3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Qua hơn 25 năm đổi mới của đất nước Việt Nam, cùng với sự phát triển toàn
diện của đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội, lĩnh vực giáo dục, đào tạo tiếp tục phát
triển mạnh mẽ trên cả ba mặt: Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân
tài. Điều này đã được thể hiện qua việc đầu tư cho GD-ĐT ngày càng tăng, trang
thiết bị trường học được đổi mới; quy mô đào tạo không ngừng được mở rộng. Đội
ngũ giáo viên đã phát triển nhanh chóng và giữ vị trí, vai trò quan trọng hàng đầu
trong hệ thống giáo dục.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định:
“Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo
dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội
nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế QLGD, phát triển đội ngũ giáo viên và cán
bộ quản lý là khâu then chốt”[10]. Đây là tư duy mang tầm chiến lược, thể hiện
quan điểm toàn diện, khách quan, khoa học của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bởi hơn
lúc nào hết, phát triển đội ngũ giáo viên vững mạnh, toàn diện, vừa hồng vừa
chuyên là yêu cầu cấp thiết của giáo dục Việt Nam hiện tại.
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (trước đây là Trường Đào tạo, bồi dưỡng
nghiệp vụ kiểm sát) từ khi thành lập đến nay với sự chỉ đạo của VKSND tối cao,
của lãnh đạo nhà trường và sự cố gắng, nỗ lực của đội ngũ cán bộ, giảng viên, nhà
trường đã đào tạo, bồi dưỡng được nhiều thế hệ cán bộ kiểm sát, bước đầu đáp ứng
yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng của ngành. Qua đào tạo, bồi dưỡng đã góp phần tích cực
vào việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của ngành Kiểm sát, từng bước nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ các công tác
kiểm sát mà Đảng và Nhà nước giao cho.
Tuy nhiên, với yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao đối với cán bộ của ngành như:
phải có trình độ, năng lực, chuyên môn, nghiệp vụ nhất định để thực hiện nhiệm vụ
các công tác kiểm sát như: Kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự,
kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự; kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính,
kinh tế, kinh doanh thương mại…. Như vậy nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ công chức ngành Kiểm sát là rất cấp
bách, trong khi đó đội ngũ cán bộ, GV Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội những
4
năm gần đây đã có những bước phát triển, song vẫn còn những bất cập như: Về số
lượng ĐNGV các khoa, bộ môn còn thiếu; về cơ cấu ĐNGV còn chưa đồng bộ, có
những khoa, bộ môn chưa cân đối giữa các thế hệ trong nhà trường, đa số là ĐNGV
trẻ kinh nghiệm còn hạn chế mà yêu cầu thực tiễn đòi hỏi cần phải có những giảng
viên có kinh nghiệm thì việc truyền đạt các kỹ năng về chuyên môn nghiệp vụ mới
có hiệu quả; chất lượng ĐNGV về phẩm chất, về trình độ, về năng lực còn những
hạn chế nhất định… chưa đáp ứng yêu cầu hiện tại và xu thế phát triển của ngành.
Mặt khác, ngày 24/04/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
614/QĐ-TTg về việc thành lập Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội trên cơ sở nâng
cấp Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát. Giai đoạn hiện nay và trong
thời gian tới, trách nhiệm của nhà trường rất nặng nề khi triển khai thực hiện nhiệm
vụ đào tạo bậc đại học. Yêu cầu đặt ra đối với nhà trường là phải xây dựng kế hoạch
triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao, có cơ chế thu hút nguồn nhân lực có
trình độ tiến sĩ, thạc sĩ có khả năng làm công tác giảng dạy; yêu cầu ĐNGV không
ngừng phấn đấu, nâng cao kiến thức, trình độ và chuyên môn nghiệp vụ phục vụ
cho công tác đào tạo, bồi dưỡng trước mắt và lâu dài. Vì vậy việc phát triển ĐNGV
ở Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội là vấn đề cấp bách và hết sức cần thiết trong
giai đoạn hiện nay. Với thực tế như vậy, việc nghiên cứu biện pháp phát triển
ĐNGV là một khâu đột phá, nhằm góp phần giải quyết những vấn đề còn vướng
mắc, bất cập, đồng thời đưa ra những biện pháp mang tính thực tế, khả thi để củng
cố, phát triển ĐNGV của Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội đáp ứng yêu cầu đào tạo
đội ngũ cán bộ của ngành Kiểm sát.
Với lý do trên tác giả chọn đề tài: “Phát triển đội ngũ giảng viên ở Trường
Đại học Kiểm sát Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong hệ thống giáo dục đại học, chất lượng đội ngũ GV có ảnh hưởng to lớn
và mang tính quyết định đến chất lượng đào tạo của nhà trường. Do vậy, để thực
hiện đổi mới giáo dục và đào tạo phát triển nhà trường thì vấn đề nâng cao chất
lượng đội ngũ GV là rất quan trọng và cấp thiết. Chính vì vậy, thời gian qua đã có
nhiều công trình nghiên cứu về biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên dưới nhiều
cấp độ khác nhau, như luận án, luận văn, đề tài khoa học, bài báo...vv. Những công
trình tiêu biểu liên quan trực tiếp đến đề tài như:
5
Tác giả Nguyễn Văn Đệ trong luận án tiến sĩ:“Phát triển đội ngũ giảng viên
các trường Đại học ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long đáp ứng yêu cầu đổi mới
giáo dục đại học”(năm 2010), tác giả đã tiếp cận và cụ thể hóa một số nội dung,
quan điểm của lý thuyết quản lý nguồn nhân lực vào việc nghiên cứu, qui hoạch, dự
báo về hoạt động phát triển ĐNGV trong bối cảnh đổi mới giáo dục đại học Việt
Nam nói chung và vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng. Đặc biệt, luận án đã
khái quát và rút ra được các bài học kinh nghiệm về phát triển ĐNGV ở một số
nước trên thế giới. Những điều đó có ý nghĩa rất lớn vì nó sẽ giúp ích cho các
trường đại học chủ động và mạnh dạn hoạch định chiến lược phát triển ĐNGV ngắn
hạn, dài hạn, đối ứng với những yêu cầu ngày càng cao về giáo dục và đào tạo.
Đánh giá thực trạng và đã đưa ra được: Bức tranh tổng thể về giáo dục đại học và
ĐNGV các trường đại học ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long; tình hình phát triển
ĐNGV trong thực tiễn, mặt mạnh, mặt yếu; mức độ thành công, những nguyên
nhân của tồn tại, bất cập về các giải pháp phát triển ĐNGV mà các trường đại học ở
vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã áp dụng trong thực tế [12].
Luận văn thạc sĩ: “Phát triển đội ngũ giảng viên Trường Đại học Đại Nam
giai đoạn 2011 - 2015” của tác giả Trịnh Thị Mai (năm 2011), đã nghiên cứu cơ sở
lý luận về phát triển ĐNGV trong đào tạo đại học. Đánh giá thực trạng ĐNGV và
công tác phát triển ĐNGV ở trường Đại học Đại Nam. Đề xuất các giải pháp phát
triển ĐNGV ở trường Đại học Đại Nam giai đoạn 2011 – 2015 [25].
Luận văn thạc sĩ: “Biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên Trường Đại học
Phạm Văn Đồng trong bối cảnh hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Thu Biên (năm
2011), tác giả cũng nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác quản lý ĐNGV trường Đại
học, cao đẳng; khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng quản lý ĐNGV trường đại
học Phạm Văn Đồng; đề xuất các biện pháp quản lý ĐNGV ở Trường Đại học
Phạm Văn Đồng trong bối cảnh hiện nay [4].
Luận văn thạc sĩ: “Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên của Trung tâm
giáo dục trẻ khuyết tật Quảng Trạch, Quảng Bình” của tác giả Phan Xuân Trường
(năm 2013), tác giả đã chỉ ra một số biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên của
Trung tâm giáo dục trẻ khuyết tật Quảng Trạch, Quảng Bình như: Xây dựng quy
hoạch phát triển ĐNGV; tăng cường công tác bồi dưỡng trình độ chuyên môn
nghiệp vụ của ĐNGV; xây dựng đội ngũ GV đầu đàn, chăm lo đời sống vật chất
tinh thần cho ĐNGV, đổi mới tuyển dụng, bố trí sử dụng ĐNGV…[38].
6
Ngoài ra có rất nhiều bài báo viết về việc phát triển đội ngũ giảng viên trong
các trường đại học, cụ thể như:
Phát triển năng lực giảng viên nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo
trong các trường đại học và cao đẳng trong điều kiện toàn cầu hóa và bùng nổ tri
thức của tác giả Ngưỡng Hữu Lam – Trung tâm Nghiên cứu và phát triển Quản trị
(CEMD) – Đại học Kinh tế TPHCM. Bài viết này tập trung vào trình bày những xu
hướng đổi mới đang diễn ra tại hệ thống đại học Hoa Kỳ, những thực tiễn tại Việt
Nam và những kiến nghị cho việc phát triển đội ngũ giảng viên – nhân tố có tính
sống còn trong việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo [21].
Phát triển đội ngũ giảng viên Trường Cao đẳng Xây dựng công trình đô thị Bộ xây dựng của tác giả Mai Xuân Trường-Trường Cao đẳng Xây dựng Công trình
đô thị (Tạp chí Khoa học và Công Nghệ, Đại học Đà Nằng số 6(41).2010). Bài viết
nêu ra những vấn đề cần thiết phải thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó có
những giải pháp đột phá về quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và chế độ chính sách đối
với ĐNGV từ đó, đề xuất giải pháp tổ chức thực hiện các hoạt động đào tạo và bồi
dưỡng nhằm nâng cao năng lực ĐNGV trường Cao đẳng xây dựng công trình đô thị
trong bối cảnh hội nhập [37].
Giải pháp xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên các trường dạy nghề
theo Tư tưởng Hồ Chí Minh của tác giả Lê Phương Linh -Trường Cao đẳng Kỹ
thuật – Công nghiệp Bắc Giang (Tạp chí học viện Báo chí và tuyên truyền). Tác giả
đã đưa ra một số giải pháp xây dựng và phảt triển đội ngũ giảng viên các trường dạy
nghề theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay[23].
Nhìn chung, các tác giả tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác quản
lý và phát triển ĐNGV trường đại học, cao đẳng; khảo sát, phân tích, đánh giá thực
trạng quản lý ĐNGV ở các trường đại học, cao đẳng, đã chỉ ra một số biện pháp
phát triển ĐNGV ở từng trường cụ thể.
Tuy có rất nhiều tác giả nghiên cứu về phát triển ĐNGV như vậy, nhưng
chưa có tác giả nào nghiên cứu về việc phát triển ĐNGV từ Trường Đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ kiểm sát, nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cấp thành Trường Đại học
Kiểm sát Hà Nội. Vì vậy, tác giả đi sâu vào nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để
tìm ra những biện pháp có tính chất khả thi cho việc phát triển ĐNGV Trường Đại
học Kiểm sát Hà Nội, từng bước đáp ứng nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm
sát trên cả nước trong tình hình hiện nay.
7
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát
triển ĐNGV, từ đó đề xuất các biện pháp phát triển ĐNGV của Trường Đại học
Kiểm sát Hà Nội nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng cán bộ ngành
Kiểm sát nhân dân của nhà trường trong giai đoạn hiện nay và trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc phát triển ĐNGV.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng công tác quản lý, phát triển ĐNGV ở
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội.
- Đề xuất các biện pháp phát triển ĐNGV của Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng cán bộ ngành Kiểm sát nhân dân.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu: Công tác quản lý phát triển đội ngũ giảng viên ở
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội.
* Đối tượng nghiên cứu: Phát triển đội ngũ giảng viên của Trường Đại học
Kiểm sát Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu: Với thời gian và khả năng có hạn tác giả chỉ tập
trung nghiên cứu thực trạng phát triển ĐNGV Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
trong giai đoạn 2010 – 2014, đề ra một số biện pháp phát triển ĐNGV trong giai
đoạn 2014 đến năm 2020.
5. Giả thuyết khoa học
Đề tài đã xây dựng được hệ thống các biện pháp phát triển ĐNGV ở Trường
Đại học Kiểm sát Hà Nội trên cơ sở lý luận và thực tiễn. Nếu các biện pháp phát
triển ĐNGV được áp dụng đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tiễn, với chiến lược
phát triển của nhà Trường thì sẽ xây dựng được ĐNGV có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cao, đủ về số lượng, cân đối về cơ cấu góp phần nâng cao chất lượng đào
tạo và bồi dưỡng cán bộ ngành Kiểm sát nhân dân trong giai đoạn hiện nay và trong
thời gian tới.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Để hoàn thành công trình nghiên cứu, luận văn quán triệt sâu sắc lập trường
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan
8
điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về phát triển giáo dục và đào tạo. Đồng thời
quán triệt vận dụng các quan điểm hệ thống cấu trúc, mang tính lịch sử, lôgic và
thực tiễn để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn tác giả sử dụng những phương pháp nghiên cứu cơ
bản như sau:
+ Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Sử dụng các phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp, khái
quát hệ thống hóa các tài liệu nghiên cứu lý luận, các Chỉ thị, Nghị quyết về đường
lối, chính sách về chiến lược phát triển giáo dục – đào tạo của Đảng và Nhà nước,
các quy chế, quy định của ngành giáo dục và đào tạo để xây dựng khung lý thuyết
của đề tài luận văn.
- Thu thập tư liệu và phân tích từ các tài liệu nghiên cứu lý luận về phát triển
ĐNGV.
+ Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
Để tìm hiểu thực trạng trình độ chuyên môn nghiệp vụ của ĐNGV, tác giả
tiến hành điều tra bằng phiếu hỏi, xây dựng các mẫu phiếu hỏi với các loại câu hỏi
(đóng, mở) dành cho các đối tượng khác nhau (GV, học viên, sinh viên và các cán
bộ quản lý trong trường).
Phương pháp phỏng vấn
Tiến hành phỏng vấn, trò chuyện, tọa đàm, trao đổi trực tiếp với cán bộ quản
lý, GV, học viên và sinh viên nhằm thu thập thêm thông tin bổ sung cho phần thực
trạng ĐNGV của trường.
Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động
Nghiên cứu hồ sơ giáo án giảng dạy của GV, dự giờ thăm lớp để đánh giá
sản phẩm của GV qua các tiết dạy.
Phương pháp xin ý kiến chuyên gia
Xin ý kiến chuyên gia về bộ phiếu hỏi, về các biện pháp đã đề xuất, về các
vấn đề mà đề tài đề cập.
Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng một số công thức toán học để đánh giá thực trạng, phân tích dữ liệu
9
trong quá trình nghiên cứu
7. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài đã hệ thống hóa và làm phong phú thêm cơ sở lý luận của vấn đề phát
triển ĐNGV trong các trường đại học, đã khảo sát và đánh giá được thực trạng phát
triển ĐNGV của Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội để xác định những điểm mạnh
và điểm yếu, những vấn đề cần chú ý khắc phục. Từ đó đề xuất được các biện pháp
phù hợp và khả thi nhằm phát triển ĐNGV nhà trường đảm bảo về số lượng, cân đối về cơ
cấu, nâng cao về chất lượng, đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng nhiệm vụ của nhà
trường.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: Phần mở đầu, 3 chương (9 tiết); phần kết luận, kiến nghị;
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1.1. Những khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm giảng viên
Theo Từ điển Tiếng Việt phổ thông của Viện Ngôn ngữ học – Nhà xuất bản
thành phố Hồ Chí Minh – năm 2005 thì: “Giảng viên là tên gọi chung người làm
công tác giảng dạy ở các trường chuyên nghiệp, các lớp đào tạo, huấn luyện, các
trường trên bậc phổ thông” [42, tr.347].
Tại Điều 70 Luật Giáo dục nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2005
(được sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã đưa ra định nghĩa pháp lý đầy đủ về nhà giáo
và những tiêu chuẩn của nhà giáo:
1. Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, cơ
sở giáo dục khác.
2. Nhà giáo phải có những tiêu chuẩn sau đây:
a) Phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt;
b) Đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ;
c) Đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp;
d) Lý lịch bản thân rõ ràng.
3. Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo
dục nghề nghiệp trình độ sơ cấp nghề, trung cấp nghề, trung cấp chuyên nghiệp gọi
là giáo viên. Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục đại học, trường cao đẳng nghề gọi
là giảng viên.
Như vậy, Giảng viên là nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục đại học, trường
cao đẳng. Công cụ lao động sư phạm của GV là hệ thống những tri thức, những kỹ
năng, kỹ xảo cần truyền đạt và rèn luyện, những dạng hoạt động và giao lưu cần tổ
chức cho sinh viên. Giảng viên có công cụ lao động rất đặc biệt là trí tuệ, là sản
phẩm của chính mình. Nhân cách của GV như một công cụ lao động thật sự, nó sẽ
phát huy tác dụng mạnh mẽ khi GV có uy tín cao, tức là phẩm chất năng lực, đức và
tài của GV có sức thuyết phục lớn. Muốn như vậy, bản thân GV phải có năng lực
chọn lọc tri thức cơ bản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với mục tiêu của GV, phải
11
không ngừng tự nâng cao trình độ về mọi mặt, hoàn thiện nhân cách, đạo đức,
chuyên môn nghiệp vụ, độc lập, sáng tạo, đặc biệt phải luôn tìm tòi các phương
pháp giảng dạy tiên tiến, hiện đại, sử dụng thành thạo các phương tiện dạy học
giảng dạy tiên tiến, hiện đại để truyền tải kiến thức cho sinh viên với con đường
ngắn nhất và hiệu quả nhất.
Tóm lại: Giảng viên đóng vai trò quan trọng trong hệ thống giáo dục, GV là
yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả giáo dục. Vai trò của GV không chỉ đóng
khung trong hoạt động dạy học và giáo dục mà còn có vị trí vai trò quan trọng trong
đời sống xã hội, văn hóa và cộng đồng.
1.1.2. Khái niệm đội ngũ giảng viên
Theo Từ điển Tiếng Việt phổ thông của Viện Ngôn ngữ học định nghĩa:
“Đội ngũ là tập hợp một số đông người cùng chức năng hoặc nghề nghiệp, thành
một lực lượng” [42, tr.302].
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo:“ Đội ngũ là một tập thể người gắn kết với
nhau, cùng chung lý tưởng, mục đích, ràng buộc nhau về vật chất, tinh thần và hoạt
động theo một nguyên tắc”[1].
Với các cách diễn đạt khác nhau các định nghĩa đều nêu rõ đội ngũ là một
nhóm người được tổ chức và tập hợp thành một lực lượng để cùng thực hiện một
hay nhiều chức năng, có thể cùng nghề nghiệp hoặc khác nhau về công việc nhưng
cùng chung một mục đích và hướng tới mục đích đó. Đội ngũ trong trường học bao
gồm: Cán bộ quản lý các cấp trong trường học, Nhà giáo (giáo viên, giảng viên);
nhân viên phục vụ các hoạt động giáo dục trong nhà trường.
Đội ngũ GV là một tập hợp các nhà giáo làm cùng chức năng nhiệm vụ giảng
dạy, giáo dục, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, tham gia công tác quản
lý, đào tạo ở các trường Cao đẳng, Đại học, được tổ chức thành một lực lượng, cùng
chung một nhiệm vụ là thực hiện các mục tiêu giáo dục đã đề ra cho tập hợp đó. Họ
làm việc có kế hoạch và gắn bó với nhau thông qua lợi ích về vật chất và tinh thần
trong khuôn khổ quy định của pháp luật.
Nói cách khác theo nghĩa hẹp, đội ngũ giảng viên là tổ chức những người
làm nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học và hướng dẫn nghiên cứu khoa học
trong các trường đại học, cao đẳng để hướng tới mục tiêu chung là đào tạo, bồi
dưỡng sinh viên, học viên đạt đến một trình độ mới.
12
Theo Luật Giáo dục nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2005 (được sửa
đổi, bổ sung năm 2009), ĐNGV bao gồm các nhà sư phạm được tuyển dụng và bổ
nhiệm vào các ngạch giảng viên, giảng viên chính, giảng viên cao cấp, giáo sư, phó
giáo sư trong biên chế sự nghiệp của cơ sở đào tạo đại học - cao đẳng công lập hoặc
trong danh sách của cơ sở giáo dục đại học - cao đẳng ngoài công lập.
Đội ngũ GV trong các trường đại học có vị trí , vai trò hết sức quan trọng, là
lực lượng trực tiếp quyết định đến chất lượng giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa
học. Cùng với quá trình mở rộng quy mô và các loại hình GD – ĐT, ĐNGV ngày
càng đông đảo và trở thành một tầng lớp lao động trí óc chiếm tỉ lệ đáng kể trong
lực lượng lao động xã hội và có tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển giáo
dục, kinh tế xã hội và khoa học kỹ thuật của mỗi quốc gia. Cơ cấu ĐNGV ngày
càng đa dạng về loại hình và trình độ được đào tạo.
1.1.3. Khái niệm phát triển đội ngũ giảng viên
- Khái niệm phát triển: Theo Từ điển Tiếng Việt phổ thông “Phát triển” là sự
biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp [42, tr.701].
Trong triết học, theo phép biện chứng duy vật thì phát triển là khái niệm dùng để
khái quát quá trình vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn
thiện đến hoàn thiện. Phát triển là sự vận động, tiến triển theo chiều hướng tăng lên.
Phát triển là bước chuyển hóa từ thấp đến cao theo đường xoáy trôn ốc, lý
luận của phép biện chứng duy vật khẳng định: Mọi sự vật, hiện tượng không phải
chỉ là sự tăng lên hay giảm đi về mặt số lượng mà cơ bản chúng luôn biến đổi,
chuyển hóa từ sự vật hiện tượng này đến sự vật hiện tượng khác, cái mới kế tiếp cái
cũ, giai đoạn sau kế thừa giai đoạn trước tạo thành quá trình phát triển tiến lên mãi.
Từ sự liên hệ tác động qua lại của các mặt đối lập vốn có bên trong của các
sự vật hiện tượng sẽ tạo nên sự phát triển. Hình thái, cách thức của sự phát triển đi
từ những biến đổi về lượng đến những biến đổi chuyển hóa về chất và ngược lại.
Xu hướng của sự phát triển là tiến lên, từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến
cao, từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn, giữ lại những tinh hoa của
cái cũ và tạo thêm những ý tưởng mới cho các sự vật hiện tượng, như thế có thể tạo
ra sự phát triển bền vững. Phát triển có thể là một quá trình thực hiện nhưng cũng
có thể là một tiềm năng của sự vật hiện tượng.
13
Một số đặc trưng cơ bản của phát triển được thể hiện:
- Mọi sự vật hiện tượng khi phát triển đều có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau.
- Nói đến phát triển là nói đến quá trình vận động không ngừng.
- Từ phát triển về số lượng dẫn đến phát triển về chất lượng.
- Phát triển thể hiện thông qua sự đấu tranh của các mặt đối lập.
- Phát triển có thể diễn ra bằng cách chuyển hóa hoặc có sự nhảy vọt.
Tóm lại, mọi sự vật hiện tượng, con người, xã hội có sự biến đổi tăng tiến về
mặt số lượng hay chất lượng dưới tác động của bên trong hoặc bên ngoài đều được
coi là sự phát triển.
- Khái niệm phát triển đội ngũ giảng viên:
Phát triển ĐNGV là làm cho ĐNGV có những con người có năng lực và
phẩm chất mới cao hơn, đảm bảo về số lượng, trình độ, đồng bộ về cơ cấu. Sự phát
triển ĐNGV chủ yếu thể hiện ở các mặt: Phát triển về phẩm chất chính trị, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ và năng lực hoạt động thực tiễn của GV, đảm bảo đầy đủ về
số lượng ĐNGV có trình độ cao và có cơ cấu phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ đào tạo
của nhà trường trong giai đoạn trước mắt và lâu dài.
Như vậy, phát triển đội ngũ giảng viên có thể xác định là quá trình tác động
của người lãnh đạo quản lý nhằm xây dựng một đội ngũ giảng dạy, nghiên cứu
khoa học và hướng dẫn nghiên cứu khoa học đảm bảo về số lượng, cân đối về cơ
cấu và ngày càng nâng cao về trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như những
phẩm chất cần thiết.
Trong thời đại ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật
và công nghệ đã dẫn tới xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa trên mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Với ngành Giáo dục thì vấn đề đổi mới và phát triển ĐNGV luôn là
một vấn đề hết sức quan trọng vì nó đóng góp trực tiếp cho việc phát triển sự nghiệp
giáo dục, phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
1.1.4. Đội ngũ giảng viên trong trường đại học
1.1.4.1. Vị trí, vai trò của giảng viên trong trường đại học
Trong Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII, Đảng ta đã khẳng định: "Giáo
viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh”[7].
Vai trò nhà giáo được Quốc hội nước ta khẳng định trong Điều 15 Luật giáo
14
dục năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 như sau:
"Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục”[31].
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng cũng khẳng định:
“Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu...., phát triển đội ngũ giáo viên và cán
bộ quản lý là khâu then chốt”[10].
Hiện nay, quá trình học tập và giảng dạy chuyển sang lấy người học làm
trung tâm thì vai trò của GV cũng có nhiều thay đổi, GV không đơn giản chỉ là
người thầy, người giới thiệu, người thiết kế, thi công các bài giảng, người trình bày,
truyền đạt kiến thức hoàn toàn áp đặt lên sinh viên mà còn là người tạo điều kiện,
cố vấn, người điều phối, người hướng dẫn, người lập kế hoạch đào tạo, viết chương
trình đào tạo, đánh giá và là người thúc đẩy quá trình đào tạo.
Vai trò người thầy, người trình bày, người thiết kế, thi công các bài giảng:
với cách tiếp cận mới vai trò truyền thống của GV vẫn không mất đi, trong vai trò
người thầy, GV luôn được mong chờ là người biết cách giảng dạy, GV là người
thiết kế và thi công các bài giảng, người truyền đạt các kiến thức của bài giảng, sử
dụng các kỹ thuật và kỹ năng giảng dạy có hiệu quả, chuẩn bị kỹ bài giảng, trình
bày có hiệu quả cao, giao tiếp tốt, có khả năng xác định nhanh chóng những vấn đề
vướng mắc của sinh viên và đưa ra các giải pháp thích hợp.
Người tạo điều kiện: GV tạo điều kiện, giúp đỡ sinh viên có khả năng tự định
hướng trong học tập, ủng hộ và khuyến khích họ khi cần thiết, người tạo điều kiện
trở thành người cùng tham gia học tập với sinh viên, tạo ra một môi trường học tập
để sinh viên có thể đạt được những kết quả học tập cao nhất. Là người tạo điều kiện,
giảng viên phải có trách nhiệm hơn, phải hiểu rõ về khả năng, phong cách, động cơ
học tập của mỗi sinh viên.
Người cố vấn: Trong nhiều trường hợp GV phải đưa ra những lời khuyên cho
sinh viên, các sinh viên có thể yêu cầu tư vấn cho tập thể hoặc cá nhân về việc xác
định mục đích học tập, phát triển các kế hoạch đào tạo, những phương pháp tốt nhất
được nghiên cứu học tập và nhiều vấn đề khác nảy sinh trong quá trình học tập cũng
như sinh hoạt.
Người điều phối, người hướng dẫn: Trong quá trình học tập lấy sinh viên
làm trung tâm và việc tự quản trong học tập được nhấn mạnh thì trách nhiệm của
GV trong quản lý và điều phối quá trình đào tạo sẽ tăng lên. Là người điều phối,
15
GV sẽ điều phối và trợ giúp một cách chủ động sự tham gia của những thành viên
khác. Bên cạnh đó GV cũng là người chỉ dẫn, hướng dẫn từng sinh viên khi sinh
viên có thể cần thảo luận những vấn đề và những mối quan tâm của họ.
Người lập kế hoạch, thiết kế chương trình đào tạo: Trong nhiều trường hợp
người GV phải là người tham gia thiết kế chương trình đào tạo, bao gồm xác định kết
quả học tập, lựa chọn sắp xếp nội dung, phương pháp giảng dạy thích hợp, chuẩn bị tài
liệu học tập và lựa chọn phương pháp đánh giá. Người GV cũng phải tham gia vào quá
trình phân tích các nhu cầu đào tạo và xác định các yêu cầu đào tạo.
Người thúc đẩy quá trình đào tạo: một phần vai trò của GV là khuyến khích,
thúc đẩy quá trình đào tạo của tổ chức mình. Giảng viên có thể cung cấp những
thông tin đào tạo cập nhật khi được yêu cầu truyền bá những thông tin đào tạo qua
những ấn phẩm và những hội nghị.
Người đánh giá: Người GV phải có khả năng đánh giá sinh viên, xác nhận
những thành tích trong học tập cũng như rèn luyện và tham gia các hoạt động khác
của họ.
Tóm lại: ĐNGV trong trường đại học có vị trí, vai trò hết sức quan trọng,
được coi là một nguồn lực chủ yếu trong quá trình thực hiện việc nâng cao chất
lượng đào tạo nguồn nhân lực, đổi mới giáo dục đại học, phục vụ yêu cầu phát triển
kinh tế xã hội của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay.
1.1.4.2. Nhiệm vụ và chức năng của giảng viên trong trường đại học
Theo khái niệm ở trên thì giảng viên là nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục
đại học, trường cao đẳng nghề. Do đó giảng viên có nhiệm vụ và quyền hạn của nhà
giáo nói chung, cụ thể như sau:
Điều 72 Luật Giáo dục năm 2005 (sửa đổi bổ sung năm 2009) quy định:
Nhà giáo có những nhiệm vụ sau đây:
1. Giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lý giáo dục, thực hiện đầy đủ
và có chất lượng chương trình giáo dục;
2. Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và
điều lệ nhà trường;
3. Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo; tôn trọng nhân cách của
người học, đối xử công bằng với người học, bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng
của người học;
16
4. Không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ
chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, đổi mới phương pháp giảng dạy, nêu gương tốt
cho người học;
5. Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
Điều 73 Luật Giáo dục quy định Nhà giáo có những quyền sau đây:
1. Được giảng dạy theo chuyên ngành đào tạo;
2. Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ;
3. Được hợp đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa học tại các trường, cơ sở
giáo dục khác và cơ sở nghiên cứu khoa học với điều kiện bảo đảm thực hiện đầy
đủ nhiệm vụ nơi mình công tác;
4. Được bảo vệ nhân phẩm, danh dự;
5. Được nghỉ hè, nghỉ Tết âm lịch, nghỉ học kỳ theo quy định của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo và các ngày nghỉ khác theo quy định của Bộ luật lao động [31].
* Như vậy,nhiệm vụ và chức năng chung của giảng viên đại học là:
Chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối, Nghị quyết của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước, thực hiện đầy đủ các quy chế của Bộ GD & ĐT, Điều
lệ trường đại học, Quy chế tổ chức, hoạt động và các quy định khác của trường do
Hiệu trưởng ban hành.
Hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn và các công tác khác được trường, khoa,
bộ môn giao.Tham gia góp ý kiến vào việc giải quyết những vấn đề quan trọng của
nhà trường, những vấn đề có liên quan đến việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Tham gia công tác quản lý nhà trường, tham gia công tác Đảng, đoàn thể khi được
tín nhiệm.
Được hưởng lương, phụ cấp và các quyền lợi khác theo quy định của Nhà
nước và quy định của nhà trường; được xét tặng Huy chương vì sự nghiệp giáo dục
và các phần thưởng cao quý khác; được tạo các điều kiện cần thiết để nâng cao trình
độ chuyên môn nghiệp vụ.
* Nhiệm vụ và chức năng cụ thể của giảng viên đại học là:
Hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học được quy định theo
giờ chuẩn do Bộ GD & ĐT ban hành đối với các chức danh và ngạch tương ứng.
Giảng dạy theo nội dung, chương trình đã được Bộ GD & ĐT, trường đại học quy
định. Viết giáo trình, bài giảng, tài liệu phục vụ giảng dạy học tập theo sự phân
17
công của các cấp quản lý. Không ngừng tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, cải
tiến phương pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng đào tạo.
Tham gia và chủ trì các đề tài nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ,
dịch vụ khoa học - công nghệ và các hoạt động khoa học khác. Chịu sự giám sát của
các cấp quản lý về chất lượng, nội dung, phương pháp đào tạo và nghiên cứu khoa
học. Hướng dẫn, giúp đỡ người học trong học tập, nghiên cứu khoa học, rèn luyện
tư tưởng, đạo đức, tác phong, lối sống.
Được đảm bảo về mặt tổ chức và vật chất kỹ thuật cho các hoạt động nghề
nghiệp; được sử dụng các dịch vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học, công nghệ và dịch
vụ công cộng của nhà trường.
Được quyền lựa chọn giáo trình, tài liệu tham khảo, phương pháp và phương
tiện giảng dạy nhằm phát huy năng lực cá nhân, bảo đảm nội dung,chương trình,
chất lượng và hiệu quả của hoạt động đào tạo, khoa học và công nghệ.
Được ký hợp đồng giảng dạy, khoa học và công nghệ với các cơ sở đào tạo,
cơ sở nghiên cứu, cơ sở sản xuất và các tổ chức kinh tế khác theo quy định của Bộ
Luật lao động, Quy chế thỉnh giảng và kiêm nhiệm do Bộ GD & ĐT ban hành và
các quy định có liên quan của Nhà nước sau khi đã được sự đồng ý của các cấp có
thẩm quyền theo quy định của Hiệu trưởng.
Được đăng ký xét công nhận, được bổ nhiệm chức danh Giáo sư, Phó Giáo
sư theo quy định của Nhà nước, được Nhà nước xét tặng danh hiệu Nhà giáo nhân
dân, Nhà giáo ưu tú.
Được bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm theo quy định của Bộ GD & ĐT.
Được tham dự các hội nghị, hội thảo khoa học trong và ngoài nước theo quy
định để công bố các công trình nghiên cứu khoa học, giáo dục.
Quyền, nghĩa vụ của GV tham gia nghiên cứu khoa học và công nghệ và các
cán bộ hoạt động khoa học và công nghệ khác trong trường đại học được quy định
tại Điều 17 và Điều 18 của Luật Khoa học và Công nghệ.
Các cán bộ hoạt động khoa học và công nghệ tham gia đào tạo theo sự phân
công của các cấp quản lý phải thực hiện các nhiệm vụ của GV.
1.1.4.3. Quyền hạn và trách nhiệm của giảng viên trong trường đại học
Điều 55 Luật giáo dục đại học năm 2012 quy định quyền hạn và trách nhiệm
của GV trong trường đại học như sau:
18
1. Giảng dạy theo mục tiêu, chương trình đào tạo và thực hiện đầy đủ, có
chất lượng chương trình đào tạo.
2. Nghiên cứu, phát triển ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ, bảo
đảm chất lượng đào tạo.
3. Định kỳ học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên
môn nghiệp vụ và phương pháp giảng dạy.
4. Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của GV.
5. Tôn trọng nhân cách của người học, đối xử công bằng với người học, bảo
vệ các quyền, lợi ích chính đáng của người học.
6. Tham gia quản lý và giám sát cơ sở giáo dục đại học, tham gia công tác
Đảng, đoàn thể và các công tác khác.
7. Được ký hợp đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa học với các cơ sở giáo
dục đại học, cơ sở nghiên cứu khoa học theo quy định của pháp luật.
8. Được bổ nhiệm chức danh của giảng viên, được phong tặng danh hiệu Nhà
giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú và được khen thưởng theo quy định của pháp luật.
9. Các nhiệm vụ và quyền khác theo quy định của pháp luật[32].
Tóm lại: giảng viên trong trường đại học có nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn
và trách nhiệm nhất định do pháp luật quy định, bên cạnh đó còn có các Quy chế
của Bộ GD & ĐT, Điều lệ trường đại học, Quy chế tổ chức, hoạt động và các quy
định khác của nhà trường do Hiệu trưởng ban hành.
1.1.4.4. Yêu cầu về đội ngũ giảng viên trong trường đại học
* Yêu cầu đối với mỗi giảng viên
- Thế giới quan của giảng viên
Giảng viên phải có phẩm chất chính trị và thế giới quan chủ nghĩa Mác –Lê
Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo niềm tin vào định hướng giáo dục của Đảng và
Nhà nước. Người GV phải hiểu biết thực tiễn của đất nước và tình hình thế giới
trong đó có cả lĩnh vực giáo dục của các nước để từ đó xây dựng hệ thống các quan
điểm chỉ đạo, cách nhìn nhận vấn đề, cách suy nghĩ, cách hành động nhằm xây
dựng lý tưởng nghề nghiệp để gắn bó cuộc đời mình với sự nghiệp giáo dục của đất
nước. Đây là yếu tố rất cơ bản để GV trở thành tấm gương cho sinh viên noi theo.
- Lòng yêu sinh viên
Đây là một phẩm chất đạo đức cao quý của con người và là một phẩm chất
19
đặc trưng trong nhân cách của người thầy. Lòng yêu sinh viên ở đây được hiểu đó là
tình thương sinh viên, gần gũi, ân cần, chân thật, khoan dung khi sinh viên mắc lỗi,
nhưng phải nghiêm nghị, công bằng đối với sinh viên, GV phải tôn trọng nhân cách
của sinh viên, kết hợp với các em trong quá trình dạy học nhằm đạt được mục tiêu
đào tạo lớp trẻ thành con người có trí tuệ và nhân cách tốt để phục vụ sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Lòng yêu nghề nghiệp
Trong bất cứ một xã hội nào, ở bất cứ thời đại nào, con người làm việc mà
không có lòng yêu nghề thì không bao giờ có sự thành đạt, nghề dạy học cũng
không nằm ngoài quy luật đó. Bởi vậy, mỗi GV muốn thành đạt phải yêu nghề dạy
học thực sự, vượt qua mọi khó khăn thử thách để thực hiện chức năng người “kỹ sư
tâm hồn”, không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn, hoàn thiện nhân
cách để cống hiến cho sự nghiệp “trồng người”.
Ngoài những yếu tố trên, GV cần phải có một loạt các phẩm chất, năng lực
khác như: năng lực sư phạm, năng lực nghiên cứu khoa học, năng lực giao tiếp,
năng lực tổ chức, năng lực quản lý...vv. Phải hình thành cho mình một số kỹ năng,
kỹ xảo để tiến hành hoạt động sư phạm có hiệu quả. Đặc biệt, trong thời đại ngày
nay, GV phải có tri thức về ngoại ngữ, tin học,… có kỹ năng sử dụng các thiết bị
hiện đại phục vụ công tác giảng dạy.
Qua khảo sát, nghiên cứu cũng như thực tiễn giáo dục, ta có thể thấy có rất
nhiều kỹ năng GV phải có, nhưng tập trung vào hai hệ thống: kỹ năng cơ bản và kỹ
năng chuyên nghiệp.
Hệ thống những kỹ năng cơ bản bao gồm:
- Nhóm kỹ năng thiết kế: nhóm kỹ năng này giúp GV nhìn thấy được trước
và lập kế hoạch, nội dung, hình thức, phương pháp, phương thức tiến hành các hoạt
động của chính mình cũng như của sinh viên, dự kiến các tình huống có thể xảy ra
và dự liệu giải pháp để xử lý. Nhờ đó, GV luôn giữ được vai trò chủ đạo trong quá
trình giáo dục.
- Nhóm kỹ năng tổ chức: khi đã thiết kế, lập kế hoạch dạy học - giáo dục,
giảng viên phải biết cách tổ chức thực hiện một cách tốt nhất để đạt hiệu quả như
mong muốn.
20
- Nhóm kỹ năng giao tiếp: Đây là một tiền đề quan trọng để thành công trong
dạy học - giáo dục. Do đối tượng là sinh viên, có nhân cách khác nhau nên khi tiếp
xúc phải có nghệ thuật lôi cuốn, lời nói phải dễ hiểu, có sức truyền cảm, phải linh
hoạt xử lý các tình huống,…
- Nhóm kỹ năng nhận thức: Nhóm kỹ năng này giúp GV biết nghiên cứu hoạt
động của mình và hoạt động của sinh viên để tìm ra cách thực hiện có hiệu quả nhất.
Hệ thống những kỹ năng chuyên biệt bao gồm:
- Nhóm kỹ năng giảng dạy: đây là kỹ năng đặc trưng trong lao động sư phạm
của GV. GV phải có kỹ năng chọn lựa và vận dụng nội dung dạy học, các phương
pháp và hình thức tổ chức dạy học; soạn bài giảng, tổ chức các dạng hoạt động học
tập, đặc biệt phải lấy sinh viên làm trung tâm. Ngoài ra còn có kỹ năng giúp đỡ, bồi
dưỡng sinh viên; sử dụng thành thạo các phương tiện dạy học hiện đại.
- Nhóm kỹ năng giáo dục: bao gồm các kỹ năng xác định mục tiêu, nhiệm vụ
giáo dục theo quy định của Luật Giáo dục, những nhiệm vụ cụ thể giáo dục sinh
viên; tổ chức, phối hợp với các lực lượng giáo dục để giáo dục sinh viên. GV phải
biết lựa chọn và vận dụng phương pháp, hình thức cho phù hợp với đối tượng giáo
dục; cách thức kiểm tra, đánh giá kết quả rèn luyện, tu dưỡng của sinh viên.
- Nhóm kỹ năng nghiên cứu khoa học: ngày nay, khoa học và công nghệ phát
triển mạnh mẽ trong đó có khoa học giáo dục. Vì vậy, mỗi GV phải biết lựa chọn đề
tài cần nghiên cứu để phục vụ nghề nghiệp của mình.
- Nhóm kỹ năng hoạt động xã hội: nhà trường là một tổ chức có tư cách pháp
nhân, GV, sinh viên là thành viên của xã hội, cho nên bản thân GV phải có khả năng
tham gia các hoạt động xã hội, nhất là các hoạt động có liên quan đến giáo dục; phải
biết tổ chức cho sinh viên tham gia các hoạt động xã hội vô cùng phong phú.
- Nhóm kỹ năng tự học: lượng kiến thức tăng rất nhanh ở nhiều lĩnh vực, xã
hội có nhiều biến động, do đó GV phải tự tổ chức tự học những vấn đề có liên quan
đến chuyên môn, đến nghề dạy học; phải biết sử dụng máy tính và các phương tiện
dạy học hiện đại để nâng cao trình độ của mình.
* Yêu cầu đối với tập thể đội ngũ giảng viên
Nhìn từ góc độ tập thể đội ngũ thì ĐNGV phải đạt chuẩn cả về số lượng và
chất lượng, hợp lý về cơ cấu. Có sự liên tục, kế thừa giữa các thế hệ và chuẩn bị để
có thể đổi mới các thế hệ theo một tỷ lệ nhất định. Một tập thể đội ngũ cần bao gồm
21
đủ 4 lớp nhân sự:
- Lớp GV đầu ngành (thâm niên giảng dạy trên 20 năm).
- Lớp GV đã ổn định và vững tay nghề (thâm niên giảng dạy từ 10 năm đến
20 năm).
- Lớp GV đã quen với công việc (thâm niên giảng dạy 5-9 năm)
- Lớp GV mới (thâm niên giảng dạy dưới 5 năm)
Đội ngũ phải được bồi dưỡng thường xuyên. Đạt hiệu quả trong việc thực
hiện các nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học. Đoàn kết thống nhất để tạo nên
sức mạnh của tập thể đội ngũ.
Bên cạnh vấn đề thâm niên, kinh nghiệm làm việc, đội ngũ giảng viên ở
trường đại học phải đảm bảo về trình độ, học hàm, học vị. Một đội ngũ giảng viên
chuẩn cần có các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng như các
giáo sư, phó giáo sư; cần có các chuyên gia trình độ cao với học vị tiến sĩ hoặc
giảng viên chính; các giảng viên còn lại rất cần trình độ thạc sĩ.
Đội ngũ giảng viên còn phải tính đến tiêu chí về tỉ lệ số sinh viên/giảng viên,
về số giờ giảng và giờ nghiên cứu khoa học trong một năm học. Đội ngũ lý tưởng là
những giảng viên giảng dạy và nghiên cứu ít nhất phải đủ giờ lao động, còn những
giảng viên giảng dạy nhiều thì số giờ lao động thừa không hơn gấp đôi định mức.
Nếu một đội ngũ giảng viên đảm bảo được các tiêu chuẩn nói trên thì sẽ là
một đội ngũ vững mạnh hoàn thiện. Chất lượng đào tạo của trường đại học đó sẽ có
cơ hội để phát triển và đào tạo được nguồn nhân lực cao cho xã hội.
1.2. Nội dung phát triển đội ngũ giảng viên trong
trường đại học
Phát triển ĐNGV trong trường đại học có thể hiểu là một quá trình tăng tiến
về mọi mặt của ĐNGV trong một thời kỳ nhất định trong nhà trường. Trong đó bao
gồm cả sự tăng thêm về quy mô, số lượng và chất lượng GV. Đó là sự tiến bộ về
nhận thức, học vấn, khả năng chuyên môn đạt đến chuẩn và trên chuẩn của yêu cầu,
tiêu chí dành cho GV nói chung.
Phát triển ĐNGV trong trường đại học trước hết phải tạo ra một đội ngũ (một tổ
chức) các nhà giáo, từ đó phát triển đội ngũ cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu tổ chức.
Phát triển ĐNGV là làm cho số lượng và chất lượng ĐNGV vận động theo hướng đi
lên trong mối hỗ trợ, bổ sung cho nhau tạo nên một hệ thống ĐNGV bền vững.
22
Phát triển ĐNGV theo yêu cầu thực hiện nhiệm vụ giảng dạy cần phải chú
trọng trên cả 3 phương diện: phát triển về số lượng, đảm bảo hợp lý về cơ cấu và
nâng cao về chất lượng.
1.2.1. Phát triển về số lượng
Số lượng ĐNGV là biểu thị về mặt định lượng của đội ngũ này, nó phản ánh
quy mô của ĐNGV tương xứng với quy mô của mỗi nhà trường. Số lượng ĐNGV
phụ thuộc vào sự phân chia tổ chức trong nhà trường.
Số lượng ĐNGV của mỗi trường phụ thuộc vào quy mô phát triển của nhà
trường, nhu cầu đào tạo và các yếu tố tác động khách quan khác, chẳng hạn như: chỉ
tiêu biên chế công chức của nhà trường, các chế độ chính sách đối với ĐNGV. Tuy
nhiên dù trong điều kiện nào, muốn đảm bảo hoạt động giảng dạy thì người quản lý
cũng đều cần quan tâm đến việc giữ vững sự cân bằng động về số lượng ĐNGV với
nhu cầu đào tạo và quy mô phát triển của nhà trường, đảm bảo mỗi GV giảng dạy với
số giờ không quá cao và cũng không quá thấp mà ở mức theo quy định của Nhà nước.
1.2.2. Về cơ cấu đội ngũ giảng viên
Theo Từ điển Tiếng Việt phổ thông: “Cơ cấu là cách tổ chức các thành
phần nhằm thực hiện các chức năng của chỉnh thể” [42, tr.194].
Như vậy, có thể hiểu cơ cấu ĐNGV là một thể thống nhất hoàn chỉnh, bao gồm:
Về chuyên môn, nghiệp vụ: Đảm bảo tỷ lệ GV các bộ môn tương thích và
phù hợp với yêu cầu của chương trình giáo dục đại học.
Về lứa tuổi: Đảm bảo sự cân đối giữa các thế hệ trong nhà trường, tránh tình
trạng “lão hoá” trong ĐNGV, tránh sự hụt hẫng về ĐNGV trẻ kế cận, cần có thời
gian nhất định để thực hiện chuyển giao giữa các thế hệ GV trong nhà trường.
Về giới tính: Đảm bảo tỷ lệ thích hợp giữa GV nam và GV nữ trong từng
khoa, bộ môn trong nhà trường.
Cơ cấu ĐNGV phải đảm bảo hợp lý. Công tác phát triển và quản lý ĐNGV
tương ứng với việc bố trí nhân sự. Dựa vào đặc điểm cụ thể của từng ngành nghề
đào tạo cũng như trình độ, năng lực của ĐNGV mà Hiệu trưởng tiến hành xác định
việc phân bổ nguồn nhân lực một cách hợp lý, khoa học và có hiệu quả nhất.
1.2.3. Phát triển về chất lượng
Chất lượng ĐNGV thể hiện trên các mặt như về phẩm chất chính trị, về trình
độ, về năng lực của ĐNGV
23
* Về phẩm chất chính trị
Phẩm chất của các GV tạo nên phẩm chất của ĐNGV, phẩm chất ĐNGV tạo
nên linh hồn và sức mạnh của đội ngũ này. Phẩm chất ĐNGV trước hết được biểu
hiện ở phẩm chất chính trị, phẩm chất chính trị là yếu tố rất quan trọng giúp cho
người GV có bản lĩnh vững vàng trước những biến động của xã hội. Trên cơ sở đó
thực hiện hoạt động giáo dục toàn diện, định hướng xây dựng nhân cách cho học
sinh - sinh viên có hiệu quả., Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài nói chuyện tại lớp học
chính trị của giáo viên năm 1959 đã chỉ rõ: “Chính trị là linh hồn, chuyên môn là
cái xác, có chuyên môn mà không có chính trị thì chỉ là cái xác không hồn. Phải có
chính trị rồi mới có chuyên môn... Nói tóm lại, chính trị là đức, chuyên môn là tài,
có tài mà không có đức là hỏng” [26].
Bên cạnh việc nỗ lực phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng sư
phạm, người GV cần có bản lĩnh chính trị vững vàng. Bản lĩnh chính trị vững vàng
sẽ giúp người GV có niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước và có khả năng
xử lý được những tình huống chính trị nảy sinh trong hoạt động đào tạo. ĐNGV là
một trong những người trực tiếp xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển, thực
hiện mục tiêu và nhiệm vụ chính trị của ngành. Không thể cụ thể hoá chủ nghĩa
Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối giáo dục của Đảng và đưa nghị
quyết vào cuộc sống nếu ĐNGV không có một trình độ chính trị nhất định trong
tình hình chính trị luôn phát triển sôi động và diễn biến phức tạp như hiện nay.
Phẩm chất đạo đức mẫu mực cũng là một trong những tiêu chuẩn hàng đầu
của nhà giáo nói chung và ĐNGV nói riêng. Cùng với năng lực chuyên môn, phẩm
chất đạo đức được coi là yếu tố tất yếu nền tảng của nhà giáo. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng nói: Người cách mạng có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi
đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Trong sự nghiệp “trồng người” phẩm
chất đạo đức luôn có vị trí nền tảng. Nhà giáo nói chung và ĐNGV nói riêng phải
có phẩm chất đạo đức trong sáng, phải “chí công, vô tư, cần, kiệm, liêm, chính” để
trở thành tấm gương cho thế hệ trẻ noi theo, để giáo dục đạo đức và xây dựng nhân
cách cho thế hệ trẻ.
* Về trình độ
Trình độ của ĐNGV là yếu tố phản ánh khả năng trí tuệ của đội ngũ này, là
điều kiện cần thiết để cho họ thực hiện hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa
24
học. Trình độ của ĐNGV trước hết được thể hiện ở trình độ được đào tạo về chuyên
môn, nghiệp vụ. Theo luật Giáo dục Đại học thì chuẩn của chức danh giảng viên
dạy đại học có trình độ là thạc sĩ trở lên.
Trình độ của ĐNGV còn được thể hiện ở khả năng tiếp cận và cập nhật của
đội ngũ này với những thành tựu mới của thế giới, những tri thức khoa học hiện đại,
những đổi mới trong giáo dục và đào tạo để vận dụng trực tiếp vào hoạt động giảng
dạy và nghiên cứu khoa học của mình. Mặt khác, trong xu thế phát triển của xã hội
hiện đại, ngoại ngữ và tin học cũng là những công cụ rất quan trọng giúp người GV
tiếp cận với tri thức khoa học tiên tiến của thế giới, tăng cường hợp tác và giao lưu
quốc tế để nâng cao trình độ, năng lực giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Hiện nay,
trình độ về ngoại ngữ tin học của ĐNGV đã và đang được nâng cao, tuy nhiên vẫn
còn nhiều hạn chế và bất cập.
* Về năng lực
Theo Từ điển Tiếng Việt phổ thông giải nghĩa: “Năng lực là khả năng, điều
kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó, hoặc là
phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt
động nào đó với chất lượng cao” [42, tr. 596].
Đối với ĐNGV, năng lực được hiểu là trên cơ sở hệ thống những tri thức mà
người GV được trang bị, họ phải hình thành và nắm vững hệ thống các kỹ năng để
tiến hành hoạt động sư phạm có hiệu quả. Kỹ năng của người GV được hiểu là khả
năng vận dụng những kiến thức thu được vào hoạt động sư phạm và biến nó thành
kỹ xảo, kỹ xảo là kỹ năng đạt tới mức thuần thục.
Giảng dạy và nghiên cứu khoa học là hai hoạt động cơ bản, đặc trưng của
người GV. Vì vậy, nói đến năng lực của ĐNGV, cần phải xem xét trên hai góc độ
chủ yếu là năng lực giảng dạy và năng lực nghiên cứu khoa học.
Năng lực giảng dạy của người GV là khả năng đáp ứng yêu cầu học tập,
nâng cao trình độ học vấn của đối tượng; là khả năng đáp ứng sự tăng quy mô đào
tạo; là khả năng truyền thụ tri thức mới cho sinh viên. Điều đó phụ thuộc rất lớn ở
trình độ, kỹ năng của người GV; điều kiện và thiết bị dạy học và chủ yếu là được
thể hiện ở chất lượng sản phẩm do họ tạo ra, đó chính là chất lượng và hiệu quả đào
tạo. Năng lực giảng dạy của người GV được thể hiện ở chỗ họ là người khuyến
khích, hướng dẫn, gợi mở các vấn đề để học sinh - sinh viên phát huy tư duy độc
25
lập và khả năng sáng tạo của mình trong học tập và tìm kiếm chân lý khoa học. Thị
trường sức lao động phát triển rất năng động đòi hỏi người GV bằng trình độ, năng
lực, kinh nghiệm và nghệ thuật sư phạm tạo điều kiện cho học sinh - sinh viên phát
triển nhân cách, định hướng cho họ những con đường để tiếp cận chân lý khoa học,
giúp sinh viên phát huy tích cực, chủ động, sáng tạo, bồi dưỡng năng lực học tập và
năng lực thích nghi cho sinh viên.
Công tác nghiên cứu khoa học trong nhà trường không chỉ tạo điều kiện để
nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực giảng dạy, chất lượng bài giảng và rèn
luyện năng lực xử lý tình huống cho người GV trước những vấn đề bức xúc của
thực tiễn mà còn làm tăng tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia. Việc nghiên
cứu khoa học của đội ngũ GV nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Nghiên cứu khoa học trong các trường Đại học, Cao
đẳng chủ yếu là nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu triển khai. Vì vậy, người GV phải
có trình độ cao và năng lực tốt mới có thể giải quyết được các vấn đề đặt ra. Việc
đánh giá chất lượng và năng lực nghiên cứu khoa học của GV không chỉ căn cứ vào
số lượng các công trình khoa học mà chủ yếu căn cứ vào giá trị và hiệu quả của các
công trình đó.
1.2.4. Công tác phát triển đội ngũ giảng viên trong trường đại học
Công tác phát triển ĐNGV trong trường đại học bao gồm các hoạt động: Quy
hoạch phát triển ĐNGV; tuyển dụng bổ sung ĐNGV; điều chuyển, bố trí GV; cử
GV đi học tập nâng cao trình độ; chỉ đạo các khoa và tổ bộ môn trực thuộc tổ chức
bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho ĐNGV, thường xuyên kiểm tra đánh giá hoạt
động chuyên môn và giúp đỡ GV hoàn thành tốt nhiệm vụ; xây dựng chế độ khen
thưởng và kỷ luật phù hợp với thành tích và vi phạm của GV.
1.2.4.1. Quy hoạch phát triển đội ngũ giảng viên
Quy hoạch phát triển ĐNGV là một tiến trình đề ra và thực hiện các công
việc về nguồn nhân lực nhằm đảm bảo đủ số lượng, chất lượng, hợp lý về cơ cấu
ĐNGV đáp ứng nhu cầu đào tạo của trường và đảm bảo việc bố trí, sử dụng ĐNGV
một cách có hiệu quả.
Xây dựng quy hoạch phát triển ĐNGV của trường đại học để duy trì ổn định
ĐNGV, đảm bảo tỷ lệ giờ giảng của GV theo định mức đề ra, đảm bảo các điều
kiện, phương tiện cần thiết cho GV có thể hoàn thành được nhiệm vụ giảng dạy và
26
tạo điều kiện cho họ có thời gian tiến hành nghiên cứu khoa học, thực hiện nhiệm
vụ tự học, tự nghiên cứu, tự nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm.
Sử dụng và phát huy hết khả năng của ĐNGV một cách hợp lý và có hiệu quả.
Trong công tác phát triển ĐNGV trước hết phải tiến hành quy hoạch, kế hoạch
hóa phát triển ĐNGV. Kế hoạch hóa ĐNGV là bản luận chứng khoa học về phát triển
đội ngũ đó để góp phần thực hiện các định hướng của ngành, của địa phương và của
chính trường đại học đó về công tác nhân sự, phục vụ việc xây dựng kế hoạch đào tạo
và bồi dưỡng cán bộ, đồng thời làm nhiệm vụ điều khiển, điều chỉnh trong công tác
quản lý, chỉ đạo của các cấp quản lý. Quá trình lập kế hoạch hóa ĐNGV cần lưu ý:
Phải đáp ứng yêu cầu trước mắt, phải chuẩn bị tốt một ĐNGV kế cận để có một đội
ngũ đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, đồng bộ hợp lý về cơ cấu. Đặc biệt là kế
hoạch hóa phát triển ĐNGV có trình độ trên chuẩn, bởi đây là ĐNGV được đào tạo
theo chuyên sâu thuộc từng lĩnh vực chuyên môn học. Vì vậy, việc kế hoạch hóa phát
triển ĐNGV trên chuẩn phải đảm bảo được yêu cầu về các lĩnh vực chuyên môn cơ
bản, khuyến khích những giáo viên thật sự tâm huyết, trách nhiệm với nghề, cống
hiến tài năng cho sự nghiệp giáo dục. Trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng ĐNGV theo chuẩn nghề nghiệp của giáo viên.
1.2.4.2. Tuyển dụng bổ sung đội ngũ giảng viên
Công tác tuyển dụng bổ sung đội ngũ giảng viên chỉ được tiến hành khi chỉ
tiêu biên chế ĐNGV của nhà trường còn thiếu, việc tuyển dụng phải đảm bảo đầy
đủ các mặt đó là: đủ về số lượng đội ngũ giảng viên, cân đối về cơ cấu đội ngũ
giảng viên và phải đảm bảo về chất lượng đội ngũ giảng viên.
Trên cơ sở khảo sát thực trạng ĐNGV của trường, xác định những vị trí,
những khoa, bộ môn còn thiếu hoặc ĐNGV còn yếu về trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, trình độ sư phạm....để xây dựng phương hướng, kế hoạch tuyển dụng bổ sung
ĐNGV vào các vị trí đó cho phù hợp.
Việc tuyển dụng phải khách quan, công bằng và khoa học đúng các vị trí việc
làm cần tuyển người; đa dạng hóa chế độ tuyển dụng GV trong trường đại học theo
hướng mở trên cơ sở hợp đồng làm việc, hợp đồng vụ việc, cần kết hợp việc tạo nguồn
GV trong trường đại học và việc thu hút GV có trình độ cao trong trường đại học.
Theo quy định, khi các trường đại học có nhu cầu tuyển dụng nhân sự phải
công bố công khai thông tin tuyển dụng trên các phương tiện thông tin đại chúng.
27
Việc công khai thông tin này sẽ giúp các ứng viên trên toàn quốc nắm bắt được
thông tin kịp thời, chính xác. Đồng thời cũng tạo cơ hội cho các trường có nguồn
tuyển dụng dồi dào.
Bên cạnh việc tích cực tuyển dụng các sinh viên tốt nghiệp loại khá, giỏi,
đúng chuyên ngành các khoa, bộ môn đang cần, có khả năng làm công tác giảng
dạy, bổ sung vào biên chế còn thiếu của trường; nhà trường cần tranh thủ sự đồng
tình của các cơ quan hữu quan để đề nghị cấp có thẩm quyền điều chuyển một số
cán bộ có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, có khả năng làm công tác giảng dạy về
trường để tăng cường cho ĐNVG.
1.2.4.3. Điều chuyển, bố trí giảng viên
Điều chuyển, bố trí giảng viên vào các vị trí phù hợp là nhằm thực hiện mục
đích, mục tiêu giáo dục - đào tạo. ĐNGV là một bộ phận của đội ngũ công chức,
viên chức làm việc trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo của đất nước. Việc sử dụng
cán bộ công chức nói chung và sử dụng ĐNGV nói riêng bao gồm nhiều công việc
khác nhau như: điều chuyển, bố trí, phân công công tác, chuyển ngạch, nâng ngạch,
điều động, bổ nhiệm, miễn nhiệm, luân chuyển, biệt phái...
Công tác điều chuyển, bố trí giảng viên vào các vị trí phù hợp có ý nghĩa hết
sức quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng ĐNGV, nâng cao chất lượng đào
tạo cũng như các hoạt động khác của trường đại học. Việc bố trí, sử dụng ĐNGV
đúng người, đúng việc, đúng chuyên môn sẽ phát huy hết sở trường, năng lực của
ĐNGV, giúp họ yên tâm công tác, nhiệt tình với công việc, đảm bảo hoạt động
chung của trường có chất lượng và hiệu quả, đồng thời đảm bảo sự đoàn kết thống
nhất trong nội bộ trường đại học đó. Nắm được ý nghĩa này, mỗi trường đại học
phải căn cứ vào đặc điểm cụ thể của từng chuyên ngành đào tạo, từng khoa, từng bộ
môn cũng như trình độ, năng lực của mỗi giảng viên để sắp xếp, phân bổ vào các
khoa một cách hợp lý, khoa học và có hiệu quả nhất thì mới phát huy được khả
năng của ĐNGV.
Công tác điều động, bổ nhiệm, miễn nhiệm, luân chuyển, biệt phái: Trong
quá trình sử dụng công chức, viên chức nói chung cũng như ĐNGV nói riêng trong
trường đại học, nhà trường có thể điều động, luân chuyển, biệt phái nhưng phải xuất
phát từ yêu cầu, nhiệm vụ thực tế và phải phù hợp với trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, năng lực của giảng viên; phải đảm bảo đầy đủ mọi chế độ ưu đãi, chính sách