Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thủ tục phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán (phá sản) theo luật phá sản 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.26 KB, 17 trang )

BÀI TẬP TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
CHỦ ĐỀ 5: Những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về
thủ tục phục hồi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán?
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, tại nhiều quốc gia có nền kinh tế lớn mạnh, phá sản doanh
nghiệp là hiện tượng kinh tế - xã hội tồn tại khách quan trong tiến trình lịch sử
nền kinh tế thị trường. Tương tự như vậy, đối với nền kinh tế thị trường như ở
Việt Nam, hiện tượng này cũng không phải là hiếm. Có thể nhận định rằng đây
là sản phẩm khách quan của quá trình cạnh tranh, của quá trình đào thải và sự
chọn lọc tự nhiên: các chủ thể kinh doanh làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả dẫn đến
mất khả năng thanh toán, tất yếu phải chấm dứt sự tồn tại của mình qua việc bị
tuyên bố phá sản và điều đó đồng nghĩa với việc chỉ có các doanh nghiệp biết
tận dụng thời cơ, năm bắt cơ hội cũng như hoạt động thực sự có hiệu quả mới có
thể tiếp tục tồn tại trong nền kinh tế. Phá sản không những có vai trò thanh lọc
thị trường, cơ cấu lại nền kinh tế, làm cho kinh tế thị trường trở nên đúng với
bản chất của nó. Mặt khác, luật phá sản còn giúp các doanh nghiệp có cơ hội
phục hồi hoạt động kinh doanh của mình.
Phục hồi hoạt động kinh doanh là một nôi dung quan trọng trong thủ tục
phá sản. Trong điều kiện ngày nay, pháp luật phá sản các nước trên thế giới luôn
đề cao và chú trọng điều chỉnh thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh. Không
nằm ngoài xu hướng chung này, pháp luật nước ta cũng có những điều chỉnh
nhất định đối với thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản.Chính vì thực tế đã và đang diễn ra như vậy, những quy
định của pháp luật Việt Nam về thủ tục phục hồi doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán đang được không chỉ các doanh nghiệp mà cả người tiêu dùng hết
sức quan tâm. Điều đó khiến em có động lực để đặt mục tiêu nghiên cứu chủ đề:
“Những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thủ tục phục hồi
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán”.


B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ


I. Lý luận chung về thủ tục phục hồi doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán
1. Khái niệm doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Theo quy định tại khoản 1, điều 4, Luật Phá sản 2014: “Doanh nghiệp,
hợp tác xã mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực
hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn
thanh toán.”. Như vậy, chỉ khi tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản thì doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán mới được coi là ở trong tình trạng phá sản. Hơn
nữa, nhà lập pháp đã quy định một giai đoạn chờ là ba tháng kể từ ngày khoản
nợ liên quan đến hạn, qua đó tạo thêm cơ hội để doanh nghiệp thanh toán nợ và
giảm áp lực “đe dọa” nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản từ phía chủ nợ.
Đó là phương diện pháp lý, về phương diện lý luận, khi nghiên cứu dấu
hiệu mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp cần chú ý đến các đặc điểm:
Thứ nhất, mất khả năng thanh toán không có nghĩa là doanh nghiệp hoàn
toàn cạn kiệt tài sản. Doanh nghiệp có thể còn rất nhiều tài sản nhưng tài sản đó
không bán được nên doanh nghiệp không có tiền để thanh toán các khoản nợ.
Thứ hai, mất khả năng thanh toán không chỉ là hiện tượng doanh nghiệp
không thể thanh toán nợ mà nó còn thể hiện doanh nghiệp đang lâm vào tình
trạng khó khăn, tài chính tuyệt vọng, không có lối thoát, trừ phi có sự can thiệp
của Tòa án hoặc sự thông cảm của chủ nợ.
Thứ ba, đối với doanh nghiệp tư nhân, trong hoạt động sản xuất kinh
doanh có giao kết hợp đồng mà sau đó phát sinh ra các khoản nợ thì những
khoản nợ này được coi là cơ sở để đánh giá tình trạng phá sản của doanh nghiệp.
Nhưng cũng cần phân biệt với các khoản nợ do chủ doanh nghiệp tư nhân xác
lập trên cơ sở những hợp đồng phục vụ cho sinh hoạt cá nhân hoặc gia đình họ.


Thứ tư, pháp luật không nhất thiết quy định cụ thể mất khả năng thanh
toán một khoản nợ bao nhiêu thì lâm vào tình trạng phá sản, bởi tình hình tài
chính trong các doanh nghiệp rất khác nhau.

Thứ năm, bản chất của việc mất khả năng thanh toán không hẳn trùng với
biểu hiện bên ngoài là trả được nợ hay không.
2. Khái niệm phá sản
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, hàng ngày, trên các phưong tiện
thông tin đại chúng ta có thể bắt gặp vô số những thông báo thành lập doanh
nghiệp, cùng với đó cũng là rất nhiều những thông báo về giải thể, phá sản
doanh nghiệp. Sau khi thành lập, bất kể ai cũng muốn doanh nghiệp của mình
hoạt động, làm ăn có hiệu quả, nhưng vì rất nhiều lí do mà nhiều doanh nghiệp,
làm ăn thua lỗ, không thực hiện được mục tiêu kinh doanh, mất khả năng thanh
toán các khoản nợ và lâm vào tình trạng phá sản. Bất cứ doanh nghiệp nào cũng
đều không hề mong muốn đi đến kết cục này nhưng đây lại là điều phổ biến
trong nền kinh tế thị trường nếu doanh nghiệp không có những chiến lược đúng
đắn để thực hiện công việc kinh doanh của mình. Vì vậy pháp luật có quy định
tại khoản 2, điều 4, Luật phá sản 2014:“Phá sản là tình trạng của doanh nghiệp,
hợp tác xã mất khả năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên
bố phá sản”. Như vậy, phá sản là khái niệm dùng để chỉ doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản với các điều kiện: mất khả năng thanh toán và bị Tòa án nhân
dân ra quyết định tuyên bố phá sản. Từ đây có thể thấy, doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản chưa hẳn đã phá sản, doanh nghiệp chỉ bị coi là phá sản khi có
quyết định của Tòa án.
Quy định này so với quy định của Luật phá sản 2004 thì tiêu chí xác định
tình trạng phá sản đã được quy định theo hướng ngắn gọn, đơn giản và đi vào
bản chất mà không căn cứ vào việc doanh nghiệp không thanh toán được các
khoản nợ đến hạn và không căn cứ vào yêu cầu của chủ nợ. Luật Phá sản 2014
không còn dùng khái niệm “lâm vào tình trạng phá sản”, hay “không có khả


năng thanh toán được” như trước mà dùng khái niệm “mất khả năng thanh
toán” và “không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ” cho thấy, Luật Phá
sản 2014 không yêu cầu việc xác định hay phải có căn cứ chứng minh doanh

nghiệp không có khả năng thanh toán bằng bảng cân đối tài chính... Như vậy, chỉ
cần xác định là có khoản nợ và đến thời điểm tòa án quyết định việc mở thủ tục
phá sản mà doanh nghiệp vẫn không thanh toán là tòa án có thể ra quyết định
mở thủ tục phá sản. Quy định này là bước tiến của Luật phá sản 2014, phù hợp
với thông lệ chung trên thế giới tạo điều kiện cho việc sớm mở thủ tục phá sản
cũng như khả năng phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
3. Thủ tục phục hồi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Hiện nay, trong khoa học pháp lý và các văn bản pháp luật chưa đưa ra
khái niệm thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Nhìn
chung, có rất nhiều ý kiến bàn về vấn đề này, như về bản chất thủ tục phục hồi
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Trong các công trình khoa học có đưa
ra quan điểm về thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản:
Thứ nhất, phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là thủ tục
được tiến hành bởi Tòa án. Đây là một giai đoạn trong thủ tục giải quyết yêu cầu
phá sản của doanh nghiệp sau khi Tòa án tiến hành mở thủ tục giải quyết yêu
cầu phá sản và chính Tòa án là người quyết định thủ tục phục hồi này.
Thứ hai, đối tượng áp dụng thủ tục phục hồi là các nhà kinh doanh (doanh
nghiệp) mất khả năng thanh toán nợ. Đây là lúc doanh nghiệp lâm vào tình trạng
khó khăn về tài chính nhưng không có nghĩa là hoàn toàn cạn kiệt tài sản. Thẩm
phán xem xét và quyết định những doanh nghiệp còn có khả năng phục hồi
hoặc vì tầm quan trọng của doanh nghiệp đối với nền kinh tế, xã hội, an ninh,
quốc phòng mới là đối tượng áp dụng của thủ tục.
Thứ ba, thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là một
thủ tục đặc biệt trong thủ tục phá sản. Do thủ tục phục hồi được áp dụng khi có


sự đồng ý của hội nghị chủ nợ, không có sự phân chia tài sản doanh nghiệp
trong quá trình áp dụng thủ tục phục hồi...
4. Vai trò của thủ tục phục hồi doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán

Thứ nhất, bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp, đưa doanh nghiệp thoát khỏi
khó khăn về tài chính, hoạt động kinh doanh trở lại bình thường. Đây là mục
đích cơ bản và tiên quyết để xây dựng và áp dụng thủ tục phục hồi doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản.
Thứ hai, tăng hiệu quả trả nợ cho các chủ nợ, qua đó bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho các chủ nợ và những người có liên quan. Thể hiện qua việc
Luật Phá sản quy định cho các chủ nợ có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản, đề xuất phương án phục hồi kinh doanh...Điều này góp phần bảo đảm tài
sản của doanh nghiệp, từ đó đảm bảo các tài sản thanh toán nợ cho các chủ nợ.
Để bảo vệ tối đa quyền và lợi ích họp pháp cho các chủ nợ và những người có
liên quan, phục hồi doanh nghiệp là giải pháp mà họ luôn mong muốn. Vì khi
doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khó khăn và tiếp tục kinh doanh trở lại thì
mới có khả năng thanh toán nợ.
Thứ ba,góp phần bảo đảm, duy trì trật tự và ổn định xã hội. Khi một
doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản thì kéo theo là các bạn hàng, đối tác của họ
cũng chịu sự tác động nhất định về tài chính. Và vấn đề khó giải quyết nữa là
việc làm và tiền lương của người lao động trong điều kiện cung lớn hơn cầu hiện
nay. Nếu phục hồi thành công và giải quyết thỏa đáng quyền lợi giữa chủ nợ và
con nợ sẽ góp phần làm giảm đi những mâu thuẫn, căng thẳng có thể có giữa
những chủ thể này. Qua đó, góp phần duy trì trật tự, ổn định xã hội và làm lành
mạnh hóa môi trường kinh doanh.

II. Quy định của pháp luật về thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh


1. Xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh
1.1. Chủ thể xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh
Theo quy định tại khoản 1, điều 87, Luật Phá sản 2014 thì doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh

doanh trên tinh thần Nghị quyết của hội nghị chủ nợ. Nội dung phương án có ý
nghĩa hết sức quan trọng, quyết định đến sự thành công của thủ tục phục hồi. Vì
vậy mà các chủ thể xây dựng phương án đều cố gắng đưa ra các phương án, giải
pháp hữu hiệu nhất và phù hợp nhất với tình hình thực tế của doanh nghiệp để
nhanh chóng thoát khỏi tình trạng khó khăn.
1.2. Nội dung phương án phục hồi hoạt động kỉnh doanh
Điều 88, Luật Phá sản năm 2014 quy định những nội dung bắt buộc có
trong phương án là: kế hoạch, giải pháp cần thiết phục hồi doanh nghiệp và các
điều kiện, thời hạn và kế hoạch thanh toán các khoản nợ. Các biện pháp cần thiết
được liệt kê như: huy động vốn mới, thay đổi mặt hàng sản xuất, đổi mới công
nghệ sản xuất, giảm nợ, miễn nợ, hoãn nợ...Bên cạnh đó Luật Phá sản cũng đưa
ra những biện pháp mang tính dự liệu “các biện pháp khác không trái pháp
luật”(điểm h khoản 2 điều 88).
Đây chính là những nội dung bắt buộc của phương án phục hồi kinh
doanh bởi thông qua nội dung đó, nó vừa thể hiện yếu tố cứu vãn, phục hồi hoạt
động kinh doanh, vừa đảm bảo được lợi ích của các chủ nợ trong quá trình áp
dụng thủ tục phục hồi. Vì thế, việc hội nghị chủ nợ có thông qua hay không
thông qua phương án phục hồi doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào nội dung
của phương án phục hồi được trình bày ở hội nghị chủ nợ. Tại hội nghị, các chủ
nợ sẽ xem xét, đánh giá tính khả thi và hiệu quả của nội dung phương án phục
hồi hoạt động kinh doanh để đi đến quyết định. Điều quan tâm lớn nhất của chủ
nợ khi xem xét nội dung của phuơng án phục hồi kinh doanh là thời gian, kế
hoạch thanh toán nợ cho các chủ nợ nhưng các chủ nợ còn xem xét khả năng
thanh toán nợ theo thời hạn cam kết từ phía doanh nghiệp.


1.3. Thời hạn xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh
Việc xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh phải được thực
hiện trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày hội nghị chủ nợ thông qua Nghị quyết.
Sau khi doanh nghiệp xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh rồi

gửi cho Thẩm phán, chủ nợ, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý cho ý kiến.
Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được phương án phục hồi hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp thì chủ nợ, Quản tài viên, doanh nghiệp quản
lý, thanh lý tài sản gửi ý kiến cho doanh nghiệp để hoàn thiện phương án phục
hồi hoạt động kinh doanh báo cáo Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý
tài sản, chủ nợ, Ban đại diện chủ nợ (nếu có). Đồng thời, Quản tài viên, doanh
nghiệp quản lý, thanh lý tài sản có nhiệm vụ báo cáo Thẩm phán. Trong thời hạn
15 ngày kể từ ngày nhận được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của
Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, Thẩm phán xem xét trước
khi đưa phương án ra Hội nghị chủ nợ xem xét thông qua. (Điều 87, Luật Phá
sản 2014)
2. Nội dung và trình tự hội nghị chủ nợ thông qua phương án phục
hồi hoạt động kinh doanh
Điều 91, Luật Phá sản 2014 quy định về nội dung và trình tự hội nghị chủ
nợ thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh. Theo đó, trong thời hạn
10 ngày làm việc kể từ ngày quyết định đưa phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán ra Hội nghị chủ nợ, Thẩm
phán triệu tập Hội nghị chủ nợ để xem xét, thông qua phương án phục hồi hoạt
động kinh doanh.
Hội nghị chủ nợ được tiến hành như sau: Thẩm phán được phân công phụ
trách khai mạc hội nghị chủ nợ. Hội nghị chủ nợ biểu quyết thông qua việc cử
Thư ký hội nghị chủ nợ theo đề xuất của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý,
thanh lý tài sản để ghi biên bản hội nghị chủ nợ. Quản tài viên, doanh nghiệp
quản lý, thanh lý tài sản báo cáo về sự có mặt, vắng mặt của người tham gia Hội


nghị chủ nợ theo thông báo triệu tập của Tòa án nhân dân, lý do vắng mặt và
kiểm tra căn cước của người tham gia hội nghị chủ nợ. Thẩm phán thông báo
với hội nghị chủ nợ về những người tham gia hội nghị chủ nợ. Đại diện doanh
nghiệp trình bày phương án phục hồi hoạt động kinh doanh. Người tham gia hội

nghị chủ nợ trình bày ý kiến của mình về phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh. Hội nghị chủ nợ thảo luận và biểu quyết thông qua phương án phục hồi
hoạt động kinh doanh.
Về chủ thể thông qua: từ thủ tục trên, có thể thấy hội nghị chủ nợ có thẩm
quyền quyết định những vấn đề quan trọng trong quá trình áp dụng thủ tục phục
hồi nói chung và thông qua phương án phục hồi nói riêng. Quyền quyết định đó
được thể hiện ở việc có chấp nhận hoặc không chấp nhận phương án phục hồi
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, hội nghị chủ nợ là tổ chức
duy nhất có thẩm quyền quyết định việc thông qua phương án phục hồi hoạt
động kinh doanh.
Về thể thức thông qua: theo quy định của Luật phá sản việc thông qua bất
kỳ nội dung nào trong quá trình áp dụng thủ tục phục hồi tại hội nghị chủ nợ đều
được thể hiện bằng hình thức biểu quyết.
Về điều kiện hợp lệ thông qua: Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ thông
qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh khi được quá nửa tổng số chủ nợ
không có bảo đảm có mặt và đại diện cho từ 65% tổng số nợ không có bảo đảm
trở lên biểu quyết tán thành. Trường hợp phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh có sử dụng tài sản bảo đảm thì phải quy định rõ thời gian sử dụng tài sản
có bảo đảm, phương án xử lý tài sản bảo đảm và phải được chủ nợ có bảo đảm
bằng tài sản đó đồng ý (khoản 5, điều 91)
3. Trình tự, thủ tục thực hiện phương án phuc hồi hoạt động kinh
doanh doanh nghiệp lâm vào tình trang phá sản
3.1. Công nhận nghị quyết phương án phục hồi kinh doanh.
Điều 92 Luật Phá sản năm 2014 quy định:


1.Thẩm phán ra quyết định công nhận nghị quyết của Hội nghị chủ nợ
thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác
xã mất khả năng thanh toán. Nghị quyết này có hiệu lực đối với tất cả người
tham gia thủ tục phá sản có liên quan.

Kể từ ngày nghị quyết này có hiệu lực thì những điều cấm, chịu sự giám
sát đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã quy định tại
Điều 48 và Điều 49 của Luật này chấm dứt.
2. Tòa án nhân dân gửi quyết định công nhận nghị quyết của Hội nghị
chủ nợ thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh cho doanh nghiệp,
hợp tác xã mất khả năng thanh toán, chủ nợ, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp
trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định.
Thẩm phán phụ trách vụ việc phá sản là chủ thể có thẩm quyền ra quyết
định công nhận Nghị quyết về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh. Quyết
định công nhận Nghị quyết của hội nghị chủ nợ chính là cơ sở pháp lý để doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh trên thực tế và là cơ sở để các chủ nợ bắt đầu thực hiện nghĩa vụ giám sát
đối với doanh nghiệp. Sau khi Thẩm phán ra quyết định công nhận Nghị quyết
về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, Nghị quyết đó sẽ có hiệu lực đối
với các bên liên quan, ràng buộc giữa chủ nợ - doanh nghiệp, giữa những người
có quyền - nghĩa vụ liên quan về những cam kết trong nội dung phương án phục
hồi, từ đó tạo điều kiện thuận lợi nhất định để doanh nghiệp thực hiện thành
công phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.
3.2. Giám sát thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh
Việc giám sát thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh được
quy định tại Điều 93:
1. Sau khi Thẩm phán ra quyết định công nhận nghị quyết của Hội nghị
chủ nợ thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
hợp tác xã mất khả năng thanh toán, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý,


thanh lý tài sản, chủ nợ giám sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp
tác xã.
2. Sáu tháng một lần, doanh nghiệp, hợp tác xã phải lập báo cáo về tình
hình thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,

hợp tác xã cho Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Quản tài
viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản có trách nhiệm báo cáo Thẩm phán
và thông báo cho chủ nợ.
Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, chủ nợ là những
chủ thể vừa có quyền vừa có nghĩa vụ giám sát việc thực hiện phương án phục
hồi. Thông qua hoạt động này, các chủ nợ có thể kiểm tra doanh nghiệp có thực
hiện đúng, thực hiện đầy đủ nội dung những cam kết về phục hồi hoạt động sản
xuất kinh doanh và thời gian, kế hoạch trả nợ cho các chủ nợ nhằm bảo vệ
quyền lợi của mình được tốt nhất và kịp thời nhất. Để các chủ thể thực hiện tốt
quyền giám sát của mình, đòi hỏi sự phối hợp thuờng xuyên, chặt chẽ giữa các
chủ thể với nhau, kiểm tra doanh nghiệp có thực hiện đúng thời gian và thanh
toán đầy đủ các khoản nợ cho chủ nợ hay không, từ đó đánh giá hiệu quả của
phương án phục hồi. Ngoài ra, Tòa án cũng có thẩm quyền kiểm tra, giám sát
việc thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
thông qua báo cáo về tình hình thực hiện phuơng án phục hồi hoạt động kinh
doanh gửi đến cho Tòa án sáu tháng một lần.
Trong quá trình thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, mối
liên hệ giữa chủ nợ - con nợ và giữa hai chủ thể này với Tòa án có vai trò hết
sức quan trọng. Thông qua việc cung cấp thông tin từ phía con nợ và các chủ nợ
trong quá trình thực hiện nghĩa vụ giám sát của mình đối với doanh nghiệp sẽ
giúp Tòa án có thông tin chính xác, khách quan hơn về tình hình thực hiện
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh. Song Luật phá sản lại không có điều
khoản nào qui định về cơ chế báo cáo kết quả giám sát từ phía các chủ nợ cho
Tòa án. Chính điều nào tạo điều kiện cho các chủ nợ không thực hiện đầy đủ


nghĩa vụ của mình hoặc thiếu trách nhiệm trong quá trình giám sát thực hiện
phương án phục hồi của doanh nghiệp.
3.3 Thời hạn thực hiện phương án phục hồi hoạt động kỉnh doanh
Theo điều 89, Luật phá sản 2014, thời hạn thực hiện phương án phục hồi

hoạt động kinh doanh được qui định như sau:
1. Thời hạn để thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán theo Nghị quyết của Hội
nghị chủ nợ thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.
2. Trường hợp Hội nghị chủ nợ không xác định được thời hạn thực hiện
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã mất
khả năng thanh toán thì thời hạn thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh là không quá 03 năm kể từ ngày Hội nghị chủ nợ thông qua phương án
phục hồi hoạt động kinh doanh.
Đây là quy định tương đối mềm dẻo, tự do và dân chủ. Luật chỉ khống
chế thời hạn tối đa cho việc thực hiện một phương án phục hồi. Điều đó có
nghĩa là tùy thuộc vào tình hình cụ thể của từng doanh nghiệp mà hội nghị chủ
nợ sẽ đưa ra khoảng thời gian hợp lý cho việc thực hiện phương án phục hồi.
Chỉ khi nào hội nghị chủ nợ không thống nhất việc quy định thời hạn thì Luật
mới điều chỉnh mức tối đa là 3 năm. Hơn nữa, việc quy định này sẽ giúp chúng
ta sớm loại thải những doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản sau khi đã được
áp dụng các giải pháp phục hồi những không có khả năng cứu vãn, hạn chế
những tổn thất cho các chủ nợ.
3.4. Sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh trong
quá trình thực hiện.
Mặc dù đã chuẩn bị kỹ lưỡng về phương án phục hồi, tuy nhiên để áp
dụng trên thực tế không phải chuyện đơn giản, rất có thể xảy ra những sai sót.
Để phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có tính khả thi,


hiệu quả và phù hợp với tình hình thực tế thì việc sửa đổi, bổ sung nó là điều rất
quan trọng. Điều 94, Luật Phá sản 2014 quy định:
1. Trong quá trình thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh,
các chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã có quyền thoả thuận về việc sửa đổi, bổ
sung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.

2. Thoả thuận về việc sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã được chấp nhận khi được quá nửa
tổng số chủ nợ không có bảo đảm có mặt và đại diện cho từ 65% tổng số nợ
không có bảo đảm trở lên biểu quyết tán thành.
3. Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản gửi văn bản đề
nghị Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thoả thuận về sửa đổi, bổ sung
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã.
Quyết định công nhận sự thỏa thuận về việc sửa đổi, bổ sung phương án
phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã được gửi cho
doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và chủ nợ trong thời hạn 07
ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định.
4. Đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản
4.1. Các trường hợp đình chỉ
Căn cứ khoản 1, điều 95: “Thẩm phán ra quyết định đình chỉ thủ tục phục
hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh
toán nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
a) Doanh nghiệp, hợp tác xã đã thực hiện xong phương án phục hồi hoạt
động kinh doanh;
b) Doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện được phương án phục hồi
hoạt động kinh doanh;


c) Hết thời hạn thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh
nhưng doanh nghiệp, hợp tác xã vẫn mất khả năng thanh toán.”
Như vậy, khi doanh nghiệp thực hiện xong hoặc không thực hiện được
hoặc hết thời hạn mà vẫn mất khả năng thanh toán thì Tòa án công nhận điều
này bằng quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Như vậy, Luật Phá sản 2014 đã bỏ qua điều
kiện về sự đồng ý của các chủ nợ thông qua bỏ phiếu. Đây là quy định mới, giúp

doanh nghiệp tự chủ động trong quá trình thực hiện phương án phục hồi của
mình mà không lệ thuộc vào ý chí chủ nợ. Nhưng Luật vẫn ràng buộc doanh
nghiệp trong khoảng thời hạn thực hiện theo quy định tại điều 89.
4.2. Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ thủ tục phục hồi kinh doanh.
Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
được quy định cụ thể tại điều 96, Luật Phá sản 2014 có thể được hiểu như sau:
Nếu doanh nghiệp thực hiện xong phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh thì doanh nghiệp sẽ được coi là không còn mất khả năng thanh toán.
Thẩm phán phụ trách giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản có trách nhiệm ra
thông báo bằng văn bản về việc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của Quản tài viên,
doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.
Nếu doanh nghiệp không thực hiện được hoặc hết thời hạn thực hiện mà
doanh nghiệp vẫn mất khả năng thanh toán thì Thẩm phán ra quyết định tuyên
bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản.

III. Bình luận, đánh giá về thủ thục phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp theo Luật phá sản 2014
1. Ưu điểm
Thứ nhất, đề cao vai trò của hội nghị chủ nợ trong điều kiện áp dụng thủ
tục phục hồi doanh nghiệp, trong việc xây dựng, thông qua và thực hiện phương


án phục hồi hoạt động kinh doanh. Sự tham gia của chủ nợ vào việc xây dựng
phương án phục hồi cũng là điều kiện để thông qua đó hội nghị chủ nợ có cơ hội
xem xét, lựa chọn phương án phục hồi hoạt động kinh doanh có hiệu quả, khả
thi không những để bảo vệ lợi ích của chủ nợ mà còn giúp doanh nghiệp phục
hồi thành công.
Thứ hai, chú trọng đến lợi ích của nhóm chủ nợ không có bảo đảm trong
việc thông qua phuơng án phục hồi doanh nghiệp và việc đình chỉ thủ tục phục
hồi hoạt động kinh doanh, nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của nhóm chủ nợ có

thể gặp nhiều rủi ro so với nhóm chủ nợ có bảo đảm.
Thứ ba, quy định về thời hạn thực hiện phuơng án phục hồi hoạt động
kinh doanh của Luật phá sản tuơng đối mềm dẻo, chỉ khống chế thời hạn tối đa
cho việc thực hiện một phuơng án phục hồi, tức là tôn trọng khoảng thời gian
hợp lý mà các chủ nợ - con nợ thỏa thuận.
2. Hạn chế
Thứ nhất, những giải pháp quy định tại khoản 2, điều 88 nghiêng về nhóm
các giải pháp tổ chức lại doanh nghiệp hơn là các giải pháp tài chính. Thực tế,
phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp liên quan đến vấn đề tài chính
hơn là vấn đề pháp lý. Có doanh nghiệp không thanh toán đuợc nợ đến hạn khi
chủ nợ có yêu cầu là do hoạt động kinh doanh bị thua lỗ song cũng có doanh
nghiệp việc không thanh toán được nợ đến hạn chỉ là hiện tượng nhất thời, vì lý
do nào đó doanh nghiệp đã không đủ lượng tiền trong quỹ để thanh toán các
khoản nợ đến hạn.
Thứ hai, mối liên hệ giữa chủ nợ, doanh nghiệp và Tòa án có vai trò hết
sức quan trọng trong quá trình thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh nhưng Luật Phá sản lại không có điều khoản nào quy định về cơ chế báo
cáo kết quả giám sát từ phía chủ nợ cho Tòa án. Điều này tạo điều kiện cho các
chủ nợ không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình hoặc thiếu trách nhiệm trong
quá trình giám sát.


IV. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về thủ tục phục
hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
Một là, nội dung phục hồi DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản cần xem
xét vấn đề giải quyết tài chính hơn là vấn đề pháp lý bởi xuất phát từ thực tế, các
khoản nợ chính là lý do doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Muốn vậy, các
quy định của Luật phá sản phải có điểm nhìn thực tế hơn. Quy định của Luật
phá sản cần linh hoạt, mềm dẻo hơn, có tính thực tiễn để hạn chế sự máy móc,
cứng nhắc khó thực hiện.

Hai là, Luật phá sản cần có điều khoản quy định về cơ chế báo cáo kết
quả giám sát từ phía chủ nợ cho Tòa án thiết lập mối liên hệ giữa chủ nợ, doanh
nghiệp và Tòa án trong quá trình thực hiện phuơng án phục hồi hoạt động kinh
doanh.

C. KẾT LUẬN
Hiện nay, Việt Nam ngày càng mở rộng quan hệ ngoại giao cũng như
tham gia vào rất nhiều diễn đàn kinh tế. Điều đó có nghĩa là thị trường kinh tế có
sự gia nhập của các nền kinh tế lớn và phát triển, nên không tránh khỏi quy luật
cạnh tranh khốc liệt. Trong khi phần lớn doanh nghiệp của nước ta là doanh
nghiệp vừa và nhỏ, thiếu kinh nghiệm quản lý. Đó là thách thức đặt ra với các
doanh nghiệp. Thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là một
thủ tục cơ bản và quan trọng của thủ tục phá sản doanh nghiệp. Việc tuyên bố
phá sản một doanh nghiệp sẽ gây ra những hậu quả bất lợi cho xã hội và trực
tiếp tác động xấu đến quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân các chủ nợ, con
nợ, người lao động. Song vấn đề này vẫn còn khá mới mẻ ở nước ta. Vì vậy, để
phù hợp với bối cảnh hiện nay, các nhà làm luật cần nghiên cứu và hoàn thiện
những quy định của pháp luật về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp nói riêng và thủ tục phá sản nói chung.


Danh mục tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại tập II, Nxb Công an
Nhân dân, 2013.
2. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Luật phá sản 2014, Nxb Lao Động,
2016.
3. Luật phá sản 2004
4. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Luật doanh nghiệp 2014, Nxb Lao
Động, 2015.
5.

6. />



×