Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Chính sách phát triển nguồn nhân lực từ thực tiễn tỉnh Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (545.1 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ THỊ HẢI YẾN

CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƢƠNG

Chuyên ngành:

Chính sách công

Mã số:

60 34 04 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. NGUYỄN HỮU KHIỂN

Hà Nội, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài: “Chính sách phát triển nguồn
nhân lực từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” là công trình nghiên cứu của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của GS.TS. Nguyễn Hữu Khiển. Các kết quả, số liệu và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Hà Nội, ngày



tháng

Tác giả luận văn

Vũ Thị Hải Yến

năm 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT
TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM ........................................... 7
1.1. Một số vấn đề lý luận về chính sách phát triển nguồn nhân lực ............. 7
1.2. Nhận thức về chính sách phát triển nguồn nhân lực ............................... 13
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC Ở TỈNH HẢI DƢƠNG .......................................... 25
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Hải
Dương .............................................................................................................. 25
2.2. Chính sách phát triển nguồn nhân lực tại Hải Dương ............................. 30
2.3. Tổ chức thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực tại tỉnh Hải
Dương .............................................................................................................. 40
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC TẠI TỈNH HẢI DƢƠNG ....................................... 59
3.1. Quan điểm, mục tiêu và phương hướng phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Hải
Dương đến năm 2020 ...................................................................................... 59
3.2. Các giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Hải
Dương .............................................................................................................. 63
3.3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách phát triển nguồn nhân lực ở

Việt Nam ......................................................................................................... 66
3.4. Đề xuất và kiến nghị ............................................................................... 76
KẾT LUẬN ................................................................................................... 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 80


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
PTNNL

Phát triển nguồn nhân lực

KT – XH

Kinh tế - Xã hội

UBND

Ủy ban nhân dân

HĐND

Hội đồng nhân dân

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

GD – ĐT

Giáo dục – Đào tạo


NNL

Nguồn nhân lực

LĐTB&XH

Lao động thương binh và xã hội

KH&ĐT

Kế hoạch và đầu tư

TW

Trung ương


DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN
STT

Tên bảng

Trang

Bảng 1.1

Bảng tổng hợp các tổ chức ban hành chính sách

21


Bảng 2.1

Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc tại thời điểm
1/7 hàng năm phân theo thành thị, nông thôn

27

Bảng 2.2

Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc tại thời điểm
1/7 hàng năm phân theo thành thị, nông thôn

27

Bảng 2.3

Quy mô dân số và lực lượng lao động trên địa bàn tỉnh
Hải Dương

30

Bảng 2.4

Hiện trạng lao động theo trình độ đào tạo của Hải
Dương

33

Bảng 2.5


Số lượng học sinh, sinh viên từ năm 2012 – 2015

48

Bảng 2.6

Số lượng giáo viên giảng viên từ năm 2012 – 2015

48

Bảng 2.7

Số lượng các trường học từ năm 2012 – 2015

49


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, xu thế hội nhập và toàn cầu hóa đã trở thành nhu
cầu tất yếu của mỗi quốc gia. Sự phát triển của khoa học công nghệ đặc biệt là sự
ra đời và phát triển của nền kinh tế tri thức đã thúc đẩy lực lượng sản xuất của
nhân loại phát triển ngày càng cao. Điều này đã tạo ra những thời cơ và thách
thức cho mỗi quốc gia, khu vực trong quá trình phát triển. Vấn đề đặt ra cho mỗi
quốc gia là phải lựa chọn khâu đột phá nào làm cơ sở nắm bắt được thời cơ và
phát huy nội lực để phát triển đất nước. Bất cứ quốc gia nào muốn phát triển cũng
cần có các nguồn lực khác nhau như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - công
nghệ, con người… Trong các nguồn lực đó thì nguồn lực con người là quan trọng
nhất và có tính chất quyết định tới quá trình tăng trưởng, phát triển kinh tế của đất

nước. Một đất nước dù cho có tài nguyên thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ
thuật hiện đại nhưng không có những con người có năng lực, trình độ, sức khỏe…
thì không thể khai thác các nguồn lực khác cho sự phát triển.
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, Đảng
ta đã thường xuyên quan tâm phát triển nguồn nhân lực nhằm tạo động lực để
phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Hiện nay, quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, xây dựng nền kinh tế tri thức đã và
đang đặt ra yêu cầu mang tính khách quan cấp thiết đối với vấn đề bồi dưỡng,
phát triển nguồn nhân lực (PTNNL) của đất nước.
Nhận thức rõ điều này, văn kiện Đại hội lần VIII của Đảng Cộng sản Việt
Nam khẳng định: “Nguồn nhân lực con người Việt Nam là vốn quý nhất trong
điều kiện các nguồn lực khác của chúng ta còn hạn chế, do đó phải lấy việc phát
triển nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững”. Nguồn nhân lực (NNL) không chỉ chi phối việc khai thác, phát huy các
nguồn lực khác mà còn là yếu tố quyết định đến thành công của sự nghiệp đổi
mới CNH, HĐH đất nước. Đảng và Nhà nước luôn quan tâm và có các chính
sách quan tâm, bồi dưỡng PTNNL để khai thác tốt vai trò của NNL - chìa khóa
giúp chúng ta phát huy nội lực đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước, nâng
cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
1


Tuy nhiên, so với các nước trên thế giới NNL nước ta xét cả về số lượng
và chất lượng vẫn còn nhiều vấn đề bất cập. Theo đánh giá của các nhà kinh tế
và hoạch định chính sách trong nước và quốc tế thì chính sách PTNNL ở nước
ta còn thiếu đồng bộ, một số chính sách chưa phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp
CNH, HĐH.
Tỉnh Hải Dương được tái lập từ ngày 01/01/1997 và là một trong 8 tỉnh
thuộc vùng kinh tế trọng điểm ở đồng bằng Bắc Bộ với hệ thống giao thông
đường thủy, đường bộ, đường sắt thuận lợi. Hải Dương là địa bàn cung cấp hàng

hóa và là nơi trung chuyển hàng hóa ở các tỉnh phía Bắc.
Hải Dương có nhiều tiềm năng, thế mạnh thu hút đầu tư, phát triển kinh tế
- xã hội (KT-XH) nhưng nhìn chung chưa được khai thác hết và chưa sử dụng
hiệu quả các nguồn lực sẵn có. Những tiềm năng, thế mạnh đó chỉ có thể phát
huy được khi Hải Dương có NNL tương xứng để có thể nhanh chóng đưa Hải
Dương trở thành tỉnh công nghiệp phát triển đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH của
đất nước.
Những năm qua, các cấp chính quyền ở tỉnh Hải Dương rất quan tâm đến
việc PTNNL và có nhiều cơ chế chính sách phù hợp với điều kiện của tỉnh.
Chiến lược phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Hải Dương giai đoạn 2011 – 2020
là nhiệm vụ trọng tâm để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh. Trong quá trình thực hiện các chính sách PTNNL bước đầu đã đạt được
nhiều kết quả đáng khích lệ, tuy nhiên PTNNL tỉnh Hải Dương vẫn còn nhiều
hạn chế, tồn tại và thách thức như sau:
Một là, Hải Dương có dân số trẻ, nguồn nhân lực dồi dào nhưng cơ cấu
NNL phân bổ chưa cân đối do phần lớn lao động là lao động phổ thông. NNL
tập trung ở các khu vực nông nghiệp, các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm
tỷ lệ nhỏ. Sự chênh lệch này đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế
chung của tỉnh.
Hai là, chất lượng NNL của tỉnh Hải Dương còn thấp, số lao động đông
nhưng chưa đủ đáp ứng nhu cầu lao động cho các doanh nghiệp. Bởi tỷ lệ lao
động qua đào tạo và có kỹ thuật chuyên môn còn thấp, phần lớn là lao động thủ
2


công chưa được đào tạo tay nghề, hoặc được đào tạo thì còn hạn chế về kỹ năng
làm việc chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình CNH, HĐH của tỉnh trong
thời gian tới.
Ba là, trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế hiện nay yêu cầu về
việc nâng cao chất lượng dân số và PTNNL là một trong những trọng điểm phát

triển KT-XH của đất nước. Điều này đòi hỏi Việt Nam nói chung và tỉnh Hải
Dương nói riêng phải có các cơ chế chính sách phù hợp để NNL đủ về số lượng,
đảm bảo về chất lượng.
Với những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài “Chính sách phát triển nguồn
nhân lực từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ ngành
Chính sách công của mình. Việc nghiên cứu đề tài này là thiết thực và phù hợp
với điều kiện phát triển KT-XH của tỉnh Hải Dương hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề về NNL, phát triển nguồn nhân lực, chính sách PTNNL được rất
nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Ở đây, xin được nêu một số công trình
nghiên cứu tiêu biểu sau:
- TS. Nguyễn Tuyết Mai (2000): “Chiến lược phát triển nguồn nhân lực
của Việt Nam”, Đề tài khoa học cấp Nhà nước, Bộ Kế hoạch và đầu tư. Đề tài
đã chỉ ra tầm quan trọng, quan điểm, mục tiêu, định hướng PTNNL của nước ta.
- Tác giả Phạm Minh Hạc (2003), “Đi vào thế kỷ XXI phát triển nguồn
nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Hội thảo về phát
triển nguồn nhân lực KX-05-11 tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 2/3/2003, cho
rằng PTNNL được hiểu theo nghĩa rộng là cả lực lượng lao động, tiềm năng lao
động, đội ngũ lao động, đào tạo lại, đào tạo mới....và quản lý nguồn nhân lực.
Do vậy, PTNNL đòi hỏi phải có hệ thống chính sách sử dụng NNL phù hợp bao
gồm: chính sách tuyển dụng, chính sách phân công lao động, phân bổ nguồn
nhân lực, chính sách tiền lương, khen thưởng....
- Nguyễn Thanh (2005), "Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã khẳng
định phát triển nguồn nhân lực là yếu tố quyết định sự thành công của sự nghiệp
3


CNH, HĐH ở nước ta hiện nay. Từ đó, nêu thực trạng một số định hướng chủ
yếu phát triển nguồn nhân lực có chất lượng ở nước ta.

- Nguyễn Minh Đường, Phan Văn Kha (đồng chủ biên – 2006), “Đào tạo
nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế
thị trường, hội nhập quốc tế”, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đã
phân tích, hệ thống hóa cơ sở lý luận, chỉ ra thực trạng của lực lượng lao động
và đào tạo nhân lực các trình độ từ đó đề xuất các giải pháp nhằm phát triển
nhân lực, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước trong điều kiện kinh tế thị
trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
- Dương Văn Quảng, Bành Tiến Long, Trịnh Đức Dụ (Chủ biên - 2009):
"Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ hội nhập quốc tế". Cuốn sách này tập hợp
những bài viết về đào tạo nguồn nhân lực phục vụ hội nhập quốc tế, nhiều bài
phân tích, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực, chỉ ra hạn chế, bất cấp của nguồn
nhân lực của nước ta trước đòi hỏi của hội nhập quốc tế, làm rõ những vấn đề
hạn chế do giáo dục đào tạo và xác định những vấn đề cơ bản đối với giáo dục
đào tạo nguồn nhân lực phục vụ hội nhập quốc tế.
- Trần Khánh Đức (2014), “Giáo trình Giáo dục và phát triển nguồn nhân
lực trong thế ký XXI (tái bản lần thứ 2)”, Nxb Giáo dục Việt Nam. Giáo trình
trình bày có hệ thống về những vấn đề cơ bản về NNL, PTNNL như khái niệm,
chất lượng, mỗi quan hệ giữa phát triển dân số với NNL trong quá trình phát
triển KT-XH, PTNNL trong thời kỳ CNH, HĐH ở nước và và hội nhập quốc tế.
- Tô Huy Rứa (2015), Một số vấn đề về phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở nước ta hiện nay, Tạp chí Xây dựng Đảng số 12-2014, số 1-2015,
số 2+3-2015. Bài viết đã phân tích cơ sở lý luận khẳng định NNL chất lượng cao
là nhân tố quyết định thành công trong cạnh tranh, hội nhập và phát triển; đưa ra
một số luận điểm mới về PTNNL chất lượng cao và xây dựng đội ngũ cán bộ
cấp chiến lược; đề xuất một số giải pháp PTNNL chất lượng cao.
Trần Thị Minh Sơn (2015), “Chính sách phát triển nguồn nhân lực của
tỉnh Hà Nam”, Luận văn thạc sĩ Quản lý kinh tế, Đại học Kinh tế - Đại học
Quốc gia Hà Nội.
4



Phạm Ngọc Sơn (2016), “Chính sách phát triển nguồn nhân lực từ thực
tiễn huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa”, Luận văn thạc sĩ Chính sách công, Học
viện Khoa học Xã hội.
Các công trình trên nghiên cứu chủ yếu về nguồn lực lao động và đã đề
cập đến các chính sách PTNNL. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu riêng
nào đi sâu phân tích các chính sách PTNNL cụ thể tại tỉnh Hải Dương để đưa ra
các giải pháp hoàn thiện về chính sách cho phù hợp với tình hình thực tế để phát
triển KT - XH địa phương theo các mục tiêu định hướng đề ra. Vì vậy, đề tài
“Chính sách phát triển nguồn nhân lực từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” sẽ là
công trình nghiên cứu có tính độc lập với mong muốn sẽ đóng góp thêm những
giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả chính sách PTNNL của tỉnh Hải Dương
trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Vận dụng cơ sở lý luận cơ bản về phát triển nguồn lực, các số liệu và tài
liệu thực tế, thực trạng nguồn nhân lực và các chính sách phát triển nhân lực tỉnh
Hải Dương giai đoạn 2011 - 2015. Qua đó xác định phương hướng và đề xuất
một số chính sách phát triển nguồn nhân lực của tỉnh đến năm 2020.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Hệ thống hóa các cơ sở lý luận và nhận thức của bản thân về chính sách
phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam.
Phân tích, đánh giá mục tiêu, giải pháp và công cụ, vai trò của các chủ thể
tham gia, thể chế, các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện chính sách phát
triển nguồn nhân lực tại tỉnh Hải Dương trong thời gian qua.
Đánh giá khái quát thực trạng nguồn nhân lực và các chính sách phát triển
nguồn nhân lực giai đoạn 2011 - 2015.
Xác định phương hướng và đề xuất một số chính sách để phát triển nguồn
nhân lực của tỉnh đến năm 2020.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu nguồn nhân lực và các chính sách phát triển nguồn nhân lực
5


- Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Hải Dương
Về thời gian: giai đoạn 2011 - 2015. Đề xuất định hướng đến năm 2020
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận:
Đề tài được nghiên cứu dựa trên quan điểm, đường lối chính sách của Đảng.
Sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ yếu của khoa học chính sách công để làm rõ
cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề chính sách phát triển nguồn nhân lực.
Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thu thập thông tin: Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp
là các thông tin thu thập từ các tài liệu chuyên ngành, nghị quyết, chương trình
của Trung ương và tỉnh Hải Dương, đề án, kế hoạch, báo cáo tổng kết, tài liệu
thống kê của Đảng, chính quyền, tổ chức đoàn thể, ban, ngành....
- Phương pháp khảo sát thực tế, so sánh đối chiếu để tìm hiểu và xử lý các
dữ liệu trong quá trình viết luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về nguồn nhân lực, phát triển nguồn
nhân lực, chính sách phát triển nguồn nhân lực.
- Phân tích khái quát thực trạng phát triển nguồn nhân lực, các chính sách
phát triển nguồn lực để đưa ra đánh giá tổng quát những vấn đề cần nghiên cứu
giải quyết.
- Đề xuất các quan điểm, mục tiêu và giải pháp phát triển nguồn nhân lực
của tỉnh Hải Dương định hướng đến năm 2020.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chính sách phát triển nguồn nhân lực
ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực tại
tỉnh Hải Dương
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển nguồn nhân lực tại
tỉnh Hải Dương
6


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM
1.1. Một số vấn đề lý luận về chính sách phát triển nguồn nhân lực
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực
Hiện nay, khi nói về khái niệm NNL thì có nhiều quan niệm khác nhau:
Theo giáo trình Kinh tế lao động: Nguồn nhân lực là nguồn lực về con
người được nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh. Theo nghĩa hẹp nó bao gồm các
nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động như vậy NNL tương
đương với nguồn lao động. Theo nghĩa rộng NNL gồm những người từ đủ 15
tuổi trở lên, nó là tổng hợp những cá nhân, những con người cụ thể tham gia vào
quá trình lao động.
Theo từ điển Tiếng Việt: Nguồn là nơi phát sinh, nơi cung cấp. Nhân lực là
sức của con người bao gồm: sức lực cơ bắp (thể lực), trình độ tri thức được vận
dụng vào quá trình lao động của mỗi cá nhân (trí lực), những ham muốn, hoài bão
của bản thân người lao động hướng tới một mục đích xác định (tâm lực). Nhân lực
với ý nghĩa đầy đủ của nó bao gồm ba yếu tố có sự liên hệ biện chứng với nhau đó
là thể lực, trí lực và tâm lực. Nguồn nhân lực được hiểu là nơi phát sinh, nơi cung
cấp sức của con người trên đầy đủ các phương diện cho lao động sản xuất.
Theo thuật ngữ trong lĩnh vực lao động của Bộ Lao động thương binh và xã

hội thì “nguồn nhân lực là tiềm năng về lao động trong một thời kỳ xác định của
một quốc gia, suy rộng ra có thể được xác định trên một địa phương, một ngành
hay một vùng. Đây là nguồn nhân lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế xã hội”.
Theo định nghĩa của Liên hợp quốc, nguồn nhân lực là: Trình độ lành nghề,
là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc tiềm
năng để phát triển kinh tế xã hội trong một cộng đồng.
Tổ chức Ngân hàng thế giới (World Bank) cho rằng: “Nguồn nhân lực
được hiểu là toàn bộ tiềm năng về vốn người bao gồm: thể lực, trí lực, tâm lực
mà mỗi cá nhân sở hữu”.
7


Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO)
thì cho rằng: “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm,
năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá
nhân và đất nước”.
Trong Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
VIII cũng khẳng định: “Nguồn lực con người là người lao động có trí tuệ cao, tay
nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp được đào tạo, bồi dưỡng và phát huy bởi
một nền giáo dục tiên tiến, gắn liền với nền khoa học, công nghệ hiện đại”.
Như vậy ta thấy, do nhiều cách tiếp cận khác nhau nên đã có nhiều quan
niệm khác nhau về NNL. Tuy nhiên, cho dù có quan niệm khác nhau, song giữa
các quan niệm này cũng có điểm chung thống nhất đó là: hầu hết các tác giả đều
xem NNL là tổng thể những tiềm năng và năng lực của con người được huy
động vào trong quá trình lao động sản xuất và phát triển của một quốc gia hay
một địa phương.
Dựa trên những quan niệm nêu trên và gắn với góc độ nghiên cứu của đề
tài, có thể hiểu: NNL là toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, một
địa phương với những năng lực thể chất, tinh thần, trình độ tri thức, năng lực
thực tế, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, tác phong lao động... đã, đang

và sẽ tham gia vào quá trình sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần thúc đẩy sự
phát triển của một quốc gia.
Với quan niệm như vậy, NNL được đặc trưng bởi hai yếu tố cơ bản: số
lượng và chất lượng nguồn nhân lực.
Về số lượng: NNL là toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia,
địa phương. Số lượng NNL ở nước ta là bao gồm những người trong độ tuổi lao
động, có khả năng lao động, không kể đến tình trạng có việc làm hoặc không có
việc làm. Theo khoản 1, điều 3 của Bộ luật Lao động Việt Nam năm 2012 thì
Người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc
theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người
sử dụng lao động. Như vậy, NNL bao gồm số người đang làm việc trong các
ngành, các lĩnh vực của nền KT - XH; số người thất nghiệp; số người làm công
việc nội trợ và số người là học sinh, sinh viên trong độ tuổi lao động.
8


Về chất lượng: NNL được biểu hiện ở năng lực thể chất, tinh thần, trình
độ tri thức, năng lực thực tế, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, tác
phong lao động... đã, đang và sẽ tham gia vào quá trình sản xuất ra của cải vật
chất và tinh thần thúc đẩy sự phát triển của quá trình CNH, HĐH. Chất lượng
nguồn nhân lực được biểu hiện ở trạng thái thể lực và trí lực, cụ thể: trạng thái
sức khỏe, trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật, cơ cấu ngành nghề, phẩm chất
đạo đức, nhân cách, lối sống... Trong đó, thể lực là yếu tố quan trọng, là nền
tảng để trên cơ sở đó phát triển trí tuệ, vận dụng trí tuệ vào công việc thực tiễn;
trình độ học vấn là yếu tố quan trọng nhất, nó không chỉ là cơ sở để đào tạo kỹ
năng nghề nghiệp mà còn là yếu tố hình thành nhân cách và lối sống của mỗi cá
nhân người.
Như vậy, khi đề cập đến chất lượng NNL nó liên quan đến nhiều lĩnh
vực: chăm sóc sức khỏe, y tế, giáo dục - đào tạo, lao động và việc làm gắn
với tiến bộ khoa học kỹ thuật, trả công lao động và các phúc lợi xã hội khác...

1.1.2. Khái niệm phát triển nguồn nhân lực
Trên cơ sở khái niệm về NNL thì khái niệm về PTNNL được hiểu là tổng
thể các phương pháp, biện pháp, chính sách nhằm hoàn thiện và nâng cao chất
lượng của từng con người lao động trong xã hội bao gồm cả về trí tuệ, thể chất
và phẩm chất tâm lý, xã hội để có thể đáp ứng nhu cầu NNL có chất lượng cho
sự phát triển KT-XH của đất nước theo từng giai đoạn phát triển. PTNNL bao
gồm phát triển trên 2 mặt là số lượng và chất lượng. Hiện nay, PTNNL về mặt
chất lượng đang được đặc biệt quan tâm để đào tạo ra được NNL chất lượng cao
phục vụ yêu cầu CNH, HĐH và hội nhập quốc tế của đất nước.
1.1.3. Khái niệm về chính sách
Có rất nhiều nghiên cứu về chính sách và có nhiều cách tiếp cận khác
nhau nhưng vẫn chưa có sự thống nhất về khái niệm chính sách. Trên thế giới,
có khái niệm chính sách như: “Chính sách là quyết tâm và định hướng. Chính
sách định hướng nhưng không bao gồm các chương trình và chi tiết hành động:
(Glen Milne) hay như James Anderson cho rằng: Chính sách là một quá trình
hành động có mục đích theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải
quyết các vấn đề mà họ quan tâm”.
9


Ở Việt Nam, theo Từ điển Bách khoa có khái niệm về chính sách như sau:
“Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính
sách được thực hiện trong một thời gian nhất định trên những lĩnh vực cụ thể
nào đó”.
Theo điểm 1, điều 2, Nghị định 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của
Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành
văn bản quy phạm pháp luật thì: “Chính sách là định hướng, giải pháp của Nhà
nước để giải quyết vấn đề của thực tiễn nhằm đạt được mục tiêu nhất định”.
Theo tác giả Vũ Cao Đàm, “Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể
chế hóa, mà một chủ thể quyền lực hoặc chủ thể quản lý đưa ra trong đó tạo sự

ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ
nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một
hệ thống xã hội”. Theo tác giả thì khái niệm “hệ thống xã hội” được hiểu theo
một ý nghĩa khái quát. Đó có thể là một quốc gia, một khu vực hành chính, một
doanh nghiệp, một nhà trường.
Như vậy, phân tích khái niệm chính sách thì thấy:
+ Chính sách là do một chủ thể quyền lực hoặc chủ thể quản lý đưa ra;
+ Chính sách được ban hành căn cứ vào đường lối chính trị chung và tình
hình thực tế;
+ Chính sách được ban hành bao giờ cũng nhắm đến một mục đích nhất
định; nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó; chính sách được ban hành
đều có sự tính toán và chủ đích rõ ràng.
1.1.4. Khái niệm chính sách công
Trên thế giới có nhiều định nghĩa về chính sách công, có thể kể đến một
số định nghĩa như sau:
“Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của
một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các
mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó” (William Jenkin, 1978), theo
tác giả thì chính sách công không phải là một quyết định đơn lẻ mà là một tập
hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau, chủ thể ban hành chính sách công phải
là cơ quan nhà nước và phải nhằm thực hiện được các mục tiêu nhất định và các
giải pháp để đạt được các mục tiêu đó.
10


“Chính sách công là cái mà chính phủ lựa chọn làm hay không làm”
(Thomas R.Dye). Định nghĩa này của ông không bàn về mục tiêu hay mục đích
của chính sách mà thừa nhận các chính sách phản ảnh sự quyết định lựa chọn
giữa làm hay không làm của chính phủ.
“Chính sách công bao gồm các hoạt động thực tê do chính phủ tiến hành”

(Peter Aucoin), theo ông chính sách có thẻ vừa là hành động riêng biệt của chính
phủ vừa là kết quả của hàng loạt quyết định đa dạng.
Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh hưởng trực
tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân” (B.Guy Peter). Định nghĩa
này cho thấy tác động của chính sách công đến đời sống người dân với tư cách
là một cộng đồng.
Ở Việt Nam, có nhiều tác giả nghiên cứu về chính sách công và đã đưa ra
các định nghĩa như sau:
PGS.TS. Lê Chi Mai (Học viện hành chính quốc gia) đưa ra khái niệm về
chính sách công với các nội hàm:
+ Chủ thể ban hành chính sách công là Nhà nước, chính sách do Nhà
nước ban hành nên chính sách công có thể coi là chính sách của Nhà nước
+ Chính sách công là những quyết định hành động bao gồm cả những
hành vi thực tiễn, chính sách công không chỉ thể hiện dự dịnh của Nhà nước
hoạch định chính sách về một vấn đề nào đó mà còn bao gồm những hành vi
thực hiện dự định đó. Nếu không có việc thực thi chính sách để đtạ được những
kết quả nhất định thì những chủ trương đó chỉ là những khẩu hiệu mà thôi.
+ Chính sách công tập trung giải quyết một vấn đề trong đời sống kinh tế
- xã hội theo những mục tiêu xác định.
Theo tác giả Nguyễn Hữu Hải (2010 – Học viện hành chính quốc gia)
định nghĩa “Chính sách công là những hành động ứng xử của Nhà nước với các
vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng được thể hiện bằng nhiều hình thức
khác nhau nhằm thúc đẩy xã hội phát triển”
Theo PGS.TS. Đỗ Phú Hải (Học viện Khoa học Xã hội) có đưa ra khái
niệm “Chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của
Đảng và Nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể và giải pháp thực hiện
giải quyết các vấn đề xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định”
11



Có thể thấy trong các định nghĩa nêu trên đều đề cập đến các điểm chung
đó là:
- Chính sách công là chính sách của Nhà nước
- Là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan với nhau
- Giải quyết các vấn đề xã hội phát sinh theo ý chỉ của đảng cầm quyền
Vai trò của chính sách công
Chính sách công có vai trò định hướng cho các quá trình kinh tế, xã hội về
các mục tiêu, biện pháp và là động lực thúc đẩy các tổ chức, cá nhân tham gia
vào quá trình phát triển KT-XH của đất nước. Vai trò cụ thể được thể hiện trên
các mặt sau:
- Chính sách công định hướng cho các chủ thể trong xã hội
- Tạo động lực cho các chủ thể trong xã hội
- Điều chỉnh các hoạt động trong nền kinh tế thị trường
- Phân phối nguồn lực cho quá trình phát triển
- Tạo môi trường thích hợp cho các chủ thể tham gia hoạt động KT-XH
- Hỗ trợ các chủ thể vận động phát triển theo định hướng
- Làm cơ sở phối hợp hoạt động của các chủ thể trong xã hội
Chu trình chính sách công
Chu trình chính sách bao gồm các bước sau:
+ Vấn đề chính sách
+ Hoạch định chính sách
+ Tổ chức thực thi chính sách
+ Phân tích chính sách
+ Đánh giá chính sách
1.1.5. Khái niệm chính sách phát triển nguồn nhân lực
Chính sách PTNNL là chính sách công do đó khái niệm về chính sách
PTNNL được hiểu là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Nhà
nước về PTNNL nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể, giải pháp và công cụ chính
sách để giải quyết vấn đề về PTNNL theo mục tiêu tổng thể của Đảng và Nhà
nước đã xác định.

12


Chính sách PTNNL gồm có các bộ phận hợp thành quan trọng là: những
quan điểm, định hướng, mục tiêu, biện pháp thực hiện nhằm đáp ứng yêu cầu
đảm bảo nguồn nhân lực cả về số lượng, chất lượng, thực hiện định hướng phát
triển đã xác định. Đây là hạt nhân xuyên suốt toàn bộ quy trình chính sách từ
hoạch định, phân tích, ban hành, thực thi và đánh giá chính sách. Chính vì vậy,
chính sách PTNNL ở nước ta nhằm xây dựng lực lượng lao động đủ về số
lượng, đảm bảo về chất lượng đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH của đất nước
và hội nhập quốc tế.
1.2. Nhận thức về chính sách phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam
1.2.1. Vấn đề chính sách phát triển nguồn nhân lực
Xác định vấn đề chính sách là giai đoạn khởi đầu trong quy trình xây
dựng chính sách công. Những vấn đề chính sách thường là những mâu thuẫn
phát sinh trong xã hội, những khó khăn vướng mắc trong quá trình phát triển
hoặc là nhu cầu phát triển lên một mức độ cao hơn. Vì thế, vấn đề của chính
sách luôn gắn với sự phát triển của KT-XH đất nước.
NNL là nhân tố quan trọng hàng đầu trong quá trình xây dựng, phát triển
KT-XH của một quốc gia. Nhận thức được vai trò của NNL đối với sự phát triển
KT-XH của đất nước, Đảng ta đặc biệt quan tâm và đã xác định ba khâu đột phá
chiến lược trong đó có phát triển nhanh NNL. Thực tế ở Việt Nam trong quá
trình phát triển kinh tế xã hội gắn liền CNH, HĐH đất nước giai đoạn qua, NNL
đã đóng góp vai trò to lớn cho sự phát triển của đất nước. Theo số liệu Tổng cục
thống kê, đến năm 2011 dân số Việt Nam có gần 88 triệu người, đứng thứ 13
trên thế giới và thứ 2 ở khu vực Đông Nam Á về dân số. Dân số đông là một lợi
thế, tuy nhiên số người trong độ tuổi lao động của Việt Nam lại không đáp ứng
đủ nhu cầu lao động cho các doanh nghiệp trong nước bới số lao động có tay
nghề, trình độ chuyên môn ở nước ta lại rất hạn chế. Sự chênh lệch về chất
lượng nguồn lao động thể hiện rõ nhất là ở sự phân chia giữa khu vực nông thôn

và thành thị. Số lượng lao động đã qua đào tạo được tập trung chủ yếu ở khu
vực thành thị điều này làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế chung
của đất nước. Trong khi đó, lực lượng lao động từ nông thôn lên thành thị tìm
13


việc rất đông nhưng lại không tham gia đào tạo mà chủ yếu làm các công việc
thời vụ hoặc những công việc không đòi hỏi trình độ cao. Nguồn lao động dồi
dào, tỷ lệ thất nghiệp ngày càng tăng nhưng các doanh nghiệp luôn trong tình
trạng thiếu lao động. Nghịch lý này đã lý giải vấn đề lao động Việt Nam hiện
nay mới chỉ đáp ứng được nhu cầu về số lượng chứ chưa đáp ứng được nhu cầu
về chất lượng. Bên cạnh đó cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bổ theo vùng
miền chưa phù hợp cũng gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam đang rất thiếu lao động
có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao, chất lượng nguồn nhân lực
cũng thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực. Nếu lấy thang điểm 10 thì chất
lượng nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm (xếp thứ 11/12 nước Châu Á
tham gia xếp hạng của WB – 2010 trong khi Hàn Quốc là 6,91; Ấn Độ là 5,76;
Malayxia là 5,59, Thái Lan là 4,94…). Đây thực sự là một vấn đề rất đáng lo
ngại và cần được quan tâm. Từ những yếu tố trên, vấn đề chính sách PTNNL
chính là nhằm xây dựng nguồn nhân lực có cơ cấu và số lượng, chất lượng hợp
lý, có đủ năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức đáp ứng yêu cầu xây dựng của
đất nước trong thời kỳ mới. Phát triển nguồn nhân lực cần được giải quyết bằng
chính sách của Nhà nước bởi nguồn nhân lực là lực lượng lao động làm việc cho
Nhà nước, có quyền lợi và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Nhà nước là
chủ thể quản lý và sử dụng lao động vì thế Nhà nước cần có các chính sách để
xây dựng và PTNNL. Nhà nước muốn có NNL chất lượng cao thì cần phải có
các chính sách quan tâm như đào tạo, bồi dưỡng, có các cơ chế đãi ngộ kịp thời.
PTNNL chỉ thành công thông qua các chính sách hợp lý của Nhà nước.
Tùy thuộc vào từng giai đoạn phát triển, Nhà nước có các mục tiêu nhiệm vụ để

PTNNL phù hợp với tình hình phát triển KT – XH của đất nước.
1.2.2. Mục tiêu, giải pháp và công cụ chính sách phát triển nguồn nhân lực
1.2.2.1. Mục tiêu của chính sách phát triển nguồn nhân lực
Phát triển nguồn nhân lực luôn được Đảng ta quan tâm chú trọng. Những
quan điểm, chủ trương của Đảng về PTNNL được cụ thể hóa bằng các cơ chế,
chính sách, chương trình, dự án nhằm thực hiện các mục tiêu nâng cao chất
14


lượng NNL. Mục tiêu của chính sách PTNNL là đảm bảo có nguồn nhân lực đáp
ứng được đủ về số lượng và chất lượng với cơ cấu hợp lý cho yêu cầu phát triển
để thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu KT - XH đã đề ra, đồng thời làm căn cứ để
các ngành, các cấp, các doanh nghiệp xây dựng quy hoạch phát triển nhân lực
của mình, làm căn cứ để xây dựng kế hoạch phát triển nhân lực hàng năm.
Về mục tiêu chính sách giáo dục và đào tạo là tập trung đào tạo nhân lực
trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm
giàu tri thức, sáng tạo của người học. Hoàn thiện mạng lưới các cơ sở giáo dục
đại học, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với quy hoạch phát triển
nhân lực quốc gia, trong đó có một số trường và ngành đào tạo ngang tầm khu
vực và quốc tế. Đa dạng hóa các cơ sở đào tạo phù hợp với nhu cầu phát triển
công nghệ và các lĩnh vực, ngành nghề, yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và
hội nhập quốc tế.
Về mục tiêu chính sách việc làm: Hoàn thiện chính sách việc làm để cân
đối cung cầu giữa đào tạo và nhu cầu tuyển dụng, nâng cao chất lượng đào tạo
và ý thức trách nhiệm của người lao động hướng tới giải quyết và tạo việc làm
cho người lao động. Tái cơ cấu và sử dụng hợp lý nguồn lực lao động xã hội,
phát triển thị trường lao động, giải quyết thỏa đáng nhu cầu việc làm, thực hiện
công bằng xã hội, nâng cao phúc lợi và giảm dần sự tách biệt xã hội, đóng góp
vào sự ổn định chính trị và xã hội, củng cố nâng cao chất lượng, sức mạnh kinh
tế để đất nước phát triển, hướng tới mục tiêu xây dựng đất nước dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đại hội XI (2011) Đảng đã xác định ba khâu đột phá chiến lược, trong đó
khẳng định: Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao. Đảng nêu rõ 4 định hướng chiến lược về phát triển nguồn nhân lực trong
thời kỳ hội nhập đó là: gắn phát triển nguồn nhân lực với việc đẩy nhanh tốc độ
phát triển KT - XH; gắn việc phát triển nguồn nhân lực với quá trình dân chủ
hóa, nhân văn hóa đời sống xã hội, khai thác có hiệu quả các giá trị văn hóa
truyền thống và hiện đại; nâng cao chất lượng sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học,
công nghệ; có chiến lược phát triển con người trên cơ sở một hệ thống chính
15


sách đồng bộ hướng tới con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển. Giải quyết tốt các vấn đề này sẽ tạo được yếu tố nội sinh của nguồn nhân
lực, cơ sở bền vững cho sự phát triển và hội nhập. Trong đó một vấn đề mấu
chốt được Đảng nêu ra là "Đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ trí
thức,trọng dụng và tôn vinh nhân tài, kể cả ngươi Việt Nam ở nước ngoài" Nghị
quyết khẳng định" Việt Nam chỉ có thể đi tắt đón đầu sự phát triển trên thế giới
trong thời kỳ hội nhập bằng cách đầu tư vào yếu tố con người.
Tại Quyết định số 579/QĐ-TTg ngày 19/4/2011 của Thủ tướng chính phủ
phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực thời kì 2011 - 2020 đã chỉ rõ "Mục tiêu
tổng quát phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020 là đưa nhân lực Việt
Nam trở thành nền tảng và lợi thế quan trọng nhất để phát triển bền vững đất
nước, hội nhập quốc tế và ổn định xã hội, nâng cao trình độ năng lực cạnh tranh
của nhân lực nước ta lên mức tương đương các nước tiên tiến trong khu vực,
trong đó một số mặt tiếp cận trình độ các nước phát triển trên thế giới". Mục tiêu
cụ thể cần đạt được là:
Nhân lực Việt Nam có thể lực tốt, tầm vóc cường tráng, phát triển toàn
diện về trí tuệ, ý chí năng lực và đạo đức, có năng lực tự học, tự đào tạo, năng
động, chủ động, tự lực, sáng tạo, có tri thức và kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả

năng thích ứng và nhanh chóng tạo được thế chủ động trong môi trường sống và
làm việc.
Nhân lực quản lý hành chính nhà nước chuyên nghiệp đáp ứng những yêu
cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thế giới hội nhập và biến
đổi nhanh.
Xây dựng được đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ, đặc biệt là nhóm
chuyên gia đầu ngành có trình độ chuyên môn kỹ thuật tương đương các nước
tiên tiến trong khu vực, có đủ năng lực nghiên cứu, tiếp nhận, chuyển giao và đề
xuất những giải phá khoa học, công nghệ, giải quyết về cơ vản những vấn đề
phát triển của đất nước và hội nhập với các xu hướng phát triển khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội và công nghệ trên thế giới.
16


Xây dựng được đội ngũ doanh nhân, chuyên gia quản trị doanh nghiệp
chuyên nghiệp, có bản lĩnh thông thạo kinh doanh trong nước và quốc tế, đảm
vảo các doanh nghiệp Việt Nam và nền kinh tế Việt Nam có năng lực cạnh tranh
cao trong nền kinh tế thế giới.
Nhân lực Việt Nam hội đủ các yếu tố cần thiết về thái độ nghề nghiệp, có
năng lực ứng xử và tính năng động, tự lực cao đáp ứng những yêu cầu đặt ra đối
với người lao động trong xã hội công nghiệp, thông qua Quy hoạch phát triển
nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020 xây dựng nhân lực Việt Nam có cơ cấu
trình độ, ngành ngề và vùng miền hợp lý. Cùng với việc tập trung phát triển
nhân lực trình độ cao đạt trình độ quốc tế, tăng cường phát triển nhân lực các
cấp trình độ đáo ứng yêu cầu phát triển của các vùng, miền, địa phương.
Xây dựng được xã hội học tập, đảm bảo cho tất cả các công dân Việt Nam
có cơ hội bình đẳng trong học tập, đào tạo, thực hiện các mục tiêu: Học để làm
người, học để có nghề, có việc làm hiệu quả, học để làm cho mình và người
khác hạnh phúc. Học để góp phần phát triển đất nước và nhân loại.
Xây dựng được hệ thống các cơ sở đào tạo nhân lực tiên tiến, hiện đại, đa

dạng, cơ cấu ngành nghề đồng bộ, đa cấp, năng động, liên thông giữa các cấp và
các ngành đào tạo trong nước và quốc tế, phân bố rộng khắp trên cả nước góp
phần hình thành xã hội học tập, đáp ứng nhu cầu học suốt đời của người dân.
Tại Quyết định 1216/QĐ-TTg ngày 22/7/2011 của Thủ tướng chính phủ
phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 trên
cơ sở mục tiêu tổng quát "Chỉ ra được nhu cầu về số lượng cơ cấu và trình độ
nhân lực, đảm bảo yêu cầu nhân lực thực hiện thành công đường lối công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển nhanh những
ngành, lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế so sánh quốc tế đồng thời nêu ra các
giải pháo phát triển nhân lực, hình thành đội ngũ nhân lực chất lượng cao theo
chuẩn khu vực và từng bước tiến tới chuẩn quốc tế,
Mục tiêu cụ thể là tăng nhanh tỷ lệ nhân lực qua đào tạo trong nền kinh tế
dưới các hình thức, trình độ khác nhau từ 40% năm 2010 lên 70% năm 2020,
trong đó tỷ lệ nhân lực qua đào tạo ngành nông, lâm ngư nghiệp tăng tương ứng
từ 15.5% lên 50%, ngành công nghiệp từ 78% lên 92%, ngành xây dựng từ 41%
lên 56%, ngành dịch vụ tử 67% lên 88%.
17


Phát triển đồng bộ đội ngũ nhân lực với chất lượng ngày càng cao ở mọi
lĩnh vực, tập trung ưu tiên những lĩnh vực Việt Nam có lợi thế cạnh tranh.
Xây dựng đội ngũ giáo viên có chất lượng để đào tạo nhân lực có trình độ
cho đất nước.
1.2.2.2. Giải pháp chính sách phát triển nguồn nhân lực
Việc xác định giải pháp chính sách PTNNL là việc tìm các giải pháp cho
các nguyên nhân của vấn đề chính sách mang tính đồng bộ dựa trên những
nguyên nhân chính bao gồm cả việc đo lường các nguyên nhân về mức độ
nghiêm trọng, tần suất xuất hiện, quy mô, tùy theo từng điều kiện cụ thể.
Khi hoạch định chính sách PTNNL các chủ thể đã tập trung vào một số
các giải pháp đồng bộ như sau:

Thứ nhất, đổi mới nhận thức về phát triển và sử dụng nhân lực: Nhận thức
rõ con người là nền tảng và là nhân tố quan trọng quyết định sự phát triển kinh
tế, xã hội của đất nước nói chung và các đơn vị, tổ chức nói riêng. Do đó các Bộ
ngành và địa phương phải xây dựng quy hoạch phát triển nhân lực đồng bộ với
chiến lược, kế hoạch phát triển chung.
Thứ hai, đổi mới căn bản quản lý nhà nước về phát triển và sử dụng nhân
lực: Tập trung hoàn thiện bộ máy quản lý phát triển nhân lực, đổi mới phương
pháp quản lý, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động bộ máy quản lý về phát
triển nhân lực. Đảm bảo cân đối về lao động cho sự phát triển chung của các địa
phương, bên cạnh đó cần có cơ chế quản lý nhà nước đối với các cơ sở giáo dục
và đào tạo theo hướng hoàn chỉnh các văn bản quy định nhà nước về hoạt động
của các cơ sở giáo dục, chất lượng giáo dục tại các cơ sở giáo dục, nội dung và
trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục của Chính phủ, các Bộ và Ủy ban
nhân dân các địa phương, xây dựng chính sách phát triển giáo dục và đào tạo ở
các vùng quê còn nhiều khó khăn, khuyến khích phát triển nhân tài,...
Thứ ba, xây dựng cơ chế, quy chế chính sách đào tạo theo nhu cầu của xã
hội, gắn kết các cơ sở đào tạo với doanh nghiệp, mở rộng các hình thức đào tạo
như theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp, thu hút doanh nghiệp tham gia vào
công tác đào tạo (hỗ trợ kinh phí đào tạo, tạo môi trường cho sinh viên thực
hành, đầu tư cơ sở vật chất...)
18


Thứ tư, tập trung xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án trọng
điểm sau: Xây dựng một số cơ sở đào tạo bậc đại học và dạy nghề đạt trình độ
quốc tế nhằm đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao đáp ứng cho sự phát triển
đất nước, đổi mới đào tạo và chính sách sử dụng cán bộ, công chức, xây dựng và
triển khai chương trình đào tạo và chính sách trọng dụng nhân tài trong các lĩnh
vực, thực hiện đề án nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ, triển khai thực
hiện đề án “ Đưa Việt Nam sớm trở thành một nước mạnh về công nghệ thông

tin truyền thông”, triển khai chương trình tổng thể nâng cao thể lực và tầm vóc
người Việt giai đoạn 2011 - 2025....
Thứ năm, xây dựng triển khai Chiến lược phát triển giáo dục và chiến
lược phát triển dạy nghề giai đoạn 2011 - 2020 trong đó yêu cầu đổi mới căn
bản và toàn diện giáo dục, đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội, nâng cao
chất lượng đào tạo theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ
hóa và hội nhập quốc tế. Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình và phương
pháp dạy và học ở tất cả các bậc học.
Thứ sáu, đổi mới chính sách sử dụng nhân lực, chính sách trọng dụng và
phát triển nhân tài. Có các cơ chế, công cụ phát triển nhân lực bao gồm các nội
dung về môi trường làm việc, thu nhập, bảo hiểm, bảo trợ xã hội cùng các điều
kiện sinh sống như về nhà ở, định cư…đặc biệt chú ý đến các chính sách đối với
bộ phận nhân lực chất lượng cao.
Thứ bảy, huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển nguồn nhân lực
theo hướng: Tăng cường đầu tư của nhà nước, huy động vốn của các doanh
nghiệp, các tỏ chức, nguồn vốn nước ngoài để xây dựng cơ sở vật chất cho giáo
dục đào tạo đạt trình độ quốc tế. Ngân sách nhà nước là nguồn lực chủ yếu để
phát triển nhân lực quốc gia đến năm 2020. Cần xây dựng kế hoạch phân bổ
ngân sách nhà nước theo hướng tập trung để thực hiện các chương trình, nhiệm
vụ, dự án đào tạo theo mục tiêu ưu tiên và thực hiện công bằng xã hội. Đổi mới
cơ chế phân bổ và hỗ trợ bằng ngân sách nhà nước cho phát triển nhân lực.
Thứ tám, tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế đẩy nhanh đào tạo nhân lực
trước hết là tập trung cho các ngành trọng điểm, gửi người ra nước ngoài đào tạo
tập trung vào các ngành nghề mới mà trong nước chưa đào tạo được.
19


1.2.2.3. Công cụ chính sách
Công cụ dựa vào tổ chức: là cách thức chủ thể tác động lên đối tượng và
quá trình chính sách bằng cơ cấu tổ chức thông qua các chức năng, nhiệm vụ

được phân công nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Công cụ dựa vào quyền lực: là cách thức chủ thể tác động lên đối tượng
và quá trình chính sách bằng quyền lực nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Công cụ tài chính: được các chủ thể sử dụng phổ biến khi triển khai thực
hiện chính sách PTNNL. Đây là công cụ dùng lợi ích vật chất và tinh thần để tác
động điều chỉnh các hoạt động trong mọi lĩnh vực. Các tác động kích thích vật
chất và tinh thần của chủ thể chính sách vô cùng phong phú như các hình thức
khen thưởng, cơ chế hỗ trợ nhà ở, phương tiện, cho vay trong đào tạo để thu hút
nhân tài...
Công cụ thông tin (tuyên truyền): Đây là công cụ nhằm góp phần giúp
cho mọi người hiểu rõ về chính sách PTNNL, hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật, việc làm, giáo dục đào tạo...
1.2.3. Chủ thể chính sách phát triển nguồn nhân lực
Chính sách công là công cụ quản lý của Nhà nước nhằm giải quyết những
vấn đề có tính công, tính cộng đồng trong điều hành hoạt động KT - XH. Vì vây,
chủ thể ban hành chính sách công là Nhà nước, cụ thể là các cơ quan có thẩm
quyền trong bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương. Ở nước ta có đặc
thù một Đảng lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam nên mọi chủ trương, định
hướng về chính sách đều được các cơ quan của Đảng ban hành các văn bản như
chiến lược, chỉ thị làm căn cứ để các cơ quan có thẩm quyền trong bộ máy Nhà
nước thể chế hóa một cách cụ thể theo quy định của pháp luật. Chủ thể ban hành
chính sách PTNNL ở Việt Nam bao gồm:
Cấp Trung ương: Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí
thư, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền: Quốc hội, Chính phủ, các Bộ ngành
có liên quan như Bộ Nội vụ, Bộ Giáo dục và đào tạo, Bộ Tài chính, Bộ Kế
hoạch và đâu tư,… và các cơ quan ngang bộ.
Cấp địa phương: Tỉnh ủy, Thành ủy, HĐND, UBND các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, các sở trực thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,
Huyện ủy, HĐND, UBND các quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh.
(Xem bảng 1.1. Bảng các tổ chức ban hành chính sách)

20


×