việc thực hiện chính sách BHXH còn bộc lộ
3



nhiều hạn chế, đặc biệt là công tác thu BHXH, cụ thể: số đơn vị, số lao động
tham gia BHXH còn ít, tình trạng đơn vị nợ đọng BHXH còn nhiều, gây ảnh
hưởng không nhỏ tới quyền lợi của người lao động. Việc tăng nguồn thu
BHXH còn thấp chưa tương xứng với tiềm năng. Công tác thu BHXH ở thành
phố Hà Nội cũng không tránh khỏi những hạn chế trên. Có rất nhiều nguyên
nhân dẫn đến tình trạng trên, một trong những nguyên nhân đó là công tác
quản lý chưa phù hợp, sự phối hợp giữa các đơn vị liên quan thiếu chặt chẽ,
nhịp nhàng và đồng bộ.
Từ những lý do trên, đặc biệt qua kết quả nghiên cứu, tính toán và dự
báo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Ngân hàng thế giới (WB) cho thấy,
vào khoảng những năm 2030 quỹ hưu trí và tử tuất ở Việt Nam sẽ mất cân đối
nếu công tác thu BHXH không được điều chỉnh và quản lý chặt chẽ. Chính vì
vậy, nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về thu BHXH nhằm đưa ra những
giải pháp tăng nguồn thu BHXH là vấn đề cần thiết.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế, qua nghiên cứu lý luận kết hợp với thực tiễn
công tác, học viên lựa chọn đề tài: “Thu bảo hiểm xã hội ở thành phố Hà Nội”
làm luận văn tốt nghiệp cao học nghiên cứu dưới góc độ kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Liên quan đến nội dung bảo hiểm xã hội và cơ chế, chính sách đối
với hệ thống bảo hiểm xã hội, thu bảo hiểm xã hội hiện nay đã có những công
trình nghiên cứu được công bố như sau:
* Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước “Xây dựng và hoàn thiện
hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam”, mã số: KX.02.02/06-10,
Chủ nhiệm đề tài, GS.TS Mai Ngọc Cường.
Trên cơ sở tổng quan về những công trình nghiên cứu, đồng thời xuất
phát từ nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới và khu vực
trong việc xây dựng hệ thống chính sách An sinh xã hội, đề tài làm rõ
những vấn đề cơ bản về an sinh xã hội và hệ thống chính sách an sinh xã
hội trong nền kinh tế thị trường;

4


Đề tài đánh giá thực trạng của hệ thống an sinh xã hội và việc thực hiện
chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua, chỉ ra những
thành tựu, hạn chế, những thuận lợi và khó khăn, những thách thức đặt ra
đối với hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay;
Phân tích xu hướng đổi mới hệ thống an sinh xã hội và hệ thống chính
sách an sinh xã hội của thế giới và những chủ trương của Đảng và Nhà nước
ta về việc xây dựng hệ thống an sinh xã hội và chính sách an sinh xã hội trong
những năm tới để làm rõ các yêu cầu đặt ra đối với các vấn đề an sinh xã hội
Việt Nam, đề xuất các giải pháp xây dựng hệ thống tổng thể quốc gia về an
sinh xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn 2006-2015;
Do phạm vi nghiên cứu của đề tài rất rộng cho nên đề tài chưa đề cập sâu
đến hoạt động thu BHXH như: Các bộ phận trong hệ thống thu BHXH; các tiêu
chí, chỉ tiêu đánh giá quản lý thu bảo hiểm xã hội.
* Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Cơ sở lý luận và thực tiễn
hoàn thiện cơ chế vận hành và mô hình tổ chức thực hiện chính sách bảo
hiểm xã hội”, mã số: CT 2007 01- 01, Chủ nhiệm đề tài: TS Nguyễn Thị
Lan Hương.
Đề tài đưa ra các khuyến nghị về cơ chế vận hành và mô hình tổ chức
thực hiện BHXH nhằm tăng cường vai trò quản lý Nhà nước, đảm bảo công
khai, minh bạch, tránh khép kín trong quản lý quỹ BHXH và phát huy được
vai trò của người lao động và người sử dụng lao động trong tham gia BHXH.
Do giới hạn phạm vi nghiên cứu cho nên đề tài chưa đề cập sâu đến
một số vấn đề liên quan đến hoạt động thu BHXH như: chưa đưa ra các tiêu
chí, chỉ tiêu đánh giá hoạt động thu BHXH; chưa đi sâu nghiên cứu sự phối
hợp giữa các bộ phận trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách BHXH.
* Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Các giải pháp đảm bảo cân
đối quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc khi thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội”, mã số

CT 2007- 01- 02, chủ nhiệm đề tài: TS Phạm Đỗ Nhật Tân.
Đề tài làm rõ cơ sở lý luận, phương pháp luận các yếu tố tác động đến
thu, chi và tăng trưởng quỹ BHXH; đánh giá thực trạng quỹ BHXH và khả
5


năng cân đối của quỹ trong dài hạn thông qua việc phân tích các tác động từ
những quy định mới về chế độ, chính sách BHXH theo Luật BHXH và những
tác động mới của việc điều chỉnh tiền lương, tiền công của Nhà nước; Làm rõ
vai trò, trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc giám sát quản
lý hoạt động thu, chi và sử dụng quỹ BHXH; đề xuất các giải pháp đảm bảo
cân đối quỹ BHXH khi thực hiện Luật BHXH.
Do phạm vi nghiên cứu của đề tài rất rộng: đề cập đến quản lý thu,
chi và tăng trưởng quỹ cho nên đề tài chưa đề cập sâu đến một số vấn đề
liên quan đến hoạt động thu BHXH như: Sự phối hợp giữa các bộ phận trong
hệ thống thu BHXH; các chỉ tiêu đánh giá kết quả thu BHXH.
* Đề tài nghiên cứu cấp Bộ “Chiến lược phát triển BHXH phục vụ mục
tiêu phát triển kinh tế xã hội đến năm 2020" Chủ nhiệm đề tài, TS. Nguyễn
Huy Ban.
Đề tài nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển
hoạt động BHXH. Tác giả đề cập đến những mục tiêu cơ bản trong phát triển
nền kinh tế và xã hội ở Việt Nam; hoạt động BHXH là nhân tố ảnh hưởng đến
sự phát triển kinh tế; những yêu cầu phát triển BHXH nhằm đáp ứng sự phát
triển kinh tế và xã hội.
Vấn đề thực hiện BHXH ở một số nước trên thế giới và thực trạng
chính sách BHXH ở Việt Nam. Đề tài đã lựa chọn Philippin, Malaysia và
Nhật Bản để nghiên cứu và đưa ra một số kinh nghiệm có thể vận dụng vào
điều kiện Việt Nam.
Đề tài đã nêu lên những quan điểm và định hướng để phát triển BHXH
ở Việt Nam, đồng thời đề xuất các giải pháp cho việc hoạch định chính sách

BHXH ở Việt Nam như: dự báo dân số và lao động đến năm 2020; vấn đề
BHXH cho các loại hình lao động thuộc các khu vực kinh tế khác nhau; các
nguồn đóng góp, mức đóng góp và cơ chế quản lý sử dụng quỹ BHXH, mô
hình tổ chức quản lý hoạt động BHXH.
* Đề tài khoa học cấp Bộ “Cơ sở khoa học hoàn thiện quy trình quản
lý thu bảo hiểm xã hội", Chủ nhiệm, TS. Dương Xuân Triệu.
6


Thông qua việc nghiên cứu về kinh nghiệm thu bảo hiểm xã hội của một
số nước như: Nhật Bản, Indonexia, Mỹ, Malaysia, Singapore và thực trạng
công tác quản lý thu bảo hiểm xã hội ở Việt Nam qua các thời kỳ. Tác giả đưa
ra một số giải pháp: Hoàn thiện các quy định quản lý thu bảo hiểm xã hội như:
mức thu, tiền lương, đăng ký lao động tham gia bảo hiểm xã hội. Hoàn thiện
quy trình quản lý thu bảo hiểm xã hội theo từng loại đối tượng tham gia bảo
hiểm xã hội. Áp dụng quản lý thu bảo hiểm xã hội bằng công nghệ tin học.
Tuy nhiên, do giới hạn phạm vi nghiên cứu nên đề tài chưa đánh giá về
tác động của chính sách BHXH nói chung, chính sách thu BHXH nói riêng
đến quy trình thu BHXH. Bởi vì, đặc thù hoạt động BHXH ở Việt Nam phụ
thuộc rất lớn vào chính sách. Mỗi khi chính sách thay đổi thì hoạt động của
cơ quan BHXH cũng phải thay đổi theo.
* Luận án tiến sĩ: "Hoàn thiện quản lý quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt
Nam", mã số: 62.34.01.01, tác giả Đỗ Văn Sinh.
Luận án đã hệ thống hóa cơ sở lý luận, khảo sát, tổng kết thực tiễn đề
xuất những giải pháp góp phần hoàn thiện quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam.
Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý quỹ BHXH, đặc biệt giai đoạn hình
thành hệ thống tổ chức BHXH Việt Nam, để tìm ra những tồn tại, vướng mắc
và nguyên nhân. Đề xuất quan điểm và giải pháp hoàn thiện quản lý quỹ
BHXH ở Việt Nam.
Do luận án được nghiên cứu trước khi Luật Bảo hiểm xã hội có hiệu

lực, cho nên những đề xuất của luận án chủ yếu tập trung vào quá trình tác
nghiệp của cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
* Luận án tiến sĩ: “Hoàn thiện cơ chế thu bảo hiểm xã hội ở Việt
Nam”, tác giả Phạm Trường Giang.
Luận án nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn về cơ chế
thu bảo hiểm xã hội ở Việt Nam gồm: cách thức phối hợp giữa các bộ phận
trong hệ thống thu BHXH nhằm đảm bảo thực hiện những mục tiêu mà
chính sách BHXH nói chung, quy định thu BHXH nói riêng đã đề ra. Trên
7


cơ sở phân tích, đánh giá cơ chế thu BHXH ở Việt Nam, đặc biệt là sau hai
năm thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội, luận án đưa ra các giải pháp và một
số điều kiện cần thiết để thực hiện các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế
thu BHXH ở Việt Nam.
Tuy nhiên trong một giới hạn nhất định, luận án mới chỉ tập trung
vào những vấn đề cơ bản nhất, đang vướng mắc nhất. Do vậy, cần có một
số công trình khác nghiên cứu bổ sung những vấn đề liên quan đến việc
tăng nguồn thu cho quỹ BHXH.
* Luận văn thạc sĩ: “Giải pháp nâng cao chất lượng quản lý thu BHXH
tại Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội”, tác giả Nguyễn Dương.
Luận văn đã hệ thống và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận cơ bản và
thực tiễn về sự phát triển BHXH, quỹ BHXH và nội dung hoạt động thu
BHXH. Phân tích và đánh giá thực trạng về hoạt động quản lý thu BHXH tại
Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội trên các lĩnh vực: phát triển đối tượng
tham gia BHXH, phát triển quỹ lương tham gia BHXH, qua đó tìm ra nguyên
nhân của những hạn chế, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng quản lý thu bảo hiểm xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Tuy nhiên, luận văn được nghiên cứu trên góc độ quản lý kinh tế, do
vậy, rất cần có những công trình nghiên cứu bổ sung để hoàn thiện hơn nữa

công tác thu BHXH.
* Đề án khoa học: “Xây dựng quy định quản lý thu nợ BHXH, BHYT,
BHTN”, Chủ nhiệm, Thạc sĩ Trần Đình Liệu, Trưởng Ban Thu - BHXH Việt Nam.
Đề án đã nghiên cứu và đánh giá tình hình nợ BHXH, BHYT của các
đơn vị sử dụng lao động tại 63 tỉnh, thành phố trên cả nước và công tác quản
lý thu nợ BHXH, BHYT trong thời gian 03 năm 2010-2012. Xác định những
nguyên nhân khách quan, chủ quan đồng thời đề xuất các giải pháp quản lý có
hiệu quả nhằm chống thất thu, ngăn ngừa tình trạng chiếm dụng tiền đóng và
giảm nợ đọng BHXH, BHYT như:
8


- Hoàn thiện Luật BHXH và các văn bản hướng dẫn có liên quan, giao
thẩm quyền thanh tra về thu BHXH, BHYT cho cơ quan BHXH.
- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng và chính quyền địa
phương, sự phối hợp của các cơ quan quản lý Nhà nước ở địa phương trong
công tác thu hồi nợ đọng BHXH, BHYT.
- Đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ
thông tin trong công tác thu BHXH, BHYT...
* Đề tài nghiên cứu “Việt Nam phát triển một hệ thống BHXH hiện đại
- những thách thức hiện tại và các phương án lựa chọn cho cải cách trong
tương lai” của Tổ chức Ngân hàng Thế giới.
Trên cơ sở phân tích tỷ lệ sinh, dân số Việt Nam cho thấy hệ thống
BHXH hiện tại đang gặp phải một số thách thức như: Tỷ lệ bao phủ thấp, bất
bình đẳng trong các nhóm tham gia đóng BHXH, thiếu sự bền vững về tài
chính, năng lực quản lý và thực hiện các chương trình bảo hiểm yếu. Từ
những phân tích trên, nhóm tác giả đã chỉ ra những vấn đề quan trọng cần
phải đổi mới để phát triển một hệ thống BHXH hiện đại cho Việt Nam. Cần
nhiều cố gắng để mở rộng độ bao phủ của hệ thống BHXH, đảm bảo tính bền
vững của quỹ BHXH, củng cố công tác thực thi và quản lý,…

Tóm lại, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh
khác nhau của chính sách BHXH và công tác thu BHXH. Đề tài “Thu bảo
hiểm xã hội ở thành phố Hà Nội” được nghiên cứu trên cơ sở kế thừa và
phát triển của các công trình nghiên cứu trước. Đồng thời, đề tài cũng mong
muốn được đóng góp vào việc hoàn thiện hơn nữa công tác thu BHXH ở
thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo hiểm xã hội, thu bảo hiểm
xã hội, đề xuất quan điểm và giải pháp tăng nguồn thu bảo hiểm xã hội ở
thành phố Hà Nội thời gian tới.
9


* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá và làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về BHXH, thu
BHXH với tư cách là bộ phận của hệ thống tài chính.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thu BHXH ở thành phố Hà Nội giai
đoạn 2012 - 2014, chỉ ra những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những
vấn đề đặt ra về thu BHXH thời gian qua.
- Đưa ra những quan điểm và đề xuất giải pháp tăng nguồn thu bảo
hiểm xã hội ở thành phố Hà Nội thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Thu BHXH ở thành phố Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung nghiên cứu của luận văn dưới góc độ kinh tế chính trị, tập
trung vào loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc, không bao gồm bảo hiểm xã hội
tự nguyện và hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH.
- Do BHXH ở thành phố Hà Nội phải tuân thủ chính sách chung của cả

nước, nên đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu ở việc thực hiện chính sách chung
nhằm giải quyết mối quan hệ tài chính về lĩnh vực bảo hiểm xã hội ở thành
phố Hà Nội. Hoạt động thu BHXH cũng chỉ được giới hạn trong khuôn khổ
của cơ quan Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội.
Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2012 đến năm 2014.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Đề tài luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam,
chính sách của Nhà nước về quan hệ tài chính, bảo hiểm xã hội trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và Nghị quyết của Đảng bộ thành
phố Hà Nội về vấn đề này.
10


* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như phương pháp
trừu tượng hóa khoa học, kết hợp logic với lịch sử, phân tích và tổng hợp,
khái quát hóa và so sánh, phương pháp thống kê tư liệu và phương pháp
chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Luận văn đóng góp thêm cách tiếp cận dưới góc độ kinh tế chính trị
hoạt động thu bảo hiểm xã hội ở thành phố Hà Nội hiện nay.
- Phân tích thực trạng thu BHXH, đánh giá những thành tựu, rút ra
những vấn đề còn hạn chế và xác định nguyên nhân của nó. Luận văn đề xuất
một số giải pháp tăng nguồn thu BHXH ở thành phố Hà Nội, góp phần phát
triển bền vững quỹ BHXH trong tương lai.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong các cơ sở đào tạo và
nghiên cứu về tài chính nói chung và BHXH nói riêng.
7. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, kết
cấu của luận văn gồm 3 chương (7 tiết).

11


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM VỀ THU BẢO HIỂM
XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI

1.1. Những vấn đề chung về bảo hiểm xã hội
1.1.1. Lược sử hình thành và phát triển của bảo hiểm xã hội
Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải có cái ăn, mặc, ở.
Để có được những cái đó, đòi hỏi con người phải lao động để tạo ra những
sản phẩm thiết yếu; khi những sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều, thì đời
sống của con người ngày một văn minh hơn. Điều đó có nghĩa là việc thoả
mãn những nhu cầu sinh hoạt và phát triển của con người phụ thuộc vào khả
năng lao động của chính họ. Nhưng con người không phải ở trên trời rơi
xuống để lao động tại một tập thể hay một tổ chức nào đó. Họ sinh ra và được
nuôi dưỡng, lớn lên được đào tạo, giáo dục nghề nghiệp để làm ra những sản
phẩm, tạo ra những giá trị mới đáp ứng nhu cầu sinh sống của bản thân và
những người phụ thuộc. Trong quá trình ấy, con người không phải lúc nào
cũng gặp thuận lợi. Trái lại, những khó khăn, bất lợi ngẫu nhiên phát sinh làm
giảm hoặc mất nguồn thu nhập, ảnh hưởng tới điều kiện sinh sống như: ốm
đau, tai nạn, thậm chí cả những rủi ro dẫn đến chết người, và khi về già họ
vẫn phải sống trong khi khả năng tự phục vụ suy giảm dần. Rơi vào những
hoàn cảnh như vậy, nhu cầu thiết yếu của con người không những không
giảm mà còn tăng thêm. Bởi vậy, muốn tồn tại, con người phải tìm ra và thực
tế đã tìm ra nhiều cách để bảo vệ mình.
“Trẻ cậy cha, già cậy con” đó là truyền thống bảo vệ lẫn nhau giữa các

thế hệ trong một gia đình. Nhưng về mặt xã hội, nếu chúng ta quan niệm gia
đình là một tế bào của xã hội, thì việc bảo vệ của xã hội đối với mỗi gia đình
là rất quan trọng và cần thiết. Vì con người là thành viên của xã hội, họ không
chỉ làm việc cho riêng mình, mà còn làm việc cho cả xã hội, cho nên xã hội
cũng phải có trách nhiệm chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần cho họ.
12


Do yêu cầu của cuộc sống đã dẫn đến những hành động tập thể phát huy
truyền thống tương thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau. Ý thức cộng đồng đó xuất
hiện là cơ sở xã hội của bảo hiểm xã hội.
Vào khoảng giữa thế kỷ XII ở Hy Lạp, các hiệp hội thợ thủ công đã
cùng nhau thành lập quỹ bảo hiểm xã hội để trợ cấp cho những trường hợp
ốm đau, tai nạn. Tiếp đó đến thế kỷ XVI, những người trồng nho ở thung lũng
An Pơ (Pháp) đã tự thành lập những hội tương tế trợ giúp nhau khi gặp rủi ro
trong lao động, cuộc sống thông qua quỹ tự góp. Mô hình này phát triển thành
khuynh hướng bảo hiểm xã hội gọi là bảo hiểm xã hội An Pơ. Dần dần cùng
với sự tiến bộ của xã hội, nền kinh tế hàng hoá phát triển dẫn tới sự thuê
mướn nhân công. Cuộc sống của người lao động lại gặp phải những khó khăn
ảnh hưởng đến lao động, sản xuất. Sự ảnh hưởng này đã tác động đến giới chủ
và Nhà nước, đòi hỏi họ từng bước can thiệp để duy trì lực lượng công nhân
cần thiết cho sản xuất.
Năm 1850 ở Đức, nhiều bang đã có sáng kiến lập quỹ ốm đau và bắt
buộc công nhân phải đóng góp để dự phòng. Tính bắt buộc đóng góp xuất
hiện mới chỉ từ một bên người được hưởng bảo hiểm.
Hệ thống bảo hiểm xã hội được coi là tương đối hoàn thiện đầu tiên của
Chính phủ Đức dưới thời Thủ tướng Bismarck (1883-1889). Hệ thống này
bao gồm quỹ bảo hiểm ốm đau do hội tương tế quản lý; quỹ bảo hiểm rủi ro
nghề nghiệp do hiệp hội giới chủ thiết lập và quản lý; quỹ bảo hiểm tuổi già
và tàn tật do tỉnh quản lý và có sự tài trợ thêm của chính quyền, đặc biệt là có

sự tham gia của giới chủ. Đến đây, vấn để bảo hiểm xã hội đã được mở ra
trong một thời kỳ mới, bắt buộc tham gia đối với người lao động trong doanh
nghiệp, đóng phí bảo hiểm do ba bên cùng đóng, quản lý hệ thống có mặt đại
diện của cả ba bên.
Hệ thống bảo hiểm của Đức được học tập và phát triển rộng ra nhiều
nước trên thế giới. Năm 1893, Nhà nước Thụy Sỹ lập quỹ bảo hiểm thất
13


nghiệp theo hình thức tham gia tự nguyện. Tiếp đó, đến những năm đầu của
thế kỷ XX, hàng loạt các nước công nghiệp ở Châu Âu cũng hình thành hệ
thống bảo hiểm xã hội như Áo, Tiệp Khắc năm 1906; Niudilân năm 1909;
Italia năm 1919; Liên Xô năm 1922; Mỹ năm 1935.
Ở Châu Á, sau chiến tranh thế giới lần thứ hai các nước độc lập cũng
hình thành hệ thống bảo hiểm xã hội như: Singapore, Inđônêxia, Nhật. Cho
đến nay, mỗi quốc gia đều xây dựng cho mình một hệ thống bảo hiểm xã hội.
Với một thời gian dài phát triển, hệ thống bảo hiểm xã hội đã xác định được
vị trí cần thiết của mình trong chính sách xã hội.
Ngày nay, quyền được bảo hiểm xã hội đã trở thành một trong những
quyền cơ bản của con người. Trong Tuyên ngôn về Nhân quyền của Liên hợp
Quốc năm 1948 có viết:“Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã
hội có quyền được hưởng bảo hiểm xã hội. Quyền đó được đặt cơ sở trên sự
thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự
do phát triển của con người”. Điều 25 ghi: “Mỗi người có quyền có một mức
sống (bao gồm có ăn, mặc, ở, chăm sóc sóc y tế và dịch vụ xã hội) cần thiết
cho việc giữ gìn sức khoẻ, giữ gìn hạnh phúc cho bản thân và gia đình, có
quyền được bảo đảm trong trường hợp thất nghiệp, ốm đau, thương tật, goá
bụa, tuổi già hoặc các trường hợp mất phương tiện sống khác do những hoàn
cảnh không tuỳ thuộc mình gây ra”. [13]
Vì vậy, ngay khi được thành lập, Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã coi

bảo hiểm xã hội là một trong những hoạt động cốt lõi của mình. Công ước
102 của ILO năm 1952 đã quy định các tiêu chuẩn tối thiểu của bảo hiểm xã
hội và khuyến nghị các nước thành viên thực hiện theo tiêu chuẩn này. Ngoài
ra, công ước còn quy định những vấn đề cơ bản làm nòng cốt cho bảo hiểm xã
hội. Đây chính là cơ sở để các nước luật hoá theo điều kiện của nước mình. Ở
Việt Nam, Điều 56 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà nước quy định chế độ
bảo hiểm xã hội đối với viên chức nhà nước và những người làm công ăn
14


lương; khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội khác đối với
người lao động” [25]. Điều 59 Hiến pháp 2013 quy định “Nhà nước tạo bình
đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an
sinh xã hội, có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người
nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn khác”. [28]
1.1.2. Khái niệm về bảo hiểm xã hội
Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam: “Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo
thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động, khi họ bị mất
hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già, tử tuất dựa trên cơ sở một quỹ tài chính
do sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm xã hội có sự bảo hộ của Nhà
nước theo pháp luật, nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho người lao động và
gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội”. [33]
Bảo hiểm xã hội là trụ cột của hệ thống an sinh xã hội. BHXH dựa trên
nguyên tắc“cùng nhau chia sẻ rủi ro”. Người tham gia BHXH phải có nghĩa
vụ đóng góp vào một quỹ chung gọi là quỹ BHXH. Quỹ này được sử dụng
với mục đích thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người tham gia
BHXH khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập từ nghề nghiệp do bị mất hoặc giảm
khả năng lao động hoặc mất việc làm.
BHXH là nhu cầu khách quan của người lao động, đã trở thành một

trong những quyền con người và được Đại hội đồng Liên hợp Quốc thừa nhận
và ghi vào Tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/12/1948 như sau: “Tất cả mọi
người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH, quyền đó
đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế - xã hội và văn hoá cần cho
nhân cách và sự tự do phát triển con người”.[13]
Theo Luật Bảo hiểm xã hội được Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29 tháng 06 năm 2006 (có hiệu lực từ ngày
01-01-2007) thì: “Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một
15


phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao
động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội”. [26]
1.1.3. Bản chất của bảo hiểm xã hội
Bản chất của bảo hiểm xã hội được thể hiện qua những nội dung chủ
yếu sau đây:
* Bản chất kinh tế của bảo hiểm xã hội
Bản chất kinh tế của BHXH thể hiện ở chỗ những người tham gia cùng
đóng góp một khoản tiền trích trong thu nhập (khoản đóng góp này không ảnh
hưởng lớn đến đời sống và sản xuất kinh doanh của cá nhân hoặc đơn vị) để
lập một quỹ dự trữ. Các khoản đóng góp vào quỹ BHXH bao gồm: đóng góp
của người lao động (NLĐ), người sử dụng lao động (NSDLĐ) và sự hỗ trợ
của Nhà nước. Mục đích của việc hình thành quỹ BHXH để trợ cấp cho
những NLĐ khi gặp rủi ro, tránh được những hụt hẫng về thu nhập cho họ. Sự
hỗ trợ này được lấy từ quỹ BHXH nên giảm và tiết kiệm được chi ngân sách
Nhà nước (NSNN). Đồng thời, bản chất kinh tế còn được thể hiện ở chỗ,
NLĐ chỉ đóng một phần nhỏ trong thu nhập của mình, nhưng do nhiều nguồn
hình thành khác nên quỹ BHXH có khoản tiền lớn đảm bảo đủ chi trả tài
chính cho họ khi phát sinh nhu cầu được thanh toán.

Quỹ BHXH hoạt động theo nguyên tắc “số đông bù số ít”. Do tính đặc
thù giữa thời gian khoản tiền đóng góp của các bên tham gia BHXH và thời
gian khoản chi trả trợ cấp BHXH cho những người hưởng chế độ không trùng
nhau, đã tạo cho quỹ BHXH có nguồn tiền “tạm thời nhàn rỗi”. Khoản tiền
này được sử dụng cho hoạt động đầu tư sinh lời tạo thu nhập để bảo tồn giá trị
cho quỹ BHXH. Quỹ BHXH được hình thành bởi sự vận động của các nguồn
tài chính trong quá trình tạo lập và sử dụng, nó phản ánh các quan hệ kinh tế
trong quá trình phân phối lại thu nhập các nguồn lực giữa các chủ thể tham
gia quỹ BHXH. Với ý nghĩa này, BHXH là một hình thức huy động vốn góp
phần ổn định tài chính, tiền tệ quốc gia.
16


* Bản chất xã hội của bảo hiểm xã hội
Là một chính sách xã hội, chính sách BHXH liên quan đến lợi ích của
mọi người dân trong xã hội. Những hẫng hụt và biến cố về thu nhập trong các
trường hợp ốm đau, tai nạn làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc
làm hoặc khi già yếu trở thành mối đe doạ cuộc sống bình thường của NLĐ.
Để khắc phục tình trạng này, truyền thống “lá lành đùm lá rách”, tinh thần
“tương thân tương ái” trong nhân dân được phát huy dưới các hình thức đóng
góp của Nhà nước, NSDLĐ và NLĐ khi họ còn khoẻ mạnh, còn có thu nhập,
để dùng vào lúc tuổi già, lúc ốm đau .. Kết quả của sự phân phối lại đó tạo ra
được sự bình đẳng hơn về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Chính từ đó góp phần tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng sức lao
động tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất có hiệu quả, tạo được thêm nhiều công
ăn việc làm, tăng thu nhập đồng thời phát triển tốt hơn các dịch vụ xã hội
phục vụ cho con người như y tế, giáo dục, văn hoá, … Như vậy, thực tế cho
thấy BHXH là công cụ quan trọng và hiệu quả để tạo nên một mạng lưới an
toàn cho con người, hoạt động BHXH không vì mục tiêu lợi nhuận mà hoạt
động vì mục đích bảo đảm sự phát triển lâu bền của nền kinh tế, góp phần ổn

định và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
1.1.4. Đặc điểm của bảo hiểm xã hội
- Bảo hiểm xã hội là hoạt động chia sẻ rủi ro của cộng đồng theo
nguyên tắc “số đông bù số ít” và nguyên tắc “tiết kiệm chi tiêu”.
Theo nguyên tắc “số đông bù số ít”, nghĩa là rủi ro của một hoặc một
số người sẽ được chia sẻ cho nhiều người tham gia BHXH cùng gánh chịu.
Đó chính là sự thể hiện tính tương trợ của cộng đồng trong xã hội thông qua
việc bù trừ rủi ro qua quỹ BHXH.
Theo nguyên tắc “tiết kiệm chi tiêu”, nghĩa là người tham gia BHXH
phải “để dành” một khoản thu nhập bằng việc đều đặn đóng góp khoản “để
dành” đó vào quỹ BHXH lúc có thu nhập để được hưởng trợ cấp lúc tạm thời
hoặc vĩnh viễn mất khả năng lao động.
17


- Bảo hiểm xã hội thực hiện phân phối lại thu nhập của các thành viên
trong xã hội.
- Mục tiêu cơ bản của BHXH là thực thi chính sách xã hội, đảm bảo an
toàn và hiệu quả xã hội, không nhằm mục đích kinh doanh.
- BHXH là một bộ phận của hệ thống bảo đảm xã hội được thực hiện
theo nguyên tắc “có đóng góp” vào quỹ BHXH theo quy định của pháp luật.
- BHXH thực hiện phân phối trên cơ sở mức đóng góp vào quỹ BHXH,
tỷ lệ đóng góp và mức hưởng trợ cấp có mối quan hệ chặt chẽ với tiền lương,
tiền công của người được bảo hiểm. Ở hầu hết các nước trên thế giới, khoản
đóng góp BHXH của người lao động được tính theo tỷ lệ % trên tiền lương,
tiền công của họ.
1.1.5. Vai trò của bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội của một
quốc gia và được thể hiện ở các mặt sau đây:
* Bảo hiểm xã hội góp phần thực hiện công bằng xã hội

Về bản chất kinh tế có thể khẳng định BHXH là một lĩnh vực hoạt động
phi lợi nhuận, nhưng lại là công cụ thực hiện phân phối lại thu nhập. BHXH
dựa trên nguyên tắc NLĐ bình đẳng trong nghĩa vụ đóng góp và quyền lợi
được hưởng BHXH thông qua hoạt động của mình. BHXH tham gia vào việc
phân phối và phân phối lại thu nhập xã hội giữa những NLĐ thế hệ trước với
thế hệ sau, giữa những ngành nghề sản xuất, giữa những người thu nhập cao
và người có thu nhập thấp, giữa những người may mắn và không may mắn.
Vì vậy, BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội. Chính sách BHXH công
bằng, hợp lý, tiến bộ sẽ là động lực để thực hiện tốt chính sách kinh tế, giải
quyết tốt những vấn đề xã hội.
* Bảo hiểm xã hội góp phần tăng trưởng kinh tế
Như đã biết, trong kinh tế thị trường, BHXH được thực hiện theo cơ
chế ba bên: NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước. Những đóng góp của các bên tham
18


gia BHXH nêu trên là những nguồn cơ bản hình thành quỹ BHXH. Nguồn tài
chính rất lớn từ sự đóng góp của NLĐ và NSDLĐ được tồn tích lại đồng thời
quỹ BHXH còn có những nguồn thu khác, như thu từ hoạt động đầu tư, thu từ
các khoản nộp phạt do chậm nộp BHXH của các cơ quan, doanh nghiệp, thu từ
hỗ trợ của các tổ chức quốc tế (nếu có) và các khoản thu khác.
Chức năng của quỹ BHXH là để chi trả các trợ cấp BHXH và chi phí
cho các hoạt động của hệ thống BHXH. Quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng,
đồng thời cũng là một quỹ dự phòng. Nó vừa mang tính kinh tế, vừa mang
tính xã hội cao và là phương tiện quan trọng đảm bảo cho toàn bộ hệ thống
BHXH tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, quỹ BHXH lại độc lập với ngân sách
Nhà nước. Do đó, việc quản lý quỹ BHXH, thực hiện đầu tư, bảo toàn và tăng
trưởng quỹ rất cần thiết, với đặc thù thời điểm thu và chi không đồng thời,
nên quỹ BHXH luôn có nguồn tài chính tạm thời “nhàn rỗi” tương đối lớn để
đầu tư lại vào nền kinh tế như cho Chính phủ vay hoặc trực tiếp được đầu tư

vào các dự án phát triển hoặc những công trình phúc lợi như: đường, cầu, cơ
sở hạ tầng... tạo ra nhiều công ăn việc làm cho NLĐ, góp phần phát triển kinh tế
đất nước thực hiện mục tiêu tăng trưởng và bảo toàn, phát triển quỹ BHXH.
Hoạt động BHXH là hoạt động dịch vụ công có tính xã hội cao, là quá
trình tổ chức triển khai thực hiện các nghiệp vụ thu BHXH đối với NLĐ và
NSDLĐ; giải quyết các chế độ, chính sách BHXH và chi BHXH cho người
được hưởng nhằm đảm bảo cho mọi NLĐ, mọi tổ chức, đơn vị hoạt động sản
xuất kinh doanh được bình đẳng, công bằng tham gia và hưởng BHXH.
Dưới góc độ kinh tế, các hoạt động BHXH đã góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, góp phần làm tăng thu nhập quốc dân và ngược lại kinh tế
tăng trưởng đã có tác động tích cực, ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới các
hoạt động BHXH. Đảng và Nhà nước đã khẳng định phát triển kinh tế xã hội
dựa trên nội lực là chính thì nguồn đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội là một trong
những kênh quan trọng.
19


1.1.6. Phân biệt bảo hiểm xã hội với bảo hiểm thương mại
Theo mục đích hoạt động, ở Việt Nam hiện nay cơ quan BHXH thực
hiện đồng thời ba loại hình bảo hiểm đó là: BHXH, bảo hiểm y tế (BHYT),
bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) còn hoạt động bảo hiểm thương mại (BHTM)
được thực hiện bởi các Công ty bảo hiểm. Trong nội dung nghiên cứu, luận
văn chỉ đi sâu nghiên cứu sự khác nhau cơ bản giữa BHXH và BHTM.
* Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội hoạt động không vì mục đích kinh doanh tìm kiếm lợi
nhuận mà nhằm đảm bảo an sinh xã hội vì quyền lợi của người tham gia
BHXH. Ở Việt Nam, theo Luật BHXH, BHXH được triển khai dưới ba hình
thức là BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, Bảo hiểm thất nghiệp.
- BHXH gồm có chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động – bệnh nghề
nghiệp (TNLĐ – BNN), hưu trí, tử tuất.

- BHXH tự nguyện gồm có chế độ hưu trí và tử tuất, BHXH tự nguyện
được triển khai thực hiện từ tháng 01/2008.
- Bảo hiểm thất nghiệp: gồm trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ học nghề, hỗ
trợ tìm việc làm, bảo hiểm thất nghiệp được triển khai từ tháng 01/2009.
* Bảo hiểm thương mại
Là loại hình bảo hiểm kinh doanh với mục tiêu chính là lợi nhuận, kết
hợp giữa kinh doanh và quản lý rủi ro để tìm kiếm lợi nhuận, trên cơ sở huy
động các nguồn tài chính thông qua việc thu phí của những người tham gia
bảo hiểm để tạo lập quỹ và sử dụng chúng nhằm bồi thường cho các đối
tượng tham gia bảo hiểm khi xảy ra rủi ro. Ở Việt Nam, bảo hiểm thương mại
đang hoạt động với hai loại hình bảo hiểm là: bảo hiểm phi nhân thọ và bảo
hiểm nhân thọ.
Bảo hiểm phi nhân thọ gồm các sản phẩm: bảo hiểm hàng hoá, bảo
hiểm tàu, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm con người phi nhân
thọ, bảo hiểm trách nhiệm dân sự, bảo hiểm dầu khí, hàng không, bảo hiểm
20


hoả hoạn, kỹ thuật - tài sản...
Bảo hiểm nhân thọ có các sản phẩm như: Bảo hiểm an sinh giáo dục,
an khang thịnh vượng, an bình hưu trí, an hưởng hưu trí,…
* Sự giống và khác nhau giữa bảo hiểm xã hội với bảo
hiểm thương mại
Giữa BHXH và BHTM (còn gọi là Bảo hiểm kinh doanh) có những
điểm giống nhau và khác nhau được thể hiện trên các mặt sau:
Sự giống nhau
- Về sự hình thành và sử dụng quỹ: Hai loại hình bảo hiểm này được
thực hiện trên cùng một nguyên tắc là: có tham gia tạo lập đóng góp vào quỹ
thì mới được hưởng quyền lợi.
- Mục đích hoạt động: Hai loại quỹ cùng nhằm để hỗ trợ cho các đối

tượng tham gia bảo hiểm một khoản kinh phí nhất định theo quy định khi họ gặp
những khó khăn về tài chính do một nguyên nhân nào đó trong phạm vi bảo hiểm.
- Nguyên tắc hoạt động: Số đông bù số ít, theo đó hậu quả rủi ro xảy ra
đối với một hoặc một số ít người sẽ được bù đắp bằng số tiền huy động được
từ rất nhiều người có khả năng cùng gặp rủi ro như vậy.
Sự khác nhau
Mục tiêu hoạt động của hai quỹ hoàn toàn khác nhau:
- BHTM được hiểu là kết hợp giữa hoạt động kinh doanh với việc quản
lý rủi ro và hoạt động chủ yếu nhằm mục đích kinh doanh, thu lợi nhuận.
- Mục tiêu hoạt động BHXH nhằm thực hiện chính sách xã hội của Nhà
nước không vì lợi nhuận. Quỹ BHXH được Chính phủ cho phép đầu tư vào
các công trình phúc lợi xã hội hoặc cho Chính phủ vay và một số hình thức
đầu tư khác do Chính phủ quy định, lãi suất từ hoạt động đầu tư quay lại để
bảo toàn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH bảo đảm chi trả cho NLĐ các
khoản trợ cấp thiết yếu lúc khó khăn, phục vụ với mục đích an sinh xã hội và
21


phát triển kinh tế đất nước.
* Cơ chế hoạt động của bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thương mại
Biểu hiện ở mức độ đóng góp và phương thức sử dụng của mỗi quỹ,
mức độ đóng góp và sử dụng quỹ của BHTM thực hiện theo cơ chế hoạt động
của thị trường và theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh, còn mức đóng góp
và sử dụng quỹ của hoạt động BHXH dựa vào chính sách xã hội trong từng
thời kỳ với mục tiêu là thực thi chính sách xã hội, góp phần ổn định xã hội
không nhằm mục đích kinh doanh.
Phân biệt BHXH với BHTM như trên có ý nghĩa làm cơ sở để tiếp tục
nghiên cứu lý luận, chủ trương, giải pháp xử lý các mối quan hệ nảy sinh
trong BHXH. Đó là quan hệ giữa Nhà nước, cơ quan BHXH với người lao
động và tổ chức sử dụng lao động nhằm tăng cường nhận thức, phát huy trách

nhiệm các lực lượng trong BHXH, duy trì sự tồn tại và phát triển quỹ BHXH,
phát huy vai trò của BHXH trong phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
1.2. Khái niệm, nội dung, vai trò của thu bảo hiểm xã hội ở thành
phố Hà Nội
1.2.1. Khái niệm thu bảo hiểm xã hội
Thu BHXH được coi là “xương sống” của hệ thống BHXH. Việc chi
trả các chế độ BHXH có thực hiện được hay không hoàn toàn phụ thuộc vào
khả năng thu BHXH hình thành quỹ BHXH. Đến lượt mình, quỹ BHXH có
dồi dào hay không, có đảm bảo cân đối trong dài hạn hay không, điều đó phụ
thuộc vào hoạt động tạo nguồn cho quỹ BHXH, đó chính là thu BHXH.
Thu BHXH là việc Nhà nước thu bắt buộc hoặc thu tự
nguyện một phần tiền lương, thu nhập của người lao động và
người sử dụng lao động để tập trung vào quỹ BHXH, nhằm
đảm bảo chi trả cho hoạt động bảo hiểm xã hội, góp phần
giải quyết hài hòa các mặt lợi ích kinh tế và thực hiện các
chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước.
Như vậy, thực chất thu BHXH là sự phân phối lại một phần thu nhập

22


của các đối tượng tham gia BHXH, nhằm góp phần giải quyết hài hòa các
mặt lợi ích kinh tế và thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước.
Nội hàm khái niệm chỉ rõ các vấn đề sau:
- Chủ thể thu BHXH là Chính phủ, trực tiếp là cơ quan BHXH Việt Nam,
BHXH cấp tỉnh, thành phố, BHXH cấp quận, huyện thị xã thuộc tỉnh. Để có thể
thu đúng, thu đủ, thu kịp thời đòi hỏi phải tăng cường nhận thức, trách nhiệm,
năng lực lãnh đạo và năng lực chuyên môn của các chủ thể thu BHXH.
- Đối tượng được thu là người lao động và người sử dụng lao động, cụ
thể: NSDLĐ là các tổ chức, doanh nghiệp và các cá nhân có thuê mướn lao

động. Họ phải có nghĩa vụ đóng góp vào quỹ BHXH và có trách nhiệm thực
hiện đầy đủ các chế độ BHXH đối với NLĐ mà mình sử dụng theo quy định
của pháp luật. Người lao động chính là những người trực tiếp tham gia vào
hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ chức, doanh nghiệp và hưởng thu nhập
hàng tháng. NLĐ cũng phải có trách nhiệm tự bảo hiểm cho chính mình.
- Đây là hoạt động thu bắt buộc và tự nguyện vì tỷ lệ thu, phương thức
thu và mức tiền lương làm cơ sở thu BHXH do Nhà nước quy định phù hợp
với từng thời kỳ kinh tế - xã hội.
- Mục tiêu thu BHXH là để hình thành quỹ BHXH tập trung, từ đó
bảo đảm chi trả cho các chế độ BHXH, với đặc trưng:
+ Quỹ BHXH là quỹ có tính an toàn về tài chính.
Để đối phó với những rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động, cần
phải có một lượng tiền dự trữ đủ lớn được hình thành và sử dụng trong một
thời gian nhất định trên cơ sở tính toán những xác suất nảy sinh và mức độ
nhu cầu BHXH trong phạm vi quỹ phục vụ. Do đó, quỹ BHXH là một quỹ an
toàn về tài chính.
+ Quỹ BHXH là quỹ tích luỹ và tiêu dùng.
Những nhu cầu BHXH chỉ được thoả mãn thông qua tiêu dùng của cá
nhân những người được hưởng BHXH. Quỹ BHXH là một bộ phận cấu thành
của hệ thống phân phối thu nhập quốc dân, làm nhiệm vụ phân phối và phân
phối lại thu nhập cho người lao động. Do đó, quỹ BHXH là một quỹ tích luỹ.
23


Đồng thời, là một quỹ tiêu dùng trên cơ sở quy luật phân phối theo lao động,
ở mức độ nhất định phải có sự điều chỉnh giữa nhu cầu và lợi ích.
1.2.2. Nội dung của thu bảo hiểm xã hội ở thành phố Hà Nội
* Cơ cấu lao động thu bảo hiểm xã hội
Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là công dân Việt
Nam, bao gồm: Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời

hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên; Cán bộ, công chức,
viên chức; Công nhân quốc phòng, công nhân công an; Sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ
quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu
hưởng lương như đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân; Hạ sĩ quan,
binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có
thời hạn; Người làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng bảo
hiểm xã hội bắt buộc.
* Cơ cấu đơn vị sử dụng lao động thu bảo hiểm xã hội.
Số lượng và cơ cấu đơn vị sử dụng lao động tham gia bảo hiểm xã hội
bắt buộc bao gồm: cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân
dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ
chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh
nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân
có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động.
* Mức thu và phương thức thu bảo hiểm xã hội
- Mức thu và phương thức thu từ người lao động
+ Thu bằng 8% mức tiền lương, tiền công của người lao động vào quỹ
hưu trí và tử tuất. Phương thức thu hàng tháng;
+ Người lao động hưởng tiền lương, tiền công theo chu kỳ sản xuất,
kinh doanh trong các doanh nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp,
diêm nghiệp thì mức thu bảo hiểm xã hội bằng 8%. Phương thức thu được
24


thực hiện hằng tháng, hằng quý hoặc sáu tháng một lần.
+ Người lao động làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã tham
gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, mức thu và phương thức thu do Chính phủ quy định.
- Mức thu và phương thức thu của người sử dụng lao động:
+ Thu từ người sử dụng lao động là 18% trên quỹ tiền lương, tiền công

đóng bảo hiểm xã hội của người lao động (3% vào quỹ ốm đau và thai sản;
trong đó người sử dụng lao động giữ lại 2% để trả kịp thời cho người lao
động đủ điều kiện hưởng chế độ ngắn hạn và thực hiện quyết toán hằng quý
với tổ chức bảo hiểm xã hội; 1% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
14% vào quỹ hưu trí và tử tuất). Phương thức thu hàng tháng.
+ Thu từ người sử dụng lao động thuộc các doanh nghiệp nông nghiệp,
lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp trả lương theo chu kỳ sản xuất, kinh
doanh thì mức đóng là 18% trên quỹ tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã
hội của người lao động (3% vào quỹ ốm đau và thai sản; trong đó người sử
dụng lao động giữ lại 2% để trả kịp thời cho người lao động đủ điều kiện
hưởng chế độ ngắn hạn và thực hiện quyết toán hằng quý với tổ chức bảo
hiểm xã hội; 1% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; 14% vào quỹ
hưu trí và tử tuất). Phương thức thu được thực hiện hằng tháng, hằng quý
hoặc sáu tháng một lần.
* Quỹ tiền lương và cơ cấu của nó làm căn cứ thu bảo hiểm xã hội
- Người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà
nước quy định thì tiền lương tháng thu bảo hiểm xã hội là tiền lương theo
ngạch, bậc, cấp bậc quân hàm và các khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm
niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề (nếu có). Tiền lương này được tính
trên cơ sở mức lương tối thiểu chung (mức lương cơ sở).
- Người lao động hưởng chế độ tiền lương do người sử dụng lao động
quyết định thì tiền lương, tiền công tháng thu bảo hiểm xã hội là mức tiền
lương, tiền công ghi trong hợp đồng lao động.
- Trường hợp mức tiền lương, tiền công cao hơn hai mươi tháng lương
25


tối thiểu chung thì mức tiền lương, tiền công tháng thu bảo hiểm xã hội bằng
hai mươi tháng lương tối thiểu chung (mức lương cơ sở).
Cơ cấu quĩ tiền lương làm căn cứ thu bảo hiểm xã hội bao gồm mức

tiền lương cơ bản và phụ cấp.
* Qui trình thu và quản lý thu bảo hiểm xã hội
- Qui trình thu bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội thành phố, BHXH các quận, huyện, thị xã mở tài
khoản chuyên thu tại hệ thống kho bạc Nhà nước và Ngân hàng thương mại
và phải chuyển toàn bộ số tiền thu BHXH về cơ quan BHXH cấp trên theo
định kỳ, không giữ lại để sử dụng vào mục đích khác, không áp dụng phương
thức gán thu bù chi BHXH giữa cơ quan bảo hiểm xã hội với đơn vị sử dụng
lao động, cụ thể được thực hiện theo một quy trình như sau:
Quy trình thu bảo hiểm xã hội
Đơn vị sử dụng lao động
do BHXH quận, huyện,
thị xã quản lý

(1)

Kho bạc Nhà nước hoặc
Ngân hàng thương mại tại
các quận, huyện, thị xã

(2)
(1)

(3)

Kho bạc Nhà nước hoặc
Ngân hàng thương mại
thành phố Hà Nội

Bảo hiểm xã hội các

quận, huyện, thị xã
(4)
(2)

Bảo hiểm xã hội thành
phố Hà Nội

(1)

(1)

Đơn vị sử dụng lao động
do BHXH thành phố
quản lý

(1) Hàng tháng đơn vị sử dụng lao động chuyển tiền BHXH về tài

26


×