Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Dịch vụ công tác xã hội đối với người nghiện ma túy tại cộng đồng từ thực tiễn tỉnh Khánh Hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (756.97 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ PHƢƠNG THẢO

DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI NGƢỜI NGHIỆN MA TÚY TẠI CỘNG ĐỒNG

TỪ THỰC TIỄN TỈNH KHÁNH HÒA

Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ HẢI THANH

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan các số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn Thạc sĩ
Công tác xã hội với đề tài “Dịch vụ công tác xã hội đối với người nghiện ma túy
tại cộng đồng từ thực tiễn tỉnh Khánh Hòa” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Lê Phƣơng Thảo



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CTXH ĐỐI VỚI
NNMT TẠI CỘNG ĐỒNG

12

1.1. Người nghiện ma túy: khái niệm và đặc điểm

12

1.2. Dịch vụ công tác xã hội đối với người nghiện ma túy tại cộng đồng

24

1.3. Cơ sở pháp lý dịch vụ công tác xã hội đối với người nghiện ma túy

30

1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến dịch vụ CTXH đối với người nghiện ma túy

31

Chương 2

THỰC TRẠNG VỀ DỊCH VỤ CTXH ĐỐI VỚI NNMT TẠI

CỘNG ĐỒNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH KHÁNH HÒA

2.1. Vài nét về địa bàn và khách thể nghiên cứu

38
38

2.2. Thực trạng dịch vụ CTXH đối với NNMT tại cộng đồng trên địa bàn tỉnh
Khánh Hòa

41

2.3. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng dịch vụ CTXH đối với NNMT tại cộng
đồng

54

Chương 3

MỘT SỐ BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY HIỆU QUẢ DỊCH VỤ
CTXH ĐỐI VỚI NNMT TẠI CỘNG ĐỒNG TỪ THỰC TIỄN
TỈNH KHÁNH HÒA

67

3.1. Biện pháp nâng cao năng lực của nhân viên trực tiếp làm dịch vụ CTXH
đối với NNMT tại cộng đồng

67


3.2. Biện pháp nâng cao hoạt động của đơn vị phục vụ dịch vụ

68

3.3. Biện pháp hỗ trợ người nghiện ma túy

70

3.4. Biện pháp nâng cao nhận thức của các tổ chức, đơn vị và cộng đồng

71

3.5. Biện pháp về cơ chế, chính sách thúc đẩy hiệu quả dịch vụ CTXH với
NNMT

73

KẾT LUẬN

75

TÀI LIỆU THAM KHẢO

77


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CTXH

Công tác xã hội


LĐTBXH

Lao động – Thương binh và Xã hội

NNMT

Người nghiện ma túy

PVS

Phỏng vấn sâu

UBND

Ủy ban nhân dân
Viết tắt của MethyleneDioxyl- MethamphetAmine

MDMA

(Tên khoa học của thuốc lắc hay Ecstasy)
Viết tắt của Amphetamine-Type-Stimulans

ATS

(Chất kích thích dạng Amphetamine)


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Theo Báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, cả nước có
khoảng 200.134 người nghiện ma túy (người nghiện). Người nghiện chủ yếu là lớp
trẻ, khoảng 76% người nghiện có độ tuổi dưới 35 tuổi, trong đó 60% người sử dụng
ma túy lần đầu ở độ tuổi dưới 25 tuổi. Các dạng nghiện ma túy tổng hợp dạng
Aphetamine, đặc biệt là Methaphetamine (ma túy đá), Cocaine, cần sa, “cỏ Mỹ” và
các chất hướng thần khác đã và đang xuất hiện ngày càng tăng [2, tr.2].
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác đổi
mới cai nghiện ma túy. Thực hiện Chỉ thị số 21/CT-TU ngày 26/3/2008 của Bộ
Chính trị tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy
trong tình hình mới. Nhiều chính sách, biện pháp đã được ban hành và triển khai
như: Quyết định số 2596/QĐ-TTg ngày 27/12/2013 của Thủ tướng về việc phê
duyệt Đề án đổi mới công tác cai nghiện ma túy ở Việt nam đến năm 2020; Nghị
quyết số 98/NQ-CP ngày 26/12/2014 của Chính phủ về tăng cường chỉ đạo công tác
phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện ma túy trong tình hình mới. Những chính
sách và biện pháp này đã có tác dụng tích cực đến công tác cai nghiện ma túy, góp
phần tạo sự chuyển biến nhận thức về cai nghiện ma túy.
Tuy nhiên, trong thực tế việc thay đổi nhận thức đã khó, thực hiện đổi mới
trong hành động về công tác cai nghiện ma túy của các cấp, các ngành, của cả cộng
đồng là một vấn đề rất nan giải cần có nhiều thời gian, sự chỉ đạo quyết liệt của các
cấp lãnh đạo và sự chung tay hành động của cả cộng đồng. Hiện nay, cán bộ làm
công tác cai nghiện còn thiếu kiến thức, kỹ năng để đáp ứng nhu cầu đổi mới. Công
tác tổ chức cai nghiện tại cộng đồng còn hạn chế vì thiếu sự hỗ trợ về kinh phí, cơ
sở vật chất và nhân lực. Đặc biệt, các dịch vụ hỗ trợ cai nghiện ma túy chậm đổi
mới theo quan điểm và khoa học về điều trị, cai nghiện ma túy hiện nay. Thực trạng
này có nhiều nguyên nhân, nhưng một nguyên nhân không kém quan trọng đó là
trong xã hội còn nhiều quan niệm khác nhau về việc điều trị nghiện ma túy. Họ cho
rằng cai nghiện ma túy là phải điều trị bắt buộc mà quên đi biện pháp hỗ trợ từ cộng
đồng. Và thực trạng hiện nay là mạng lưới các dịch vụ phục vụ cho người nghiện
1



ma túy tại cộng đồng gần như chưa được triển khai trong cả nước. Người nghiện và
gia đình họ thiếu hẳn một sự tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ lớn khi có nhu cầu điều trị
nghiện và hòa nhập cộng đồng.
Tỉnh Khánh Hòa cũng không nằm ngoài thực trạng trên của Việt Nam. Toàn
tỉnh hiện nay có khoảng 1.200 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý, trong đó
thanh thiếu niên chiếm khoảng 60%. Tuy việc sử dụng ma túy tổng hợp của thanh
thiếu niên đã trở thành trào lưu nhưng người nghiện ma túy ở Khánh Hòa sử dụng
tiêm chích heroin là phổ biến (chiếm khoảng 80%) [1, tr.2]. Điều này là một phần lý
do việc gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội của người nghiện ở Khánh Hòa
còn kiểm soát được. (Hiện nay, ở một số địa phương trong nước có nhiều người
nghiện sử dụng ma túy tổng hợp, với đặc thù của nó gây ảo giác, ảnh hưởng đến hệ
thần kinh rất lớn. Do vậy, những đối tượng này đã gây ảnh hưởng nhiều đến xã hội
khi ở ngoài cộng đồng). Mặt khác số người đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hiện
nay chỉ chiếm khoảng 5% tổng số người nghiện ma túy trong tỉnh. Như vậy, xét về
thực tiễn nhu cầu hỗ trợ, điều trị của người nghiện ma túy tại cộng đồng của tỉnh
Khánh Hòa đã có. Và thực tế này cũng rất phù hợp với chủ trương đổi mới công tác
cai nghiện ma túy của Đảng và Nhà nước.
Trong nhiều năm làm công tác về điều trị nghiện ma túy của tỉnh, tôi cảm
nhận được sự cần thiết của dịch vụ công tác xã hội với người nghiện ma túy. Việc
đổi mới “cách nhìn” và “cách làm” đối với công tác cai nghiện ma túy là khoa học
và nhân văn. Người nghiện cần được hỗ trợ như một đối tượng yếu thế trong xã hội.
Họ cần được chữa bệnh, trợ giúp tinh thần, vật chất để trở về cuộc sống của một
người bình thường, hòa nhập cộng đồng. Mong muốn kết nối nhu cầu thực tiễn về
dịch vụ hỗ trợ của người nghiện ma túy tỉnh Khánh Hòa với những chủ trương, chính
sách đổi mới công tác cai nghiện ma túy của Đảng và Nhà nước, tôi tập trung nghiên
cứu chủ đề “Dịch vụ công tác xã hội đối với ngƣời nghiện ma túy tại cộng đồng
từ thực tiễn tỉnh Khánh Hòa”.

2



2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Trên thế giới
Trên thế giới nghề công tác xã hội đã là một hoạt động chuyên nghiệp từ lâu,
và theo đó, lĩnh vực công tác xã hội đối với người nghiện ma túy cũng đã có nhiều
nghiên cứu nhằm góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội cho từng lãnh thổ, quốc
gia và trên toàn cầu.
Thelma Mendoza (1981) đưa ra quan điểm về sự phát triển song song của an
sinh xã hội với hệ thống dịch vụ xã hội, và xem công tác xã hội như là kỹ thuật để
chuyển tải dịch vụ xã hội một cách hiệu quả [32].
Công tác xã hội đối với người nghiện tại Mỹ được hình thành từ những năm
đầu của thế kỷ 19. Được khởi xướng bởi Mary Ellen Richmond (1861- 1928), người
thường được mệnh danh là “mẹ đẻ của công tác xã hội”, công tác xã hội đóng vai
trò quan trọng đáng kể trong việc điều trị những cá nhân bị nghiện cùng với các
thành viên trong gia đình họ. Ngay cả những tác phẩm Social Diagnosis hay What
is Social Case Work của bà cũng đề cập đến công tác xã hội như là một dịch vụ
chăm sóc cộng đồng. Theo Hiệp hội của những người làm công tác xã hội –NASW
(năm 2006), nhân viên làm công tác xã hội đóng vai trò sống còn trong việc giúp đỡ
những cá nhân, gia đình, trường học, và cộng đồng nơi có tình trạng nghiện ngập
diễn ra [29].
Tập sách “Social work” (2011) của nhóm tác giả: Kate Wilson, Gillian Ruch,
Mark Lymbery, Andrew Cooper thuộc các trường đại học Nottingham,
Southampton, East LonDon, Tavistock Clinnic giới thiệu về những thực hành hiện
đại của nhân viên công tác xã hội cho nhiều đối tượng cần hỗ trợ trong đó có người
nghiện ma túy. Theo đó, thực hành công tác xã hội có một vai trò nhất định trong
việc đạt được công bằng xã hội cho người sử dụng ma túy. Một tính năng cần thiết
của thực hành công tác xã hội với người sử dụng ma túy là một cam kết với công
bằng xã hội [31].
Tại phiên họp đặc biệt lần thứ 30 của Đại hội đồng Liên hiệp quốc vào ngày

19/4 – 21/4/2016 với nội dung xem xét tiến độ thực hiện Tuyên bố chính trị và Kế
hoạch hành động về hợp tác quốc tế hướng tới một Chiến lược toàn diện và cân
3


bằng để đối phó với vấn đề ma túy thế giới. Liên hiệp quốc đã khuyến cáo về dự
phòng lạm dụng ma túy và điều trị rối loạn sử dụng chất, phục hồi chức năng, hồi
phục và tái hòa nhập xã hội. Đại hội đồng đã lưu ý việc xây dựng các chiến lược dự
phòng phải dựa trên bằng chứng khoa học và theo nhu cầu cá nhân, gia đình, cộng
đồng trên cơ sở không phân biệt đối xử; khuyến khích sự tham gia của cá nhân
trong điều trị sao cho phù hợp với luật pháp quốc gia; thúc đẩy thái độ không kỳ thị;
khuyến khích người sử dụng ma túy tìm kiếm điều trị và chăm sóc, tạo điều kiện để
họ tham gia điều trị và tăng cường năng lực [5, tr.27], [6, tr.29]. Sự tham gia phiên
họp của Đoàn Việt Nam như để khẳng định quan điểm hội nhập quốc tế trong công
tác điều trị nghiện ma túy ở Việt Nam. Rằng công tác cai nghiện ma túy cần phải xã
hội hóa trên cơ sở quyền con người; việc điều trị nghiện ma túy cần phải trên cơ sở
khoa học và có sự tự nguyện góp sức của cá nhân, gia đình và cộng đồng. Các tác
phẩm và quan điểm nói trên như là những hướng dẫn mang tính kinh điển của
ngành công tác xã hội đã cho tôi niềm tin và định hướng vào đề tài nghiên cứu này.
2.2. Tại Việt Nam
Ở Việt Nam, công tác xã hội mới được thừa nhận là một nghề chính thức.
Công tác xã hội trong điều trị nghiện ma túy bắt đầu thực hiện từ khi có Đề án đổi
mới công tác cai nghiện ma túy đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt tại Quyết định số 2596/QĐ-TTg ngày 27/12/2013 nên các nghiên cứu về lĩnh
vực này còn hạn chế.
Về mạng lưới dịch vụ xã hội, nghiên cứu “Phát triển mạng lưới xã hội và
nhân viên công tác xã hội” của tác giả Nguyễn Hải Hữu thực hiện năm 2009 đã đưa
ra những khuyến nghị về phát triển mạng lưới dịch vụ ở Việt Nam như các dịch vụ
cần được thiết lập và cung cấp cho các đối tượng có vấn đề xã hội ở các cấp Trung
ương và ngay tại cộng đồng nơi đối tượng sinh sống, như xã, phường, thị trấn, các

cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội có thể là công lập hay ngoài công lập. Các
cơ sở này ngoài việc cung cấp dịch vụ trực tiếp như tư vấn, tham vấn, cung cấp kỹ
năng, nâng cao năng lực còn thực hiện nhiệm vụ kết nối các dịch vụ khác để trợ
giúp đối tượng [15].

4


Tác giả Bùi Thị Xuân Mai với nghiên cứu “Thực trạng mạng lưới dịch vụ xã
hội ở Việt Nam – Những khuyến nghị giải pháp” thực hiện năm 2014 cho rằng ước
tính ở Việt Nam hiện nay có khoảng 28% dân số có nhu cầu sử dụng dịch vụ công
tác xã hội. Nhóm đối tượng tiếp cận dịch vụ do trung tâm công tác xã hội cung cấp
bao gồm những người dân có nhu cầu tại cộng đồng. Tính chất các dịch vụ công tác
xã hội cần phong phú hơn, không chỉ là chế độ chính sách mà bao gồm quản lý ca,
tham vấn, tư vấn, can thiệp trị liệu nhóm, vãng gia, truyền thông cộng đồng… Tác
giả khuyến nghị cần phát triển các loại hình dịch vụ chăm sóc y tế, sức khỏe, chăm
sóc tâm lý, tinh thần và hòa nhập cộng đồng; phát triển dịch vụ ở quy mô toàn quốc,
tập trung nơi đông dân cư… Đồng thời, tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách nhằm
phát triển dịch vụ công tác xã hội, khuyến khích thành lập các cơ sở cung cấp dịch
vụ ngoài công lập [17].
Cả hai tác giả trên đều quan tâm đến mạng lưới dịch vụ công tác xã hội, các
loại dịch vụ công tác xã hội, chất lượng dịch vụ công tác xã hội và khuyến nghị cần
có sự quan tâm về cơ chế chính sách nhằm phát triển toàn diện về dịch vụ công tác
xã hội ở Việt Nam trong thời gian tới. Đây là những gợi mở mang tính vĩ mô giúp
tác giả đề tài này một cái nhìn khái quát về vai trò của dịch vụ công tác xã hội.
Đổi mới công tác cai nghiện ma túy ở nước ta bắt đầu triển khai từ năm 2014
sau khi Đề án đổi mới công tác cai nghiện ma túy được Chính phủ ban hành tại
Quyết định số 2596/QĐ-TTg. Theo Báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và Xã
hội trong cả nước có 49/63 tỉnh, thành phố phê duyệt kế hoạch triển khai Đề án đổi
mới công tác cai nghiện; có 23 tỉnh, thành phố thành lập Điểm tư vấn, chăm sóc, hỗ

trợ điều trị nghiện ma túy tại cộng đồng với 35 Điểm; đã tổ chức tư vấn cho 515
lượt người [2, tr.9]. Theo Đề án đổi mới, công tác xã hội đã được đưa vào hoạt động
điều trị nghiện ma túy. Các nghiên cứu về điều trị nghiện ma túy theo xu hướng đổi
mới, hòa nhập với quốc tế đã bắt đầu khởi sắc.
Luận văn “Hoạt động công tác xã hội trong hỗ trợ điều trị nghiện cho người
nghiện ma túy tại cộng đồng” của tác giả Tạ Hồng Vân (2015) đã đề cập đến nghiên
cứu trường hợp tại cơ sở điều trị Methadone thuộc Trung tâm Phòng chống
HIV/AIDS thành phố Nam Định. Tác giả đã nhận định được nghiện ma túy là bệnh
5


mãn tính. Điều trị nghiện ma túy là quá trình có hỗ trợ bằng thuốc và liệu pháp tâm
lý và hướng về cộng đồng. Tuy nhiên, tác giả tập trung vào các hoạt động trợ giúp
cho nhóm người nghiện ma túy điều trị bằng thuốc thay thế Methadone. Đây chỉ là
một trong nhiều dịch vụ công tác xã hội cho người nghiện ma túy tại cộng đồng
[28].
Giáo trình chất gây nghiện và xã hội do TS. Bùi Thị Xuân Mai (chủ biên)
cùng nhóm tác giả Trường Đại học Lao động xã hội biên soạn với sự hợp tác của
Cục Phòng chống tệ nạn xã hội, tổ chức FHI 360, Trung tâm Dự phòng và kiểm
soát bệnh tật Hoa Kỳ nhằm phục vụ cho việc giảng dạy, đào tạo cán bộ công tác xã
hội. Nội dung giáo trình giúp các nhân viên công tác xã hội thông qua chức năng
tham vấn, giáo dục, biện hộ, kết nối nguồn lực,... giúp người nghiện ma túy và gia
đình, cộng đồng được tăng cường kiến thức, năng lực, thay đổi suy nghĩ từ đó tiến
tới thay đổi hành vi theo hướng tích cực [18]. Đây là cuốn giáo trình rất có giá trị,
cung cấp tri thức khoa học, kỹ năng cho nhân viên công tác xã hội khi làm việc với
người nghiện ma túy và vì vậy đã cung cấp, bổ sung kiến thức và phương pháp cho
tác giả khi thực hiện đề tài.
Báo cáo nghiên cứu “Vấn đề xâm hại tình dục, lạm dụng chất gây nghiện
trong nhóm trẻ em đường phố tại thành phố Hồ Chí Minh” của Trung tâm Nghiên
cứu quản lý và Phát triển bền vững (2013) đã nêu lên thực trạng trẻ em là người

nghiện gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ điều trị, nhân viên
công tác xã hội chưa được trang bị kỹ năng, kiến thức đầy đủ để làm việc. Nhóm
nghiên cứu đã đưa ra khuyến nghị một số giải pháp để chung tay hỗ trợ trẻ em
nghiện ma túy trong đó có việc nâng cao năng lực cho cán bộ nhà nước, nhân viên
xã hội. Tuy nhiên, vấn đề của trẻ em đường phố nghiện ma túy chỉ là một góc nhìn
nhỏ của dịch vụ công tác xã hội với người nghiện ma túy tại cộng đồng [25].
Tác giả Phan Thị Mai Hương (2005) với nghiên cứu “Thanh niên nghiện ma
túy nhân cách và hoàn cảnh xã hội” là một cách tiếp cận mới về thanh niên nghiện
ma tuý - từ góc độ của tâm lý học. Tác giả đã phân tích, hệ thống hóa những lý luận
về đặc điểm nhân cách, hoàn cảnh xã hội và sự ảnh hưởng của chúng trong việc
nghiên cứu hành vi của người nghiện ma tuý, cũng như quan điểm về việc giải quyết
6


chúng trong thực tiễn. Kết quả nghiên cứu chỉ ra một số đặc điểm nhân cách và hoàn
cảnh xã hội nổi trội của thanh niên nghiện ma tuý, mối quan hệ giữa các đặc điểm với
hành vi nghiện. Trong đó, vai trò gia đình được tác giả tìm hiểu ở khía cạnh môi
trường gia đình gắn với vị thế kinh tế - xã hội có ảnh hưởng đến đặc điểm nhân cách
và mức độ nghiện của thanh niên nghiện ma túy, cách quản lý của cha mẹ với con
[16].
Các nghiên cứu khoa học trên thế giới và trong nước về dịch vụ công tác xă
hội, công tác xă hội với người nghiện ma túy rất đa dạng và phong phú đã định
hướng cho tôi về nội dung và phương pháp nghiên cứu. Tuy nhiên, đề tài “Dịch vụ
công tác xã hội với người nghiện ma túy tại cộng đồng từ thực tiễn tỉnh Khánh
Hòa” nghiên cứu trường hợp tại tỉnh Khánh Hòa, vì vậy, nó sẽ mang những sắc thái
ý nghĩa riêng, làm phong phú thêm dịch vụ công tác xã hội nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến
dịch vụ công tác xã hội với người nghiện ma túy. Từ đó đưa ra các giải pháp nhằm

nâng cao hoạt động dịch vụ công tác xã hội với người nghiện.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài đặt ra những nhiệm vụ
nghiên cứu như sau:
- Làm sáng tỏ các khái niệm về dịch vụ công tác xã hội đối với NNMT.
- Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến dịch vụ công tác xã hội đối với
NNMT.
- Phân tích đánh giá thực trạng dịch vụ công tác xã hội với NNMT tỉnh
Khánh Hòa.
- Áp dụng kiến thức công tác xã hội nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao hoạt động dịch vụ công tác xã hội đối với NNMT.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Dịch vụ công tác xã hội đối với NNMT từ thực tiễn tỉnh Khánh Hòa.
7


4.2. Phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi về đối tượng: Nghiên cứu lý luận và thực trạng về dịch vụ công
tác xã hội, cụ thể đó là hoạt động tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ, kết nối cho NNMT tại
cộng đồng.
* Phạm vi về khách thể: Nghiên cứu trên tổng số 210 khách thể, trong đó:
- Đối với người nghiện ma túy: nghiên cứu 200 khách thể với cơ cấu tuổi bao
gồm những người nghiện trong độ tuổi lao động (nam từ 15 đến 40 tuổi, nữ từ 15
đến 30 tuổi). Về mức độ bao gồm người nghiện đã cai nghiện một lần, nhiều lần và
người nghiện đã tham gia điều trị đang sống hòa nhập cộng đồng.
- Đối với cán bộ làm việc liên quan đến người nghiện ma túy gồm 10 người
bao gồm cán bộ làm việc trong lĩnh vực người nghiện, một số lãnh đạo tại các địa
phương.
* Phạm vi về địa bàn: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận sẽ cho chúng ta biết cách thức tiếp cận một vấn đề xã hội
cụ thể, đó là hệ thống lý luận về phương pháp nghiên cứu, phương pháp nhận thức
và cải tạo hiện thực. Nghiên cứu này sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện
chứng và phương pháp duy vật lịch sử. Mọi hiện tượng, sự kiện trong báo cáo đều
được phân tích, nhìn nhận dưới góc độ lịch sử, đặt trong mối tương quan, liên hệ
chặt chẽ với nhau. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử là phương pháp luận để lý giải các hiện tượng, các vấn đề xã hội. Quan
điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, mỗi sự vật và hiện tượng có muôn
vàn mối quan hệ qua lại với các sự vật hiện tượng khác, không có một sự vật hiện
tượng nào trong thế giới khách quan tồn tại riêng rẽ, tách rời.
Như vậy khi xem xét vấn đề dịch vụ công tác xã hội với NNMT tại cộng
đồng cần xem xét, chú ý đến bối cảnh xã hội, bối cảnh nghề công tác xã hội tại Việt
Nam và nhiều yếu tố khác mà nó có liên hệ. Mặt khác chủ nghĩa duy vật biện chứng
còn cho rằng các sự vật hiện tượng quá trình cũng như sự phản ánh của chúng luôn
biến đổi phát triển không ngừng. Vì thế phải đánh giá vấn đề dịch vụ công tác xã
8


hội với NNMT theo quá trình vận động và phát triển của nó tại quốc gia Việt Nam
nói chung và tỉnh Khánh Hòa nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Là phương pháp thu thập thông tin từ các công trình nghiên cứu và các tài
liệu có sẵn của các tác giả trong và ngoài nước. Phương pháp này được áp dụng
phân tích các tài liệu như:
- Tra cứu các tài liệu về Công ước quốc tế; các chủ trương, chính sách, pháp
luật của Đảng và Nhà nước về người nghiện ma túy và vấn đề dịch vụ công tác xã
hội với người nghiện ma túy.

- Nghiên cứu các tài liệu về báo cáo, thống kê, văn bản của các cơ quan, tổ
chức có liên quan đến vấn đề người nghiện ma túy và dịch vụ công tác xã hội với
người nghiện ma túy.
- Nghiên cứu một số công trình của các tác giả trong và ngoài nước về vấn đề
dịch vụ công tác xã hội với NNMT tại cộng đồng.
5.2.2. Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu thuận tiện
Là phương pháp lấy mẫu dựa trên sự thuận lợi dựa trên tính dễ tiếp cận đối
tượng. Lấy mẫu thuận tiện thường dùng trong nghiên cứu khám phá, để xác định
thực tiễn của vấn đề nghiên cứu.
Đề tài sẽ chọn mẫu tiếp cận là người nghiện ma túy đang ở ngoài cộng đồng
để thực hiện điều tra qua bảng hỏi và phỏng vấn không tiếp cận người nghiện đang
vi phạm pháp luật; chọn những đơn vị, tổ chức có tính chất bao quát, đa dạng các
nội dung cần điều tra.
5.2.3. Phương pháp định lượng: Phương pháp điều tra bảng hỏi
Là phương pháp điều tra xã hội học nhằm thu thập thông tin bằng cách lập
một bảng hỏi cho nhóm đối tượng cần nghiên cứu trong một không gian, thời gian
nhất định.
Đề tài sẽ điều tra bằng bảng hỏi 200 khách thể là người nghiện ma túy trên
05 huyện/thị xã/thành phố tỉnh Khánh Hòa, gồm 08 phường/thị trấn thuộc khu vực
thành thị, 02 xã/phường thuộc khu vực ngoại ô và 04 xã thuộc khu vực nông thôn.
9


5.2.4. Phương pháp định tính: Phương pháp phỏng vấn sâu
Phỏng vấn sâu là những cuộc đối thoại được lặp đi lặp lại giữa nhà nghiên
cứu và người cung cấp thông tin nhằm tìm hiểu thực trạng, những mong muốn
nguyện vọng, kinh nghiệm và nhận thức của người cung cấp thông tin thông qua
chính ngôn ngữ, thái độ của người ấy.
Đề tài tiến hành phỏng vấn sâu một số người nghiện ma túy, nhân viên công
tác xã hội, các nhà quản lý, các tổ chức cung cấp dịch vụ để tìm hiểu sâu hơn, lý

giải nguyên nhân về các vấn đề nghiên cứu của đề tài.
Phương pháp tiến hành phỏng vấn sâu 20 đối tượng khách thể, trong đó gồm
10 người nghiện và 10 khách thể là cán bộ, nhân viên, nhà quản lý có liên quan đến
hoạt động dịch vụ công tác xã hội với người nghiện.
5.2.5. Phương pháp thống kê toán học.
Sử dụng các phương pháp thống kê toán học để phân tích các số liệu điều tra,
số liệu thống kê.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn
Các kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo hữu ích tại
các cơ sở nghiên cứu và đào tạo về công tác xã hội.
Các phát hiện của nghiên cứu cũng như thực trạng về vấn đề này sẽ là nguồn
tài liệu tham khảo cho các chuyên đề, khóa luận trong lĩnh vực người nghiện ma
túy.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Đối với NNMT và gia đình họ: người nghiện và gia đình có được sự chia
sẻ, thông cảm của cộng đồng; được tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ dễ dàng, kịp thời;
người nghiện sẽ cảm thấy luôn được đón nhận khi có nhu cầu được hỗ trợ tại các cơ
sở cung cấp dịch vụ, từ đó sẽ có quyết tâm cao hơn, tự nguyện quyết định cho quá
trình điều trị của bản thân.
- Đối với các cơ quan, đơn vị, tổ chức cung cấp dịch vụ CTXH cho người
nghiện ma túy: nội dung nghiên cứu của đề tài giúp những người làm công tác cai
nghiện ma túy tại cộng đồng không còn phân biệt, kỳ thị với người nghiện; xóa bỏ
10


mặc cảm của người làm công tác cai nghiện ma túy; được nâng cao kiến thức
chuyên môn và kỹ năng; từ đó, làm việc khoa học và tâm huyết hơn; cung cấp dịch
vụ cho NNMT sẽ hiệu quả hơn.
- Đối với các cơ quan quản lý: Có những chính sách hoạch định hiệu quả về

vấn đề triển khai công tác cai nghiện ma túy tại cộng đồng.
- Đối với xã hội: việc triển khai tốt dịch vụ công tác xã hội với người nghiện
ma túy tại cộng đồng tạo mối quan hệ qua lại tích cực của xã hội với nhóm NNMT;
so với mô hình cai nghiện tập trung tại các cơ sở cai nghiện: giảm chi phí, kết quả
đạt được bền vững hơn.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và danh mục các
biểu, bảng, luận văn gồm:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với NNMT.
- Chương 2: Thực trạng về dịch vụ công tác xã hội đối với NNMT từ thực
tiễn tỉnh Khánh Hòa.
- Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện và thúc đẩy hiệu quả dịch vụ công
tác xã hội đối với NNMT tại tỉnh Khánh Hòa.

11


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI
VỚI NGƢỜI NGHIỆN MA TÚY TẠI CỘNG ĐỒNG
1.1. Về ngƣời nghiện ma túy
1.1.1. Một số khái niệm
* Khái niệm ma túy
Con người đã phát hiện và sử dụng các chất ma túy tự nhiên mà đại diện điển
hình là thuốc phiện cách đây hơn 8000 năm. Việc trồng và sử dụng các cây có chứa
hoạt chất ma túy đã là thói quen và tập tục của nhiều dân tộc khác nhau trên thế
giới. Lúc này, người ta đã biết được những khoái cảm mà thuốc phiện mang lại chứ
chưa chú ý tới mặt trái của nó là gây nghiện khó cai. Kể từ khi phát hiện tác dụng
kích thích của các loại ma túy, số lượng người sử dụng và nghiện ma túy ngày càng
tăng. Quá trình phát triển của xã hội loài người đã tác động đến sự đa dạng của ma

túy. Đến nay, ma túy không chỉ đơn thuần là ma túy tự nhiên mà con bao gồm cả
ma túy bán tổng hợp và ma túy tổng hợp. Và vì thế, những nguy hại của ma túy đến
con người đã vô cùng lớn, nghiện ma túy đã là vấn nạn trên toàn cầu. Để góp phần
giải quyết vấn đề này, các nhà khoa học trên thế giới đã bắt tay vào việc nghiên cứu
các biện pháp can thiệp giảm hại.
Ma túy là các chất có nguồn gốc tự nhiên hay tổng hợp làm thay đổi trạng
thái ý thức và sinh lý của con người khi nó được dung nạp vào cơ thể. Luật Phòng,
chống ma túy của Việt Nam tại Điều 2 đã đưa ra một số định nghĩa về ma túy hoặc
có liên quan đến khái niệm ma túy [21, tr.1]:
- Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong
các danh mục do Chính phủ ban hành.
- Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình trạng
nghiện đối với người sử dụng.
- Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu
sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng.
Một số loại ma túy phổ biến ở nước ta:
(1) Ma túy dạng thuốc phiện: thuốc phiện, heroin.
12


(2) Ma túy tổng hợp chất dạng Aphetamin: chất gây nghiện loại gây kích
thích thần kinh Ecstasy (thuốc lắc), chất gây nghiện loại gây ảo giác
Methamphetamine (hàng đá).
(3) Cần sa: Cần sa là loại ma túy được chế từ hoa và lá khô của cây cần sa.
(4) Cocaine: Cocaine là một loại thuốc gây nghiện, được chiết xuất từ lá cây
coca. [3, tr.3]
* Khái niệm nghiện ma túy
Nghiện ma túy là bao gồm nghiện về thể chất và nghiện về tâm lý. Nghiện
ma túy được coi là bệnh mãn tính tái phát của não bộ vì nó làm thay đổi cấu trúc,
chức năng và cơ chế hoạt động của não. Sự thay đổi này thường kéo dài làm người

sử dụng không tự kiềm chế được bản thân, mất khả năng cưỡng lại sự thèm muốn
sử dụng ma túy và có xu hướng tìm và sử dụng ma túy bất chấp hậu quả với cá nhân
và cộng đồng.
Hiệp hội tâm thần Mỹ cho rằng nghiện ma túy là “Các triệu chứng bao gồm
hiện tượng dung nạp (cần phải tăng liều lượng sử dụng để đạt được khoái cảm), sử
dụng ma túy để giảm triệu chứng cai, không thể giảm liều sử dụng thuốc hay ngưng
sử dụng và tiếp tục sử dụng dù biết nó có hại cho bản thân hay những người khác”
(Sổ tay chẩn đoán của Hiệp hội tâm thần Mỹ - APA) [13].
Đối với người sử dụng ma túy dạng thuốc phiện thì có thể giải thích như sau:
Cơ thể chúng ta luôn sẵn có một dạng thuốc phiện do chính cơ thể sinh ra (morphin
nội sinh/endorphin) để phục vụ cho nhu cầu giảm đau của cơ thể, không dư thừa,
không hiệu ứng phụ. Khi đưa chất gây nghiện dạng thuốc phiện vào cơ thể (heroin)
gây giải phóng endorphin nhiều lần, tạo cảm giác phê sướng một cách nhân tạo. Khi
sử dụng ma túy lặp lại nhiều lần, sự có mặt của chất dạng thuốc phiện nội sinh làm
giảm và cuối cùng cơ thể không tiết ra các morphin nội sinh nữa. Người sử dụng
chất dạng thuốc phiện phụ thuộc hoàn toàn vào chất dạng thuốc phiện đưa từ bên
ngoài. Lúc này não bộ ngày càng bị tổn thương nhiều. Với những kết quả nghiên
cứu và phân tích trên về cơ chế gây nghiện, chúng ta thấy rằng nghiện là bệnh mãn
tính của não bộ, chứ không phải là tệ nạn xã hội như quan điểm trước đây. Vì vậy,
người mắc bệnh nghiện cần chữa trị để hòa nhập cộng đồng [23].
13


Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO) “Nghiện ma túy là tình trạng lệ thuộc về
mặt tâm thần hoặc thể chất hoặc cả hai khi một người sử dụng ma túy lặp đi lặp lại
theo chu kỳ hoặc dùng kéo dài liên tục một thứ ma túy và tình trạng lệ thuộc này
làm thay đổi cách cư xử, bắt buộc đương sự luôn cảm thấy sự bức bách phải dùng
ma túy để có được những hiệu ứng ma túy về mặt tâm thần của ma túy và thoát khỏi
sự khó chịu, vật vã do thiếu ma túy” [13].
Đề án đổi mới công tác cai nghiện ma túy ở Việt Nam đến năm 2020 của

Chính phủ có nêu “Nghiện ma túy là bệnh mãn tính do rối loạn của não bộ, điều trị
nghiện ma túy là một quá trình lâu dài bao gồm tổng thể các can thiệp hỗ trợ về y
tế, tâm lý, xã hội làm thay đổi nhận thức, hành vi nhằm giảm tác hại của nghiện ma
túy và giảm tình trạng sử dụng ma túy trái phép.” Định nghĩa nghiện ma túy của Đề
án đã đánh dấu cho sự thay đổi quan điểm về cách nhìn với người nghiện ma túy và
cách triển khai công tác cai nghiện ma túy của Việt Nam [22, tr.1].
Sự phục hồi điều trị nghiện qua 3 bước: bước 1 (cơ thể) là giai đoạn cắt cơn
phục hồi thể chất, thuốc giúp bệnh nhân không khổ về thể chất; bước 2 (trái tim) là
phục hồi tâm lý, tâm thần, mang lại hy vọng trong cuộc sống, giúp người nghiện
thiết lập mối quan hệ gia đình, cộng đồng và học khả năng cảm xúc; bước 3 (tinh
thần) người nghiện giúp đỡ người khác là giúp mình hồi phục. Cần mở rộng mạng
lưới những người đã hồi phục nhằm tạo động lực cho người nghiện đồng thời cũng
góp phần thay đổi định kiến xã hội.
* Người nghiện ma túy
Theo Điều 2, Luật Phòng, chống ma túy “Người nghiện ma tuý là người sử
dụng chất ma tuý, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần và bị lệ thuộc vào các chất
này” [21, tr.1].
Trong thực tế người nghiện ma túy là người bệnh cả về thể xác lẫn tinh thần.
Bởi vì, ngoài bệnh mãn tính cần phải được điều trị thường xuyên và có thể lặp đi
lặp lại, gần như phải sống chung với một phác đồ điều trị nào đó, là sự đau đớn về
thể xác, người nghiện còn phải vừa tự ti mặc cảm vì bản thân không vượt qua được
sự cám dỗ của ma túy, thấy có lỗi với người thân và bị mọi người phân biệt, kỳ thị

14


mặc dù họ là một người bệnh thật sự. Những người nghiện ma túy là một nhóm xã
hội đặc thù, họ không chỉ yếu về mặt thể chất mà cả về mặt tinh thần.
Bản chất của nghiện ngoài liên quan đến những khía cạnh về hành vi, tâm lý,
xã hội, nghiện là một căn bệnh làm thay đổi tế bào thần kinh trong não. Vì sự lệ

thuộc buộc phải sử dụng thuốc, người nghiện ma túy được xem như người bệnh
mãn tính, khó chữa và phải điều trị liên tục, lâu dài. Người nghiện ma túy cần được
quan tâm thường xuyên thay cho sự kiểm soát thường xuyên. Những người làm
công tác cai nghiện ma túy cần phải hiểu rằng giữ cho người bệnh không sử dụng
lại ma túy càng lâu càng tốt, cần giúp họ tái hòa nhập gia đình và xã hội trong một
tình trạng hoàn toàn thoải mái về cơ thể và tâm thần, giúp giảm thiểu những tác hại
cho bản thân, gia đình và xã hội thay vì cứ cho rằng cai nghiện ma túy thành công là
phải hoàn toàn không quay lại con đường nghiện ngập. Đây là quan điểm đổi mới
rất khoa học và nhân văn trong công tác cai nghiện ma túy hiện nay.
* Các yếu tố nguy cơ và nghiện ma túy
- Các nguyên nhân sinh học: Nghiện ma túy là một căn bệnh của não bộ, chịu
tác động yếu tố sinh học như: độ tuổi, sức khỏe thể chất, tâm thần, yếu tố về gen, . .
. Cơ thể mỗi người có một đặc điểm sinh học rất riêng. Trong thực tế vẫn có những
người sau khi dùng thử ma túy không bị nghiện. Có thể cha mẹ là người nghiện thì
con cái sẽ có khả năng nghiện cao hơn. Như vậy, xét về khả năng sinh học mức độ
khả năng nghiện ma túy của từng người khác nhau.
- Các nguyên nhân tâm lý học: Một số trạng thái tâm lý dễ đưa đến sử dụng
và nghiện ma túy như: theo bạn bè thể hiện bản thân, buồn tìm đến ma túy để tìm
cảm giác mới, thử để biết, . . .
Người nghiện ma túy là những người dễ bị ảnh hưởng bởi lối sống gấp,
hưởng thụ. Họ suy nghĩ non nớt, chưa thật sự trưởng thành vì vậy dễ rơi vào con
đường chơi bời, trác táng tham gia các tệ nạn xã hội trước sự cám dỗ của lối sống tự
do, buông thả, vô kỷ luật, kích thích dục vọng cá nhân thấp kém. Bên cạnh đó, có
những người do tâm lý chán nản, cô đơn, trống vắng trong cuộc sống (bị gia đình
ruồng bỏ, làm ăn thất bát….) cũng đã tham gia vào các tệ nạn này. Việc tham gia
vào các tệ nạn xã hội sẽ rất dễ dẫn đến việc sử dụng và nghiện ma túy.
15


- Các nguyên nhân xã hội và môi trường: Các yếu tố môi trường như: địa bàn

sinh sống, bản thân chất gây nghiện, các mối quan hệ gia đình, xã hội . . .
Gia đình là tổ ấm, thực hiện các chức năng chăm sóc, đảm bảo về kinh tế,
chia sẻ tình cảm. Tuy nhiên, trong những năm gần đây cấu trúc gia đình đã có
những biến đổi rõ rệt: sự khủng hoảng của cuộc sống gia đình ngày càng cao, sự suy
giảm chức năng gia đình, gia đình không hòa thuận, thường xuyên cải vã, phương
pháp giáo dục trong gia đình không thích hợp hoặc buông lỏng do cha mẹ bị cuốn
hút vào các hoạt động kinh tế . . . Điều này dẫn đến tâm lý chán nản trong cuộc sống
dẫn đến con đường nghiện ma túy.
Chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu về kinh tế, song, xã hội cũng phải gánh
những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Xã hội bộc lộ nhiều vấn đề:
khoảng cách giàu nghèo, sự xuống cấp đạo đức xã hội, ảnh hưởng của lối sống
phương Tây như thực dụng, trụy lạc ngày càng phổ biến, . . tất cả những yếu tố này
tác động đến sự phát triển của con người. Nếu cá nhân không thể vượt qua hoặc
đứng vững trước những biến động trên thì rất dễ bị lôi kéo vào các hoạt động tiêu
cực, mà một trong những biểu hiện là đi vào con đường nghiện ma túy.
Mỗi chất gây nghiện: loại ma túy sử dụng, độ tinh khiết, đường dùng, . . . đều
có những ánh hưởng nhất định đến mức độ nghiện của người sử dụng. Nghiện chất
dạng heroin thì khó điều trị dứt điểm, nghiện chất gây nghiện loại kích thích thần
kinh tạo cho người nghiện liên tục có những hành vi ăn chơi trụy lạc, nghiện chất
gây nghiện loại gây ảo giác có ảnh hưởng rất lớn đến hệ thần kinh, người nghiện dễ
bị tâm thần, có những hành động rất hung giữ, . . .
Như vậy, nghiện ma túy là một căn bệnh chịu sự tác động của nhiều yếu tố.
Đó là các yếu tố về mặt sinh học, tâm lý học, các yếu tố về xã hội và môi trường.
Các yếu tố này tương tác với nhau và ảnh hưởng tới nguy cơ nghiện ma túy, tình
trạng nghiện ma túy của mỗi người. Vì vậy, nghiện ma túy có thể phòng ngừa khi
kiểm soát các yếu tố nguy cơ. Và nghiện ma túy cũng có thể điều trị được thông qua
việc giải quyết, can thiệp tới các yếu tố tác động tới tình trạng nghiện.
* Các lý thuyết về nghiện ma túy

16



Vì sao một số người lại sử dụng ma túy và dẫn tới lệ thuộc dù họ biết sự lệ
thuộc ma túy có những ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống cá nhân, gia đình và cộng
đồng xung quanh họ? Các nhà khoa học đã giải thích hiện tượng này theo những
cách tiếp cận khác nhau như: sinh học, tâm lý cá nhân hay từ gốc độ xã hội và
tương tác xã hội. Mỗi lý thuyết của các nhà khoa học đều có cách giải thích có giá
trị về hiện tượng nghiện ma túy của con người.
Thuyết sinh học giải thích rằng một số người sinh ra đã có sẵn gien di truyền
liên quan tới sử dụng ma túy khiến họ có nguy cơ sử dụng hoặc lệ thuộc ma túy cao
hơn, dễ mắc nghiện hơn người khác.
Tuy nhiên gien không phải là yếu tố quyết định, các nhà tâm lý học và xã hội
học thì cho rằng việc sử dụng lệ thuộc ma túy còn phụ thuộc vào sự tương tác giữa
con người và xã hội và hành vi của chúng ta chịu ảnh hưởng như thế nào trong xã
hội. Các yếu tố chính gây nghiện có liên quan trực tiếp đến cuộc sống của mỗi cá
nhân. Bao gồm các yếu tố bên trong nội tâm như: quá trình tâm lý, những trải
nghiệm, quá trình nhận thức, tình cảm,... Sự ảnh hưởng trực tiếp của môi trường bao
gồm các sự kiện và hiện tượng trong môi trường sống.
Theo Thuyết phân tâm, hầu hết người nghiện ma túy đều nhận thức rất rõ
hậu quả của việc nghiện ma túy là có liên quan tiêu cực đến nhiều lĩnh vực khác
nhau nhưng vẫn không thể kiểm soát được bản thân, họ muốn cai nghiện mà vẫn tái
nghiện là do nguồn năng lượng mang tính bản năng trong tầng vô thức thúc đẩy.
Ngoài ra, vô thức tập thể nằm sâu hơn tầng vô thức cá nhân (kinh nghiệm tích lũy từ
các thế hệ trước) cũng có ảnh hưởng nhất định đến việc một người sử dụng và
nghiện ma túy. Những dấu ấn từ thời thơ ấu và rối nhiễu tâm thần học đã góp phần
làm cho bản năng vượt trội hơn so với siêu bản ngã khiến cho một người dễ dàng
tìm đến sử dụng và nghiện ma túy để tạo ra một sự cân bằng về tâm lý. Do vậy, khi
nghiên cứu và làm việc với người nghiện ma túy cần nghiên cứu về lịch sử gia đình,
bản thân trong bối cảnh lịch sử xã hội nhất định.
Thuyết nhận thức xã hội thì cho rằng một số người có nhận thức về bản thân

hoặc do xã hội đánh giá họ kém cỏi thường có nguy cơ sử dụng và lạm dụng ma túy
cao hơn người khác. Họ đã sử dụng và nghiện ma túy là do những tác động tích cực
17


của ma túy. Họ cảm thấy tự tin, dũng cảm, quên đi yếu kém bản thân và có thể
khẳng định mình không yếu kém. Theo quan điểm này thì để giải quyết vấn đề
người nghiện ma túy cộng đồng cần tôn trọng và động viên người nghiện ma túy tự
quyết vấn đề điều trị nghiện của bản thân.
Cá nhân tồn tại trong một hệ thống gia đình, trường học, cộng đồng, . . .Vấn
đề nghiện ma túy cần được xem xét trong một chuỗi các yếu tố xung quanh họ chứ
không chỉ bản thân người nghiện. Đây là quan điểm của Thuyết hệ thống. Thực tế
trong cuộc sống người nghiện ma túy không tránh khỏi những căng thẳng do phải
đối mặt với những áp lực gia đình và xã hội. Do vậy, cần phải giúp họ cách vượt
qua những khó khăn trong cuộc sống bằng những biểu hiện yêu thương bằng cả trái
tim và tâm trí.
Thuyết phản ứng xã hội tập trung giải thích tại sao người ta lại tham gia vào
các hành vi lệch chuẩn và tại sao xã hội lại phản ứng với người sử dụng ma túy.
Theo đó, những phản ứng tiêu cực của xã hội như: kỳ thị, phê phán khiến những
người nghiện tập hợp lại với nhau chống đối lại xã hội. Và như vậy, theo thuyết này
xă hội cần xem những người nghiện ma túy là bình thường và người nghiện ma túy
cần công khai trong việc chữa trị.
Tóm lại, các học thuyết về sinh học, tâm lý và xã hội đã có những lập luận,
giải thích lý do việc sử dụng và nghiện ma túy. Nó góp phần cho việc hoàn thiện
những lý luận về nghiện ma túy [17, tr.39].
Như vậy, ta có thể nhận định rằng người nghiện ma túy là một nạn nhân. Họ
gần như bị động trên con đường dẫn đến nghiện ngập. Phần lớn các yếu tố dẫn đến
việc sử dụng và nghiện ma túy của một người đều mang tính khách quan. Xét về
yếu tố bên trong, do họ không may mắn để là một người mạnh mẽ, đủ nghị lực bản
lĩnh để vượt qua những khó khăn tất nhiên trong cuộc sống như những người khác.

Xét về yếu tố bên ngoài, họ cũng không may mắn khi không có một gia đình đằm
ấm, một xã hội hoàn toàn lành mạnh để không gặp phải những tồn tại tiêu cực của
xã hội, để rồi không có sự chiến thắng của siêu ngã để vượt qua sự cám dỗ. Xét tổng
thể một xã hội, một cộng đồng, người nghiện ma túy là những người không đủ sức
để có phần “cái bánh ưu việt” trong xã hội. Vậy những người có may mắn của xã
18


hội phải có trách nhiệm dìu dắt họ cùng vươn lên, để cùng xây dựng xã hội tốt đẹp.
Chúng ta có thể nhìn nhận dưới gốc độ chấp nhận việc nghiện ma túy trong xã hội
và kiểm soát nó trong mức độ giảm tối đa những tác hại không mong muốn cho xã
hội.
1.1.2. Các dạng nghiện ma túy và các mức độ nghiện ma túy
1.1.2.1. Các dạng nghiện ma túy Trên cơ sở các loại ma túy ta có thể phân
loại các dạng nghiện ma túy:
- Người nghiện ma túy dạng thuốc phiện: người sử dụng ma túy dạng thuốc
phiện càng hút càng phải tăng liều, bị suy sụp sức khỏe, mất hết nghị lực, ý chí. Hậu
quả lâu dài của người sử dụng thuốc phiện là có các biến chứng như: viêm dạ dày,
viêm ruột mãn tính, mạch đập chậm và không đều, thường bị sưng phổi. Ít có
trường hợp tử vong với nguyên nhân trực tiếp là thuốc phiện.
- Người nghiện ma túy dạng heroin xuất hiện các triệu chứng như tổn thương
tĩnh mạch, ốm yếu, rối loạn hệ sinh sản và nội tiết, trầm cảm và vô cảm; cần phải
tăng liệu để phê. Sử dụng quá liều dễ dẫn đến tử vong. Nghiện nếu không sử dụng
xuất hiện các triệu chứng cai: bồn chồn, đau cơ, xương, mất ngủ, nguy cơ phạm tội.
- Người nghiện chất gây nghiện loại kích thích thần kinh: Khi sử dụng
“thuốc lắc” liều cao, người sử dụng có thể nhìn thấy, nghe thấy hoặc cảm thấy
những sự việc, hiện tượng không có trên thực tế (ảo giác); cư xử không bình
thường. Hậu quả lâu dài có nguy cơ loạn thần. Khi sử dụng quá liều có nguy cơ tử
vong. Khi sử dụng thuốc lắc trong thời gian dài, độ dung nạp tăng thì cảm giác khó
chịu tăng, trong khi khoái cảm do thuốc mang lại giảm.

- Nghiện chất gây nghiện loại gây ảo giác (Methamphetamine): Người sử
dụng Methamphetamine bị tác động tâm thần rất nhanh, mạnh và kéo dài. Khi sử
dụng quá liều có sức mạnh phi thường, hung hăng và gây gổ, có thể dẫn đến tử
vong. Về lâu dài tâm tính bất thường, hoang tưởng, ảo giác, trở nên bao lực mà
không có lý do cụ thể. Người sử dụng Methamphetamine có thể có cảm giác mình
là nhà vô địch, anh hùng khiến làm những việc ngoài khả năng thực tế. Sử dụng
Methamphetamine có thể gây biểu hiện loạn thần. Có 1/3 số người lệ thuộc có triệu
chứng loạn thần.
19


- Người nghiện ma túy dạng cần sa về lâu dài sẽ bị phụ thuộc tâm lý. Khi sử
dụng người suy nghĩ không mạch lạc, khó phối hợp các động tác giữ thăng bằng.
Tác động lâu dài là tăng nguy cơ các bệnh liên quan đến đường hô hấp, giảm nhu
cầu tình dục, suy giảm hệ thống miễn dịch. Ít có trường hợp tử vong với nguyên
nhân trực tiếp là cần sa.
- Người nghiện ma túy dạng cocaine buộc phải sử dụng nhiều lần và ở liều
cao hơn để tìm cảm giác trước đó mình có. Với sự gia tăng liều lượng hoặc tần xuất
sử dụng nguy cơ tác tác dụng tâm lý hay sinh lý cũng tăng lên. Dùng một lượng lớn
cocaine có thể có những hành vi kỳ quái, thất thường và bạo lực, có thể loạn thần.
Cái chết bất ngờ có thể xảy ra khi sử dụng cocaine lần đầu tiên [3, tr.3].
1.1.2.2. Các mức độ nghiện ma túy
Hiện nay, chưa có một quy định cụ thể nào về mức độ nghiện ma túy. Tuy
nhiên, trong quá trình thực tiễn điều trị nghiện người ta có thể đánh giá mức độ
nghiện thông qua thời gian sử dụng, thời gian nghiện, số lần tái nghiện. Sau khi
ngưng sử dụng ma túy vài tuần hoặc vài tháng nếu quay lại sử dụng sẽ có xu hướng
tái sử dụng một cách nhanh chóng và hình thành lại sự lệ thuộc vào ma túy gọi là tái
nghiện.
1.1.3. Đặc điểm tâm lý và nhu cầu của người nghiện ma túy
1.1.3.1. Một số đặc điểm tâm lý của người nghiện ma túy

Do bị lệ thuộc vào ma túy về tâm thần và cơ thể nên phần lớn người nghiện
có sự biến đổi về nhân cách. Họ có cuộc sống tinh thần theo kiểu hết niềm tin vào
cuộc sống, thiếu ý chí, thiếu quyết tâm, thậm chí lập dị, khó hiểu. Người nghiện ma
túy thường bị giảm trí nhớ, khả năng suy nghĩ, tư duy, mất phương hướng, thậm chí
trộm cắp, nói không đi đôi với làm.
Trong mối quan hệ xã hội luôn sống vật vờ, cô lập, muốn lẫn tránh mọi
người. Người nghiện thường ít chú ý đến người thân, thờ ơ với công việc, vui buồn
trong cuộc sống; lười biếng, ít chú ý đến vệ sinh thân thể; mắt buồn rầu, sợ hãi; rối
loạn thần kinh thực vật, căng thẳng cảm xúc. Trong lệch lạc xã hội người nghiện ma
túy được coi là nhóm theo chủ nghĩa thoát ly.

20


Người nghiện mặc cảm tội lỗi với gia đình, người thân vì không từ bỏ được
ma túy, làm ảnh hưởng đến cuộc sống tình cảm và kinh tế gia đình. Họ mặc cảm,
tách biệt với cộng đồng vì chính họ đã ý thức được những việc họ đã làm như: trộm
cắp, lừa dối, gây mất an ninh trật tự là những hành vi lệch chuẩn, không được xã hội
chấp nhận. Người nghiện cũng mặc cảm vì sự dán nhãn, những cái nhìn không thiện
cảm, không chia sẻ của cộng đồng vì họ bị coi là tệ nạn xã hội chứ không phải
người bệnh.
Hơn ai hết, những người làm công tác cai nghiện ma túy phải hiểu rõ tâm lý
của người nghiện. Từ đó chủ động, kiên trì chia sẻ, giúp đỡ họ thay đổi thái độ,
hành vi, tập trung chữa bệnh và hòa nhập cộng đồng. Chúng ta có thể hiểu rằng
cộng đồng có những thành kiến với người nghiện vì chính những hành vi lệch
chuẩn của họ. Tuy nhiên, trong công tác xã hội người nghiện cần được nhìn nhận
theo hướng tích cực vào tương lai. Người nghiện cần được tách phần nghiện ra khỏi
con người họ và đây mới là vấn đề chúng ta quan tâm giải quyết. Hành vi của người
nghiện chỉ mang tính thời điểm, cần được nhìn nhận trong tổng thể cá nhân, gia
đình, xã hội. Từ đó, các dịch vụ công tác xã hội với người nghiện ma túy mới phù

hợp và hiệu quả.
1.1.3.2. Nhu cầu của người nghiện ma túy
Nhu cầu là cái gì đó được cho là cần thiết, đặc biệt khi nó được coi là thiết
yếu cho sự sinh tồn của một con người, một tổ chức hay bất kỳ thứ gì khác [25,
tr.385].
Cũng như mọi người, người nghiện ma túy cần cuộc sống vật chất, tinh thần
đầy đủ và hạnh phúc bên gia đình. Mặt khác họ đã vướng vào con đường nghiện
ngập nên phải gánh chịu nỗi đau bệnh tật và sự mặc cảm tội lỗi. Do đó họ rất cần
được mọi người quan tâm chăm sóc, chia sẻ và động viên để họ có thêm nghị lực
điều trị bệnh và sống hòa nhập cộng đồng. Nhu cầu của người nghiện là đạt được
một sức khỏe tốt, có cuộc sống tốt.
Theo quan điểm của nhà tâm lý học A. Maslow, con người có 5 bậc thang
nhu cầu được xếp theo thứ tự từ nhu cầu vật chất cơ bản đến nhu cầu tinh thần nâng
cao.
21


×