MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1.
Trang
3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC KỸ
NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.2. Nội dung quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh các
trường trung học phổ thông
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh trung học phổ thông
Chương 2. CƠ SỞ THỰC TIỂN CỦA QUẢN LÝ GIÁO DỤC KỸ
NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG THPT
HUYỆN THƯỜNG TÍN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Khái quát về tình hình giáo dục huyện Thường Tín, Thành
phố Hà Nội
2.2. Thực trạng việc quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh các trường trung học phổ thông huyện Thường Tín,
Thành phố Hà Nội
Chương 3. BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG
CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG HUYỆN THƯỜNG TÍN, THÀNH PHỐ HÀ
NỘI HIỆN NAY
3.1. Các nguyên tắc lựa chọn biện pháp
3.2. Một số biện pháp quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh các trường trung học phổ thông huyện Thường Tín,
Thành phố Hà Nội
3.3. Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biện
pháp đề xuất
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
15
15
22
29
34
34
38
64
64
66
76
81
84
87
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội hiện đại có những thay đổi toàn diện về kinh tế, văn hoá, xã hội
và lối sống với tốc độ nhanh đã làm nảy sinh những vấn đề mà trước đây con
người chưa gặp phải. Con người muốn tồn tại được, sống được phải trang bị
KNS để giúp họ có thể giải quyết được những khó khăn thách thức của cuộc
sống. Nói cách khác, mỗi con người ngày nay muốn đến được bến bờ thành
công và hạnh phúc trong cuộc đời cần phải có một cách sống, có một số kiến
thức nhất định về các vấn đề của cuộc sống mà người ta thường gọi là KNS
để đáp ứng những thách thức và thời cơ trong quá trình toàn cầu hoá mà mục
đích chính là nâng cao chất lượng cuộc sống. GD KNS cho học sinh THPT là
một trong những nhiệm vụ quan trọng để giáo dục toàn diện trong nhà trường
nhằm giúp học sinh có khả năng thích ứng với yêu cầu luôn thay đổi của nhà
trường và của xã hội. GD KNS cho học sinh THPT có thể tiến hành theo con
đường dạy học và các con đường tổ chức hoạt động giáo dục, hoạt động xã
hội. GD KNS cho học sinh phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Năng lực giáo dục
của giáo viên, nội dung chương trình dạy học, giáo dục của nhà trường, tính
tích cực chủ động của học sinh khi tham gia các hoạt động giáo dục và tham
gia vào cuộc sống trải nghiệm, môi trường giáo dục trong và ngoài nhà
trường, các yếu tố quản lý của nhà trường và của người hiệu trưởng.
Thông qua các yếu tố quản lý giáo dục giúp cho mục tiêu, nội dung,
chương trình GD KNS cho học sinh trong nhà trường phổ thông được tiến
hành một cách có kế hoạch, có tính tổ chức và được kiểm soát một cách hệ
thống. Thực tế giáo dục phổ thông nói chung và giáo dục THPT nói riêng đã
đạt được nhiều thành tựu, tuy nhiên còn thiên lệch về mặt học vấn; gia đình,
nhà trường chưa quan tâm nhiều đến GD KNS cho học sinh, do vậy hiện
tượng lệch chuẩn về hành vi đạo đức, các biểu hiện thiếu văn hóa trong học
3
sinh vẫn thường xuyên xảy ra, nguy cơ bạo lực học đường có chiều hướng
ngày càng gia tăng.
Các trường THPT nói chung và trường THPT huyện Thường Tín,
Thành phố Hà Nội nói riêng đã tiến hành công tác GD KNS cho các em học
sinh và thu được những kết quả nhất định, tuy nhiên vẫn còn bộc lộ hạn chế
do nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó một trong những nguyên nhân của
thực trạng là do công tác quản lý giáo dục nói chung, quản lý GD KNS nói
riêng chưa được quan tâm một cách thoả đáng. Hiệu trưởng nhà trường, cán
bộ quản lý giáo dục chưa thực sự sát sao với hoạt động GD KNS cho học sinh
THPT. Vì vậy cần phải có những nghiên cứu về thực trạng, nguyên nhân GD
KNS để từ đó đề xuất biện pháp để nâng cao chất lượng quản lý GD KNS góp
phần giáo dục toàn diện cho học sinh. Xuất phát từ những lý do trên tôi lựa
chọn đề tài: "Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh các trường trung
học phổ thông huyện Thường tín, Thành phố Hà Nội".
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Ở nước ngoài
Có thể nhận định rằng trong những thập kỷ qua, vấn đề KNS đã được
nhiều nước trên thế giới quan tâm. KNS bắt đầu xuất hiện trong một số
chương trình giáo dục của UNICEF. Trước tiên là chương trình “giáo dục
những giá trị sống”. Chương trình này được UNESCO, Uỷ ban UNICEF của
Tây Ban Nha và Hiệp hội hành tinh, tổ chức Brahma và các chuyên gia giáo
dục UNICEF (New York) tham gia. Khái quát các công trình nghiên cứu về
KNS ở nước ngoài có thể nêu lên hai hướng nghiên cứu chính sau:
Hướng thứ nhất: Nghiên cứu các KNS trong lao động, công việc, trong
hành nghề: Theo hướng này có thể kể đến các công trình sau: Năm 1989, Bộ
Lao động Mỹ thành lập một Uỷ ban thư ký về rèn luyện các kỹ năng cần thiết.
Thành viên của Uỷ ban đến từ nhiều lĩnh vực khác nhau như: Giáo dục, kinh
4
doanh, người lao động... nhằm mục đích thúc đẩy nền kinh tế bằng nguồn lao
động kĩ năng cao và công việc thu thập cao.
Tác giả Stephen R. Covey đã viết cuốn (7 thói quen của người thành
đạt). Đây là một cuốn sách đã nổi tiếng từ hàng chục năm nay trên khắp thế
giới. Tác giả muốn giới thiệu một phương pháp kết hợp toàn diện và thực tiễn
để giải quyết các vấn đề về tính cách con người và sự nghiệp. Tác giả cho
thấy từng bước của con đường phải đi để sống một cuộc đời trung thực, nhất
quán, lương thiện và xứng đáng với nhân phẩm. Gồm 7 thói quen:
Thói quen 1: Luôn chủ động
Thói quen 2: Bắt đầu bằng định hướng tương lai
Thói quen 3: Việc quan trọng làm trước
Thói quen 4: Lợi người - lợi ta
Thói quen 5: Hiểu rồi được hiểu
Thói quen 6: Cùng hiệp đồng
Thói quen 7: Sự tương hỗ lẫn nhau
Như vậy, nội dung cuốn sách cho người đọc thấy được những giá trị
sống cơ bản để thành công trong cuộc sống.
Một nghiên cứu gần đây của Bộ Lao động Mỹ (The U.S. Department of
Labor) cùng Hiệp hội đào tạo và phát triển Mỹ (The American Society of
Training and Development) đã nghiên cứu về các kĩ năng cơ bản trong công
việc. Kết luận được đưa ra là có 13 kỹ năng cơ bản cần để thành công trong
công việc:
1. Kỹ năng học và tự học
2. Kỹ năng lắng nghe
3. Kỹ năng thuyết trình
4. Kỹ năng giải quyết vấn đề
5. Kỹ năng tư duy sáng tạo
6. Kỹ năng quản lý bản thân và tinh thần tự tôn
5
7. Kỹ năng đặt mục tiêu/tạo động lực làm việc
8. Kỹ năng phát triển cá nhân và sự nghiệp
9. Kỹ năng giao tiếp ứng xử và tạo lập quan hệ
10. Kỹ năng làm việc nhóm
11. Kỹ năng đàm phán
12. Kỹ năng tổ chức công việc
13. Kỹ năng lãnh đạo bản thân
Như vậy, những nghiên cứu trên đã chú trọng đến việc hình thành và
phát triển những KNS cơ bản trong công việc, trong lao động để có thể đem
lại hiệu quả cao, còn các lĩnh vực khác như trong giáo dục, sức khỏe...ít được
quan tâm và nghiên cứu hơn.
Nhìn chung các nước trên đã quan tâm đến việc hình thành các kĩ năng
cần thiết cho người lao động, giúp họ có khả năng làm việc tốt và nâng cao
chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, nếu chỉ quan tâm đến việc phát triển KNS
cơ bản cho người lao động thì chưa đủ mà cần quan tâm đến việc phát triển
KNS cho các lứa tuổi khác nhau, trong các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống.
Hướng thứ hai: Nghiên cứu các kỹ năng hướng vào giáo dục sức khoẻ;
hành vi; cách ứng xử, giáo dục an toàn giao thông, bảo vệ môi trường hay
giáo dục lòng yêu hoà bình. Theo hướng này có thể kể đến các công trình
nghiên cứu tiêu biểu sau:
Từ năm 1997 đến năm 2002, ở Lào ban đầu KNS chủ yếu được nghiên
cứu trong lĩnh vực vó liên quan đến giáo dục phòng chống HIV/AIDS đã lồng
ghép vào các chương trình giáo dục chính quy, không chính quy và các
trường sư phạm đào tạo giáo viên. Về sau KNS được mở rộng ra nhiều lĩnh
vực khác nhau như: Giáo dục dân số, giáo dục sức khoẻ sinh sản, giáo dục
môi trường… Những kỹ năng cơ bản được giáo dục là: Kỹ năng giao tiếp
hiệu quả, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng ra
quyết định…
6
Những kinh nghiệm và bài học rút ra từ các hoạt động GD KNS ở Lào là
cần phải biên soạn và in ấn nhiều tài liệu hướng dẫn giảng dạy đào tạo giáo viên,
CBQL nhà trường để mở rộng việc học tập và giảng dạy KNS ở nhà trường.
Tháng 2 năm 2003 tại Bali – Inđonexia đã diễn ra hội thảo về GD KNS
trong giáo dục không chính quy với sự tham gia của 15 nước vùng Châu Á
Thái Bình Dương. Qua báo cáo của các nước cho thấy có nhiều điểm chung
nhưng cũng có nhiều nét riêng trong quan niệm về GD KNS của các nước.
Hội thảo Bali đã xác định mục tiêu của GD KNS trong giáo dục không
chính quy của các nước Châu Á – Thái Bình Dương là nhằm nâng cao tiềm
năng của con người để có hành vi thích ứng và tích cực nhằm đáp ứng yêu
cầu, sự thay đổi, các tình huống của cuộc sống hàng ngày, đồng thời tạo ra sự
thay đổi và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Hội thảo Bali đã đưa ra yêu cầu khi thiết kế chương trình GD KNS phải
đảm bảo 3 thành tố:
- Kỹ năng cơ bản: Đọc, viết, ghi chép, báo cáo.
- Kỹ năng chung: Tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải
quyết vấn đề…
- Kỹ năng cụ thể: Tạo thu nhập, tạo bình đẳng giới, bảo vệ sức khoẻ…
Tổng hợp các công trình nghiên cứu về KNS, chúng tôi nhận thấy đối
với học sinh THPT tập trung nghiên cứu và giáo dục, thực hành những kĩ
năng sau: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng tư duy sáng
tạo, tư duy phê phán, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng
đương đầu với xúc cảm...
* Ở Việt Nam
Thuật ngữ KNS được người Việt Nam biết đến bắt đầu từ chương trình
của UNICEF năm 1996 “GD KNS để bảo vệ sức khoẻ và phòng chống
HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường”. Quan niệm về
KNS được giới thiệu trong chương trình này chỉ bao gồm những kỹ năng cốt
7
lõi như: kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xác định giá trị, kỹ
năng ra quyết định… Nhằm vào những chủ đề giáo dục sức khoẻ do các
chuyên gia Úc tập huấn. Tham gia chương trình này đầu tiên có ngành Giáo
dục và Hội Chữ thập đỏ. Khái quát các công trình nghiên cứu về KNS ở Việt
Nam có thể nêu lên 2 hướng nghiên cứu chính sau:
Hướng thứ nhất: Quan tâm đến các KNS trong lao động, công việc,
trong hành nghề. Theo hướng này có thể kể đến các công trình nghiêm cứu
như: Chương trình xoá mù chữ và tăng thu nhập cho phụ nữ được thực hiện từ
năm 1996 – 2000 do UNICEF tài trợ nhằm GD KNS cho phụ nữ miền núi.
Dự án VIE 01/009: “Nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi cho
thanh niên Việt Nam trong phòng chống HIV/AIDS dựa trên cơ sở cộng
đông” Triển khai từ tháng 8 năm 2001 tại 8 xã, phường, 4 huyện, thị của tỉnh
Cần Thơ và Hà Tĩnh với mục tiêu nâng cao năng lực quản lí và chuyên môn
cho cán bộ Đoàn thanh niên các cấp trong việc xây dựng các hoạt động phòng
chống AIDS dựa trên cơ sở cộng đồng, thực hiện các hoạt động giáo dục
phòng chống AIDS và KNS dựa vào cộng đồng để nâng cao nhận thức và
khuyến khích thay đổi hành vi cho nhóm có nguy cơ cao.
Tác giả Nguyễn Thị Oanh đã xuất bản cuốn “KNS cho tuổi vị thành
niên” (Năm 2005). Cuốn sách đã đề cập đến những kĩ năng tâm lí xã hội cơ
bản và tuổi vị thành niên sống có mục đích, có mối quan hệ và giao tiếp, làm
chủ cảm xúc và quản lý stress…” [37].
Tác giả Huỳnh Văn Sơn đã xuất bản cuốn: “Bạn trẻ và kỹ năng sống”
(năm 2009). Nội dung cuốn sách bàn đến vấn đề hành trang cần có của thanh
niên hiện đại đó là KNS. Tác giả đưa ra những KNS cần thiết cho thanh niên
là kỹ năng tự đánh giá mình, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng tác động đến
tâm lí của người khác, kỹ năng hợp tác, lắng nghe, kỹ năng năng biết chấp
nhận người khác [40].
8
Hướng thứ hai: Quan tâm đến các KNS hướng vào GD hành vi, cách
ứng xử, giáo dục an toàn giao thông, bảo vệ môi trường hay giáo dục lòng
yêu hoà bình cho học sinh. Theo hướng này có thể kể đến các công trình như:
Bộ giáo dục và đào tạo phối hợp với ngành công an và Uỷ ban An toàn
giao thông quốc gia giảng dạy thí điểm và tổ chức nhiều cuộc thi tìm hiểu luật
An toàn giao thông cho trẻ em các trường từ mẫu giáo đến THPT để trang bị
cho các em những kiến thức ban đầu về luật An toàn giao thông.
Đề tài cấp Bộ “Giáo dục một số KNS cho học sinh THPT” Mã số
B.2005 – 75 – 126 do bà Nguyễn Thanh Bình chủ nhiệm đề tài và các cộng sự
trường Đại học sư phạm Hà Nội bắt đầu triển khai nghiêm cứu từ năm 2005 –
2006. Đề tài đã tiếm hành điều tra nhu cầu học sinh THPT về những KNS cần cho
lứa tuổi của các em, xây dựng cơ sở khoa học cho việc xác định chương trình giáo
dục KNS cho đối tượng này và tiến hành thử nghiệm một số chủ đề [3]
Nghiên cứu "GD KNS ở Việt Nam"- Trưởng nhóm là bà Nguyễn
Thanh Bình, nghiên cứu tập trung tìm hiểu quá trình nhận thức KNS và tổng
quan về các chủ trương, chính sách, điều luật phản ánh yêu cầu tiếp cận KNS
trong giáo dục và GD KNS ở Việt Nam từ mầm non đến người lớn thông qua
giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên [4,5].
UNICEF đã hỗ trợ xây dựng tài liệu GD KNS cho HS tiểu học miền
núi bao gồm những nội dung bổ trợ như giáo dục kĩ năng an toàn giúp các em
biết phòng tránh hoặc xử lý những tai nạn về sông nước, điện giật, sét đánh...
giáo dục trẻ em gái ở miền núi với các kĩ năng tự nhận biết mình thuộc giới
nào, giữ vẻ đẹp con gái, biết về tuổi dậy thì...
Bài viết của tác giả Nguyễn Quang Uẩn bàn về: “Khái niệm KNS xét
dưới góc độ tâm lí học” (năm 2008). Tác giả đã đưa ra khái niệm “KNS là
một tổ hợp phức tạp của một hệ thống các kỹ năng nói lên năng lực sống của
con người. Giúp con người thực hiện công việc và quan hệ với bản thân, với
xã hội có kết quả trong những điều kiện xác định của cuộc sống” và cách
9
phân loại KNS bao gồm: nhóm KNS hướng vào bản thân; nhóm KNS hướng
vào quan hệ; nhóm KNS hướng vào công việc [42].
Tác giả Nguyễn Thị Oanh đã xuất bản cuốn: “10 cách thức rèn KNS
cho trẻ vị thành niên” (năm 2008). Cuốn sách đã nêu lên một số vấn đề
chung về KNS và 10 cách thức rèn KNS cho lứa tuổi vị thành niên [38].
Tác giả Nguyễn Thanh Bình đã xuất bản cuốn “Giáo trình chuyên đề
GD KNS” (năm 2009). Cuốn sách đã nêu lên một số vấn đề chung về KNS
và GD KNS và một số chủ đề GD KNS cốt lõi cho học sinh THPT [4].
Tác giả Huỳnh Văn Sơn đã viết cuốn “ Nhập môn KNS” (năm 2009).
Tác giả đã chỉ ra khái niệm KNS được xác định bao gồm 24 kĩ năng: kỹ năng
tự đánh giá; kỹ năng xác lập mục đích sống; kỹ năng phán đoán cảm xúc của
người khác; kỹ năng kiềm chế cảm xúc... [41].
Tác giả Nguyễn Thị Quỳnh Anh (2012) "Quản lý công tác giáo dục kĩ
năng sống thông qua hoạt động Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh tại
trường tiểu học Lý Thường Kiệt, Thành phố Hà Nội". Luận văn đã đưa ra một
số giải pháp cụ thể về quản lý GD KNS cho học sinh tiểu học thông qua Đội
thiếu niên tiền phong [1].
Tác giả Nguyễn Hữu Đức (2010) "Quản lý giáo dục kĩ năng sống cho
Học sinh trường Trung học phổ thông Trần Hưng Đạo Nam Định trong giai
đoạn hiện nay". Tác giả đã đề xuất những giải pháp GD KNS cơ bản cho học
sinh THPT thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp [22].
Đề tài cấp Bộ: “Thực trạng biểu hiện của một số xúc cảm và kĩ năng
đương đầu với cảm xúc tiêu cực ở thiếu niên” do Đào Thị Oanh và Vũ Thị Lệ
Thuỷ thực hiện năm 2008. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hiện tượng bạo lực
học đường, hành vi xâm kích, gây rối trật tự xã hội của thanh thiếu niên gia
tăng do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do trẻ thiếu khả năng chế ngự
các cảm xúc của bản thân, chưa biết đương đầu một cách hiệu quả với các
cảm xúc tiêu cực và chưa hình thành một phong cách đương đầu với cảm xúc
tiêu cực [36].
10
Luận án tiến sỹ Giáo dục học của Phan Thanh Vân: “GD KNS cho học
sinh THPT thông qua hoạt động giáo dục NGLL” (năm 2010). Luận án đã xác
định các KNS để hình thành cho học sinh THPT thông qua hoạt động GD
NGLL là các kỹ năng cơ bản như: Kỹ năng giao tiếp; Xác định giá trị; kỹ
năng đương đầu với cảm xúc, căng thẳng; kỹ năng giải quyết mâu thuẫn một
cách tích cực. Kết quả của việc hình thành những kĩ năng này là giáo dục cho
các em có cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là xây dựng hoặc thay
đổi hành vi ở các em theo hướng tích cực phù hợp mục tiêu phát triển toàn
diện nhân cách người học, dựa trên cơ sở giúp học sinh có tri thức, giá trị, thái
độ và kĩ năng phù hợp [43].
Từ các công trình nghiên cứu về KNS ở Việt Nam, Bộ GD&ĐT đã đưa
vào chương trình GD KNS cho học sinh THPT tập trung nghiên cứu, giáo dục và
thực hành KNS bao gồm: Kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng
giao tiếp, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng kiên định, kỹ năng đạt mục tiêu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
*Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn quản lí GD KNS, từ đó đề xuất
một số biện pháp quản lý GD KNS cho học sinh các trường THPT huyện Thường
tín, Thành phố Hà Nội góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện.
*Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa, làm rõ cơ sở lý luận về quản lý GD KNS cho học sinh.
- Khảo sát thực trạng công tác quản lý GD KNS cho học sinh các
trường THPT huyện Thường Tín, Thành phố Hà Nội và nguyên nhân của
thực trạng.
- Đề xuất một số biện pháp quản lý GD KNS cho học sinh các trường
THPT huyện Thường Tín, Thành phố Hà Nội.
11
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu của đề tài
*Khách thể nghiên cứu
Quản lý quá trình giáo dục học sinh các trường THPT huyện Thường
Tín, Thành phố Hà Nội.
*Đối tượng nghiên cứu
Quản lý GD KNS cho học sinh các trường THPT huyện Thường Tín,
Thành phố Hà Nội.
*Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu 5 trường THPT trên địa bàn huyện Thường Tín, Thành phố
Hà Nội hiện nay, đó là trường THPT Lý Tử Tấn, THPT Thường Tín, THPT
Nguyễn Trãi, THPT Vân Tảo, THPT Tô Hiệu.
Số liệu sử dụng trong luận văn từ năm 2014 - 2015
5. Giả thuyết khoa học
Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh các trường THPT nói
chung, các trường THPT huyện Thường Tín, Thành phố Hà Nội nói riêng
đang là vấn đề được quan tâm hàng đầu ở các nhà trường phổ thông, của
ngành giáo dục và toàn xã hội hiện nay. Nếu xác định được các nội dung quản
lý, vận dụng linh hoạt sáng tạo các biện pháp quản lý giáo dục kĩ năng sống
thì sẽ quản lý được giáo dục kỹ năng sống cho học sinhTHPT huyện Thường
Tín, Thành phố Hà Nội, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện,
đáp ứng được yêu cầu giáo dục và đào tạo hiện nay.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin; quán triệt tư tưởng giáo dục và quản
lý giáo dục của Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vận dụng
phương pháp luận nghiên cứu của khoa học quản lý giáo dục, các phương
12
pháp nghiên cứu dựa trên các chủ trường chính sách của Đảng, nhà nước về
quản lý giáo dục KNS ở các nhà trường trên toàn quốc.
Khái quát hóa các văn bản có liên quan đến quản lý giáo dục KNS theo quan
điểm hệ thống - cấu trúc, lịch sử lôgíc và quan điểm thực tiễn trong nghiên cứu.
* Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học
chuyên ngành, bao gồm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết, nghiên cứu
thực tiễn,... để luận giải các nhiệm vụ của đề tài. Cụ thể là:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp các tài liệu, các văn bản, quy định, chỉ
thị hướng dẫn của nhà nước liên quan đến giáo dục KNS
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát:
+ Dự giờ lên lớp của một số lớp của trường THPT
+ Tìm hiểu những điều kiện dạy học, giáo dục KNS ở trường.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: quản lý hoạt động giáo dục KNS qua
các báo cáo thực hiện nhiệm vụ của trường, của ngành giáo dục và đào tạo.
Phương pháp Toạ đàm, Trao đổi kinh nghiệm quản lý dạy học.
Phương pháp Điều tra bằng phiếu hỏi: thăm dò ý kiến của cán bộ quản
lý, giáo viên và học sinh.
Phương pháp phân tích hồ sơ quản lý.
Ngoài ra tác giả còn sử dụng các phương pháp khác như: Phương pháp
sử dụng thống kê toán học: thu nhập xử lý các thông tin số liệu điều tra và
nghiên cứu các hồ sơ thống kê. Phương pháp lấy ý kiến của các chuyên gia có
kinh nghiệm trong công tác quản lý giáo dục KNS ở trường THPT.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu văn bản.
Phương pháp nghiên cứu điều tra bằng bảng hỏi.
Phương pháp đàm thoại.
13
Phương pháp quan sát.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
Phương pháp thống kê.
7. Ý nghĩa của đề tài
Khái quát được cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề quản lý giáo dục
KNS cho học sinh THPT.
Làm rõ được thực trạng và các nhân tố ảnh hưởng tới quản lý giáo dục
KNS cho học sinh các trường THPT huyện Thường Tín, Thành phố Hà Nội.
Đề xuất các biện pháp nâng cao quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
các trường THPT trên địa bàn; góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đáp
ứng yêu cầu của ngành giáo dục đào tạo Thủ đô và yêu cầu của xã hội.
8. Kết cấu của đề tài
Gồm phần mở đầu và 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh ở trường trung học phổ thông.
Chương 2: Cơ sở thực tiễn của quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh các trường trung học phổ thông ở huyện Thường Tín, Thành phố Hà Nội.
Chương 3: Biện pháp quản lí giáo dục kỹ năng sống cho học sinh các
trường THPT huyện Thường Tín, Thành phố Hà Nội trong bối cảnh hiện nay.
14
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO
HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm quản lý giáo dục
* Khái niệm quản lý
Theo Harold Koontz: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo
phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được mục đích của nhóm. Mục tiêu
của nhà quản lý là hình thành một môi trường mà con người có thể đạt được
các mục đích của nó với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít
nhất. Với tư cách thực hành thì quản lý là một nghệ thuật, còn với kiến thức
thì quản lý là một khoa học.
Nhà triết học V.G.Afanetser cho rằng: Quản lý xã hội một cách khoa
học là nhận thức, phát hiện các quy luật, các khuynh hướng phát triển xã hội
và hướng sự vận động xã hội cho phù hợp khuynh hướng ấy, phát hiện và
giải quyết kịp thời các mâu thuẫn của sự phát triển, khắc phục trở ngại, duy trì
sự thống nhất giữa chức năng và cơ cấu của hệ thống, tiến hành một đường lối
đúng đắn dựa trên cơ sở tính toán nghiêm túc những khả năng khách quan,
mối tương quan giữa những lực lượng xã hội, một đường lối gắn bó, chặt chẽ
với nền kinh tế và sự phát triển tinh thần xã hội.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích,
có kế hoạch của chủ thể quản lý đến những người lao động nói chung là
khách thể quản lý nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến”.
Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Hoạt động quản lý
là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) trong
một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích đề ra”
Mặc dù có nhiều cách diễn đạt khác nhau về quản lý song có thể khái
quát nội hàm của khái niệm quản lý đã đề cập tới các vấn đề chủ yếu sau:
15
- Quản lý phải có mục tiêu cần đạt được của hệ thống.
- Quản lý phải bao gồm 2 yếu tố chủ thể quản lý và khách thể quản lý.
- Quản lý là tác động có định hướng, có mục đích, có kế hoạch và có hệ
thống thông tin của chủ thể đến khách thể của nó.
- Quản lý tồn tại với tư cách là một hệ thống, nó có cấu trúc và vận
hành trong môi trường xác định.
Như vậy, Quản lý là một quá trình tác động có định hướng, có chủ đích
của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý trong một tổ chức, nhằm làm cho tổ
chức vận hành và đạt được mục đích đã đề ra.
Các chức năng cơ bản của quản lý:
Theo các tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc và Nguyễn Quốc Chí: Quản lý là
hệ thống gồm bốn chức năng cơ bản: Kế hoạch hoá; tổ chức; lãnh đạo, chỉ
đạo và kiểm tra.
Các chức năng quản lý tạo thành một chu trình quản lý và có mối quan
hệ biện chứng, tạo sự kết nối giữa các chu trình theo hướng phát triển. Trong
đó, thông tin luôn là yếu tố xuyên suốt không thể thiếu trong việc thực hiện
các chức năng quản lý và là cơ sở cho việc quyết định trong quản lý.
Từ những phân tích trên có thể rút ra kết luận chung về quản lý như sau:
Quản lý là quá trình tác động có định hướng, có mục đích, có tổ chức,
có lựa chọn của chủ thể quản lý đến đối tượng (khách thể) quản lý nhằm giữ
cho sự vận hành của tổ chức được ổn định và làm cho nó phát triển tới mục
tiêu đã đề ra với hiệu quả cao nhất.
* Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đến
khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới
kết quả mong muốn. Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là hoạt động điều
hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ
trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội.
16
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý giáo dục là tổ chức các hoạt
động dạy học, có tổ chức được các hoạt động dạy học, thực hiện được các tính
chất của nhà trường phổ thông Việt Nam xã hội chủ nghĩa mới quản lý được
giáo dục, tức là cụ thể hoá đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối ấy
thành hiện thực, đáp ứng nhu cầu của nhân dân, của đất nước”
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang lại quan niệm về quản lý giáo dục như
sau: “Quản lý giáo dục là hệ thống các tác động có mục đích, có kế hoạch
hợp quy luật của chủ thể quản lý, nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối
giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy - học, giáo dục thế hệ
trẻ, đưa hệ giáo dục đến mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mối về chất”.
Từ những quan niệm trên cho thấy khi nói đến quản lý giáo dục chứa
đựng những nhân tố đặc trưng bản chất sau: Phải có chủ thể quản lý giáo dục.
Ở tầm vi mô là quản lý của Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng các trường THPT.
Phải có hệ thống tác động quản lý theo một nội dung, chương trình kế hoạch
thống nhất từ Trung ương đến địa phương nhằm thực hiện mục đích giáo dục
trong mỗi giai đoạn cụ thể của xã hội. Phải có một lực lượng đông đảo những
người làm công tác giáo dục cùng với hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật
tương ứng. Quản lý giáo dục có tính xã hội cao, bởi vậy cần tập trung giải
quyết tốt các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hoá, an ninh quốc phòng phục vụ
công tác giáo dục.
Nhà trường là đối tượng cuối cùng và cơ bản nhất của quản lý giáo dục,
trong đó đội ngũ giáo viên và học sinh là đối tượng quản lý quan trọng nhất,
đồng thời lại là chủ thể trực tiếp quản lý quá trình giáo dục.
Tóm lại: Quản lý giáo dục chính là quá trình tác động có định hướng
của nhà quản lý giáo dục trong việc vận hành nguyên lý, phương pháp chung
nhất của kế hoạch nhằm đạt được những mục tiêu đề ra. Những tác động đó
17
thực chất là những tác động khoa học đến nhà trường, làm cho nhà trường tổ
chức một cách khoa học, có kế hoạch quá trình dạy học theo mục tiêu đào tạo.
1.1.2. Khái niệm kỹ năng sống
* Khái niệm kỹ năng
Kỹ năng là một vấn đề được nhiều nhà tâm lý học, giáo dục học trong
và ngoài nước quan tâm. Ở góc độ khác nhau, các tác giả có các quan niệm
khác nhau về kỹ năng : Kỹ năng được xem là mặt kỹ thuật của hành động; là
khả năng của cá nhân; ở một bình diện khác, kỹ năng là hành vi ứng xử.
Trong từ điển Tiếng Việt, kỹ năng được định nghĩa theo quan điểm như
sau: “Kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được trong
một lĩnh vực nào đó vào thực tế”.
Tác giả Huỳnh Văn Sơn quan niệm: “Kỹ năng là khả năng thực hiện có
kết quả một hành động nào đó bằng cách vận dụng những tri thức, kinh nghiệm
đã có để hành động phù hợp với những điều kiện cho phép. Kỹ năng không chỉ
đơn thuần về mặt kỹ thuật mà còn là biểu hiện năng lực của con người”.
Như vậy, kỹ năng không chỉ được hiểu là kỹ thuật mà còn đem lại kết
quả cho hoạt động cuả bản thân. Đây là quan niệm tương đối toàn diện và
khái quát về kỹ năng, tuy nhiên các tác giả chưa quan tâm phân tích về mặt
thao tác, hành động của kỹ năng .
Từ những quan niệm trên đi đến kết luận: Kỹ năng là khả năng vận
dụng những tri thức, kinh nghiệm và những cách thức hành động đúng đắn
vào thực tiễn để thực hiện có kết quả hoạt động đó.
* Khái niệm kỹ năng sống
Khi quan niệm về KNS có rất nhiều quan niệm khác nhau, một số tổ
chức quốc tế định nghĩa khái niệm KNS như sau:
Theo tổ chức Văn hoá, Khoa học và Giáo dục của Liên hợp quốc
(UNESCO): KNS là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và
tham gia vào cuộc sống hàng ngày.
18
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cũng cho rằng: KNS là những kỹ năng mà
con người cần để có cuộc sống an toàn khoẻ mạnh. Đó là những kỹ năng mang
tính tâm lý xã hội và kỹ năng về giao tiếp được vận dụng trong những tình
huống hàng ngày để tương tác một cách hiệu quả với người khác và giải quyết
có hiệu quả những vấn đề, những tình huống trong cuộc sống hàng ngày.
Theo chương trình GD KNS của Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc
(UNICEF, 1996): KNS bao gồm những kỹ năng cốt lõi như: Kỹ năng tự nhận
thức, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng ra quyết định, kỹ
năng kiên định và kỹ năng đạt mục tiêu.
Thuật ngữ KNS được người Việt Nam biết đến nhiều từ chương trình
của UNICEF (1996) “GD KNS để bảo vệ sức khoẻ và phòng chống
HIV/AIDS cho thanh niên trong và ngoài nhà trường”. Khái niệm KNS được
giới thiệu trong chương trình này bao gồm những KNS cốt lõi như: Kỹ năng
tự nhận thức, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng ra quyết
định, kỹ năng kiên định và kỹnăng đạt mục tiêu. Tham gia chương trình đầu
tiên này có ngành Giáo dục và Hội Chữ thập đỏ. Sang giai đoạn 2 chương
trình này mang tên: “Giáo dục sống khoẻ mạnh và KNS”. Ngoài ngành Giáo
dục còn có Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Hội Liên hiệp phụ nữ đã định nghĩa như sau: KNS là các kỹ năng thiết
thực mà con người cần để có cuộc sống an toàn, khoẻ mạnh và hiệu quả. Theo
họ những kĩ năng cơ bản như: Kỹ năng ra quyết định, kỹ năng từ chối, kỹ
năng thương thuyết, đàm phán, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng nhận biết...
Khái niệm KNS được hiểu với nội hàm đầy đủ và đa dạng hơn sau Hội
thảo “Chất lượng giáo dục và KNS” được tổ chức ngày 23 đến ngày 25 tháng
10 năm 2003 tại Hà Nội, đó là:
- Năng lực thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống
hàng ngày.
19
- Hành vi làm cho cá nhân thích ứng và giải quyết có hiệu quả các
thách thức của cuộc sống.
- Những kỹ năng liên quan đến tri thức, những giá trị.
- Năng lực đáp ứng và những hành vi tích cực giúp con người có thể
giải quyết có hiệu quả những yêu cầu và thách thức của cuộc sống.
Từ những quan niệm trên có thể thấy các quốc gia đều dựa trên quan
niệm về KNS của các tổ chức quốc tế (WHO, UNESCO, UNICEF) nhưng có
tính chất khác biệt do điều kiện chính trị, kinh tế văn hoá từng quốc gia. Nội
dung GD KNS vừa đáp ứng những cái chung có tính chất toàn cầu vừa có tính
chất đặc thù quốc gia. Một số quốc gia coi trọng một số kĩ năng như: Kỹ năng
tư duy, kỹ năng thích ứng, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác và cạnh tranh,
kỹ năng luân chuyển công việc.
Một số nước khác lại chú trọng đến kỹ năng xóa đói giảm nghèo, kỹ năng
phòng chống HIV/AIDS. Trong đề tài này tôi hiểu khái niệm KNS như sau:
KNS là tất cả những kỹ năng cần thiết trực tiếp giúp cá nhân sống
thành công và hiệu quả, trong đó tích hợp những khả năng, phẩm chất, hành
vi tâm lý, ứng xử văn hoá phù hợp và đương đầu được với những tác động
của môi trường. Những KNS cốt lõi cần nhấn mạnh là kỹ năng tư duy, kỹ
năng giao tiếp, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng xử lý
tình huống, kỹ năng làm chủ bản thân, và kỹ năng tự nhận thức..
KNS là khả năng làm cho hành vi và sự thay đổi của mình phù hợp với
cách ứng xử tích cực, giúp con người có thể kiểm soát quản lý có hiệu quả các
nhu cầu và những thách thức trong cuộc sống hàng ngày.
1.1.3. Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
trung học phổ thông
* Khái niệm giáo dục kỹ năng sống
Giáo dục là một quá trình xã hội hóa nhân cách con người được tiến
hành có mục đích, có kế hoạch, có nội dung chương trình và được thực hiện
20
bởi đội ngũ những nhà sư phạm. Trong nhà trường THPT giáo dục được tiến
hành với nhiều nội dung khác nhau nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục toàn
diện đó là: Giáo dục trí tuệ, giáo dục lao động, giáo dục đạo đức, thẩm mỹ,
GD KNS vv...
Giáo dục KNS cho học sinh THPT được đặt trong mối quan hệ với
hoạt động dạy học, hoạt động giáo dục, sinh hoạt tập thể của học sinh và các
hoạt động khác, thông qua những hoạt động đó giúp học sinh THPT có cơ
hội trải nghiệm nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu dạy học, giáo dục của
nhà trường và phát triển năng lực cá nhân học sinh đáp ứng yêu cầu của
cuộc sống.
“GD KNS là hình thành cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là
xây dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu
cực trên cơ sở giúp người học có cả kiến thức, giá trị, thái độ và các kỹ năng
thích hợp” (www.vjol.info/Chuyên đề KNS - Nguyễn Thanh Bình [Tr11]).
Như vậy, GD KNS làm thay đổi những thói quen, hành vi tiêu cực
thành những thói quen, hành vi tích cực, nhằm nâng cao chất lượng cuộc
sống. Chất lượng đó được thể hiện thông qua việc các cá nhân đó giải quyết
các vấn đề của mình trong xã hội một cách hiệu quả.
Có thể quan niệm về giáo dục KNS cho học sinh là một quá trình tác
động có mục đích của chủ thể, thông qua các hoạt động giáo dục và tổ chức
cuộc sống nhằm hình thành cách sống tích cực, xây dựng những thói quen,
hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực trên cơ sở
giúp người học có cả kiến thức, giá trị, thái độ và các kĩ năng thích hợp.
* Quản lý giáo dục kỹ năng sống
Trong nhà trường THPT, quản lý GD KNS được tiến hành với nhiều
nội dung khác nhau nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện đó là: Giáo
dục trí tuệ, giáo dục lao động, giáo dục đạo đức, thẩm mỹ, vv...
21
Quản lý GDKNS cho học sinh chính là quản lý kế hoạch, nội dung
chương trình, phương pháp hình thức tổ chức, sự phối hợp các lực lượng
trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện mục tiêu các nhiệm vụ giáo dục rèn
luyện KNS ở học sinh.
Quản lý GD KNS cho học sinh góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục
toàn diện của trường THPT. Mục tiêu của giáo dục phổ thông hiện nay đã
chuyển từ chủ yếu trang bị kiến thức sang trang bị năng lực cần cho học sinh,
đặc biệt là năng lực hành động, năng lực thực tiễn. Bản chất của GD KNS là
hình thành cho học sinh các khả năng: khả năng làm chủ bản thân, khả năng
giao tiếp ứng xử… phù hợp với mục tiêu giáo dục trong nhà trường phổ thông
hiện nay.
Quản lý GD KNS cho học sinh là quá trình của các nhà giáo dục nhằm cụ
thể hóa những kỹ năng cơ bản chuẩn bị hành trang cho học sinh thích ứng với
những thách thức của cuộc sống hội nhập, phát triển và tự hoàn thiện bản thân.
Giữa nhận thức và hành vi của con người có khoảng cách. KNS là cầu
nối giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi tích cực lành mạnh.
Trong cuộc sống hội nhập phát triển, người có KNS phù hợp sẽ luôn vững
vàng, biết ứng xử tích cực và phù hợp, sẽ thành công hơn và yêu đời. Bên cạnh
việc chuẩn bị hành trang cho cá nhân, quản lý GD KNS còn góp phần ngăn ngừa
các vấn đề xã hội, giúp nâng cao chất lượng cuộc sống xã hội.
Từ những phân tích trên, có thể quan niệm:
Quản lý GD KNS là một quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch,
có nội dung chương trình và được thực hiện bởi đội ngũ những nhà sư phạm
nhằm hình thành cách sống tích cực, xây dựng những thói quen, hành vi lành
mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực trên cơ sở giúp người học
có cả kiến thức, giá trị, thái độ và các kĩ năng thích hợp.
1.2. Nội dung quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh các
trường trung học phổ thông
22
Để đạt được mục tiêu của GD KNS cho học sinh, Hiệu trưởng nhà
trường tạo ra sự thống nhất những KNS cần được hình thành cho học sinh,
xây dựng một kế hoạch thống nhất, xác định được cơ chế hoạt động thống
nhất , từ đó lựa chọn, tổ chức, điều hành các nguồn lực, các tác động của nhà
quản lý, của tập thể sư phạm, của các lực lượng giáo dục theo kế hoạch đã
vạch ra và chương trình giáo dục đã lựa chọn nhằm tạo ra hiệu quả cần thiết.
1.2.1. Quản lý mục tiêu, kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh trung học phổ thông
1.2.1.1. Quản lý mục tiêu giáo dục kỹ năng sống cho học sinh các
trường trung học phổ thông
* Mục tiêu về nhận thức
Củng cố, bổ sung và nâng cao thêm hiểu biết về các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội, hoàn thiện những tri thức đã được học trên lớp,
mở rộng nhãn quan với thế giới xung quanh, với cộng đồng xã hội với các
em học sinh.
Vận dụng những tri thức đã học để giải quyết các vấn đề do thực tiễn
đời sống đặt ra, tạo cơ hội kiểm nghiệm những tri thức đó, làm cho nó đi vào
tiềm thức của học sinh một cách chắn chắn và lâu bền, kích thích sự phát triển
tư duy của các em.
Giúp học sinh có những hiểu biết nhất định về truyền thống đấu tranh
cách mạng, truyền thống xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, truyền thống văn hoá
của đất nước,... Từ đó tăng thêm sự hiểu biết của các em về Bác Hồ, về
Đảng, về Đoàn Thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh.
*Mục tiêu về giáo dục thái độ
Tạo cho học sinh hứng thú và ham muốn tham gia các hoạt động giáo
dục KNS để từ đó hình thành, hoàn thiện và phát tiển các kĩ năng cần thiết.
Từng bước hình thành cho học sinh lòng tự hào dân tộc, mong muốn
làm đẹp thêm truyền thống của trường, của quê hương mình; mong muốn
23
vươn lên thành con ngoan, trò giỏi, đoàn viên tích cực để trở thành những
công dân có ích cho đất nước sau này.
Bồi dưỡng cho học sinh những tình cảm đạo đức trong sáng với bạn bè,
với thầy cô, với những người lớn khác, với quê hương đất nước,...
Bồi dưỡng tính tích cực, tính năng động, sẵn sàng tham gia những hoạt
động xã hội, hoạt động tập thể của trường, của lớp vì lợi ích chung, vì sự tiến
bộ của bản thân.
Góp phần giáo dục cho học sinh tình đoàn kết hữu nghị với các bạn
thiếu nhi quốc tế, với các dân tộc khác trên thế giới.
*Mục tiêu về rèn luyện kĩ năng
Rèn cho học sinh những kỹ năng giao tiếp, ứng xử có văn hoá.
Rèn cho học sinh các kỹnăng tự quản các hoạt động tập thể.
Rèn luyện cho học sinh biết cách tự điều chỉnh hành vi phù hợp với các
yêu cầu xã hội, kỹ năng sống hoà nhập và nhiều kỹ năng khác nữa.
1.2.1.2. Quản lý kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho học sinh các
trường trung học phổ thông
Việc quản lý thực hiện kế hoạch GD KNS phải phù hợp với đặc điểm
nhà trường, đặc điểm của từng địa phương. Phù hợp với nhận thức của lứa
tuổi, và tính khả thi của kế hoạch.
Huy động được các nguồn lực tham gia giáo dục một cách tích cực, cả
trong nhà trường và các lực lượng ngoài xã hội.
Có sự tham gia đóng góp xây dựng của lực lượng học sinh, vì các em là
chủ thể chính trong hoạt động GD KNS.
1.2.2. Quản lý nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh các
trường trung học phổ thông
* Kỹ năng giao tiếp
Kĩ năng giao tiếp có nghĩa là hiểu được các quy tắc giao tiếp ứng
xử chung như chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, nói lời yêu cầu, đề nghị; biết cách
24
ứng xử phù hợp, bày tỏ sự cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ...với một số đối tượng,
gần gũi, quen thuộc với các em như thầy cô giáo, bạn bè, người thân trong gia
đình hoặc những đối tượng đặc biệt như phụ nữ có thai, người già, người có
hoàn cảnh khó khăn, người nước ngoài, người bị nhiễm HIV/AIDS; biết
cách làm việc theo nhóm, thuyết trình trước tập thể lớp, chi đoàn, chi
đội, giờ chào cờ đầu tuần; biết lắng nghe những ý kiến đóng góp của bạn bè,
người thân, người trên và có hành vi tự uốn nắn kịp thời, tích cực.
*Kỹ năng tự nhận thức, tự đánh giá về bản thân
Kỹ năng tự nhận thức là khả năng con người hiểu biết về chính bản
thân mình, như cơ thể, tư tưởng, các mối quan hệ xã hội của bản thân;
biết nhìn nhận, đánh giá đúng tiềm năng, tình cảm, sở thích, thói quen, điểm
mạnh, điểm yếu....của bản thân mình; quan tâm và luôn ý thức được
đang làm gì, kể cả lúc bản thân đang cảm thấy căng thẳng. Tự nhận thức là
một KNS rất cơ bản của con người, là nền tảng để con người giao tiếp, ứng
xử phù hợp và hiệu quả với người khác cũng như để có thể cảm thông được
với người khác.
Ngoài ra, có hiểu đúng về mình, con người mới có thể có những quyết
định, những sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với khả năng của bản thân, với
điều kiện thực tế và yêu cầu xã hội. Ngược lại, đánh giá không đúng về bản
thân có thể dẫn con người đến những hạn chế, sai lầm, thất bại trong cuộc
sống và trong giao tiếp với người khác. để tự nhận thức đúng về bản thân cần
phải được trải nghiệm qua thực tế, đặc biệt là qua giao tiếp với người khác.
*Kỹ năng đặt mục tiêu
Là khả năng của con người trong việc đề ra những cái đích có thể thực
hiện được cho một vấn đề nào đó của cuộc sống như một sự hiểu biết, một
việc làm cụ thể hay một thái độ nào đó.
*Kỹ năng kiên định và từ chối
Đó là kỹ năng kiên quyết giữ vững lập trường và lời nói từ chối trước
những lời mời mọc, rủ rê tham gia vào các hoạt động tiêu cực của người xấu
25
hoặc sự lôi kéo chơi bời, bỏ học của bạn bè chưa ngoan; kiên quyết không
tham gia vào những việc làm, hành vi mang tính tiêu cực.
*Kỹ năng xác định giá trị
Giá trị là những gì con người cho là quan trọng, là có ý nghĩa đối với
bản thân mình, có tác dụng định hướng suy nghĩ, hành động và lối sống
của bản thân trong cuộc sống. Giá trị có thể là những chuẩn mực đạo đức,
những chính kiến, thái độ và thậm chí là những thành kiến đối với một điều
gì đó... Giá trị có thể là giá trị vật chất hoặc giá trị tinh thần, có thể
thuộc các lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật, đạo đức, kinh tế... Mỗi người đều có
một hệ thống giá trị riêng.
Kỹ năng xác định giá trị là khả năng con người hiểu rõ được những giá
trị bản thân mình. Kỹ năng xác định giá trị có ảnh hưởng lớn đến quá trình
ra quyết định của mỗi người. Kỹ năng này còn giúp người ta biết tôn trọng
người khác, biết chấp nhận rằng người khác có những giá trị và niềm tin
khác. Giá trị không phải là bất biến mà có thể thay đổi theo thời gian, theo
các giai đoạn trưởng thành của con người. Giá trị phụ thuộc vào giáo dục
vào nền văn hoá, vào môi trường sống, học tập và làm việc của cá nhân.
*Kỹ năng ra quyết định
Là kỹ năng có khả năng quyết định đúng, nên và không nên làm gì để
bảo vệ sức khoẻ của bản thân, gia đình và cộng đồng, để bảo vệ môi trường,
để phòng tránh bị xâm hại.
1.2.3. Quản lý hình thức, phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh các trường trung học phổ thông
* Quản lý hình thức giáo dục kỹ năng sống
- Hình thức dạy học trên lớp: Hình thức GD KNS trên lớp là hình thức
tổ chức dạy học mà thời gian dạy và học được quy định một cách xác định và
ở một địa điểm xác định, giao viên chỉ đạo hoạt động nhận thức có tính chất
tập thể theo từng môn. Tuỳ theo đặc điểm của từng môn học và đặc điểm của
26