MỤC LỤC
Tran
g
MỞ ĐẦU
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
3
14
GIẢNG VIÊN
1.1. Các khái niệm của luận văn
1.2. Nội dung phát triển đội ngũ giảng viên
1.3. Những yếu tố tác động đến phát triển đội ngũ giảng viên
15
24
31
ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Chương 2 CƠ SỞ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
38
GIẢNG VIÊN Ở HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ
TUYÊN TRUYỀN
2.1. Khái quát chung Học viện Báo chí và Tuyên truyền
2.2. Thực trạng đội ngũ giảng viên và phát triển đội ngũ
38
41
giảng viên ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Chương 3 YÊU CẦU, BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
60
GIẢNG VIÊN Ở HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN
TRUYỀN
3.1. Yêu cầu đề xuất biện pháp phát triển giảng viên ở Học
60
viện Báo chí và Tuyên truyền
3.2. Những biện pháp phát triển giảng viên ở Học viện
62
Báo chí và Tuyên truyền
3.3. Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
78
86
89
PHỤ LỤC
93
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhà giáo có vai trò quan trọng trong sự nghiệp GD&ĐT. Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta luôn tôn vinh; đồng thời yêu cầu mọi nhà giáo phải: “Giữ
gìn phẩm chất, uy tín, danh dự; tôn trọng nhân cách của người học, đối xử
công bằng với người học; không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm
chất đạo đức, trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ,…”[35, tr.57]. Mặt
khác, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo là một trong những nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu của các cấp, các ngành để phát triển đội ngũ nhà giáo
có phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ
cấu, chuẩn hoá về chất lượng.
Chỉ thị 40/2004/CT-TW ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng chỉ rõ: “Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục được
chuẩn hoá, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt
chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay
nghề của nhà giáo; thông qua việc quản lý, phát triển đúng định hướng và có
hiệu quả sự nghiệp giáo dục để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực,
đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước”[1, tr.4].
Gần đây, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khoá XI xác định: Phát
triển ĐNGV và CBQL giáo dục là khâu đột phá để thực hiện chủ trương đổi
mới căn bản, toàn diện nền giáo dục và nâng cao chất lượng giáo dục và đào
tạo đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
quốc tế. Muốn vậy, phải thường xuyên quan tâm “Xây dựng quy hoạch, kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục gắn với nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc
tế”[18, tr.136].
Học viện Báo chí và Tuyên truyền là đơn vị trực thuộc Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, là cơ sở giáo dục đại học có nhiệm vụ đào tạo, bồi
3
dưỡng giảng viên lý luận chính trị, cán bộ làm công tác tư tưởng - văn hóa,
cán bộ báo chí, biên tập viên xuất bản, cán bộ một số ngành khoa học xã hội
và nhân văn khác; là cơ sở nghiên cứu khoa học về lí luận Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước
về lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, lĩnh vực báo chí - truyền thông. Trong những
năm qua, Học viện đã bám sát các nhiệm vụ giáo dục, phục vụ kịp thời yêu
cầu đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao; trên tất cả các lĩnh vực hoạt động đều tiếp tục có bước phát triển mới.
Có được kết quả đáng phấn khởi đó là nhờ Học viện thường xuyên quan tâm
xây dựng ĐNGV không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng.
Tuy nhiên trong phát triển ĐNGV ở Học viện còn nhiều hạn chế, bất
cập như: Nhận thức, trách nhiệm của một bộ phận CBQL trong việc phát triển
ĐNGV chưa cao, sự phối kết hợp giữa các lực lượng liên quan có biểu hiện
chưa thống nhất. Mặc dù Học viện đã có sự đổi mới trong tuyển chọn giảng
viên nhưng khâu xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện có mặt còn lúng
túng; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng giảng viên ở một số khoa chưa được quan
tâm đúng mức, nhất là đổi mới, nâng cao chất lượng các hình thức bồi dưỡng
tại chỗ; việc bố trí sắp xếp giảng viên chưa phù hợp, không đúng với chuyên
ngành đào tạo đã dẫn đến không phát huy được năng lực, sở trường của giảng
viên; bên cạnh đó, chính sách đãi ngộ để khuyến khích ĐNGV và thu hút sinh
viên giỏi, cán bộ giảng dạy có trình độ cao trở thành giảng viên chưa phù hợp,
chưa trở thành động lực thúc đẩy ĐNGV phấn đấu vươn lên...
Trước yêu cầu phát triển Học viện trở thành cơ sở giáo dục đại học
trọng điểm của Quốc gia vào những năm tới đã và đang đặt ra yêu cầu cấp
thiết và khách quan phải phát triển nguồn nhân lực, trong đó trọng tâm là phát
triển ĐNGV để tạo ra sự đột phá, nhằm góp phần giải quyết những vấn đề còn
vướng mắc, bất cập, đồng thời đưa ra những biện pháp mang tính thực tế, khả
thi mục đích củng cố, phát triển ĐNGV của Học viện đáp ứng yêu cầu của
4
Đảng của Nhà nước. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài
“Phát triển đội ngũ giảng viên ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền” để
nghiên cứu là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong sự nghiệp giáo dục, đội ngũ giáo viên và CBQL có vai trò quan
trọng; là lực lượng chủ đạo, then chốt; là nhân tố quyết định đến chất lượng
và hiệu quả của quá trình giáo dục. Để có ĐNGV đủ mạnh, đáp ứng được nhu
cầu đổi mới giáo dục hiện nay, vấn đề bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên
môn cho ĐNGV là công việc hết sức quan trọng và cần thiết. Nghị quyết số
27 NQ-TW của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ VII khóa X về
xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước đã chỉ rõ: Trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã
hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày
nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng, tạo
nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển [16].
Trước những yêu cầu mới của sự phát triển giáo dục trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế; đội ngũ giáo viên và CBQL
giáo dục còn có những hạn chế, bất cập. Tình hình trên đòi hỏi phải tăng
cường xây dựng phát triển đội ngũ giáo viên và CBQL giáo dục một cách
toàn diện. Một số tác giả đã nghiên cứu những vấn đề chung về phát triển đội
ngũ giáo viên của hệ thống giáo dục quốc dân như: Các tác giả Bùi Minh
Hiền, Vũ Ngọc Hải, Đặng Quốc Bảo trong tài liệu “Quản lý giáo dục”, đã
dành riêng một chương bàn về nội dung “Xây dựng đội ngũ giáo viên và
CBQL giáo dục” của hệ thống giáo dục Việt Nam. Những vấn đề chung nhất
về xây dựng, phát triển đội ngũ giáo viên và CBQL giáo dục đã được các tác
giả chỉ ra dưới góc độ nghiên cứu của khoa học quản lý giáo dục.
Tác giả Phạm Thành Nghị và đồng nghiệp “Nghiên cứu việc bồi
5
dưỡng cán bộ giảng dạy đại học và giáo viên dạy nghề”. Các tác giả đã
phân tích thực trạng tình hình ĐNGV; đào tạo, bồi dưỡng giảng viên ở các
trường đại học, cao đẳng những năm vừa qua, đồng thời đề tài cũng đã xác
định phương hướng, đề xuất giải pháp bồi dưỡng cho ĐNGV đại học, cao
đẳng nhằm nâng cao trình độ cho đội ngũ này.
Trong những năm gần đây, vấn đề xây dựng và phát triển ĐNGV đã thu
hút sự quan tâm của các nhà quản lý, nhà khoa học; nhiều công trình được
nghiên cứu và công bố dưới các góc độ tiếp cận khác nhau, tiêu biểu như:
Đề tài khoa học: “Chính sách quốc gia về sự phát triển ĐNGV đại học
Việt Nam” của Nguyễn Thị Mỹ Lộc - Trần Khánh Đức; “Phát triển ĐNGV,
CBQL, từng bước tiếp cận chuẩn quốc tế”, đề án xây dựng và phát triển 16
ngành, 23 chuyên ngành khoa học cơ bản, công nghệ cao, kinh tế - xã hội mũi
nhọn ở Đại học Quốc gia Hà Nội đạt trình độ quốc tế. “Chính sách phát triển
ĐNGV các trường đại học ngoài công lập”, đề tài khoa học cấp Viện của Viện
Khoa học giáo dục Việt Nam do Thạc sĩ Đỗ Thị Hòa làm chủ nhiệm đề tài.
Đề tài khoa học cấp Bộ “Các giải pháp phát triển và chuẩn hoá ĐNGV
Đại học Lao động Xã hội” do một số tác giả thuộc trường Đại học Lao động
Xã hội thực hiện đã làm rõ các căn cứ để phát triển, chuẩn hoá ĐNGV; làm rõ
thực trạng và các yếu tố, điều kiện tác động đến chuẩn hoá ĐNGV; đề xuất các
giải pháp để phát triển, chuẩn hoá ĐNGV của Nhà trường.
Trong nhà trường quân đội, với tính chất đặc thù của hoạt động nghề
nghiệp sư phạm quân sự cũng đã có một số công trình khoa học của các tác
giả nghiên cứu ở các phạm vi, đối tượng khác nhau, tiêu biểu như: Sách tham
khảo“Nâng cao chất lượng đào tạo ĐNGV khoa học xã hội nhân văn trong
quân đội giai đoạn hiện nay” do tác giả Đặng Đức Thắng làm chủ biên đã
khẳng định vị trí, vai trò đội ngũ nhà giáo; đồng thời các tác giả đã đề xuất hệ
thống giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo ĐNGV khoa học xã hội nhân văn
ở nhà trường quân đội hiện nay. Cùng hướng nghiên cứu này có đề tài khoa
6
học: “Đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên khoa học xã hội và
nhân văn ở Học viện Chính trị thời kỳ mới” do tác giả Mai Văn Hóa làm chủ
nhiệm đã quan tâm nghiên cứu đến việc đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo
giáo viên ở Học viện Chính trị. Tác giả Trần Đình Tuấn nghiên cứu, đề xuất
các giải pháp “Chuẩn hóa chất lượng đội ngũ nhà giáo quân đội”.
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Xoan: “Những giải pháp phát triển
ĐNGV trường Đại học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội đáp ứng yêu
cầu trong giai đoạn hiện nay”. Tác giả đã đưa ra các giải pháp phát triển
ĐNGV trường Đại học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội như: Xây dựng
kế hoạch tổng thể phát triển ĐNGV; cụ thể hoá quy trình tuyển dụng giảng
viên; có chính sách thu hút giảng viên giỏi; đào tạo bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ trong và ngoài nước; đào tạo sinh viên giỏi bồi dưỡng thành
đội ngũ kế cận.
Tác giả Nguyễn Sơn Thành nghiên cứu “Một số giải pháp quản lý
nhằm phát triển ĐNGV trường Đại học Hải Phòng đến năm 2010” (Luận văn
thạc sĩ QLGD, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2004). Ngoài việc luận giải
những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan, tác giả đã đưa ra những dự báo
và đề xuất biện pháp quản lý phát triển ĐNGV phù hợp với sự phát triển của
Nhà trường trong những năm trước mắt và đến năm 2010.
Đề tài luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Hồng Sinh nghiên cứu “Các giải
pháp phát triển ĐNGV nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cấp trường Cao đẳng văn
hóa nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh”. Đề tài đã đề ra những giải pháp cụ
thể, thiết thực để phát triển ĐNGV nhằm chuẩn hóa đội ngũ, đáp ứng các yêu
cầu nâng cấp từ một trường Trung học chuyên nghiệp lên cao đẳng.
Đề tài luận văn thạc sĩ “Những biện pháp xây dựng và phát triển
ĐNGV của trường Đại học Dân lập Lương Thế Vinh giai đoạn 2007 - 2015”
của Chu Thị Hương Giang đã chỉ ra được những nguyên nhân dẫn đến mặt
hạn chế phát triển ĐNGV của Đại học Dân lập Lương Thế Vinh. Từ đó, tác
7
giả đưa ra một số giải pháp xây dựng, phát triển ĐNGV của nhà trường giai
đoạn 2007 - 2015, tập trung nhất vào công tác tuyển chọn, bổ nhiệm ĐNGV;
đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ cho giảng viên; có chính sách đãi ngộ
lương và các hỗ trợ thu nhập cho ĐNGV; kiểm tra, đánh giá ĐNGV, nhằm
đảm bảo ĐNGV đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, cân đối về cơ cấu, phù
hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, giáo dục của tỉnh Nam Định trong giai đoạn
hiện nay.
Đề tài của tác giả Nguyễn Mỹ Loan: “Quản lý phát triển ĐNGV trường
cao đẳng nghề đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân lực vùng đồng bằng sông Cửu
Long” đã phân tích và đánh giá khách quan thực trạng ĐNGV và thực trạng
quản lý phát triển ĐNGV trường cao đẳng nghề vùng đồng bằng sông Cửu
Long, xác định mặt mạnh, mặt hạn chế, nguyên nhân hạn chế, đối chiếu với
yêu cầu phát triển ĐNGV đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 theo
hướng đạt chuẩn và đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân lực. Luận án xây dựng và
đề xuất 7 giải pháp quản lý phát triển ĐNGV các trường cao đẳng nghề vùng
đồng bằng sông Cửu Long.
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thu Biên: “Biện pháp phát triển
ĐNGV trường đại học Phạm Văn Đồng trong bối cảnh hiện nay” đã xây
dựng được một hệ thống các biện pháp quản lý ĐNGV, hướng đến tạo ra
được một ĐNGV đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu và đạt chuẩn về chất
lượng, đáp ứng được yêu cầu của công tác đào tạo, phát triển nhà trường
trong bối cảnh hiện nay.
Đề tài của tác giả Trịnh Thị Mai: “Phát triển ĐNGV trường Đại học
Đại Nam giai đoạn 2011-2015”. Trong đó tác giả phân tích rõ được nguyên
nhân những bất cập của ĐNGV và đưa ra được các biện pháp phát triển
ĐNGV phù hợp với đặc điểm của trường Đại học Đại Nam.
Đề tài “Phát triển ĐNGV trường Cao đẳng Xây dựng công trình đô thị
- Bộ xây dựng: Thực trạng và giải pháp” của Mai Xuân Trường nêu ra những
8
vấn đề cần thiết phải thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó có những giải
pháp đột phá về quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và chế độ chính sách đối với
ĐNGV. Từ đó, đề tài đề xuất giải pháp tổ chức thực hiện các hoạt động đào
tạo và bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực ĐNGV trường Cao đẳng Xây dựng
công trình đô thị trong bối cảnh hội nhập.
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Tiến Thành “Biện pháp phát triển ĐNGV
ở trường Cao đẳng Cơ khí - Luyện kim Thái Nguyên trong giai đoạn 2011 2020” đã đưa ra được các biện pháp quản lý phát triển ĐNGV ở Trường
cao đẳng Cơ khí - Luyện kim Thái Nguyên đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát
triển và nâng cấp Nhà trứờng trong giai đoạn 2011 - 2020 như lập quy hoạch,
kế hoạch phát triển ĐNGV; đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ cho ĐNGV; sử dụng hợp lý ĐNGV hiện có trong nhà trường;
xây dựng và hoàn thiện các chế độ, chính sách ưu đãi đối với ĐNGV; tăng
cường các điều kiện bảo đảm cho giảng viên thực hiện nhiệm vụ giảng dạy và
nghiên cứu khoa học.
Đề tài luận văn thạc sĩ của Đinh Thị Thu Hiền: “Những giải pháp phát
triển ĐNGV trường Cao đẳng Bách khoa Hưng Yên” đã đề ra những giải
pháp cụ thể, thiết thực để phát triển ĐNGV của nhà trường nhằm chuẩn hóa
đội ngũ góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng đào tạo của Trường Cao
đẳng Bách khoa Hưng Yên.
Từ sự tổng quan các công trình khoa học có liên quan đến vấn đề
nghiên cứu chúng tôi nhận thấy:
Các công trình nghiên cứu đều khẳng định vai trò quan trọng của nhà
giáo đối với sự nghiệp phát triển GD&ĐT; phát triển ĐNGV là một trong
những giải pháp then chốt để nâng cao chất lượng đào tạo, của các cơ sở giáo
dục và của quốc gia.
Mỗi công trình khoa học đều xác định đối tượng nghiên cứu riêng, phù
hợp với phạm vi nghiên cứu; trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và
9
thực tiễn đã đề xuất các giải pháp phát triển ĐNGV với mong muốn nâng cao
chất lượng GD&ĐT của cơ sở giáo dục; góp phần nâng cao chất lượng đào
tạo nguồn nhân lực của đất nước.
Một số công trình nghiên cứu chỉ ra quan điểm cơ bản, xuyên suốt trong
phát triển đội ngũ nhà giáo theo hướng chuẩn hoá, gắn nâng cao chất lượng với
đảm bảo đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu. Đặc biệt, chú trọng nâng cao bản
lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương tâm nghề nghiệp và trình độ
chuyên môn của nhà giáo, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp
GD&ĐT, nhất là trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu phát triển ĐNGV ở các trường đại
học và cao đẳng nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới sự nghiệp giáo dục đào tạo.
Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống về phát
triển ĐNGV ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Vì vậy, việc chúng tôi lựa
chọn vấn đề phát triển ĐNGV ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền để nghiên
cứu là cần thiết và không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến phát triển
ĐNGV, trên cơ sở đó đề xuất biện pháp phát triển ĐNGV ở Học viện Báo chí
và Tuyên truyền nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ GD&ĐT, nghiên cứu khoa
học của Học viện trong giai đoạn mới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về phát triển ĐNGV ở các cơ sở giáo dục đại học.
Phân tích, đánh giá thực trạng ĐNGV và phát triển ĐNGV ở Học viện
Báo chí và Tuyên truyền.
Đề xuất biện pháp phát triển ĐNGV ở Học viện Báo chí và Tuyên
truyền; khảo nghiệm tính cần thiết, tính khả thi của các biện pháp đã đề xuất.
10
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Phát triển nguồn nhân lực ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
* Đối tượng nghiên cứu
Phát triển ĐNGV ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu các biện pháp phát triển
ĐNGV cơ hữu của Học viện Báo chí và Tuyên truyền theo các quan điểm,
chủ trương của Đảng, Nhà nước về phát triển ĐNGV trong thực hiện chủ
trương đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT hiện nay.
Về đối tượng khảo sát: Bao gồm ĐNGV, CBQL Học viện Báo chí và
Tuyên truyền thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Phạm vi về thời gian: Số liệu sử dụng để nghiên cứu từ năm 2010 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Phát triển ĐNGV đủ về số lượng, có chất lượng cao và cơ cấu hợp lý
có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Đối
với Học viện Báo chí và Tuyên truyền, nếu các chủ thể quản lý thường xuyên
nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các lực lượng liên quan; đổi mới công
tác tuyển dụng, quy hoạch và sử dụng ĐNGV; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao chất lượng gắn với thực hiện tốt công tác kiểm tra, đánh giá, rút kinh
nghiệm và tạo môi trường thuận lợi thì ĐNGV ở Học viện sẽ có sự phát triển
về mọi mặt, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, góp phần
mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng GD&ĐT, nghiên cứu khoa học của
Học viện.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
11
quán triệt và cụ thể hoá quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục,
đặc biệt là các quan điểm phát triển đội ngũ giáo viên; về đào tạo, bồi dưỡng
phát triển ĐNGV ở các cơ sở giáo dục đại học trong xu thế hội nhập quốc tế
và đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT hiện nay.
Sử dụng các quan điểm tiếp cận lịch sử - lôgíc, hệ thống - cấu trúc và
quan điểm thực tiễn để luận giải các nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu lý luận, thực tiễn và toán
học để nghiên cứu. Cụ thể là:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, hệ thống hoá các tài liệu liên quan
đến vị trí, vai trò, trách nhiệm của giảng viên; các nội dung, biện pháp phát
triển ĐNGV ở các cơ sở giáo dục đại học; trên cơ sở đó xây dựng, phát triển
những vấn đề lý luận liên quan phát triển ĐNGV ở Học viện Báo chí và
Tuyên truyền.
- Nhóm phương pháp thực tiễn
Phương pháp quan sát
Tổ chức quan sát trực tiếp các khâu, các bước trong toàn bộ quy trình
phát triển ĐNGV ở Học viện, như: lập kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch
phát triển ĐNGV; tổ chức bồi dưỡng để nâng cao chất lượng ĐNGV;...
Phương pháp điều tra
Mục đích, nhằm thu thập số liệu, thông tin để minh chứng cho những
nhận định, đánh giá về thực trạng ĐNGV và phát triển ĐNGV ở Học viện.
Nội dung điều tra, về những nội dung liên quan đến số lượng, chất
lượng, cơ cấu ĐNGV; việc xây dựng kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo thực hiện kế
hoạch phát triển ĐNGV, về công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng
ĐNGV ở Học viện;…
Đối tượng khảo sát, thực hiện điều tra bằng phiếu an-két đối với 150
CBQL, giảng viên về các nội dung có liên quan đến phát triển ĐNGV Học
viện Báo chí và Tuyên truyền.
12
Phương pháp trao đổi, phỏng vấn
Tổ chức trao đổi, phỏng vấn đối với CBQL các cấp, giảng viên, sinh
viên của Học viện.
Phương pháp dự báo
Trên cơ sở nghiên cứu những chủ trương, chính sách phát triển giáo
dục và thực tiễn nhiệm vụ GD&ĐT, nghiên cứu khoa học; yêu cầu phát triển
Học viện trở thành cơ sở giáo dục đại học trọng điểm của quốc gia để dự báo
nhu cầu phát triển ĐNGV, trên cơ sở đó đề xuất biện pháp phát triển ĐNGV
đáp ứng yêu cầu trước mắt và sư phát triển trong tương lai.
Phương pháp xin ý kiến chuyên gia
Xin ý kiến của các nhà giáo, các nhà khoa học, những người có trình độ
cao, am hiểu sâu về lĩnh vực đội ngũ giảng viên và định hướng phát triển đội
ngũ giảng viên ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
- Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng toán học để thống kê, xử lý số liệu thu thập được và phân tích
kết quả nghiên cứu.
7. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn góp phần và làm sáng tỏ cơ sở lý luận về phát triển ĐNGV ở
các cơ sở giáo dục đại học của hệ thống giáo dục quốc dân gắn với phát triển
ĐNGV Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
Đề xuất các biện pháp mang tính hiện thực và khả thi nhằm phát triển
ĐNGV ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền đủ về số lượng, có chất lượng
cao và cơ cấu hợp lý, đủ khả năng hoàn thành các nhiệm vụ của Học viện.
Luận văn cung cấp những luận cứ khoa học để các cấp uỷ đảng, CBQL
của Học viện Báo chí và Tuyên truyền, các cơ sở giáo dục đại học khác tham
khảo, vận dụng vào phát triển ĐNGV góp phần nâng cao chất lượng GD&ĐT
đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục hiện nay.
8. Kết cấu của đề tài
Luận văn có kết cấu bao gồm: phần mở đầu, 3 chương (8 tiết), kết luận
và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
13
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
1.1. Các khái niệm của luận văn
1.1.1. Khái niệm đội ngũ giảng viên ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về thuật ngữ “đội ngũ”. Các
khái niệm về đội ngũ dùng cho các tổ chức trong xã hội một cách rộng rãi
như: Đội ngũ cán bộ công chức; đội ngũ những người tình nguyện; đội ngũ
cán bộ… tất cả đều xuất phát từ cách hiểu theo thuật ngữ “đội ngũ” thường
được dùng trong lĩnh vực quân sự.
Theo từ điển Tiếng Việt, “đội ngũ” có nghĩa là: “tập hợp gồm một số
đông người cùng chức năng hoặc nghề nghiệp, thành một lực lượng” [48, tr.256].
Theo Webster: Đội ngũ là một nhóm người công nhân hoặc làm công
cụ thể như đội ngũ giáo viên, đội ngũ nhà báo,…
Mặc dù có nhiều cách diễn đạt khác nhau nhưng đều thống nhất, đó là
một nhóm người, một tổ chức, tập hợp thành một lực lượng để thực hiện mục
đích nhất định. “Đội ngũ” được cấu thành bởi các yếu tố sau: Là một tập hợp
người; có cùng một lý tưởng, cùng mục đích; làm việc theo kế hoạch; gắn bó
với nhau về quyền lợi vật chất và tinh thần.
Theo đó, Đội ngũ là tập hợp số đông người, hợp thành một lực lượng
để thực hiện một hay nhiều chức năng, có thể họ cùng nghề nghiệp hoặc khác
nghề nhưng đều có chung mục đích; làm việc theo kế hoạch và gắn bó với
nhau về quyền lợi vật chất và tinh thần.
Luật Giáo dục quy định: “Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy,
giáo dục trong nhà trường, cơ sở giáo dục khác;… Nhà giáo giảng dạy trong
các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp trình
độ sơ cấp nghề, trung cấp nghề, trung cấp chuyên nghiệp gọi là giáo viên.
Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục đại học, trường cao đẳng nghề gọi là
giảng viên” [35, tr.56].
14
Theo quy định hiện hành, giảng viên các cơ sở giáo dục đại học có các
nhiệm vụ:
Giảng dạy theo mục tiêu, chương trình đào tạo và thực hiện đầy đủ, có
chất lượng chương trình đào tạo. Nghiên cứu, phát triển ứng dụng khoa học
và chuyển giao công nghệ, bảo đảm chất lượng đào tạo. Định kỳ học tập, bồi
dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và phương
pháp giảng dạy. Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của giảng viên. Tôn trọng
nhân cách của người học, đối xử công bằng với người học, bảo vệ các quyền,
lợi ích chính đáng của người học. Tham gia quản lý và giám sát cơ sở giáo
dục đại học, tham gia công tác Đảng, đoàn thể và các công tác khác. Được ký
hợp đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa học với các cơ sở giáo dục đại học,
cơ sở nghiên cứu khoa học theo quy định của pháp luật. Được bổ nhiệm chức
danh của giảng viên, được phong tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo
ưu tú và được khen thưởng theo quy định của pháp luật.
Theo đó, ĐNGV là tập hợp những người làm nghề dạy học, giáo dục
và nghiên cứu khoa học ở các trường cao đẳng và đại học họ gắn kết với
nhau thực hiện hoàn thành nhiệm vụ, theo hệ thống, mục tiêu giáo dục, cùng
trực tiếp giảng dạy và giáo dục sinh viên, theo sự ràng buộc của những
nguyên tắc có tính chất hành chính của ngành giáo dục và của nhà nước.
Hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu có chung quan điểm về cách xác định
các công việc thuộc chức trách giảng viên, đó là: Giảng dạy; nghiên cứu khoa
học; phục phục vụ cộng đồng; thực hiện bổn phận của người công dân với tư
cách là nhà khoa học.
Về vai trò, giảng viên là nhân tố ảnh hưởng chính và quyết định đến
chất lượng của giáo dục. Lao động của họ tạo ra sản phẩm là con người được
giáo dục, được đào tạo về kiến thức cơ bản, có chuyên môn nghiệp vụ, có kỹ
năng lao động, đáp ứng nhu cầu của kinh tế - xã hội. Trong công cuộc đổi
mới, mở cửa hội nhập của đất nước ta hiện nay, lao động của giảng viên trực
15
tiếp đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực, nhân tài cho đất nước. Lao động của
giảng viên đồng thời hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ theo yêu cầu của
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với nguồn nhân lực hùng
hậu được đào tạo sẽ góp phần vào việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và
bồi dưỡng nhân tài mà Đảng và Nhà nước đang hướng tới.
Không chỉ ý nghĩa xã hội kể trên, lao động của giảng viên còn có ý
nghĩa kinh tế quan trọng. Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật và công nghệ tác động mạnh mẽ đến quá trình sản xuất vật chất và tinh
thần khiến người lao động phải đáp ứng trước những thách thức mới. Người
lao động buộc phải có những năng lực thích ứng, phải phù hợp với những
thay đổi nhanh chóng của khoa học và công nghệ; những thay đổi về môi
trường lao động đến hệ thống quản lý điều hành sản xuất. Nó buộc người lao
động phải có kỹ năng lao động sâu hơn, rộng hơn, phải có năng lực đổi mới
thích ứng nhanh chóng, cập nhật nhanh các kỹ thuật công nghệ mới. Đội ngũ
sẽ góp phần không nhỏ vào việc tạo ra sự thay đổi kỹ năng, cách tiếp cận với
kỹ thuật, công nghệ mới tạo ra chất lượng giáo dục, đào tạo tốt hơn đáp ứng
nhu cầu của sự phát triển kinh tế ngày một cao hơn.
Từ cách tiếp cận trên cho thấy, ĐNGV ở Học viện Báo chí và Tuyên
truyền là tập hợp các nhà giáo làm nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa
học ở Học viện, được tổ chức thành một lực lượng gắn kết với nhau về quyền
lợi vật chất và tinh thần, cùng trực tiếp giảng dạy và giáo dục sinh viên và học
viên, theo sự ràng buộc của những nguyên tắc có tính chất hành chính của của
Nhà nước, ngành Giáo dục và của Học viện.
ĐNGV Học viện Báo chí và Tuyên truyền là những người làm nhiệm
vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tuyên giáo ở trung ương và địa phương từ trình
độ sơ cấp trở lên về lý luận và nghiệp vụ; đào tạo giảng viên lý luận Mác-Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phóng viên, biên tập viên, cán bộ tuyên truyền,
đội ngũ những người làm công tác tư tưởng văn hóa của đất nước. Bên cạnh
16
việc giảng dạy, các giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ... còn tham gia đào tạo trình
độ sau đại học tại Học viện và tham gia Hội đồng chấm luận án tiến sĩ, luận
văn cao học ở các cơ sở giáo dục đại học khác.
ĐNGV ở Học viện Báo chí & Tuyên truyền đã và đang không ngừng
đổi mới từng bước khắc phục những hạn chế về số lượng, chất lượng dạy và
học. Bên cạnh lớp giảng viên có trình độ, kinh nghiệm thì lớp giảng viên mới
đang từng bước trưởng thành, trong điều kiện hội nhập quốc tế đang thể hiện
sự năng động, giàu sức sáng tạo, nhanh chóng tiếp cận tri thức, hiện đại có
khả năng hội nhập quốc tế.
Theo Thông tư liên tịch số 06/2011/TTLT-BNV-BGDĐT ngày
06/6/2011 của Bộ Nội vụ và Bộ GD&ĐT quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ, chế
độ làm việc, chính sách đối với giảng viên tại cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, thì ĐNGV ở Học viện có
các tiêu chuẩn sau:
Trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; có phẩm chất
chính trị vững vàng, đạo đức lối sống lành mạnh; đạt chuẩn về trình độ đào
tạo chuyên môn từ đại học trở lên quy định theo chức danh, phù hợp với
chuyên môn, chuyên ngành giảng dạy; có trình độ lý luận chính trị, quản lý
nhà nước, tin học, ngoại ngữ và nghiệp vụ sư phạm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
được giao; đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp; lý lịch bản thân rõ ràng,
đáp ứng yêu cầu về chính trị.
* Tiêu chuẩn cụ thể:
Đối với giảng viên: Có bằng tốt nghiệp đại học sư phạm trở lên hoặc
có bằng tốt nghiệp đại học trở lên phù hợp với chuyên môn, chuyên ngành
giảng dạy và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm; có ngoại ngữ trình
độ B trở lên; có tin học trình độ B trở lên; có trình độ trung cấp lý luận chính trị
- hành chính hoặc trung cấp lý luận chính trị và chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức
quản lý nhà nước theo quy định.
17
Đối với giảng viên chính: Có bằng thạc sĩ trở lên phù hợp với chuyên
môn, chuyên ngành giảng dạy; có ngoại ngữ trình độ C, tin học trình độ C trở
lên; có khả năng thiết kế, xây dựng kế hoạch, chương trình đào tạo, bồi dưỡng
và biên soạn tài liệu giảng dạy môn học, tài liệu tham khảo phục vụ đào tạo,
bồi dưỡng; có đề án hoặc đề tài nghiên cứu khoa học được cấp khoa hoặc cơ
sở đào tạo, bồi dưỡng công nhận và áp dụng có kết quả trong chuyên môn; có
trình độ cao cấp lý luận chính trị - hành chính hoặc cao cấp lý luận chính trị
và chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước theo quy định.
Đối với giảng viên cao cấp: Có bằng tiến sĩ; có ngoại ngữ trình độ C,
tin học trình độ C trở lên; có đề án hoặc công trình khoa học sáng tạo cấp tỉnh
hoặc cấp bộ, ngành trở lên được Hội đồng khoa học công nhận và đưa vào áp
dụng có hiệu quả; có trình độ cao cấp lý luận chính trị - hành chính hoặc cao
cấp lý luận chính trị và chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước theo
quy định.
* Nhiệm vụ của ĐNGV ở Học viện:
Nhiệm vụ giảng dạy: Nghiên cứu để nắm vững mục tiêu, nội dung,
chương trình, phương pháp giảng dạy, vị trí, yêu cầu của môn học và các
chuyên đề được phân công giảng dạy, các quy chế kiểm tra, thi, đánh giá kết
quả học tập của học viên; xây dựng kế hoạch giảng dạy, đề cương môn học,
bài giảng và thiết kế các tài liệu, cơ sở dữ liệu phục vụ cho giảng dạy.
Giảng bài, hướng dẫn học viên kỹ năng tự học tập, nghiên cứu, thảo
luận khoa học, tham gia các hoạt động thực tế, viết tiểu luận, thực tập tốt
nghiệp, xây dựng đề cương và viết khóa luận tốt nghiệp.
Tìm hiểu trình độ, kiến thức và hiểu biết của học viên; thường xuyên
cập nhật thông tin để xử lý, bổ sung, hoàn chỉnh, cải tiến nội dung, kế hoạch,
phương pháp giảng dạy và cơ sở dữ liệu phục vụ cho giảng dạy.
Thực hiện quá trình đánh giá kết quả học tập của học viên và hướng
dẫn học viên đánh giá hoạt động giảng dạy. Dự giờ và tham gia đánh giá
18
hoạt động giảng dạy của các giảng viên khác theo quy định của cơ sở đào
tạo, bồi dưỡng.
Nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và công nghệ: Chủ trì hoặc tham gia
thực hiện các chương trình, đề án, đề tài nghiên cứu khoa học, phát triển công
nghệ được phân công và có kết quả cụ thể được Hội đồng khoa học đánh giá
đạt yêu cầu trở lên.
Nghiên cứu khoa học và công nghệ để xây dựng chương trình đào tạo,
bồi dưỡng; tham gia xây dựng chương trình, biên soạn tài liệu giảng dạy, tài
liệu tham khảo phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng; cải tiến phương pháp
giảng dạy và kiểm tra, đánh giá môn học, chuyên đề thuộc nội dung, chương
trình đào tạo, bồi dưỡng được phân công giảng dạy.
Viết các bài báo đăng trên các tạp chí khoa học, viết các chuyên đề, báo
cáo khoa học tham luận tại các hội nghị, hội thảo khoa học được phân công.
Thực hiện quá trình đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học của học viên; tham
gia quá trình đánh giá và kiểm định chất lượng đào tạo, bồi dưỡng. Tham gia
các hoạt động hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học, công nghệ và các hoạt
động khoa học khác khi được phân công.
Nhiệm vụ tham gia công tác quản lý đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu
khoa học, công tác đảng, đoàn thể và các hoạt động khác: Tham gia xây
dựng, triển khai, giám sát việc thực hiện kế hoạch giảng dạy, học tập của cơ
sở đào tạo, bồi dưỡng.
Làm các công tác khác như: Chiêu sinh, tuyển sinh, chủ nhiệm lớp, chỉ
đạo thực tập, phụ trách phòng thí nghiệm; quản lý khoa, phòng, bộ môn; quản
lý khoa học và công nghệ; công tác đảng, đoàn thể, các hoạt động xã hội tại cơ
sở đào tạo, bồi dưỡng và các công tác khác khi được cấp có thẩm quyền giao.
Nhiệm vụ học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ: Học tập, bồi dưỡng
nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, quản lý nhà nước, ngoại ngữ,
tin học, phương pháp giảng dạy để tăng cường năng lực công tác đáp ứng yêu
19
cầu đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là
nhiệm vụ thường xuyên.
Có trách nhiệm thực hiện khi được cơ sở đào tạo, bồi dưỡng xem xét cử
đi đào tạo, bồi dưỡng để có các trình độ chuyên môn, học vị đạt chuẩn hoặc
cao hơn chuẩn đối với chức danh đang giữ, bảo đảm tiêu chuẩn khi được bổ
nhiệm vào chức danh mới. Hàng năm được cơ sở đào tạo, bồi dưỡng tổ chức
đi nghiên cứu thực tế, bổ sung kiến thức thực tiễn vào bài giảng và kỹ năng
giải quyết, xử lý các tình huống lãnh đạo, quản lý.
1.1.2. Khái niệm phát triển đội ngũ giảng viên ở
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Dưới góc độ Triết học, phát triển là nguyên lý phổ biến của mọi sự vật,
hiện tượng trong xã hội và tự nhiên. Phép biện chứng duy vật cho rằng, phát
triển là khái niệm dùng để khái quát quá trình vận động của mọi sự vật, hiện
tượng từ thấp đến cao từ đơn giản đến phức tạp, từ hoàn thiện đến hoàn thiện
hơn. Đặc trưng nổi bật của phát triển là hình thức xoáy trôn ốc theo các chu
kỳ, việc hoàn thành một chu kỳ lại là cố hữu, là nền tảng cho một chu kỳ mới
trong đó có sự lặp lại một số đặc điểm của chu kỳ trước đó. Mọi sự vật, hiện
tượng, con người, xã hội có sự biến đổi tăng tiến về mặt số lượng, chất lượng
dưới sự tác động của bên ngoài đều được coi là sự phát triển.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “phát triển” có nghĩa là “Biến đổi hoặc làm
cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức
tạp” [48, tr.769].
Tiếp cận dưới góc độ xã hội học, tác giả David C.Korten - nhà hoạt
động xã hội người Mỹ cho rằng: “Phát triển là một tiến trình, qua đó các
thành viên của xã hội tăng được những khả năng của cá nhân và định chế
của mình để huy động và quản lý các nguồn lực, tạo ra những thành quả bền
vững nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống phù hợp với nguyện vọng của
họ”[19]. Theo quan niệm này thì phát triển là sự tăng trưởng hoàn thiện được
20
khả năng, tạo ra sự phù hợp của bản thân bằng cách sử dụng mọi nguồn lực có
thể có được; tiến trình đó không của riêng ai mà của các thành viên xã hội.
ĐNGV là nguồn lực cơ bản của các trường cao đẳng, đại học. Phát triển
ĐNGV chính là phát triển nguồn lực trong nhà trường, là tạo ra sự tăng
trưởng cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu.
Theo Menges J.R, mục tiêu của công tác phát triển ĐNGV là nhằm
tăng cường hơn nữa đến sự phát triển toàn diện của người giảng viên trong
hoạt động nghề nghiệp [15].
Theo quan niệm chung nhất hiện nay, phát triển ĐNGV là tổng thể
những tác động tạo ra sự biến đổi theo chiều hướng gia tăng về số lượng,
chất lượng và đồng bộ về cơ cấu, đạt chuẩn nghề nghiệp để thực hiện tốt các
hoạt động giáo dục, giảng dạy trong các nhà trường, các cơ sở giáo dục.
Phát triển ĐNGV có thể hiểu là một quá trình tăng tiến về mọi mặt của
ĐNGV trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về
quy mô, số lượng và chất lượng giảng viên. Đó là sự tiến bộ về nhận thức,
học vấn, khả năng chuyên môn đạt đến chuẩn và trên chuẩn của yêu cầu, tiêu
chí dành cho giảng viên.
Phát triển ĐNGV trước hết phải tạo ra một đội ngũ (một tổ chức) các
nhà giáo, từ đó phát triển đội ngũ cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu tổ chức,
độ tuổi, giới tính… Phát triển ĐNGV là làm cho số lượng và chất lượng
ĐNGV vận động theo hướng đi lên trong mỗi hỗ trợ, bổ sung cho nhau tạo
nên một hệ thống ĐNGV bền vững.
Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 15/6/2014 của Ban Bí thư Trung ương xác
định mục tiêu của việc phát triển đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục là: “Xây
dựng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục được chuẩn hoá, đảm bảo chất
lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh
chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo; thông qua việc
quản lý, phát triển đúng định hướng và có hiệu quả sự nghiệp giáo dục để nâng
cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao
của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” [1, tr.4].
21
Phát triển ĐNGV gắn liền với phát triển phẩm chất, năng lực của cá
nhân từng giảng viên. Đội ngũ giảng viên là hình thức liên kết các giảng viên
xuất phát từ nhu cầu kinh tế, chính trị xã hội, đạo đức, quan điểm, tư tưởng,
nghề nghiệp và nhiệm vụ của đơn vị… Mối quan hệ giữa phát triển đội ngũ
giảng viên và phát triển giảng viên là mối quan hệ biện chứng có mâu thuẫn. Bởi
lẽ bản chất mỗi giảng viên không thể hòa tan vào tập thể đội ngũ nhưng lại
không thể phát triển cô lập, độc lập hoàn toàn với những giảng viên khác trong
tập thể ĐNGV. Những tập thể ĐNGV đảm bảo về sự ổn định tổ chức, phát triển
trên nguyên tắc kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, bình đẳng, tôn
trọng lẫn nhau, có ý thức trách nhiệm…và quan tâm đến sự phát triển của từng
cá nhân giảng viên thì tập thể ĐNGV đó phát triển bền vững.
Phát triển ĐNGV là phát triển năng lực từng cá nhân giảng viên. Năng
lực khác với tri thức, kỹ năng và kỹ xảo, không phải là khả năng có thể làm
được hoặc không làm được và cũng không phải là tiềm năng mà là cái tồn tại
thật sự ở mỗi các nhân. Tuy nhiên, giữa năng lực và tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
có quan hệ mật thiết với nhau. Năng lực của một giảng viên không thể phát
triển cao ở người có trình độ học vấn thấp; kỹ năng tổ chức giải quyết các
tình huống trong một hoạt động giáo dục nào đó chưa thể có được ở người
giảng viên nếu chưa có thực tế giảng dạy; thậm chí một giảng viên có trình độ
học vấn cao hoặc có nhiều kinh nghiệm qua nhiều cương vị khác nhau nhưng
vẫn có thể thiếu năng lực cần thiết.
Năng lực cá nhân giảng viên chính là sự thống nhất hài hòa về tri thức,
trí tuệ đạt tới một trình độ cao; có kỹ năng, kỹ xảo trong phương thức hoạt
động; được tôi luyện, trải nghiệm qua thực tế cảm xúc, giá trị, ý chí và trách
nhiệm xã hội.... thể hiện ở tính sẵn sàng hành động trong môi trường GD&ĐT
và cả những điều kiện thực tế đang thay đổi. Phát triển năng lực sáng tạo cho
giảng viên nhằm góp phần phát triển khoa học giáo dục, nâng cao chất lượng
đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Đó
chính là phẩm chất lao động sáng tạo của nhà giáo.
22
Từ cách tiếp cận trên đây cho thấy, Phát triển ĐNGV ở Học viện Báo
chí và Tuyên truyền là tổng thể các cách thức, biện pháp tác động của chủ
thể quản lý đến ĐNGV nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, bảo đảm
đủ về số lượng, phù hợp về cơ cấu, đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ giảng dạy,
giáo dục và nghiên cứu khoa học của Học viện.
Thực chất, phát triển ĐNGV ở Học viện một mặt là củng cố, kiện toàn
ĐNGV hiện có; mặt khác, định hướng phát triển về số lượng, về cơ cấu và
nâng cao chất lượng ĐNGV đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ GD&ĐT, nghiên cứu
khoa học của Học viện trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài.
Yêu cầu phát triển ĐNGV ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền :
- Đảm bảo về số lượng:
Phải chú ý đảm bảo đủ số lượng giảng viên giảng dạy tương ứng với sự
quy đổi số lượng sinh viên. Việc phát triển đủ số lượng giảng viên cần thiết
đảm bảo số giờ giảng dạy của giảng viên không vượt qua số giờ quy định theo
quy định của Bộ GD&ĐT về quy định chế độ làm việc với giảng viên ban
hành kèm theo Quyết định số 64/2008/QĐ - BGDĐT ngày 28/11/2008 của Bộ
GD&ĐT và Thông tư liên tịch số 06/2011/TTLT-BNV của Bộ Nội vụ và Bộ
GD&ĐT “Quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ, chế độ làm việc, chính sách đối với
giảng viên tại cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ; trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”.
- Đảm bảo về chất lượng
Yêu cầu phát triển đội ngũ đảm bảo về số lượng phải đi đôi với đảm
bảo nâng cao về chất lượng. Trong đó:
Về phẩm chất nghề nghiệp: Xây dựng ĐNGV có tư tưởng chính trị
vững vàng, có phẩm chất đạo đức và lương tâm nghề nghiệp; có trình độ
chuyên môn cao, phong cách giảng dạy và quản lý tiên tiến tiến, hiện đại.
Về trình độ chuyên môn: Phát triển ĐNGV của Học viện phù hợp với
Nghị quyết số 14/NQ-CP về đổi mới toàn diện giáo dục Đại học Việt
23
Nam giai đoạn 2006 - 2020 của Chính phủ; đảm bảo đến năm 2015 có ít nhất
87% giảng viên có trình độ thạc sĩ, 29% có trình độ tiến sĩ. Đến năm 2020 có
ít nhất 95% giảng viên có trình độ thạc sĩ, và 40% có trình độ tiến sĩ.
Về nghiệp vụ sư phạm: Đảm bảo cân đối, hài hòa, mỗi bộ môn chuyên
môn đều phải có giảng viên có kỹ năng nghiệp vụ sư phạm vững vàng nhằm
tạo điều kiện, giúp đỡ, bồi dưỡng cho lớp giảng viên trẻ còn thiếu kinh
nghiệm và phương pháp sư phạm.
- Đảm bảo hợp lý về cơ cấu
Cơ cấu trình độ: Xây dựng cơ cấu trình độ phải đảm bảo hợp lý, mỗi
chuyên ngành đào tạo cần phải có cơ cấu hợp lý giữa các trình độ, giữa các
chức danh để có quy hoạch chuẩn về cơ cấu trình độ, độ tuổi theo quy định
của Luật Giáo dục, Luật Giáo dục Đại học và Chiến lược phát triển Giáo dục
của nhà nước, tạo động lực cho sự phát triển, phân bố tương đối đồng đều ở
các ngành, chuyên ngành đào tạo, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ GD&ĐT của
Học viện.
Cơ cấu ngành nghề: Xây dựng kế hoạch phát triển ĐNGV phải chú ý
đến đảm bảo cân đối cho cơ cấu ngành nghề đào tạo, đối với từng lĩnh vực cụ
thể, tránh việc chỉ tập trung vào xây dựng đội ngũ cho một số ngành nghề mà
không tính đến sự phát triển bền vững lâu dài.
Cơ cấu độ tuổi, giới tính: Phát triển đội ngũ còn cần phải chú ý đến độ
tuổi và giới tính. Cần phát triển ĐNGV trẻ năng động, nhiệt huyết tận tâm
giảng dạy. Xác định cơ cấu về độ tuổi một cách hợp lý có tỷ lệ độ tuổi một
cách đồng đều tránh hiện tượng “già hoá” đội ngũ, thiếu lực lượng kế cận.
Duy trì và phát triển cơ cấu giới tính hợp lý.
1.2. Nội dung phát triển đội ngũ giảng viên
1.2.1. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển đội ngũ giảng viên
Phát triển ĐNGV là một trong những nội dung quan trọng của việc phát
triển nhân lực trong GD&ĐT. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển
24
ĐNGV là nội dung quan trọng, đảm bảo cho ĐNGV phát triển một cách liên
tục, phù hợp với nhu cầu cả về quy mô, chất lượng và cơ cấu. Xây dựng quy
hoạch phát triển ĐNGV bao gồm các loại kế hoạch dài hạn, ngắn hạn để bố
trí, sắp xếp ĐNGV trong phạm vi quản lý.
Mục tiêu của lập kế hoạch phát triển ĐNGV là nhằm duy trì sự ổn định
ĐNGV; đảm bảo đủ tỷ lệ số lượng giảng viên/sinh viên theo quy định; giúp
cho ĐNGV hoàn thành nhiệm vụ và tạo điều kiện cho ĐNGV có thời gian tự
học, tự nghiên cứu để nâng cao trình độ nghiệp vụ; đồng thời, là cơ sở để nhà
quản lí, sử dụng hợp lí và hiệu quả, đồng thời phát huy tối đa khả năng của
ĐNGV.
Mặt khác, lập kế hoạch phát triển ĐNGV nhằm tạo ra sự đồng bộ và
cân đối về cơ cấu thể hiện ở độ tuổi, giới tính, trình độ, nghề nghiệp. Về chất
lượng, lập kế hoạch phát triển là để đảm bảo ĐNGV có trình độ, năng lực,
phẩm chất theo quy định và đáp ứng được mục tiêu đào tạo nghề; tạo ra sự kế
tục giữa các thế hệ giảng viên, không bị hụt hững về chất lượng ĐNGV.
Xây dựng quy hoạch phát triển ĐNGV là một tiến trình đề ra và thực
hiện các công việc để đảm bảo đủ số lượng, chất lượng, cơ cấu ĐNGV đáp
ứng nhu cầu của Học viện và đảm bảo việc bố trí sử dụng nhân lực có hiệu
quả. Xây dựng quy hoạch phát triển ĐNGV phải thực hiện theo các nguyên
tắc sau:
Thứ nhất, căn cứ vào quy định, hướng dẫn của các cơ quan quản lý cấp
trên và yêu cầu thực tế của Học viện để xác định mục tiêu, xây dựng kế hoạch
phát triển ĐNGV.
Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ và dự báo nhu cầu phát triển,
phù hợp với quy hoạch xây dựng và phát triển của Học viện trong tương lai.
Thứ ba, công tác quy hoạch phải đi tắt đón đầu, tạo nguồn, đáp ứng cho
từng giai đoạn.
25
Thứ tư, phải xây dựng được các tiêu chí về trình độ, phẩm chất và năng
lực đối với giảng viên trong từng giai đoạn.
Thứ năm, phát huy quyền làm chủ tập thể, ý thức tự giác, trách nhiệm
của ĐNGV tham gia vào phát triển bản thân về mọi mặt.
Thứ sáu, phải xây dựng được ĐNGV đủ về số lượng, đồng bộ về cơ
cấu, đảm bảo chất lượng, xác định nội dung và số lượng giảng viên đào tạo,
bồi dưỡng từng năm học.
Thứ bảy, các điều kiện để triển khai công tác bồi dưỡng từng năm học.
Thứ tám, các điều kiện để triển khai công tác bồi dưỡng giảng viên.
Việc xây dựng quy hoạch phát triển ĐNGV đáp ứng nhu cầu đào tạo
phải xuất phát từ dự báo về chất lượng, số lượng, cơ cấu trình độ, ngành nghề,
nghiệp vụ sư phạm của ĐNGV để xác định mục tiêu, nhu cầu và lập kế hoạch
phát triển ĐNGV về số lượng, về cơ cấu và chất lượng.
1.2.2. Tuyển chọn, bố trí, sử dụng đội ngũ giảng viên
Tuyển chọn là quá trình sử dụng các phương pháp nhằm thu hút lựa chọn,
quyết định xem trong số những người tham gia dự tuyển, ai là người đủ tiêu
chuẩn. Học viện cần xây dựng các tiêu chuẩn cụ thể, rõ ràng và tổ chức hình
thức tuyển chọn phù hợp với từng vị trí và chuyên môn công tác. Xây dựng tiêu
chuẩn phải vừa có những tiêu chuẩn chung vừa có tiêu chuẩn cụ thể, cá biệt phù
hợp với yêu cầu để có được ĐNGV về số lượng, mạnh về chất lượng, đồng bộ
về cơ cấu, đáp ứng được mục tiêu kế hoạch đào tạo của Học viện.
Việc tuyển chọn giảng viên trong Học viện phải nhằm hướng đến mục
tiêu sử dụng đúng người, đúng việc, đúng chuyên môn, đảm bảo điều kiện
môi trường chuyên môn để họ dạy tốt, khai thác được tiềm năng, thế mạnh
của từng giảng viên, hỗ trợ bổ sung giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, phát huy thế
mạnh, hạn chế khuyết điểm.
Việc tuyển chọn giảng viên thường tiến hành theo các bước:
Bước 1: Chuẩn bị tổ chức tuyển chọn;
26