Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý HOẠT ĐỘNG GIÁO dục HƯỚNG NGHIỆP ở các TRƯỜNG TRUNG học PHỔ THÔNG HUYỆN mỹ đức, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 111 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Ban giám hiệu
Cha mẹ học sinh
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
Công nghệ thông tin
Cơ sở vật chất
Đoàn thanh niên
Giáo dục hướng nghiệp
Hoạt động giáo dục hướng nghiệp
HĐ ngoại khoá
Quản lý giáo dục
Sinh hoạt HN
Trung cấp chuyên nghiệp
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông

Chữ viết tắt
BGH
CMHS
CNH-HĐH
CNTT
CSVC
ĐTN
GDHN
HĐGDHN
HĐNK
QLGD
SHHN
TCCN
THCS


THPT


MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU
Chương 1
1.1
1.2
1.3.
1.4.
Chương 2

2.1.
2.2.
2.3.
2.4.
Chương 3

3.1.
3.2.
3.3.

3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP Ở CÁC TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu
Những vấn đề cơ bản về hoạt động giáo dục hướng nghiệp

ở các trường trung học phổ thông
Nội dung quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho ở
các trường trung học phổ thông
Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động giáo dục
hướng nghiệp trong trường phổ thông
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
HƯỚNG NGHIỆP Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG CỦA HUYỆN MỸ ĐỨC,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội,văn hoá,
giáo dục huyện Mỹ Đức.
Thực trạng về công tác giáo dục hướng nghiệp ở các
trường trung học phổ thông huyện Mỹ Đức
Thực trạng nhận thức của hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở
các trường trung học phổ thông huyện Mỹ Đức, thành phố
Hà Nội
Thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục hướng
nghiệp ở các trường THPT huyện Mỹ Đức,thành phố Hà
Nội
BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
HƯỚNG NGHIỆP Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG HUYỆN MỸ ĐỨC ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Các nguyên tắc đề xuất biện pháp
Những biện pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng
nghiệp ở các trường trung học phổ thông của huyện
Mỹ Đức, thành phố Hà Nội
Khảo nghiệm về mức độ cần thiết và tính khả thi của các
biện pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp


12
12
23
29
34

36
36
38
43
57

65
65
67
87


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

93
98
10
0


MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế với những tác động của nền kinh tế tri
thức và toàn cầu hóa, nền kinh tế xã hội Việt Nam đã có những bước phát
triển. Từ những nhận định về bối cảnh trong nước và quốc tế ngay từ các đại
hội VIII, IX, X, XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định quyết tâm rất
lớn: Lãnh đạo đất nước thực hiện đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đảng ta đã khẳng định: “Con người là
mục tiêu, là động lực cho sự phát triển”. Hiện nay trong xu thế toàn cầu hoá,
trước yêu cầu ngày càng cấp thiết về sự đáp ứng của nguồn nhân lực trong
thời đại mới, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt coi trọng sự nghiệp Giáo dục.
Tại điều 35 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
xác định: “Giáo dục và Đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhà nước và xã hội
phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”.
Điều 27, chương III Luật Giáo dục năm 2005, khi đề cập đến mục tiêu
của giáo dục THPT đã xác định: “Giáo dục THPT nhằm giúp học sinh củng
cố và phát triển những kết quả của trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ
thông và có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có
điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục
học ĐH, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động”. Điều
đó cho thấy GDHN trong trường THPT là một bộ phận hữu cơ của mục tiêu
giáo dục đào tạo, góp phần vào việc phân luồng, chuẩn bị cho các em sẵn
sàng đi vào cuộc sống lao động hoặc tiếp tục học lên cao, phù hợp với năng
lực của bản thân, khả năng của gia đình và nhu cầu của xã hội. Hơn nữa, trong
xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và thị trường lao động không biên giới,
đòi hỏi thanh niên, học sinh phải biết nắm bắt cơ hội trên cơ sở hiểu rõ năng
lực bản thân để lựa chọn ngành, nghề phù hợp với nhu cầu xã hội đồng thời
có khả năng thích ứng và thay đổi nghề nghiệp khi cần thiết.
3



Nhà trường THPT là nơi góp phần không nhỏ cho việc đào tạo những
người lao động mới, hướng nghiệp cho học sinh phổ thông là bước khởi đầu
quan trọng của quá trình phát triển nguồn nhân lực. GDHN trong trường
THPT nhằm giúp học sinh hiểu được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc lựa
chọn nghề nghiệp tương lai. Học sinh biết được những thông tin về định
hướng phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đất nước, khu vực và thế
giới; về thế giới nghề nghiệp, thị trường lao động, hệ thống giáo dục nghề
nghiệp, cao đẳng, đại học ở địa phương và cả nước. Học sinh có kỹ năng định
hướng và lựa chọn tương lai nghề nghiệp của bản thân. Trong thực tế hiện
nay các trường THPT chưa thật sự quan tâm tới công tác GDHN, hoặc có
hướng nghiệp nhưng chưa chú ý đến phát triển nguồn nhân lực cho CNHHĐH hoặc có nghĩ đến nhưng làm chưa đạt hiệu quả. Trước thế giới nghề
nghiệp đa dạng, phong phú, học sinh rất lúng túng trong việc lựa chọn ngành,
nghề phù hợp. Phần lớn các em chọn nghề theo nhu cầu cá nhân, gia đình, bạn
bè hoặc theo thị hiếu,...chưa đáp ứng năng lực sở trường của bản thân và nhu
cầu phát triển KT - XH của địa phương, đất nước. Bên cạnh đó, do áp lực tâm
lý từ phía gia đình – căn bệnh “sính” bằng cấp luôn muốn con em mình vào
ĐH cùng với xu hướng của bè bạn, kết hợp với chính sách đa dạng hóa các
loại hình đào tạo như hiện nay trong chiến lược phát triển giáo dục, dẫn đến
học sinh định hướng sai nghề nghiệp, hoặc đổ xô vào học những ngành nghề
không có nhu cầu nhân lực trong tương lai, nên khi tốt nghiệp ra trường
không thể có việc làm, hoặc phải chấp nhận làm những việc không đúng
chuyên môn. Điều đó gây hụt hẫng về tâm lý và gây lãng phí lớn chi phí đào
tạo. Các trường THPT huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội không nằm ngoài
vòng xoáy đó. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý hoạt động GDHN, để góp
phần định hướng nghề nghiệp cho học sinh sau khi tốt nghiệp THPT, là nhiệm
vụ quan trọng của toàn ngành Giáo dục và Đào tạo nói chung, của các cơ sở
giáo dục (nhà trường) nói riêng.
4



Mỹ Đức là huyện ngoại thành của thành phố Hà Nội đang có tốc độ đô
thị hóa rất nhanh và mạnh mẽ, các ngành nghề rất đa dạng phong phú. Diện
tích ruộng cấy giảm dần mà thay vào đó là các khu công nghiệp sầm uất, các
khu du lịch ,các trang trại trồng trọt chăn nuôi, chính điều đó nảy sinh vấn đề
cấp bách cho chính quyền địa phượng tại đây là làm sao để học sinh trong các
trường THPT trong huyện lựa chọn cho bản thân một nghề phù hợp với năng
lực sở trường và yêu cầu của địa phương.
Tại các trường THPT của huyện Mỹ Đức ( gồm có 04 trường: trường
THPT Mỹ Đức A, trường THPT Mỹ Đức B, trường THPT Mỹ Đức C và
trường THPT Hợp Thanh) công tác GDHN đã được thực hiện từ rất nhiều
năm nay, song còn nhiều bất cập và chưa mang lại hiệu quả rõ rệt.
Xuất phát từ yêu cầu cấp bách của thực tế là cần phải quản lý công tác
hoạt động GDHN sao cho hoạt động GDHN tại các trường THPT của huyện
Mỹ Đức thành phố Hà Nội nói riêng, các trường THPT nói chung đạt hiệu
quả tốt nhất. Bản thân là người làm công tác quản lý trong trường THPT của
huyện Mỹ Đức B được giao nhiệm vụ quản lý công tác hoạt động GDHN tôi
chọn đề tài “Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường
THPT huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội ” làm luận văn thạc sĩ với mong
muốn khắc phục được những vấn đề bất cập trong thực tiễn quản lý công tác
GDHN. Qua đó góp phần hoàn thiện các biện pháp để quản lý hiệu quả hoạt
động này nhằm nâng cao chất lượng giáo dục của các nhà trường đáp ứng với
những yêu cầu và đòi hỏi cấp bách của xã hội và địa phương.
2.Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX, các công trình khoa học của
nhiều nhà tâm lý học, giáo dục học, xã hội học đã tiếp cận nghiên cứu về
GDHN cho HS phổ thông ở những khía cạnh khác nhau:
- Ở khía cạnh giáo dục nghề nghiệp, tác giả Phạm Minh Hạc phân tích
tình hình giáo dục đào tạo nước ta và xây dựng phương hướng đổi mới giáo
5



dục từ việc xây dựng một nền giáo dục kỹ thuật, đó là nền giáo dục được chỉ
đạo bằng tư tưởng phục vụ phát triển công nghệ. Tác giả đã đưa ra quan điểm
về con người trong công cuộc đổi mới, đó là ưu tiên đến việc giáo dục nghề
nghiệp, đây cũng là quan điểm của GDHN sau này.
- Về hoạt động GDHN trong trường phổ thông:
* Nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu và đưa ra nhận xét về thực trạng
hoạt động GDHN trong những năm qua và đề xuất những biện pháp để nâng
cao hiệu quả hoạt động GDHN trong giai đoạn hiện nay. Mục tiêu và giải
pháp điều chỉnh định hướng chọn nghề cho HS phù hợp với yêu cầu phát triển
kinh tế xã hội của đất nước đã được các tác giả Đặng Danh Ánh, Nguyễn
Trọng Bảo, Đoàn Chi, Nguyễn Viết Sự, Nguyễn Toàn... đề cập và giải quyết
ở những góc độ khác nhau. Đặc biệt, tác giả Đặng Danh Ánh đã đi sâu nghiên
cứu những cơ sở lý luận và nhiệm vụ GDHN cho HS phổ thông, xây dựng
nên sơ đồ GDHN cho học sinh từ khi các em học ở trường phổ thông cho đến
khi tham gia lao động ở cơ sở sản xuất. Tác giả cũng đi sâu nghiên cứu và đề
xuất bản mô tả nghề phục vụ GDHN và cách thức đổi mới phương pháp theo
hướng dạy học tích cực để nâng cao chất lượng các hoạt động GDHN.
Gần đây nhất, kết quả nghiên cứu đề tài KHCN cấp nhà nước KX – 05
–09 “Giáo dục phổ thông và hướng nghiệp - nền tảng để phát triển nhân lực đi
vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” đã nghiên cứu thực trạng và đưa
ra một bức tranh tổng thể về hướng nghiệp cho học sinh phổ thông để phát
triển nguồn nhân lực. Đề tài đã tổng hợp khái quát những vấn đề lý luận về
giáo dục và hướng nghiệp, mối quan hệ giữa hai hoạt động này trong nhà
trường phổ thông, hướng tới việc chuẩn bị lực lượng tham gia vào quá trình
đào tạo nhân lực phục vụ yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
* Các tác giả Phạm Tất Dong, Nguyễn Văn Hộ và nhiều nhà nghiên
cứu đã đề cập đến việc hình thành các luận chứng cho hệ thống GDHN phổ
thông trong điều kiện phát triển KT-XH của đất nước và đề xuất một số hình
6



thức phối hợp giữa nhà trường phổ thông với các cơ sở đào tạo nghề, cơ sở
sản xuất trong việc HN - DN cho HS phổ thông.
* Các tác giả Phạm Huy Thụ, Nguyễn Duy Minh, Tô Bá Trọng, Lê Đức
Phúc, Nguyễn Văn Lê… đã đi sâu nghiên cứu việc tiến hành công tác hướng
nghiệp trong các trường phổ thông theo Thông tư 31-TT ngày 17/11/1982 của
Bộ GDĐT về Hướng dẫn thực hiện Quyết định 126/CP ngày 19/3/1981 của
Chính phủ về công tác HN trong trường phổ thông và sử dụng hợp lý HS tốt
nghiệp THCS, THPT ra trường. Các công trình nghiên cứu đề cập đến các
hình thức GDHN, dạy nghề trong trường phổ thông và TT KTTH-HN, bao
gồm: tổ chức lao động sản xuất cho HS phổ thông; tư vấn nghề nghiệp cho
HS; các phương thức giáo dục kỹ thuật và HN.
Nhìn chung, các nhà khoa học đã đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý
luận chung về hướng nghiệp, đồng thời, làm nổi bật vai trò quan trọng của
hoạt động GDHN đối với việc chuẩn bị nguồn nhân lực cho CNH, HĐH ở
Việt Nam trong giai đoạn 2001 - 2010. Bên cạnh đó, các tác giả cũng đã phân
tích cụ thể vai trò của quản lý nhà nước, vai trò của giáo dục nói chung và
hướng nghiệp nói riêng trong việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo
tỷ trọng thích hợp giữa công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ trong chiến lược
phát triển KT - XH của đất nước, để từ đó có cơ sở chỉ đạo xây dựng nội dung
GDHN phù hợp, làm cho con người có khả năng thích ứng với yêu cầu của thị
trường và làm chủ công nghệ mới, khoa học - kỹ thuật hiện đại.
Những vấn đề GDHN ở trường THPT đã được nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm và đề cấp tới ở nhiều mức độ khác nhau như: Phạm Tất Dong, Trần
Khánh Đức, Hà Thế Truyền, Đặng Danh Ánh, Nguyễn Viết Sự, Nguyễn Bá
Minh, Nguyễn Đức Trí, Nguyễn Văn Lê, Bùi Văn Quân… Trong các công
trình nghiên cứu tập trung chủ yếu vào các vấn đề:
- Vấn đề lịch sử phát triển hệ thống công tác HN ở các nước trên thế
giới và ở Việt Nam.

7


- Bản chất khoa học của công tác hướng nghiệp.
- Nội dung cơ bản và các hình thức hướng nghiệp.
- Vấn đề tổ chức và điều khiển công tác hướng nghiệp.
- Mục đích, vai trò, nhiệm vụ của HĐ GDHN trong trường THPT.
Một số đề tài đã được nghiên cứu như:
- “Nghiên cứu một số giải pháp khả thi trong việc ứng dụng triển khai
công tác tư vấn hướng nghiệp cho học sinh phổ thông cấp 2,3 ở thành phố Hồ
Chí Minh – Tư vấn hướng nghiệp. Thực trạng và giải pháp” - Nguyễn Toàn
(chủ nhiệm đề tài) – Trung tâm kỹ thuật và hướng nghiệp Thủ Đức – thành
phố Hồ Chí Minh. Đề tài đã phân tích hiện trạng công tác tư vấn hướng
nghiệp cho học sinh cấp 2,3 ở thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời đưa ra giải
pháp để nâng cao hiệu quả của công tác tư vấn hướng nghiệp cho học sinh
phổ thông cấp 2,3 ở thành phố Hồ Chí Minh.
- “Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh
trường THPT dân lập Mikhain Vaxilevích Lômônôxop, huyện Từ Liêm, Hà
Nội” – Võ Thị Mai Hiền - Luận văn thạc sỹ. Trong luận văn, tác giả nêu
“Quản lý công tác hướng nghiệp cho học sinh phổ thông bậc trung học tại các
trung tâm giáo dục thường xuyên trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Thực trạng
và giải pháp.” - Huỳnh Thị Tam Thanh - Luận văn thạc sỹ.
Với các cơ quan của chính phủ và cơ quan quản lý giáo dục nhận thức
được tầm quan trọng của giáo dục hướng nghiệp, ngày 19/03/1981 Hội Đồng
Chính Phủ đã ban hành quyết định 126/CP về “Công tác hướng nghiệp trong
nhà trường phổ thông và việc sử dụng hợp lý học sinh các cấp phổ thông cơ sở
và phổ thông trung học tốt nghiệp ra trường”. Quyết định nêu rõ vai trò, vị trí,
nhiệm vụ của công tác hướng nghiệp và phân công cụ thể chính quyền các cấp,
các ngành kinh tế, văn hóa từ trung ương đến cơ sở có nhiệm vụ trực tiếp giúp
đỡ các trường phổ thông trong việc đào tạo, sử dụng hợp lý và tiếp tục bồi

dưỡng học sinh phổ thông sau khi ra trường. Ngày 17/11/1981 Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành thông tư số: 31-TT hướng dẫn thực hiện Quyết
định 126/CP của Hội đồng Chính phủ. Thông tư nêu rõ vị trí, nhiệm vụ và hình
8


thức tiến hành hướng nghiệp cho học sinh trong nhà trường phổ thông, đồng
thời cũng phân công trách nhiệm cho từng thành viên đang công tác tại trường
phổ thông và các cấp quản lý để làm tốt công tác giáo dục hướng nghiệp.
Nghị quyết hội nghị lần thứ 2 BCHTW (Ban chấp hành Trung ương)
Đảng khoá VIII đã nhấn mạnh: “ Tăng cường giáo dục kĩ thuật tổng hợp và
năng lực thực hành ở bậc học phổ thông”. Vấn đề này cũng được khẳng định
tại điều 24(1) Luật giáo dục: “ Nội dung giáo dục phổ thông phải đảm bảo
yêu cầu về tính phổ thông, toàn diện, cơ bản và hướng nghiệp ”. Tiếp theo là
chỉ thị 33/2003 ngày 23/7/2003 của Bộ trưởng Bộ GD & ĐT (giáo dục & đào
tạo) về việc đẩy mạnh công tác sinh hoạt hướng nghiệp và tư vấn nghề nghiệp
cho học sinh phổ thông. Để thực hiện được nhiệm vụ mục tiêu giáo dục đào
tạo, ngành GD & ĐT nói chung và các trung tâm KTTH – HN (kĩ thuật tổng
hợp - hướng nghiệp) nói riêng cần làm tốt công tác “ Hướng nghiệp và dạy
nghề phổ thông”, tạo điều kiện cho các em có thể chọn được một nghề phù
hợp theo ý muốn, năng lực của mình, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của
địa phương và đất nước.
Luật giáo dục năm 2005 cũng nhấn mạnh chương trình giáo dục nghề
nghiệp được tổ chức thực hiện theo năm học hoặc hình thức tích luỹ tín chỉ…
và được cụ thể hoá thành giáo trình, tài liệu giảng dạy. Chương trình giáo
dục nghề nghiệp phải liên thông với các chương trình giáo dục khác.
Qua đó có thể nhận thấy vấn đề giáo dục hướng nghiệp không những
đã được các cấp quản lý, các nhà khoa học mà đã được cả xã hội quan tâm.
Ngày nay với đề án đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục thì giáo dục hướng
nghiệp càng phải được chú trọng góp đào tạo nguồn nhân lực thực sự có chất

lượng đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Các công trình
nghiên cứu chủ yếu tập trung quan tâm tới việc đổi mới nội dung, phương
pháp giáo dục hướng nghiệp, các biện pháp quản lý giáo dục hướng nghiệp
v.v..nhằm nâng cao chất lượng cho hoạt động giáo dục hướng nghiệp. Tuy
nhiên chưa có công trình nào trực tiếp đề cập đến QL-HĐGDHN ở các trường
THPT của huyện Mỹ Đức.
9


Dù vậy, quản lý hoạt động giáo GDHN cho học sinh các trường THPT
của huyện Mỹ Đức một khu vực nông thôn đang có tốc độ đô thị hóa nhanh còn
chưa được chú ý. Bởi vậy quản lý hoạt động GDHN cho học sinh trường THPT
nói chung, THPT của huyện Mỹ Đức thành phố Hà Nội nói riêng là vấn đề mà
tôi tập trung đề cập tới trong luận văn này.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu cơ sở lý luận của quản lý hoạt động GDHN để áp dụng vào
thực tiễn công tác quản lý hoạt động này ở trường THPT nói chung. Đề xuất
một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng hoạt động GDHN ở các
trường THPT huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Xây dựng cơ sở lý luận về quản lý hoạt động GDHN
Phân tích thực trạng quản lý hoạt động GDHN ở các trường THPT
huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội
5. Khách thể , đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
5.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường THPT.
5.2. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường THPT huyện
Mỹ Đức, thành phố Hà Nội .
5.3 .Phạm vi nghiên cứu

Đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu và đề xuất các biện pháp quản lý hoạt
động GDHN ở các trường THPT huyện Mỹ Đức , thành phố Hà Nội.
6. Giả thuyết khoa học
Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở các trường
THPT của huyện Mỹ Đức , thành phố Hà Nội chưa được quan tâm đúng mức
và chưa đạt được kết quả mong muốn.
Nếu áp dụng các biện pháp quản lý hoạt động GDHN có cơ sở khoa
học, phù hợp với điều kiện thực tiễn, sẽ nâng cao hiệu quả GDHN ở các

10


trường THPT huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội và đem lại hiệu quả mong
muốn.
7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, quán triệt quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về giáo dục, quản lý giáo dục, phát triển khoa học và công nghệ.
Đồng thời, tác giả vận dụng các quan điểm hệ thống - cấu trúc, lôgíc - lịch sử
và quan điểm thực tiễn để phân tích, đánh giá, xem xét các vấn đề nghiên cứu.
*Phương pháp ngiên cứu
Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận:
Phân tích, tổng hợp và khái quát hóa các tài liệu về lý luận quản lý, các
công trình khoa học liên quan đến đề tài để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm khảo sát thực tiễn.
+ Phương pháp điều tra thu thập thông tin, phân tích số liệu, dữ liệu.
Xử lý và sử dụng các thông tin đã thu thập được trong quá trình nghiên cứu
thuộc phạm vi đề tài.

+ Phương pháp phỏng vấn lấy ý kiến chuyên gia, cán bộ quản lý, phụ
huynh học sinh và học sinh tại các trường THPT của huyện Mỹ Đức thành
phố Hà Nội.
8. Những đóng góp của đề tài
Xây dựng và hoàn thiện các khái niệm:Hướng nghiệp, giáo dục hướng
nghiệp,quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp,đề xuất các biện pháp quản lý
hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường THPT
9. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu
tham khảo, phụ lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương
11 tiết.

11


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
HƯỚNG NGHIỆP Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG
1.1 Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu
1.1.1 Hướng nghiệp
Thuật ngữ hướng nghiệp (career mentoring) nếu được hiểu chính xác
nó là sự kết hợp của nhiều lĩnh vực như: đánh giá nghề nghiệp (career
assessment), quản lý nghề nghiệp (career management), phát triển nghề
nghiệp (career development)...
Theo từ điển tiếng Việt, “Hướng nghiệp” được giải thích là “thi hành
những biện pháp nhằm đảm bảo sự phân bố tối ưu (có chú ý tới năng khiếu,
năng lực, thể lực) nhân dân theo ngành và loại lao động” hoặc được hiểu là
“giúp đỡ lựa chọn hợp lý ngành nghề”.
Theo từ điển Giáo dục học “Hướng nghiệp” được hiểu là “hệ thống các

biện pháp giúp đỡ học sinh làm quen, tìm hiểu nghề, lựa chọn, cân nhắc nghề
nghiệp với nguyện vọng, năng lực sở trường của mỗi người với nhu cầu và
điều kiện thực tế khách quan của xã hội”. Công tác hướng nghiệp có ý nghĩa
kinh tế xã hội rất lớn giúp cho thanh niên có cơ hội phát huy được năng lực,
nâng cao được hiệu quả lao động, say mê sáng tạo trong nghề nghiệp. Mặt
khác, công tác hướng nghiệp giúp tránh được sự thay đổi nghề nghiệp nhiều
lần. Nhờ đó, công tác hướng nghiệp giúp hạn chế các hậu quả do nghề nghiệp
không phù hợp mang lại.
The Phạm Tất Dong thì hướng nghiệp như là một hệ thống tác động
của xã hội về giáo dục, về y học, kinh tế học nhằm giúp cho thế hệ trẻ chọn
được nghề phù hợp với hứng thú, năng lực, nguyện vọng, sở trường của cá
nhân, vừa đáp ứng được nhu cầu nhân lực của các lĩnh vực sản xuất trong nền
kinh tế quốc dân.

12


Theo các nhà giáo dục học “Hướng nghiệp” vừa là hoạt động của giáo
viên, vừa là hoạt động của học sinh và kết quả cuối cùng của quá trình hướng
nghiệp là sự tự quyết định của học sinh trong việc chọn lựa nghề nghiệp
tương lai.
Theo các nhà kinh tế học, “Hướng nghiệp” có thể được hiểu là hệ
thống những biện pháp dẫn dắt, tổ chức thành thiếu niên đi vào lao động
nghề nghiệp nhằm sử dụng hợp lý tiềm năng lao động tuổi trẻ của đất nước.
Hướng nghiệp góp phần tích cực vào quá trình phấn đấu, nâng cao năng
suất lao động xã hội.
Như vậy có thể thấy, với các tiêu chí khác nhau, ở các góc độ chuyên
môn khác nhau chúng ta có nhiều định nghĩa khác nhau cho khái niệm
“hướng nghiệp”. Qua những định nghĩa đó tôi nhận thấy rằng:
Hướng nghiệp là các hoạt động nhằm hỗ trợ mọi cá nhân chọn lựa và

phát triển chuyên môn nghề nghiệp phù hợp nhất với khả năng của cá nhân,
đồng thời thỏa mãn nhu cầu nhân lực cho tất cả các lĩnh vực nghề nghiệp của
thị trường lao động ở cấp độ địa phương và quốc gia.
Hướng nghiệp là hoạt động đòi hỏi toàn xã hội phải có trách nhiệm
tham gia. Thế hệ trẻ cần được hướng nghiệp liên tục bằng nhiều con đường,
nhiều cách thức khác nhau. Cần để cho các em lựa chọn nghề nghiệp theo
đúng năng lực, sở thích của các em nhưng cũng cần giúp các em hiểu rõ nhu
cầu nhân lực mà xã hội đặt ra và trách nhiệm của các em với xã hội có như
vậy nguồn nhân lực mới thực sự có chất lượng đáp ứng được yêu cầu và đòi
hỏi của xã hội.
Nhận xét: hướng nghiệp cũng chưa dựa vào những nghiên cứu khoa
học về nhu cầu, sở thích, năng lực của học sinh.
1.1.2 Giáo dục hướng nghiệp
Có nhiều định nghĩa khác nhau cho khái niệm “Giáo dục hướng nghiệp”

13


Tác giả Phạm Viết Vượng định nghĩa GDHN là hoạt động định hướng
nghề nghiệp của các nhà sư phạm cho học sinh, nhằm giúp họ chọn một nghề
phù hợp với hứng thú, năng lực sở trường của cá nhân và yêu cầu nhân lực
của xã hội.
Còn theo tác giả Đặng Danh Ánh thì giáo dục hướng nghiệp là một
hoạt động của tập thể sư phạm, của các cơ quan quản lý, nhà máy khác nhau,
được tiến hành với mục đích giúp học sinh chọn nghề đúng đắn với năng lực,
thể lực và tâm lí của cá nhân với nhu cầu kinh tế xã hội. Giáo dục hướng
nghiệp là một bộ phận cấu thành quá trình giáo dục – học tập trong nhà trường.
Theo một số tác giả khác thì GDHN được cho là hệ thống những biện
pháp dựa trên cơ sở tâm lí học, sinh học, y học và nhiều môn khoa học khác
nhau để giúp cho học sinh chọn nghề phù hợp với nhu cầu xã hội, đồng thời

thoã mãn tối đa nguyện vọng thích hợp với năng lực sở trường và điều kiện
tâm lí cá nhân nhằm mục đích phân phối và sử dụng có hiệu quả nhất năng
lực của lực lượng lao động có sẵn của đất nước.
Theo tôi tất cả các định nghĩa trên dù được diễn đạt khác nhau nhưng
về cơ bản đều xác định giáo dục hướng nghiệp là một hệ thống các biện pháp
giáo dục nhằm chuẩn bị cho học sinh ngay từ khi còn học ở trường phổ thông
đã sớm có ý thức lựa chọn ngành nghề vừa phù hợp với năng lực, sở thích cá
nhân, vừa phù hợp với sự phân công lao động của xã hội.
Như vậy,GDHN là hoạt động phối hợp giữa nhà trường, gia đình và
xã hội, trong đó tập thể sư phạm nhà trường giữ vai trò quyết định nhằm
giúp người học chọn nghề trên cơ sở khoa học. Khi ấy, tập thể sư phạm
phải sử dụng các biện pháp giáo dục có tính hướng dẫn, thuyết phục cao.
Các biện pháp phải không áp đặt, bảo đảm nguyên tắc hình thành hứng thú,
phải điều chỉnh, uốn nắn động cơ chọn nghề của thế hệ trẻ sao cho có sự

14


nhất trí cao giữa nguyện vọng của cá nhân với yêu cầu nhân lực của các
thành phần kinh tế, giữa năng lực cá nhân với đòi hỏi nghề. Phải có biện
pháp giáo dục thích hợp để dung hoà giữa nguyện vọng cá nhân, năng lực
cá nhân với yêu cầu nhân lực của xã hội và đòi hỏi của nghề. Nếu không
dung hoà được các yếu tố này sẽ dẫn tới tình trạng thừa/thiếu lao động
hoặc tình trạng năng suất lao động không cao vì không có sự phù hợp của
cá nhân với nghề. Bởi vậy mà giáo dục hướng nghiệp phải gắn liền với
giáo dục đạo đức, tư tưởng chính trị nhằm giúp HS giải quyết đúng mối
quan hệ giữa ước mơ và hiện thực, giữa cái học sinh mong muốn với cái
học sinh có thể làm và cái học sinh cần phải làm, giúp học sinh nhận thức
được trách nhiệm của mình đề điều chỉnh hài hoà giữa lợi ích của cá nhân
với lợi ích của xã hội.

K. K. Platonov đã đưa ra tam giác hướng nghiệp như sau:

Định hướng nghề nghiệp

Các nghề và yêu cầu
của chúng

Tư vấn
nghề

Thị trường lao
động

Phẩm chất, năng lực, hoàn cảnh
cá nhân.

Tuyển chọn
nghề

Sơ đồ 1.2. Tam giác hướng nghiệp (K. K. Platonov)

15


Theo tam giác hướng nghiệp này, mỗi hoạt động giáo dục hướng
nghiệp thuộc các góc của tam giác hướng nghiệp được dựa trên cơ sở là hai
yếu tố cơ bản tương ứng với các cạnh giao thoa tạo nên góc đó.
Dựa trên tam giác hướng nghiệp của K.K. Platonov ta thấy:
Định hướng nghề nghiệp phải dựa trên hai yếu tố là : “thị trường lao
động” và “các nghề và yêu cầu của chúng”. Định hướng nghề nghiệp là

việc thông tin cho HS về đặc điểm hoạt động và yêu cầu phát triển của các
nghề trong xã hội, đặc biệt là các nghề và các nơi đang cần nhiều lao động
trẻ tuổi có văn hoá, thông tin cho học sinh về những yêu cầu tâm sinh lý
của mỗi nghề, về tình hình phân công và yêu cầu điều chỉnh lao động ở
cộng đồng dân cư, về hệ thống trường lớp đào tạo nghề của Nhà nước, tập
thể và tư nhân. Định hướng nghề gồm: Giáo dục nghề nghiệp và tuyên
truyền nghề nghiệp. Trong đó giáo dục nghề nghiệp giúp học sinh làm
quen với một số nghề cơ bản, phổ biến của địa phương và xã hội, đồng
thời tìm hiểu xu thế phát triển các ngành nghề cùng với những yêu cầu
tâm sinh lý do ngành nghề đó đặt ra cho người lao động. Giáo dục nghề
nghiệp tạo điều kiện ban đầu để học sinh phát triển năng lực tương ứng
với hứng thú nghề nghiệp đã hình thành, giáo dục học sinh thá độ đúng
đắn, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc trong dự định chọn nghề củai học
sinh. Khác với giáo dục nghề nghiệp, tuyên truyền nghề nghiệp làm cho
học sinh chú ý đến những nghề đang phát triển có nhu cầu cấp thiết về
nhân lực, giới thiệu các gương mặt thành đạt trong nghề nghiệp, sáng tạo
trong lao động sản xuất, qua đó điều chỉnh hứng thú, động cơ chọn nghề
của học sinh.
Tư vấn nghề phải dựa trên hai yếu tố là “các nghề và yêu cầu của chúng”
và “phẩm chất, năng lực, hoàn cảnh cá nhân”. Tư vấn nghề là một hệ thống
những biện pháp tâm lý giáo dục nhằm đánh giá toàn bộ năng lực thể chất và trí
tuệ của thanh thiếu niên, đối chiếu các năng lực đó với những yêu cầu do nghề

16


đặt ra đối với người lao động, trên cơ sở đó cho họ những lời khuyên về chọn
nghề có căn cứ khoa học, loại bỏ những trường hợp may rủi, thiếu chín chắn khi
chọn nghề. Tư vấn nghề chẩn đoán những thuộc tính và phẩm chất quan trọng
của nghề, đối chiếu cấu trúc tâm lý của nhân cách và hoạt động nghề nghiệp, xác

định con đường tiếp tục phát triển nhân cách. Có nhiều kiểu tư vấn nghề:
Tư vấn thông tin hướng dẫn nhằm giới thiệu với thanh thiếu niên nội
dung nghề mà mình lựa chọn.
Tư vấn chẩn đoán nhằm bộc lộ hứng thú, thiên hướng, năng lực và
những phảm chất nghề chuyên biệt của con người trên cơ sở nghiên cứu và đo
đạc nhân cách con người một cách toàn diện. Mục đích của tư vấn chẩn đoán
là xác định trong những lĩnh vực hoạt động nào con người có thể lao động
thành công nhất, tức là đem lại lợi ích tối đa cho xã hội, đồng thời mang lại
niềm vui và sự hài lòng cho bản thân người lao động.
Tư vấn y học nhằm bộc lộ sự phù hợp giữa trang thái sức khoẻ con
người với yêu cầu của nghề mà họ chọn.
Tư vấn hiệu chỉnh được tiến hành trong trường hợp ý định nghề nghiệp
của con người không phù hợp với khả năng và năng lực thực tế của họ.
Tuyển chọn nghề là phải dựa trên cơ sở “phẩm chất, năng lực, hoàn
cảnh cá nhân” và “thị trường lao động”. Tuyển chọn nghề là xác định xem
các đối tượng dự tuyển có phù hợp với nghề cụ thể hay không để quyết định
có tuyển vào học việc hay làm việc hay không.
Ở trường phổ thông, GDHN là hình thức hoạt động của thầy và trò, có
mục đích giáo dục HS trong việc chọn nghề, giúp các em tự quyết định nghề
nghiệp tương lai trên cơ sở phân tích có khoa học về năng lực, hứng thú của bản
thân và nhu cầu nhân lực của các ngành sản xuất trong xã hội.
Tuy nhiên, cần thấy rằng quan niệm hay mô hình của Platonov được
xây dựng cho nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của Liên Xô cũ!

17


Do vậy, cần phải có mô hình giáo dục hướng nghiệp mới phù hợp với
nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN.
1.1.3. Quản lý

Quản lý là một khái niệm rộng lớn được sử dụng trong nhiều lĩnh vực
khác nhau. Những nhà xã hội học nghiên cứu hoạt động quản lý trên cơ sở
mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, các nhà hoạt động kinh
tế nghiên cứu hoạt động quản lý trên cơ sở hiệu quả kinh tế… Chính vì thế
khi đưa ra khái niệm về quản lý, các tác giả thường gắn với các loại hình quản
lý cụ thể phụ thuộc vào lĩnh vực nghiên cứu hay thực tế công việc quản lý của
mình. Cụ thể:
Frederick Winslow Taylor (1856-1915) là người sáng lập ra thuyết
quản lý theo khoa học, theo ông thì: “Quản lý là biết được chính xác điều bạn
muốn người khác làm, và sau đó hiểu được rằng đã hoàn thành công việc một
cách tốt nhất và rẻ nhất” [13, tr.89]
Henry Fayon (1845-1925), cha đẻ của thuyết quản lý hành chính lại cho
rằng: “Quản lý là một hoạt động mà mọi tổ chức đều có, nó gồm 5 yếu tố tạo
thành là: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, điều chỉnh và kiểm soát. Quản lý chính là
thực hiện kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo điều chỉnh và kiểm soát” [12, tr.35].
Harold Koontz, được coi là người tiên phong của lý luận quản lý hiện
đại viết: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ
lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Mục tiêu của mọi cá thể
đạt được mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn
của cá nhân ít nhất” [8, tr.20].
Các nhà nghiên cứu trong nước cũng đưa ra những quan điểm khác
nhau về quản lý:
Theo Nguyễn Thị Mỹ Lộc và Nguyễn Quốc Chí thì Quản lý là “tác
động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý
trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của
tổ chức”[12, tr.1].
18


Theo Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ thì: “Quản lý là một quá trình định

hướng, quá trình có mục tiêu. Quản lý một hệ thống là một quá trình tác động
đến hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này
đặc trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý mong muốn”[15,
tr.32-36].
Theo Nguyễn Đức Trí: “Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch
của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động nói chung là đối tượng
quản lý nhằm thực hiện mục tiêu đã dự kiến” [15, tr.1].
Theo Lưu Xuân Mới: “Quản lý là một hệ thống tác động khoa học nghệ
thuật vào từng thành tố của hệ thống bằng phương pháp thích hợp nhằm đạt
được những mục tiêu đề ra của hệ thống và cho từng thành tố của hệ
thống”[11, tr.1]
Theo từ điển Tiếng Việt thì Quản lý là: “Tổ chức, điều khiển hoạt động
của một đơn vị, một cơ quan”
Như vậy, khái niệm quản lý được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau
tùy theo từng cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên các quan điểm trên đều đề
cập đến bản chất chung của khái niệm quản lý:
- Quản lý là sự tác động liên tục có định hướng, có chủ đích của chủ thể
quản lý lên khách thể quản lý trong một tổ chức thông qua quá trình lập kế
hoạch, tổ chức lãnh đạo và kiểm tra nhằm đạt được mục tiêu đặt ra trong điều
kiện biến động của môi trường.
- Quản lý vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Quản lý mang tính khoa
học vì nó luôn là hoạt động có tổ chức, có định hướng dựa trên những quy
luật, những nguyên tắc và phương pháp hoạt động cụ thể. Quản lý còn mang
tính nghệ thuật vì nó là một hoạt động thực tiễn vô cùng phong phú đầy biến
động, không có những nguyên tắc chung cho mọi tình huống. Để đạt được
mục tiêu đề ra của tổ chức người quản lý cần có những bí quyết sắp xếp
nguồn nhân lực, nghệ thuật giao tiếp, kỹ năng ứng xử, khả năng thuyết phục
đối với mọi thành viên trong tổ chức.

19



Cùng với sự phát triển chung của xã hội hiện nay, vai trò của quản lý
ngày càng được nâng cao. Vì vậy, mỗi cấp quản lý, mỗi lĩnh vực hoạt động
cần vận dụng lý luận chung và lý luận cụ thể để phù hợp với quy mô và đặc
thù của tổ chức mình qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý.
Có thể rút ra kết luận là quản lý của Việt Nam nhìn chung là chưa dựa
vào các bằng chứng khoa học. Để có thể đổi mới thực hiện có hiệu quả công
tác quản lý cần phải áp dụng những cơ sở khoa học, các nghiên cứu khoa học
trong nước cũng như nước ngoài về công tác quản lý.
1.1.4. Quản lý giáo dục
Cũng như các hoạt động khác của xã hội, ngay từ khi các tổ chức giáo dục
đầu tiên được hình thành thì đã có hoạt động QLGD. Khoa học quản lý giáo dục
trở thành một bộ phận của khoa học quản lý nói chung nhưng nó là một khoa
học tương đối độc lập vì tính chất đặc thù của nền giáo dục quốc dân.
Theo M. I. Kônđacốp, chuyên gia giáo dục Liên Xô cũ: “Quản lý giáo dục
là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể quản
lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ Bộ đến trường)
nhằm mục đích đảm bảo việc hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở
nhận thức và vận dụng những quy tắc chung của xã hội cũng như những quy luật
của quá trình giáo dục, của sự phát triển tâm thế và tâm lý trẻ em” [22, tr.124].
Ở Việt Nam theo tác giả Nguyễn Đức Trí: “Quản lý giáo dục là hệ thống
những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ
thống giáo dục) nhằm làm cho hệ thống vận hành theo đường lối và nguyên lý
giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường XHCN Việt
Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học – giáo dục thế hệ trẻ, đưa giáo dục
tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất” [15, tr.35].
Tác giả Đặng Quốc Bảo thì cho rằng: “ QLGD là hoạt động điều hành
phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy mạnh mẽ công tác đào tạo thế
hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội” [7]


20


Theo Nguyễn Thị Mỹ Lộc và Nguyễn Quốc Chí cho rằng: “Quản lý
giáo dục là hoạt động có ý thức bằng cách vận dụng các quy luật khách quan
của các cấp quản lý giáo dục tác động đến toàn bộ hệ thống giáo dục nhằm
làm cho hệ thống đạt được mục tiêu của nó” [12]
Như vậy, có thể nói hệ thống giáo dục là một hệ thống mở, luôn vận
động và phát triển theo quy luật chung và chịu sự quy định của điều kiện kinh
tế - xã hội. Các định nghĩa trên cũng cho thấy QLGD luôn luôn phải đổi mới,
đảm bảo tính năng động, khả năng tự điều chỉnh, thích ứng của giáo dục đối
với sự vận động và phát triển chung.
Quản lý giáo dục có đầy đủ 4 chức năng của quản lý đó là:
+ Chức năng Dự báo/ Kế hoạch
+ Chức năng Tổ chức
+ Chức năng Chỉ đạo
+ Chức năng Kiểm tra/ Đánh giá
Các chức năng này liên hệ chặt chẽ với nhau bằng thông tin phản hồi
đa chiều, có thể minh họa theo sơ đồ sau:
Kế hoạch

Kiểm tra

TT
QL

Tổ chức

Chỉ đạo


Sơ đồ 1.1. Sơ đồ hóa các chức năng trong quá trình quản lý giáo dục
Tùy theo đối tượng quản lý mà quản lý giáo dục có nhiều cấp độ khác
nhau. Theo Nguyễn Phúc Châu thì quản lý giáo dục được chia ra:

21


- Quản lý giáo dục ở cấp độ vĩ mô (quản lý hệ thống giáo dục): Ở cấp
độ này, “Quản lý giáo dục” được hiểu là những tác động tự giác, có ý thức, có
mục dích, có kế hoạch, có hệ thống và hợp quy luật,… của chủ thể quản lý
giáo dục các cấp đến các mắt xích của hệ thống giáo dục nhằm thực hiện có
chất lượng và hiệu quả việc tổ chức, huy động, điều phối, giám sát và điều
chỉnh,… các nguồn lực giáo dục (nhân lực, vật lực, tài lực và thông tin) để hệ
thống giáo dục vận hành đạt được mục tiêu phát triển giáo dục.
- Quản lý giáo dục ở cấp độ vi mô (quản lý một cơ sở giáo dục): Ở cấp
độ này, quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động tự giác, có ý
thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống và hợp quy luật,… của chủ thể
quản lý một cơ sở giáo dục đến tập thể GV, CNV, tập thể người học và các
lực lượng tham gia giáo dục khác trong và ngoài cơ sở giáo dục đó, để thực
hiện có chất lượng và hiệu quả hoạt động giáo dục và dạy học, nhằm làm cho
cơ sở giáo dục vận hành luôn luôn ổn định và phát triển để đạt tới mục tiêu
đào tạo của cơ sở giáo dục đó.
Có thể nhận xét là QLGD cũng chưa dựa vào bằng chứng khoa học: ví
dụ rất khó tìm được số liệu và những phân tích khoa học về đối tượng bị quản
lý, cụ thể không biết bao nhiêu % học sinh trung học cơ sở tiếp tục học vào
đại học, bao nhiêu học nghề và bao nhiêu không học mà đi làm nghề.
1.1.5 Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp
Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp là quá trình tác động có
mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong hoạt

động giáo dục hướng nghiệp nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Quản lý hoạt động GDHN là nhiệm vụ của các nhà quản lý giáo dục
trong các trường phổ thông. Người quản lý phải xác định chính xác mục tiêu,
nội dung, hình thức giáo dục hướng nghiệp. Người quản lý phải xây dựng kế
hoạch, tổ chức bộ máy, chỉ đạo thực hiện và kiểm tra đánh giá hoạt động giáo
dục hướng nghiệp trong nhà trường. Trên cơ sở đó tổng kết, rút kinh nghiệm
để hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường ngày càng tốt hơn.

22


Ngoài ra người quản lý cũng phải cập nhật tình hình xã hội, nắm được
nhu cầu nghề nghiệp của xã hội, chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất
nước, của địa phương để có thể định hướng nghề nghiệp cho học sinh một
cách hiệu quả nhất.
Quản lý hoạt động GDHN cần phải dựa trên nghiên cứu khoa học về
nhu cầu thị trường lao động, đặc điểm và nhu cầu năng lực của thanh thiếu
niên, chính sách, cơ sở vật chất cho giáo dục và nhiều yếu tố khác nữa. Tránh
được hiện tượng thừa thầy thiếu thợ mà một số quốc gia đang mắc phải và
cho làm nguồn ngân sách nhà nước cấp cho giáo dục và đào tạo không bị lãnh
phí. Đáp ứng được nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công cuộc công
nghiệp hóa hiện đại
1.2 Những vấn đề cơ bản về hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các
trường trung học phổ thông
1.2.1. Mục tiêu GDHN ở trường phổ thông.
a, Về kiến thức:
- Hiểu được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc lựa chọn nghề nghiệp
tương lai.
- Hiểu được một số thông tin cơ bản về định hướng phát triển kinh tếxã hội của địa phương, đất nước và khu vực; về thế giới nghề nghiệp, thị
trường lao động, hệ thống giáo dục nghề nghiệp (TCCN và DN), CĐ, ĐH ở

địa phương và cả nước.
b, Về kĩ năng:
- Tự đánh giá được năng lực bản thân và điều kiện gia đình trong việc
định hướng nghề nghiệp tương lai.
- Tìm kiếm được những thông tin về nghề, về thị trường lao động và cơ
sở đào tạo cần thiết cho bản thân trong việc chọn nghề.

23


- Định hướng và lựa chọn được nghề nghiệp tương lai cho bản thân.
c, Về thái độ:
- Chủ động tự tin trong việc chọn nghề phù hợp.
- Có hứng thú và hướng chọn nghề đúng đắn.
1.2.2. Nội dung GDHN
GDHN trong nhà trường THPTgồm 3 nội dung chủ yếu:
- Định hướng nghề nghiệp: là nhằm cung cấp cho HS những thông tin
về tình hình phát triển kinh tế của đất nước của địa phương, về nhu cầu sử
dụng lao động, về thế giới nghề nghiệp, về HĐ của những ngành nghề cơ bản,
nghề chủ yếu và những yêu cầu của nghề đối với người lao động. Qua đó giúp
HS đánh giá bản thân và lựa chọn nghề có chủ định.
- Tư vấn HN là hệ thống những biện pháp tâm lý – giáo dục để đánh
giá những phẩm chất, năng lực thể chất và tinh thần của thanh thiếu niên, đối
chiếu những yêu cầu do nghề đặt ra đối với người lao động, có cân nhắc đến
nhu cầu lao động của các thành phần kinh tế, nhằm xác định nhóm nghề phù
hợp. Trên cơ sở đó cho HS những lời khuyên chọn nghề có căn cứ khoa học,
loại bỏ những trường hợp may rủi, thiếu chín chắn trong khi chọn nghề. Tư
vấn nghề có thể phân ra thành hai loại:
+ Tư vấn sơ bộ: GV chủ nhiệm hoặc GV bộ môn đóng vai trò nhà tư
vấn, từ những hiểu biết về yêu cầu của một ngành, nghề ở một số trường hoặc địa

phương, về nhu cầu nhân lực và năng lực thực tế của HS cho HS những lới khuyên
cần thiết về sự lựa chọn nghề, chọn trường sau khi tốt nghiệp trung học PT.
+ Tư vấn chuyên sâu: Tiến hành trên cơ sở khoa học, đảm bảo độ chính
xác cao nhờ vào các máy móc hiện đại. Điều kiện để có tư vấn chuyên sâu đòi
hỏi phải có chuyên gia tư vấn đựoc đào tạo căn bản, có tay nghề cao như nhà
tâm lý học, các nhà giáo dục học, các bác sỹ…

24


×