Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiểu luận triết học tư tưởng pháp trị của hàn phi tử và vấn đề kết hợp giữa pháp trị và đức trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.34 KB, 22 trang )

Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa pháp trị và đức trị trong công cuộc đổi
mới đất nước hiện nay
GVHD:

MỤC LỤC
MỤC LỤC....................................................................................................................1
CHƯƠng I: PHÁP GIA VÀ TƯ TƯỞNG HÀN PHI TỬ...........................................3
1.Triết học Trung Quốc thời Xuân Thu – Chiến Quốc:..............................................3
1.1.Bối cảnh lịch sử Trung Hoa thời Xuân Thu – Chiến Quốc:..................................3
1.2.Tổng quan về triết học thời Xuân Thu – Chiến Quốc:..........................................3
2.Lịch sử phát triển của phái “Pháp gia” :...................................................................4
3.Hàn Phi Tử và “học thuyết Đế Vương” :..................................................................7
3.1.Vài nét về Hàn Phi Tử:...........................................................................................7
3.2.Tư tưởng “Pháp trị” của Hàn Phi Tử :...................................................................8
3.3.Học thuyết “Đế Vương” của Hàn Phi:.................................................................10
CHƯƠNG II. ÁP DỤNG TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ VÀO
THỰC TIỄN QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC HIỆN NAY..................................................12
1.Pháp trị trên cơ sở trọng dân:..................................................................................12
2.Con người trong học thuyết Hàn Phi Tử:................................................................12
2.1.Sự cần thiết phải tìm hiểu con người:..................................................................12
2.2.Bản tính ích kỷ - vụ lợi của con người:...............................................................13
2.3.Không biết đủ:......................................................................................................18
3.Áp dụng học thuyết Hàn Phi Tử trong công cuộc đổi mới đất nước:....................20
KẾt LuẬn....................................................................................................................22

Học viên: 1


Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa pháp trị và đức trị trong công cuộc đổi
mới đất nước hiện nay
GVHD:



LỜI MỞ ĐẦU
Triết học là một hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những
nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức về

thái độ của con

người đối với thế giới, là khoa học về những quy luật chung nhất của
tự nhiên, xã hội và tư duy. Ở triết học, thông qua việc giải đáp các câu hỏi
đặt ra, nó giúp con người nâng cao sự hiểu biết về các sự vật. Đây là một kho
tàng kiến thức khổng lồ và bao trùm lên hầu hết mọi lĩnh vực. Một
trong những vấn đề nổi bật là phép trị quốc, trị quốc thế nào để dân
giàu nước mạnh, mọi người có cuộc sống ấm no, xã hội công bằng, văn
minh. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, thế giới phát triển như vũ
bão về nhiều mặt qua đó làm vấn đề năng lượng ngày càng trở nên cấp
thiết và trầm trọng, sự cạnh tranh khốc liệt về năng lượng được thể
hiện hầu hết qua những cuộc đối đầu về kinh tế, chính trị, quận sự,…
của mỗi quốc gia và giữa các quốc gia, kéo theo đó là sự thay đổi về
nhân cách sống, về giá trị đạo đức của mỗi con người,….Vậy phải làm
thế nào để có thể trị quốc một cách đúng đắn, vừa giúp nội lực đất
nước phát triển vừa nâng cao vị thế quốc gia trên trường đối ngoại.
Chính vì vậy ta sẽ tìm hiểu về “ Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử và
vấn đề kết hợp giữa pháp trị và đức trị trong công cuộc đổi mới đất
nước hiện nay”.
Dù rất tâm huyết với đề tài nhưng do đây là vấn đề khá rộng, nên
sẽ còn khá nhiều khiếm khuyết trong quá trình nghiên cứu. Chỉ mong
góp một phần nào đó để làm rõ vấn đề trên theo cách nhìn nhận chủ
quan của người viết.
Xin chân thành cảm ơn.


Học viên: 2


Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa pháp trị và đức trị trong công cuộc đổi
mới đất nước hiện nay
GVHD:

CHƯƠNG I: PHÁP GIA VÀ TƯ TƯỞNG HÀN PHI TỬ
1. Triết học Trung Quốc thời Xuân Thu – Chiến Quốc:
1.1. Bối cảnh lịch sử Trung Hoa thời Xuân Thu – Chiến Quốc:
-

Lịch sử Trung Hoa cổ đại có hai thời kỳ được nói đến nhiều nhất: Xuân thu và

Chiến quốc.
• Thời Xuân thu (770-403 TCN) là thời kỳ suy tàn của nhà Chu, đây chính là
thời kỳ sinh sống của Lão Tử, Khổng Tử (551-479 TCN).
• Thời Chiến quốc (403-221 TCN) từ gần cuối đời Uy Liệt Vương, tới khi
nhà Tần diệt nhà Tề thống nhất đất nước, đó là thời kỳ sinh sống của Hàn Phi
Tử (280-233 TCN).
-

So với thời Xuân Thu thì Chiến Quốc loạn lạc và bất ổn định hơn về chính trị,

nhưng lại phát triển hơn về kinh tế. Trong thời Xuân Thu, công cụ sản xuất và khí
giới chủ yếu là bằng đồng. Sắt bắt đầu được dùng cuối thời kỳ này và trở nên thông
dụng vào thời Chiến Quốc, do đó, thúc đẩy việc mở rộng đất đai nông nghiệp, tăng
năng suất lao động. Đây là thời kỳ đạo đức suy đồi, người ta chỉ tìm mọi cách để
tranh lợi. Quan lại tham nhũng, ăn chơi xa hoa truỵ lạc, chiến tranh kéo dài liên
miên khiến cho đời sống của nhân dân càng thêm đói khổ cùng cực. Trước tình

cảnh xã hội như vậy, tầng lớp quý tộc và tầng lớp trí thức có sự chia rẽ về tư tưởng.
1.2. Tổng quan về triết học thời Xuân Thu – Chiến Quốc:
Thời Xuân Thu - Chiến Quốc chính là thời kỳ triết học Trung Quốc phát triển
rực rỡ về tư tưởng “bách gia chư tử”, “bách gia tranh minh” với hàng trăm trường
phái, được chia ra làm 3 dòng tư tưởng chính cùng tồn tại, đó là:
- Phái Nho gia và Mặc Tử. Khổng Tử muốn khôi phục nhà Chu, còn Mặc
Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử lại mong có vị minh quân thay Chu thống nhất Trung
Hoa bằng chính sách “Đức trị” có sửa đổi ít nhiều.
- Phái Đạo gia muốn giảm thiểu, thậm chí giải tán chính quyền, sống tự
nhiên như thuở sơ khai, từ bỏ xã hội phong kiến để trở về xã hội nguyên thủy
chất phác, mơ ước cô lập cá nhân với xã hội để hòa tan con người vào đạo.

Học viên: 3


Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa pháp trị và đức trị trong công cuộc đổi
mới đất nước hiện nay
GVHD:

- Phái Pháp gia muốn dùng vũ lực lật đổ chế độ phong kiến phân tán và lập
ra chế độ phong kiến quân chủ chuyên chế, thay “Vương đạo” của KhổngMạnh bằng chính sách “Bá đạo”. Mà trong đó Hàn Phi Tử là đại biểu xuất sắc
nhất, là người tập đại thành tư tưởng Pháp gia, ông có một vai trò đặc biệt
trong sự nghiệp thống nhất đất nước và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu Chiến Quốc. Nội dung cơ bản của tư tưởng Pháp gia là đề cao vai trò của Pháp
luật và chủ trương dùng pháp luật hà khắc để trị nước. Tư tưởng Pháp gia mặc
dù chỉ nổi lên trong một thời gian ngắn nhưng vẫn có giá trị lịch sử lâu dài và
có ý nghĩa đến tận ngày nay.

Khổng Tử (Nho gia)

Trang Tử (Đạo gia)


Hàn Phi Tử (Pháp gia)

2. Lịch sử phát triển của phái “Pháp gia” :
Học thuyết pháp trị của Phái pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ
bởi các tác giả xuất sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng
và được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử. Để hiểu một cách tương đối có hệ thống về
đường lối trị nước của phái Pháp gia ta cần phải tìm hiểu tư tưởng cơ bản của các
nhà pháp trị đã nêu trên cũng như những những luận chứng khá thuyết phục về sự
cần thiết của đường lối Pháp trị:
-

Quản Trọng (thế kỷ VI TCN) là người nước Tề, vốn xuất thân từ giới bình dân

nhưng rất có tài chính trị, được coi là người đầu tiên bàn về vai trò của pháp luật
như là phương cách trị nước. Tư tưởng về pháp trị của Quản Trọng được ghi trong
bộ Quản Tử, bao gồm 4 điểm chủ yếu sau:

Học viên: 4


Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa pháp trị và đức trị trong công cuộc đổi
mới đất nước hiện nay
GVHD:



Một là, mục đích trị quốc là làm cho phú quốc binh cường "Kho lẫm đầy rồi

mới biết lễ tiết, y thực đủ mới biết vinh nhục"



Hai là, muốn có phú quốc binh cường một mặt phải phát triển nông, công

thương nghiệp, mặt khác phải đặt ra và thực hiện lệ chuộc tội: "Tội nặng thì
chuộc bằng một cái tê giáp (áo giáp bằng da con tê); tội nhẹ thì chuộc bằng một
cái qui thuẫn (cái thuẫn bằng mai rùa); tội nhỏ thì nộp kinh phí; tội còn nghi thì
tha hẳn; còn hai bên thưa kiện nhau mà bên nào cũng có lỗi một phần thì bắt
nộp mỗi bên một bó tên rồi xử hòa".


Ba là, chủ trương phép trị nước phải đề cao "Luật, hình, lệnh, chính". Luật

là để định danh phận cho mỗi người, Lệnh là để cho dân biết việc mà làm, Hình
là để trừng trị những kẻ làm trái luật và lệnh, Chính là để sửa cho dân theo
đường ngay lẽ phải.


Bốn là, trong khi đề cao luật pháp, cần chú trọng đến đạo đức, lễ, nghĩa,

liêm... trong phép trị nước. Như vậy có thể thấy rằng Quản Trọng chính là thủy
tổ của Pháp gia, đồng thời ông cũng là cầu nối Nho gia với Pháp gia.
-

Sau Quản Trọng phải kể đến Thân Bất Hại (401-337 TCN), là người nước Trịnh

chuyên học về hình danh, làm quan đến bậc tướng quốc. Thân Bất Hại đưa ra chủ
trương ly khai "Đạo đức" chống "Lễ" và đề cao "Thuật" trong phép trị nước.
-


Một đại biểu nữa của phái Pháp gia thời kỳ này là Thận Đáo (370-290 TCN),

ông là người nước Triệu và chịu ảnh hưởng một số tư tưởng triết học về đạo của
Lão Tử, nhưng về chính trị ông lại đề xướng đường lối trị nước bằng pháp luật.
Thận Đáo cho rằng Pháp luật phải khách quan như vật "vô vi" và điều đó loại trừ
thiên kiến chủ quan, riêng tư của người cầm quyền. Phải nói rằng đây là một tư
tưởng khá tiến bộ mà sau này Hàn Phi đã tiếp thu và hoàn thiện. Trong phép trị
nước, đặc biệt Thận Đáo đề cao vai trò của "Thế". Ông cho rằng: "Người hiền mà
chịu khuất kẻ bất tiếu là vì quyền thế nhẹ, địa vị thấp: kẻ bất tiếu mà phục được
người hiền vì quyền trọng vị cao. Nghiêu hồi còn làm dân thường thì không trị được
ba người mà Kiệt khi làm thiên tử có thể làm loạn cả thiên hạ, do đó biết rằng quyền

Học viên: 5


Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa pháp trị và đức trị trong công cuộc đổi
mới đất nước hiện nay
GVHD:

thế và địa vị đủ để nhờ cậy được mà bậc hiền, trí không đủ cho ta hâm mộ. Cây ná
yếu mà bắn được mũi tên lên cao là nhờ sức gió đưa đi, kẻ bất tiếu mà lệnh ban ra
được thi hành là nhờ sức giúp đỡ của quần chúng, do đó mà xét thì hiền và trí không
đủ cho đám đông phục tùng, mà quyền thế và địa vị đủ khuất phục được người
hiền".
-

Cùng thời với Thận Đáo, có một người cũng nêu cao tư tưởng Pháp trị, đó là

Thương Ưởng. Ông đã hai lần giúp vua Tần cải cách pháp luật hành chính và kinh
tế làm cho nước Tần trở nên hùng mạnh. Trong phép trị nước Thương Ưởng đề cao

"pháp" theo nguyên tắc "Dĩ hình khử hình" (dùng hình phạt để trừ bỏ hình phạm).
Theo ông pháp luật phải nghiêm và ban bố cho dân ai cũng biết, kẻ trên người dưới
đều phải thi hành, ai có tội thì phạt và phạt cho thật nặng. Trong chính sách thực
tiễn, ông chủ trương: Tổ chức liên gia và cáo gian lẫn nhau, khuyến khích khai
hoang, cày cấy, nuôi tằm, dệt lụa, thưởng người có công, phạt người phạm tội. Quý
tộc mà không có công thì sẽ hạ xuống làm người thường dân. Ông cũng là người đã
thực hiện cải cách luật pháp, thi hành một thứ thuế thống nhất, dụng cụ đo lường
thống nhất... nhờ đó chỉ sau một thời gian ngắn, nước Tần đã mạnh hẳn lên và lần
lượt thôn tính được nhiều nước khác.
-

Cuối cùng phải kể đến Hàn Phi, người có công tổng kết và hoàn thiện tư tưởng

trị nước của pháp gia. Trước hết Hàn Phi đề cao vai trò của pháp trị. Theo ông, thời
thế hoàn cảnh đã thay đổi thì phép trị nước không thể viện dẫn theo "Đức trị" của
Nho gia, "Kiêm ái" của Mặc gia, "Vô vi nhi trị" của Đạo gia như trước nữa mà cần
phải dùng Pháp trị. Hàn Phi đưa ra quan điểm tiến hóa về lịch sử, ông cho rằng lịch
sử xã hội luôn trong quá trình tiến hoá và trong mỗi thời kỳ lịch sử thì mỗi xã hội có
những đặc điểm dấu ấn riêng. Do vậy, không có một phương pháp cai trị vĩnh viễn,
cũng như không có một thứ pháp luật luôn luôn đúng trong hệ thống chính trị tồn tại
hàng ngàn năm. Từ đó, ông đã phát triển và hoàn thiện tư tưởng pháp gia thành một
đường lối trị nước khá hoàn chỉnh và thích ứng với thời đại lúc bấy giờ.

Học viên: 6


Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa pháp trị và đức trị trong công cuộc đổi
mới đất nước hiện nay
GVHD:


3. Hàn Phi Tử và “học thuyết Đế Vương” :
3.1. Vài nét về Hàn Phi Tử:
Hàn Phi Tử là nhà triết học, người tập hập các học thuyết luật học và là nhà
Tản văn nổi tiếng trong thời chiến quốc Trung Quốc (475-221 TCN). Ông đã sáng
lập ra học thuyết luật học, trở thành cơ sở lý luận cho sự ra đời của nhà nước chế độ
tập quyền trung ương chuyên chế thống nhất đầu tiên ở Trung Quốc.
Hàn Phi (280-233 TCN) sống trong giai đoạn Tần Thủy Hoàng đang thống
nhất Trung Hoa. Ông thuộc dòng dõi quý tộc nước Hàn, Hàn Phi là con vua nhưng
không phải người thừa kế ngai vàng. Điều đó giúp ông thấu hiểu các quan hệ giữa
vua tôi và cách trị nước.
Hàn Phi và Lý Tư đều học với Tuân Khanh (Tuân Tử). Lý Tư tự cho mình
kém Hàn Phi, nhưng Hàn Phi và Lý Tư đều đóng vai trò trong việc giúp Tần Thủy
Hoàng thống nhất Trung Quốc. Cả hai đều theo pháp gia, chịu ảnh hưởng của Mặc
Tử (Mặc Tử trước kia đã chủ trương "thượng đồng", nghĩa là bắt dân phải tán
đồng lẽ phải với người trên, phải cùng một quan niệm tốt xấu với người trên.
Không ai được có chủ trương riêng khác với chính sách của triều đình).
Khi Tần Thủy Hoàng sắp cất quân đánh Hàn, Hàn Phi được cử làm sứ giả
sang nước Tần với nhiệm vụ cứu nước Hàn khỏi họa diệt vong. Nhưng ông sang
Tần không phải để sống, mà là để chết.
Lý Tư bạn học của Hàn Phi, lúc này là quân sư của Tần Thủy Hoàng, đã dùng
mưu hãm hại Hàn Phi. Hàn Phi bị giam vào ngục, sau đó được vua Tần ra lệnh trả
tự do vì phục tài ông, nhưng Lý Tư quyết tâm hại bạn đến cùng, bắt ông uống thuốc
độc chết trong ngục để trừ khử “con người giỏi nhất về chính trị thời đại” lúc đó.
Hàn Phi đón nhận cái chết thế nào cũng đến với kẻ sĩ biết đề cao pháp luật và thuật
trị nước. Ông gửi tất cả tâm hồn và tinh lực vào tác phẩm “Hàn Phi Tử” mà ông tin
là sẽ sống mãi với đời. Khi đọc tác phẩm này, Tần Thủy Hoàng thốt lên thán phục:
“Ta được làm bạn với con người này thì có chết cũng không uổng!”.
Hàn Phi có tật nói ngọng, không biện luận khá nhưng giỏi về mặt viết sách.
Các bài viết của Hàn Phi Tử phân tích rất sắc bén. Chẳng hạn như khi phân tích về


Học viên: 7


Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa pháp trị và đức trị trong công cuộc đổi
mới đất nước hiện nay
GVHD:

những điều mà nhà nước có thể diệt vong ông đã nêu ra tới 47 điều, quả là điều
hiếm có. Còn hai chương có tiêu đề “Nan ngôn” “Thuyết nan”, ông đã phân tích
một cách cặn kẽ tâm lý con người cũng như né trách những điều gây phật ý. Hàn
Phi Tử còn vận dụng rất nhiều câu chuyện ngụ ngôn và kiến thức lịch sử phong phú
để làm tư liệu luận chứng, nói lên đạo lý trừu tượng, thể hiện một cách hình tượng
tư tưởng luật học và những nhận biết sâu sắc của ông đối với xã hội. Trong các bài
viết của ông có rất nhiều mẩu chuyện ngụ ngôn, có nội hàm phong phú, sinh động
đã trở thành những điển tích truyền miệng của mọi người, đến nay vẫn được sử
dụng rộng rãi.
3.2. Tư tưởng “Pháp trị” của Hàn Phi Tử :
Với tác phẩm “Hàn Phi Tử”, Hàn Phi đã chính thức khai sinh học thuyết pháp
trị của phương Đông, đồng thời đưa ra lời giải cho bài toán lịch sử hóc búa. Hàn Phi
đã kết hợp các yếu tố “thuật”, “thế”, “pháp” của Thân Bất Hại, Thận Đáo, Thương
Ưởng, hoàn thiện tư tưởng pháp trị của các bậc tiền bối đã khai sinh ra nó là Quản
Trọng và Tử Sản để xây dựng thành học thuyết chính trị độc lập.
Nội dung cốt lõi của học thuyết pháp trị là đề cao pháp luật với tư cách là công
cụ quan trọng nhất, hữu hiệu nhất trong việc bình ổn xã hội. “Cái làm cho trị an là
pháp luật, cái gây ra loạn là sự riêng tư. Pháp luật đã thiết lập rồi thì không ai có
thể làm điều riêng tư được nữa”.
Hàn Phi khẳng định, việc trị nước, quản dân không thể dựa theo lễ nghi truyền
thống mà phải được thực hiện trên cơ sở những đạo luật cụ thể và chặt chẽ. Bởi lẽ,
“…pháp luật không hùa theo người sang… Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn
cũng không thể từ, kẻ dũng cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ

đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót kẻ thất phu…”.
Pháp trị là học thuyết duy nhất có sự kế thừa, hàm chứa những yếu tố của
những học thuyết khác nhiều nhất, nhờ đó tạo ra một phương thức giải quyết vững
chắc, toàn vẹn và thực tế nhất trong vấn đề trị quốc: Lễ nghĩa, danh phận của Nho
gia được cụ thể hóa trong pháp luật; Vô vi của Lão gia được chuyển hóa thành quan
hệ biện chứng vô vi - hữu vi; Kiêm ái của Mặc gia tuy là nội dung yếm thế nhất của

Học viên: 8


Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa pháp trị và đức trị trong công cuộc đổi
mới đất nước hiện nay
GVHD:

học thuyết pháp trị, nhưng Hàn Phi vẫn coi đây là mục đích cuối cùng của pháp
luật.
Nhờ học thuyết pháp trị, Tần Thủy Hoàng đã chấm dứt cục diện bách gia phân
tranh thời tiên Tần, thống nhất Trung Quốc và xây dựng chế độ quân chủ chuyên
chế trung ương tập quyền đầu tiên tại Trung Quốc.
Thực hành pháp trị tất phải xây dựng pháp luật. Hàn Phi cho rằng, lập pháp
cần phải xét đến các nguyên tắc sau:
-

Tính tư lợi: Hàn Phi quan niệm nền tảng của quan hệ giữa con người với

con người là tư lợi, ai cũng muốn giành cái lợi cho mình. “Ông thầy thuốc
khéo hút mủ ở vết thương người ta, ngậm máu người ta không phải vì có tình
thương cốt nhục, chẳng qua làm thế thì có lợi. Cho nên, người bán cỗ xe làm
xong cỗ xe thì muốn người ta giàu sang. Người thợ mộc đóng xong quan tài
thì muốn người ta chết non. Đó không phải vì người thợ đóng cỗ xe có lòng

nhân, còn người thợ đóng quan tài không phải ghét người ta, nhưng cái lợi của
anh ta là ở chỗ người ta chết”. Luật pháp đặt ra thì cái lợi của nó phải lớn hơn
cái hại.
-

Hợp với thời thế: Đây chính là thuyết biến pháp của Hàn Phi. Nguyên tắc

thực tế của việc xây dựng pháp luật, hay tính thực tiễn của luật pháp, là nét nổi
bật trong tư tưởng pháp trị của Hàn Phi. Đối với ông, không có một pháp luật
siêu hình hay một mô hình pháp luật trừu tượng tiên thiên để mà noi theo. Chỉ
duy nhất có yêu cầu và tiêu chuẩn của thực tiễn. “Pháp luật thay đổi theo thời
thì trị; việc cai trị thích hợp theo thời thì có công lao... Thời thế thay đổi mà
cách cai trị không thay đổi thì sinh loạn... Cho nên, bậc thánh nhân trị dân thì
pháp luật theo thời mà thay đổi và sự ngăn cấm theo khả năng mà thay đổi”.
-

Ổn định, thống nhất: Mặc dù pháp luật phải thay đổi cho hợp với thời thế,

song trong một thời kỳ, pháp lệnh đã đặt ra thì không được tùy tiện thay đổi,
khiến dân chúng không những không thể theo, mà còn tạo cơ hội cho bọn gian
thần.
-

Phù hợp với tình người, dễ biết dễ làm.

Học viên: 9


Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa pháp trị và đức trị trong công cuộc đổi
mới đất nước hiện nay

GVHD:

-

Đơn giản mà đầy đủ.

-

Thưởng hậu phạt nặng:

Đối với việc chấp pháp, nguyên tắc của Hàn Phi là:
-

Tăng cường giáo dục pháp chế, tức là “dĩ pháp vi giáo”.

-

Mọi người, ai ai cũng bình đẳng trước pháp luật, tức “pháp bất a quý”,

“hình bất tị đại thần, thưởng thiện bất di tứ phu”. Đến bản thân bậc quân chủ –
nhà vua – cũng phải tôn trọng và tuân thủ pháp luật: “Kẻ làm vua chúa là kẻ
phải giữ pháp luật, căn cứ vào kết quả mà xét để lập công lao”; Nếu nhà vua
biết bỏ điều riêng tư, làm theo phép công thì chẳng những dân sẽ được yên,
mà nước cũng được trị. Nếu xét theo ý nghĩa của những luận điểm này thì có
thể thấy rằng, mặc dù Hàn Phi chủ trương quân quyền thần thánh không thể
xâm phạm, song hình thái quân quyền này vẫn bị chế ước bởi pháp quyền.
-

Nghiêm khắc cẩn thận, “tín thưởng tất phạt”, không được tùy ý thưởng


cho người không có công, vô cớ sát hại người vô tội.
-

Dùng sức mạnh đạo đức hỗ trợ cho việc thi hành pháp luật.

3.3. Học thuyết “Đế Vương” của Hàn Phi:
Xuyên suốt 40 quyển của bộ Hàn Phi Tử, bên cạnh việc chứng minh hiệu lực
tối ưu của pháp luật trong việc trị nước bằng những câu chuyện sinh động, Hàn Phi
còn đưa ra rất nhiều lời khuyên có giá trị cho bậc quân vương.
-

Để giữ yên ngai vàng, Hàn Phi khuyên nhà vua phải biết giữ mình. “Nhà

vua chớ để lộ cho người ta biết mình muốn gì, vì nếu nhà vua để lộ cho người
ta biết mình muốn gì thì bọn bầy tôi thế nào cũng tô vẽ. Nhà vua chớ để lộ ý
của mình, vì nếu nhà vua để lộ ý của mình thì bọn bầy tôi thế nào cũng biểu lộ
cái khác với bản tính của họ”. Làm được như vậy thì: “Nhà vua không giỏi mà
làm thầy những người giỏi, không khôn ngoan mà làm chuẩn mực cho sự khôn
ngoan. Bầy tôi phải vất vả mà nhà vua hưởng sự thành công”.
-

Để dựng nước và giữ nước, bậc làm vua phải biết sử dụng thứ công cụ

“vạn năng” là pháp luật.“Phải dựa vào cái khiến cho những người nhát có

Học viên: 10


Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa pháp trị và đức trị trong công cuộc đổi
mới đất nước hiện nay

GVHD:

thể chinh phục được con hổ và cái làm cho vị vua tầm thường có thể gìn giữ
nước. Đó chính là pháp luật. Lo cái kế trung cho vị vua chúa, kế đức với thiên
hạ thì cái lợi không gì lâu dài hơn pháp luật”.
-

Nhà vua cũng phải biết cách dùng người, dụng nhân như dụng mộc, tập

hợp quanh mình bầy tôi giỏi để có thể trị quốc an dân. “Kẻ làm vua chúa nếu
có thể bỏ được cái điều mà người giỏi cũng không làm được để giữ lấy cái mà
người vụng làm vạn điều không sai một thì sức người dùng được hết mà công
danh được xác lập”.
-

Một trong những bài học quan trọng nhất đối với bậc quân vương là phải

hiểu được lòng dân. Hàn Phi chỉ rõ: “phàm việc nước thì điều phải lo trước
tiên là thống nhất lòng dân, nếu không nước tắc loạn”. Hiểu rõ bản tính của
dân, từ đó có cách cai trị thích hợp để nước thịnh dân an, đó là cái gốc của
nghiệp vương vậy.
Làm vua không đã khó, trở thành vị vua giỏi còn khó hơn nhiều. Hàn Phi đúc
kết rằng, phần nhiều những kẻ lập quốc dùng dân, có thể ngăn chặn ảnh hưởng của
bên ngoài, khống chế cái riêng tư của bề tôi, “làm vương” được, xét đến cùng,
đều tự nhờ cậy vào sức mình là chính.
Học giả Nguyễn Hiến Lê đã đánh giá tác phẩm “Hàn Phi Tử” của Hàn Phi
còn cao hơn cả “Quân vương” của Nicolò Machiavelli cả về tư tưởng lẫn bút pháp.
Hai cuốn sách của hai bậc thầy tư tưởng vĩ đại, một của phương Đông và một của
phương Tây, tuy nội dung khác nhau, nhưng đều để lại cho hậu thế những bài học
về “phép làm vua” và “thuật trị nước” mang giá trị đương đại sâu sắc.


Học viên: 11


Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa pháp trị và đức trị trong công cuộc đổi
mới đất nước hiện nay
GVHD:

CHƯƠNG II. ÁP DỤNG TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN
PHI TỬ VÀO THỰC TIỄN QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC HIỆN NAY
1. Pháp trị trên cơ sở trọng dân:
Tư tưởng của Hàn Phi Tử: là dùng pháp trị nhưng lại trọng dân. Trước khi đặt
ra luật lệ mới, ông để cho dân tự phê bình. Còn lập pháp thuộc về nhà vua; quy tắc
lập pháp phải lấy tính người và phép trời làm tiêu chuẩn. Hành pháp thì phải công
bố luật cho rõ ràng, thi hành cho nghiêm chỉnh, tránh thay đổi nhiều, phải “chí công
vô tư”,”vua tôi, sang hèn đều phải theo pháp luật”, thưởng phạt phải nghiêm minh,
“danh chính, pháp hoàn bị thì bậc minh quân chẳng có việc gì phải làm nữa, vô vi
mà được trị”.
Chính sách cai trị phải dựa vào ý dân, dân muốn thì gì thì cấp cho cái đó, không
muốn cái gì thì trừ cho cái đó. Hàn Phi Tử lại đưa ra quan điểm: bản chất con người
là ác, muốn quản lý xã hội phải khởi xướng ra lễ nghĩa và chế định ra pháp luật để
uốn nắn tính xấu của con người; theo các ông quản lý xã hội là vị Pháp chứ không
vị Đức.
2. Con người trong học thuyết Hàn Phi Tử:
2.1. Sự cần thiết phải tìm hiểu con người:
Con người trong học thuyết Nho Giáo rất quan trọng, con người trong học
thuyết của Hàn Phi cũng quan trọng không kém. Mà nói chung con người là yếu tố
quan trọng của bất cứ học thuyết chính trị nào. Vì đó là đối tượng của chính sách
cai trị và cũng là kẻ tiến hành cai trị. Trong học thuyết Hàn Phi, ba khái niệm cơ
bản bao gồm Thế, Pháp, Thuật. Thuật là nguyên tắc để người trên dùng người dưới.

Pháp trong học thuyết của Hàn Phi nói riêng và học thuyết chính trị Trung Hoa cổ
đại nói riêng hoàn toàn do con người tạo ra, không phải thứ pháp luật mượn danh
thần thánh, như luật Lycurgus của thành bang Sparta. Thế để sai khiến được người,
theo Hàn Phi gồm Thế Tự Nhiên và Thế do con người thiết lập. Thế tự nhiên là thế
ngẫu nhiên mà con người không thể điều chỉnh được nữa. Đó là Thế Tự Nhiên Trị
như dưới triều Nghiêu, Thuấn, dù có mười Kiệt Trụ ở dưới cũng không làm loạn
được. Đó là Thế Tự Nhiên Loạn, như triều Kiệt Trụ, dù có mười Nghiêu Thuấn ở

Học viên: 12


Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa pháp trị và đức trị trong công cuộc đổi
mới đất nước hiện nay
GVHD:

dưới cũng không làm trị được. Nhưng Nghiêu, Thuấn, Kiệt, Trụ ngàn đời mới xuất
hiện một lần. Giữa những sự ngẫu nhiên đó, con người có thể tự xây dựng một Thế
Nhân Trị mà hạng vua bình thường dù kém tài, nhu nhược một chút cũng không
sinh loạn được. Việc xây dựng Thế Nhân Trị đó chỉ xuất phát từ sự hiểu biết đúng
đắn con người và dựa trên sự quản lý, khống chế hiệu quả con người.
2.2. Bản tính ích kỷ - vụ lợi của con người:
Đương thời lưu truyền hai lý thuyết trái hẳn nhau về bản tính con người.
Thuyết tính thiện của Mạnh Tử bảo con người vốn sinh ra là thiện, vì vật dụng làm
mờ tối mà trở nên ác. Ngược thuyết tính thiện là thuyết tính ác của Tuân Tử, thầy
Hàn Phi. Theo Tuân Tử tính “là cái trời sinh ra đã có vốn thế, không thể học cũng
không thể làm ra được.(…) Cái gì không học, không làm mà đã có ở lòng người rồi,
cái đó mới là tính.” Vậy tính của con người gồm “mắt ưa sắc đẹp, tai ưa tiếng hát
hay, miệng ưa vị ngon, tâm ưa lợi, xương ưa da, thân thể ưa an nhàn”, những nhu
cầu bẩm sinh có, tự nhiên. Tính của con người cũng bao gồm cái thôi thúc phải đáp
ứng những nhu cầu vốn có ấy và là nguyên nhân suy ra “tính người vốn ác”. Vì

“xưa nay con người gọi là thiện những gì thuộc hợp với sự chính lý bình trị, gọi là
ác những gì hợp với sự thiên hiểm bội loạn”. Mà “con người sinh ra là hiếu lợi,
thuận theo tính đó thì thành ra tranh đoạt lẫn nhau mà sự từ nhượng không có; sinh
ra là đố kỵ, thuận theo tính đó thì thành ra tàn tặc, mà lòng trung tín không có; sinh
ra là có lòng muốn của tai mắt, có lòng thích về thanh sắc, thuận theo tính đó thì
thành dâm loạn mà lễ nghĩa, văn lí không có. Như thế thì theo cái tính của người ta,
thuận cái tình của người ta, tất sinh ra tranh đoạt, phạm vào cái phận, làm loạn cái lí
mà mắc cái lỗi tàn bạo.” (…) Tranh đoạt, phạm phận, loạn lý, tàn bạo, cái nào cũng
là bạo loạn. Từ đó mà biết, con người sinh ra vốn ác rõ lắm. Vậy phải chăng ai cũng
ác? Không, vẫn có người ác, người hiền. Tuy ai đói cũng muốn no, lạnh muốn ấm,
mệt muốn nghỉ, đó là tính tình con người ta. Nhưng có người tuy đói, thấy bậc tôn
trưởng mà không dám ăn trước , ấy là vì muốn nhường, tuy mệt mà không dám xin
nghỉ, ấy là vì muốn làm thay. Vẫn có nhiều người sống theo lễ nghĩa con nhường
cha, em nhường anh, con thay cha, em thay anh. Hai hành vi đó đều là phản lại bản

Học viên: 13


Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa pháp trị và đức trị trong công cuộc đổi
mới đất nước hiện nay
GVHD:

tính, trái ngược với tính người, nhưng lại là sự hiếu thảo, nét đẹp của lễ nghĩa. Cho
nên tư chất tuy là cái có sẵn nhưng nhân cách lại có thể dụng công chỉnh sửa được.
Theo Tuân Tử việc di dưỡng tính tình đó dựa vào lễ nhạc.”Trời không yêu riêng
mấy ông Tăng Sâm, Mẫn Tử Khiên, Hiếu Kỉ mà ghét bỏ những người khác. Thế mà
riêng mấy ông Tăng Sâm, Mẫn Tử Khiên, Hiếu Kỉ thực có cái hạnh chí hiếu và có
cái danh toàn hiếu là tại làm sao? Là tại ba ông ấy đã biến hóa được cái tính và dốc
lòng theo lễ nghĩa. Trời không yêu riêng dân nước Tề nước Lỗ mà ghét bỏ dân nước
Tần. Vậy mà về tình cha con, nghĩa vợ chồng, dân Tần không bằng dân Tề Lỗ, là

những người giàu lòng hiếu kính là tại sao? Là tại dân Tần thuận theo tính tình,
huyênh hoan, càn bậy, xem thường lễ nghĩa, cứ có phải là tại tính họ khác dân Tề
Lỗ”.
Trong hai học thuyết trên, học thuyết của Mạnh Tử tuy có chỗ hợp lý nhưng
đã quá nhấn mạnh đến thuộc tính xã hội của con người. Tuy con người bẩm sinh đã
là thực thể xã hội, phải có quan hệ với người khác như lời Cựu Ước đã mượn danh
Thiên Chúa để nói “Đàn ông sống một mình không tốt”. Nhưng con người dù phát
triển đến đâu cũng là một động vật và để làm một thực thể xã hội, con người phải
làm được một thực thể sinh vật trước đã, phải ăn uống, tránh nắng mưa, phải duy trì
nòi giống. Vì thế học thuyết của Tuân Tử đã xét được toàn diện hơn về bản tính con
người với thuộc tính sinh vật là thuộc tính có trước, còn thuộc tính xã hội phải được
rèn giũa, tu dưỡng mới được đẹp. Đề ra thuyết tính ác, nhưng những tư tưởng kế
tiếp của Tuân Tử chỉ nhằm điều chỉnh lại chính sách Nhân Trị của các thế hệ Nho
Gia tiền bối. Việc xây dựng tầng lớp sĩ đại phu trước kia thất bại đã được lý giải là
vì dựa trên quan niệm sai lầm về con người nên sử dụng công cụ không thích hợp.
Chính sách Nhân Trị thực ra vẫn đúng và vẫn có thể rèn luyện một tầng lớp quân tử
cầm quyền nhưng không thể dùng nghĩa nữa mà phải dùng lễ nhạc để giáo hóa.
Quan điểm Tính Ác của Tuân Tử được Hàn Phi kế thừa, song để áp dụng theo một
hướng hoàn toàn khác, để phủ nhận khả năng xây dựng tầng lớp cai trị nhân ái,
thương dân như con của thầy mình nói riêng và của Nho gia nói chung. Trong học
thuyết của mình, Hàn Phi không phủ nhận hoàn toàn khả năng giáo hóa của Nho

Học viên: 14


Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa pháp trị và đức trị trong công cuộc đổi
mới đất nước hiện nay
GVHD:

gia, vẫn dẫn ra nhiều nhà Nho có tư cách tốt, như Tăng Sâm, Sử Ngư, những người

bề trên không nghiêm trị mà vẫn có đức hạnh. Nhưng số hiền nhân đó hiếm có,
giống như cây tên tự nó đã thẳng sẵn, hoặc như khúc cây tự nó tròn sẵn, cả trăm đời
cũng không có được một, ngàn đời cũng không có được một. Vì chỉ là thiểu số nhỏ
bé nên Hàn Phi xem dạng người đó như không tồn tại. Bởi “phép nước không thể
mất, mà số dân cần trị không phải chỉ có một người. Cho nên bậc vua chúa biết
dùng thuật không tuỳ theo cái thiện ngẫu nhiên mà chỉ thi hành cái đạo tất nhiên,
(…) dùng chính sách thích hợp với đại chúng, bỏ chính sách chỉ thích hợp với một
ít người” (Hiển học). Bỏ qua số cá nhân hiếm hoi, con người từ trên xuống dưới là
những kẻ đầy lòng ham muốn. Ai cũng có những ưa ghét bẩm sinh và có động lực
mạnh mẽ khi đối diện những nhu cầu tự nhiên đó. Dấu vết của chúng được Hàn Phi
tìm thấy trong tất cả mối quan hệ thông thường giữa con người với con người, tác
động mạnh nếu không nói là quyết định tính chất của quan hệ. Tính chất mối quan
hệ sẽ rất tốt, nếu mối quan hệ đáp ứng nhu cầu của hai bên. Khi đó người xa lạ
cũng có thể tốt với nhau không kém gì ruột thịt. “Thầy lang khéo mút vết thương,
ngậm máu bệnh nhân không phải vì tình cốt nhục, chỉ vì lợi.” (…) “Chủ ruộng
mướn người gieo mạ, cày ruộng, không ngại phí tổn cho ăn ngon, lại lựa tiền, vải
tốt mà trả công, không phải vì yêu thương đâu mà vì nghĩ: “có vậy người ta cày mới
sâu, cào cỏ mới kĩ cho mình”. Người làm công đó hết sức cày và cào cỏ, sửa sang
lại bờ ruộng, không phải vì yêu chủ ruộng mà vì nghĩ: “Có vậy chủ mới cho ăn
ngon, mà tiền, vải mới tốt.” Như vậy một bên cung dưỡng hậu hĩ, một bên gắng sức
làm việc, có cái ân trạch giữa cha con, hai bên đều hết nghĩa vụ, đều vì mưu cái lợi
cho chính mình.”. “Nếu lòng thấy có hại thì dù là cha con cũng xa nhau, oán nhau”:
“Cha mẹ không săn sóc con kĩ khi còn nhỏ thì lớn lên nó oán. Con được nuôi cho
thành người rồi mà cung dưỡng cha mẹ không được hậu thì cha mẹ giận oán trách”
(Ngoại trừ thuyết tả thượng). Nho Gia từ Khổng Tử chủ trương “trung thứ”, từ mình
suy ra người, từ trong suy ra ngoài. Cho nên có hiếu với cha mẹ mình mới trung tín
được với người, con mình không thương nỗi thì làm sao thương được người khác.
Bởi vậy khẩu hiệu của đế vường đời sau có câu “lấy hiếu để trị thiên hạ”. Quan hệ

Học viên: 15



Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa pháp trị và đức trị trong công cuộc đổi
mới đất nước hiện nay
GVHD:

cha con đối với Nho Gia quan trọng như vậy nên Đại Nho Tuân Tử dù lập thuyết
tính ác cũng không dám động đến. Chỉ có Hàn Phi là cực tả được ảnh hưởng của lợi
ích cá nhân trong tình phụ tử thiêng liêng đó. Ông thấy người ta “sanh con trai thì
mừng, sanh con gái thì giết. Trai gái đều trong lòng cha mẹ mà ra, mà con trai thì
mừng, con gái thì giết, là do nghĩ đến sau này, đứa nào có lợi lâu dài cho mình hơn”
(Lục phản). Ví dụ đó thoạt nghe thật tàn nhẫn nhưng ngẫm ra cũng rất thực tế. Ngày
nay, chuyện giết gái giữ trai vẫn còn tồn tại, có điều dưới hình thức nạo phá thai, đỡ
cắn rứt lương tâm hơn. “Cha mẹ đối với con mà còn đem lòng tính toán lợi hại,
huống hồ là những người không có tình cha con với nhau”. Lời Mạnh Tử khuyên
Lương Huệ Vương đừng bàn lợi chỉ nói nhân nghĩa là trái tình người lắm vậy.
Hàn Phi ngược lại xem ai cũng vì lợi ích bản thân mình. Có lòng ái quốc nồng nàn,
hẳn Hàn Phi không phủ nhận những tình cảm cao thượng, những phút giây con
người động lòng trắc ẩn. Nhưng ở hạng phàm nhân tính ác của Hàn Phi, người ta
lâu lâu mới vị tha một lần. Vì thế nếu cứ “mong cho người khác phải vì mình, chứ
không muốn cho mỗi người phải vì bản thân người đó thôi” thì “cha con là tình chí
thân mà có khi còn trách nhau, oán nhau” (Ngoại trừ thuyết tả thượng). Bởi ai cũng
vì bản thân người đó nên người được xem là tốt chưa chắc đã có lòng yêu người
thật sự, còn kẻ xấu chưa chắc đã căm ghét đồng loại hơn người tốt. Học thuyết của
Hàn Phi nhắc tới hai loại người đối chọi nhau, kẻ sĩ biết thuật, giỏi pháp độ đối chọi
với bọn “trọng nhân” “không có lệnh (vua) mà tự chuyên, làm trái pháp luật để lợi
cho mình, làm hao tốn của nước để ích cho nhà. Chính những kẻ sĩ biết thuật, giỏi
pháp độ mà Hàn Phi xem trọng nhất cũng chưa chắc tự nhiên đã có đức. Nhờ trí
mưu mà nhìn xa trông rộng, biết bỏ qua lợi ích tức thời mà di họa mai sau. Họ
không gia nhập bè cánh gian thần là do “đại thần cầm quyền, một khi vua có sự thay

đổi mà còn được sủng ái như trước thì mười người không chắc được hai ba. Tại sao
vậy? Tại tội của họ lớn quá. Bề tôi có tội lớn, lừa gạt chúa, tội đó đáng chết. Kẻ sĩ
có đức, liêm khiết, cho sự vào bè với gian thần là xấu hổ, nên không theo chúng.
Vậy kẻ đi theo bọn đại thần đương cầm quyền, nếu không phải là ngu xuẩn, không
sợ chết thì tất là tham ô không tránh bọn gian” Xem ai cũng vì mình, Hàn Phi

Học viên: 16


Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa pháp trị và đức trị trong công cuộc đổi
mới đất nước hiện nay
GVHD:

khuyên kẻ cai trị chỉ nên cậy vào thế lực có thể khống chế được người mà không
nên tin người. Vì cái lợi của hai bên có thể đối chọi nhau “Cái lợi của vua chúa ở
chỗ kẻ nào có tài thì giao cho quan chức, còn cái lợi của bề tôi ở chỗ mình vô tài mà
được làm quan; cái lợi của vua chúa ở chỗ ai có công lao thì mới thưởng cho tước
lộc, còn cái lợi của bề tôi ở chỗ mình không có công mà cũng được giàu sang; cái
lợi của vua chúa ở chỗ khiến cho hào kiệt trổ hết tài năng, còn cái lợi của bề tôi ở
chỗ kết bè đảng mà mưu tư lợi.” Cái lợi đoạt được từ kẻ cầm quyền lại lớn. Do đó
kẻ cầm quyền là cái đích lợi và hại của rất đông người. “Trong việc cướp quyền giết
vua, chế ngự một nước vạn cỗ xe để hưởng cái lợi lớn thì bề tôi nào chẳng là Dương
Hổ (một phản thần). Việc làm hễ tinh tế, khéo léo thì thành, sơ suất, vụng về thì thất
bại. Bề tôi chưa khởi loạn là vì dự bị chưa đủ. Bề tôi nào có cái lòng như Dương Hổ
mà vua không biết là vì việc làm của họ tinh tế, khéo léo. Dương Hổ vì tham muốn
đánh bề trên, mà để cho thiên hạ biết được là do hắn sơ suất, vụng về” (Biện Nạn
IV). Vua chúa trong học thuyết của Hàn Phi trở thành những người cô đơn nhất,
hình hợp hoàn toàn với những danh “cô”, “quả” mà bọn họ thường tự gọi. “Giữa
vua tôi không có tình anh em ruột thịt.”. “Chúa có vạn cỗ xe, vua có ngàn cỗ xe thì
hoàng hậu, thứ phi, phu nhân, đích tử thế nào cũng có người muốn cho vua chết

sớm”. “Bậc vua chúa chết vì bệnh chưa được phân nửa” (Biện Nạn, Bị Nội).
Với những lời trên, giai cấp quý tộc, chìa khóa thành công của chính sách nhân trị,
trong học thuyết của Hàn Phi trở thành những kẻ cần phải dùng hình pháp để khống
chế nhất. Nhận xét trên càng có giá trị hơn vì nó được nói lên bởi một quý tộc cỡ
bự, sinh ra trong lòng của giai cấp quý tộc và ngày ngày tiếp xúc với quý tộc. Giá trị
cũng xuất phát từ thực tiễn hoạt động chính trị, từ bi kịch của bản thân tác giả. Xây
dựng học thuyết để cứu nước vậy mà chỉ có nước kẻ thù nhận ra giá trị còn nước
cha mẹ lại không dùng. Bọn quý tộc đương thời toàn là bọn trọng nhân và bè lũ mà
kẻ sĩ vì nước vì dân vốn đã hiếm hoi lại càng hiếm hoi hơn. Vì muốn làm kẻ sĩ vì
nước vì dân phải công khai đối chọi với bọn trọng nhân đó. Trong cuộc đấu tranh
đó, kẻ sĩ biết thuật có năm thế tất bại. “Thế đã không thắng được vua mà lại không
sống chung được (với bọn trọng nhân); tất có kẻ mất người còn, kẻ sĩ giỏi pháp

Học viên: 17


Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa pháp trị và đức trị trong công cuộc đổi
mới đất nước hiện nay
GVHD:

thuật làm sao khỏi bị nguy? Bọn trọng nhân nếu có vu tội lỗi cho ai thì sẽ dùng
phép công mà giết người đó; không thể vu được thì sai người ám sát. Tóm lại, làm
sáng tỏ pháp luật là trái ý vua chúa, nếu không bị quan giết thì tất cũng chết vì bị
ám sát” (Cô Phẫn). Tư cách bọn quý tộc tồi tệ như vậy, trông chờ chúng trở thành
những vị vua vị quan tốt cũng giống như việc ôm cây đợi thỏ. Có thể đã từng có
những vị vua quan như vậy, nhưng chỉ là cái Thế Tự Nhiên, ngàn đời sau mới lặp
lại.
2.3. Không biết đủ:
Không chỉ Hàn Phi mới có tư tưởng tài vật ít làm người ta tranh giành nhau
sinh loạn. Nó giống thuyết của Mạnh Tử về hằng sản, hằng tâm. Theo Mạnh Tử

“Không có hằng sản mà chỉ có hằng tâm thì chỉ kẻ sĩ mới được như vậy. Còn
thường dân, nếu không có hằng sản thì không có hằng tâm” (Lương Huệ Vương
thượng) và “Cách ăn ở của dân là: có hằng sản mới có hằng tâm, không có hằng sản
thì không có hằng tâm” (Đằng Văn Công thượng). Thiên Lục Phản của Hàn Phi còn
trình bày thêm một thuyết tương tự khác bảo thiên hạ đại loạn là do “bề trên không
thương dân, thuế má thường nặng, dân không đủ tiêu dùng nên oán bề trên”; nếu có
thể “cho dân có đủ tiêu dùng rồi lại yêu dân nữa, dù dùng hình phạt nhẹ, nước cũng
trị được”. Không có “hằng sản” sẽ không có hằng tâm, nhưng theo Hàn Phi, biện
pháp để cho dân có hằng tâm không đơn thuần chỉ làm sao cho dân có hằng sản.
Nếu không thì tại sao “đa số kẻ bị hình phạt nặng là sau khi họ có đủ để tiêu dùng”
(Lục Phản)? Biết tri túc, biết luật phản phục thì đời chỉ có Lão Tử. Vì trí tuệ của
ông nhận ra “biết đủ thì không nhục, biết ngừng thì không nguy, sợ bị nhục và
nguy, nên hễ có đủ rồi thì thôi, không cầu gì hơn nữa” (Lục Phản). Hạng thường
nhân hiếm người có trí khôn như Lão Tử nên đều “như Kiệt, sang tới mức làm thiên
tử mà vẫn chưa cho là đủ tôn quý; giàu tới mức có cả thiên hạ, mà vẫn chưa cho là
có đủ châu báu” (Lục Phản). Dân thường chỉ mới ham tư lợi, bậc công hầu khanh
tướng giàu sang gấp trăm lần lại ham muốn thêm danh. Ông nào không muốn có
thêm lợi thì ắt muốn có hư danh, có người muốn có thêm cả danh cả lợi. Cái lòng

Học viên: 18


Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa pháp trị và đức trị trong công cuộc đổi
mới đất nước hiện nay
GVHD:

ham muốn đa dạng đó làm thành cái khó khăn lớn nhất của người du thuyết. “Du
thuyết khó, nhưng không khó ở chỗ trí thức của ta đủ thuyết phục được vua chúa
hay không, cũng không khó ở chỗ khẩu tài của ta phát biểu được rõ ý của ta hay
không, cũng không khó ở chỗ ta dám tung hoành phóng dật diễn hết ý của ta hay

không, mà khó ở chỗ hiểu được tâm lí đối phương để cho lời chúng ta hợp với tình
ý của họ. Như đối phương nghĩ tới danh dự thanh cao mà ta đem tài lợi ra thuyết thì
tất họ cho ta là bỉ lậu, tư cách đê hèn mà không dùng ta, xa lánh ta. Nếu đối phương
nghĩ tới tài lợi mà ta đem danh dự thanh cao thuyết thì họ cho ta là không biết thời
thế, không hiểu sát sự tình, tất không thu dụng ta. Đối phương trong lòng thích tài
lợi mà ngoài mặt bộ thích danh dự cao, nếu ta đem danh dự thanh cao ra thuyết thì
bề ngoài họ thu dụng ta mà thực tâm xa lánh ta; nếu ta đem tài lợi ra thuyết thì bề
trong họ dùng lời mà bề ngoài xa lánh ta. Những điều đó không thể không xét
được” (Thuyết nan).
Như vậy, với Hàn Phi bản chất tư lợi của con người không chỉ xuất phát từ
thuộc tính tự nhiên như ý thầy mà còn xuất phát từ thuộc tính xã hội. Mà chính nhu
cầu có tính xã hội đó lại dễ gây loạn hơn những nhu cầu tự nhiên “đa số kẻ bị hình
phạt nặng là sau khi họ có đủ để tiêu dùng” (Lục Phản). Đó là nhu cầu về danh vọng
thích được nổi trội hơn người, thích được nhiều người yêu mến hay nể sợ. Nhu cầu
cơ bản như ăn mặc ở thực ra là có hạn và còn dễ thỏa mãn, nhu cầu danh vọng mới
thật vô cùng. Cho nên người trị nước dù hết sức cũng khó làm cho dân biết đủ. Dân
không biết đủ cố mưu cầu thêm danh, lợi tất tranh giành lẫn nhau. Tư tưởng về tính
hay tranh của dân ở Hàn Phi thoạt đầu có vẻ giống tư tưởng của Thúc Hướng.
Nhưng đối tượng của Hàn Phi nhắm đến hoàn toàn khác Thúc Hướng. Thúc Hướng
hướng hoàn toàn vào dân đen còn Hàn Phi hướng nhiều hơn vào tầng lớp có của,
tầng lớp trên của xã hội, bao gồm cả giới quý tộc. Nếu dân đã hay dùng pháp luật
thành văn để tranh lợi thì bọn quý tộc lại càng dùng pháp luật để tranh lợi nhiều hơn
nữa. Hàn Phi đã chỉ ra hậu quả xấu đó trong thiên Định Pháp “Công Tôn Ưởng trị
nước Tần, đặt ra lệnh phải cáo gian, nếu tố cáo sai thì bị tội, năm và mười nhà phải
cùng chịu trách nhiệm; thưởng hậu mà xác thực, phạt nặng mà cương quyết; nhờ

Học viên: 19


Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa pháp trị và đức trị trong công cuộc đổi

mới đất nước hiện nay
GVHD:

vậy mà dân tận lực làm lụng không nghỉ, đánh đuổi địch, dù nguy cũng không lùi
bước, làm cho nước giàu binh mạnh. Nhưng không dùng thuật để biết kẻ gian, cho
nên sự giàu mạnh đó chỉ lợi cho bọn đại thần mà thôi. Tới khi Hiếu Công và
Thương quân chết, Huệ Vương lên nối ngôi, pháp luật của Tần chưa huỷ hoại, mà
Trương Nghi đem Tần hi sinh cho Hàn, Ngụy. Rồi Huệ Vương chết, Võ Vương lên
nối ngôi, Cam Mậu đem Tần hi sinh cho nước Chu. Võ Vương chết, Chiêu Tương
Vương lên nối ngôi, Nhương Hầu vượt nước Hàn, nước Ngụy mà đánh Tề ở phía
Đông, năm năm Tần không thêm được một thước đất, mà Nhương Hầu thì được
phong ấp Đào, Ứng Hầu đánh Hàn tám năm, mà được phong đất Nhữ Nam. Từ đó
trở đi, những kẻ được trọng dụng ở Tần đều thuộc hạng Ứng Hầu, Nhương Hầu hết.
Vậy, đánh giặc mà thắng thì đại thần được tôn quí, quốc gia được thêm đất thì đại
thần được thêm đất riêng, chỉ vì nhà vua không có thuật để biết kẻ gian.” Như vậy
thì tại sao có thể ưu tiên bọn quý tộc, không dùng hình pháp để khống chế bọn
chúng được.
3. Áp dụng học thuyết Hàn Phi Tử trong công cuộc đổi mới đất nước:
Qua lịch sử tồn tại và phát triển hàng ngàn năm của dân tộc, con người Việt
Nam đã hình thành nên cho mình những phẩm chất, năng lực với môi trường tự
nhiên và những điều kiện kinh tế, lịch sử, văn hóa, với những yêu cầu của nó đặt ra
trong từng giai đoạn lịch sử của dân tộc. Ngày nay, dưới thời đại công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước nói riêng và toàn cầu nói chung đang đặt ra những yêu cầu
mới. Lịch sử đã chứng minh con người Việt Nam có tài năng, có đạo đức nhưng
điều đó không có nghĩa là con người Việt Nam khôg có những mặt xấu, mặt yếu
kém đặc biệt là trước bối cảnh kinh tế, chính trị trên toàn thế giới đang diễn ra rất
phức tạp.
Ta có thể dễ dàng nhận ra các ưu điểm của người Việt Nam như khéo léo, thông
minh, cần cù, chịu thương chịu khó, gần gũi, hòa đồng, biết quan tâm mọi người, và
rất yêu nước, tuy nhiên bên cạnh đó con người Việt Nam mắc không ít các thói xấu,

nhược điểm như hủ cựu và ngại thay đổi, người có tài cán mải chuyện đâu đâu
không tập trung nâng cao chuyên môn, mong tìm yên lành hóa ra bảo thủ không

Học viên: 20


Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa pháp trị và đức trị trong công cuộc đổi
mới đất nước hiện nay
GVHD:

muốn thay đổi những cổ hủ lạc hậu, không hình thành nổi một dư luận sáng suốt,
nông nổi hời hợt, hay có tính nhờ vả cậy nhờ, hay nói nước đôi lập lờ, thiếu sáng
tạo, tư tưởng học để thi. Những điều này không ngoại trừ tầng lớp nào ở Việt Nam,
từ lãnh đạo đến người dân, dẫn đến việc quản lí kinh tế, quản lí nhà nước còn nhiều
bất cập. Đứng trước thời cuộc đầy phức tạp như hiện nay ta cần nghiên cứu kĩ bản
tính con người Việt Nam, rồi thông qua “Pháp trị” của Hàn Phi Tử để đề ra những
luật lệ cho hợp lí, hợp thời đại, qua đó giúp đất nước ngày càng phát triển giàu
mạnh, xã hội ngày càng công bằng.
Bên cạnh những ưu điểm của mình, học thuyết “Hàn Phi Tử” có rất nhiều
khiếm khuyết, cần phải thấy rằng, pháp luật mà Hàn Phi đề cao là thứ pháp luật hà
khắc, tàn bạo, khác xa với pháp luật ngày nay; con người phải vì pháp luật, chứ
pháp luật không vì con người; mặt khác, pháp luật dù ở vị trí thượng tôn, trên muôn
dân, nhưng lại dưới một người (nhà vua). Đó là hạn chế của học thuyết Pháp trị. Về
phương diện này, Ngô Kinh Hùng, nhà triết học pháp luật nổi tiếng người Trung
Quốc, đã đưa ra một nhận xét tương đối xác đáng rằng, sở dĩ Pháp gia thất bại là do
bản thân cách làm của Pháp gia (trong đấy có Hàn Phi) tồn tại nhiều điểm quá cực
đoan:
- Đồng nhất việc cai trị dựa trên pháp luật với việc cai trị dựa vào các hình
phạt nghiêm khắc.
- Quan niệm về pháp luật của Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng quá

máy móc và cứng nhắc, hoàn toàn không có tính đàn hồi trong việc sử dụng
pháp luật.
- Coi các điều khoản pháp luật chính thức là hình thức duy nhất phù hợp với pháp
luật, hoàn toàn bỏ qua nhân tố luật tập quán.
- Giải thích mục tiêu pháp luật quá chú trọng đến phương diện vật chất; thực
ra, luật pháp cần phải giúp phát triển một cách bình đẳng các lợi ích khác nhau.
- Ở họ, có lòng nhiệt huyết cải cách mù quáng, song lại quá thiếu ý thức lịch
sử, dường như là muốn sáng tạo lại lịch sử.

Học viên: 21


Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa pháp trị và đức trị trong công cuộc đổi
mới đất nước hiện nay
GVHD:

Thực tế sau đó cho thấy, tư tưởng Nho gia đã nhấn chìm chế độ pháp luật, mà
chậm nhất là đời Đường đã xuất hiện một chủ nghĩa Nho gia khống chế toàn bộ hệ
thống pháp luật. Ngô Kinh Hùng viết: “Bắt đầu từ đó, pháp luật là nô tỳ của đạo
đức – nằm ở địa vị thứ cấp – không được những người tài năng nhất coi trọng”; “Từ
trong thâm tâm, tôi cho rằng thắng lợi của Nho gia... đã đặt pháp luật học vào trong
quan tài, khiến nó biến thành con rối trong suốt hơn 20 thế kỷ.
Vậy thì ta phải làm gì để quản lí và phát triển đất nước một cách hoàn thiện
nhất. Đó là kết hợp “Pháp trị” và “Đức trị” lại với nhau, tạo thành một học thuyết
hoàn chỉnh hơn, trong đó “Pháp trị” được coi như là một công cụ “chiến thuật” giúp
trị an xã hội trong một thời gian ngắn, trong giai đoạn sinh tử, dầu sôi lửa bỏng, còn
“Đức trị” được coi như một công cụ “chiến lược” dài hơi, giúp tạo hệ tư tưởng lành
mạnh, những con người tốt đẹp, có hệ ý thức tốt ngay từ khi còn bé. Chỉ có như vậy
thì ta mới có thể thay đổi hệ tư tưởng lạc hậu, cố nông đã ăn sâu vào con người Việt
Nam ta từ bao thế kỉ qua.


KẾT LUẬN
Những phân tích ở trên cho thấy rằng, trong thực tiễn quản lý pháp trị hợp thời
đại là chưa đủ, nó phải đi đôi với “Đức trrị” thì mới có hiệu quả lâu dài và thực sự
giúp việc quản lí đạt hiệu quả nhất. “Pháp trị” và “Đức trị” bổ xung qua lại, làm nền
tảng cho nhau, thúc đẩy nhau phát triển. Vì vậy, việc kết hợp “Pháp trị” và “Đức
trị” trong quản lí nhà nước là một yêu cầu thời đại cho các nhà lãnh đạo có tâm có
tầm của đất nước. Qua đó giúp đất nước ngày càng phát triển bền vững hơn, mạnh
mẽ hơn.
Dù đã tham khảo khá nhiều tài liệu, tuy nhiên do kiến thức còn hạn chế nên
không tránh khỏi nhưng khiếm khuyết trong quá trình thực hiện đề tài. Kính mong
thầy giáo chỉ dạy thêm để đề tài được hoàn chỉnh hơn. Xin chân thành cảm ơn.

Học viên: 22



×