Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Lễ hội tịch điền đọi sơn và ý nghĩa của nó đối với việc khuyến nông ở hà nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------

NGUYỄN THỊ KIỀU OANH

LỄ HỘI TỊCH ĐIỀN ĐỌI SƠN VÀ Ý NGHĨA
CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC KHUYẾN NÔNG
Ở HÀ NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------

NGUYỄN THỊ KIỀU OANH

LỄ HỘI TỊCH ĐIỀN ĐỌI SƠN VÀ Ý NGHĨA
CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC KHUYẾN NÔNG
HÀ NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành

: Triết học

Mã số


: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN THỊ NGỌC ANH

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tác giả.
Tác giả hoàn thiện luận văn này dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Trần Thị
Ngọc Anh. Trong luận văn, tác giả có kế thừa một số kết quả nghiên cứu liên
quan đã được công bố. Các tài liệu, số liệu tác giả sử dụng trong luận văn là
trung thực, đảm bảo tính khách quan và có nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về luận
văn của mình.
Hà Nội, tháng 05 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Kiều Oanh


LỜI CẢM ƠN
Với những tình cảm chân thành tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc đến trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Khoa Triết học, cùng quý thầy cô
giảng dạy lớp Cao học Triết khóa 25 đã tận tình hướng dẫn, dạy bảo, tạo mọi
điều kiện cho tác giả được học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tác giả xin được gửi lời cảm ơn tới Tiến sĩ Trần Thị Ngọc Anh, giảng
viên khoa Triết học, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, người hướng dẫn tác

giả trong quá trình nghiên cứu khoa học. Cô đã dành cho tác giả rất nhiều thời
gian, tâm huyết, những lời động viên, sự chỉ bảo ân cần cùng với kiến thức và
kinh nghiệm quý báu. Tất cả những điều cô làm đã giúp tác giả vững tin vượt
qua mọi khó khăn, thử thách trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận
văn của mình.
Qua đây tác giả xin được cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè, những
người đã luôn ở cạnh bên, giúp đỡ, động viên, dành những tình cảm tốt đẹp
nhất cho tác giả trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Tác giả cũng cảm ơn nhân dân xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà
Nam đã tạo điều kiện để tác giả được nghiên cứu, hoàn thiện luận văn.
Mặc dù đã cố gắng với tất cả nỗ lực của bản thân, song luận văn không
thể tránh khỏi những thiếu sót, tác giả kính mong nhận được sự đóng góp chỉ
dẫn của quý thầy cô, các đồng nghiệp và những người quan tâm.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 05 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Kiều Oanh


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu ................................................................................... 4
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................ 7
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu ......................................................... 7

5. Giả thuyết khoa học ................................................................................. 7
6. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 7
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu ................................................................... 8
8. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................... 8
9. Kết cấu của luận văn ................................................................................ 8
10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn ....................... 8
Chương 1: GIỚI THIỆU VỀ LỄ HỘI TỊCH ĐIỀN Ở XÃ ĐỌI SƠN,
HUYỆN DUY TIÊN, TỈNH HÀ NAM ............................................... 9

1.1. Một vài khái niệm cơ bản ...................................................................... 10
1.1.1. Khái niệm Lễ hội ........................................................................... 10
1.1.2. Khái niệm “Lễ hội Tịch Điền” ...................................................... 12
1.1.3. Nguồn gốc hình thành và quá trình phát triển của Lễ hội
Tịch Điền Đọi Sơn ....................................................................... 14
1.2. Giới thiệu sơ lược về nền nông nghiệp ở tỉnh Hà Nam ...................... 22
1.2.1. Đặc điểm tự nhiên ........................................................................ 22
1.2.2. Đặc điểm kinh tế .......................................................................... 23
1.2.3. Đặc điểm xã hội ........................................................................... 27
1.3. Lễ hội Tịch Điền Đọi Sơn ở Hà Nam qua phục dựng năm 2009 ....... 29
1.3.1. Không gian lễ hội ........................................................................ 29


1.3.2. Hoạt động chuẩn bị cho lễ hội ..................................................... 29
1.3.3. Nội dung, tiến trình của Lễ hội Tịch Điền Đọi Sơn .................... 32
Chương 2: Ý NGHĨA CỦA LỄ HỘI TỊCH ĐIỀN ĐỌI SƠN ĐỐI VỚI
VIỆC KHUYẾN NÔNG Ở TỈNH HÀ NAM HIỆN NAY .................. 53

2.1. Lễ hội khuyến khích nông nghiệp Hà Nam phát triển tích cực......... 53
2.1.1. Trước khi phục dựng Lễ hội Tịch Điền Đọi Sơn (trước năm 2009) ........ 53
2.1.2. Sau khi phục dựng Lễ hội Tịch Điền Đọi Sơn (sau năm 2009) ......... 54

2.2. Lễ hội đã nâng cao tình yêu với nông nghiệp của người nông dân ............63
2.2.1. Tình yêu đối với đất nông nghiệp ............................................... 63
2.2.2. Tình yêu đối với vật nuôi ............................................................ 66
2.2.3. Tình yêu đối với cây trồng .......................................................... 68
2.3. Lễ hội Tịch Điền Đọi Sơn giúp đời sống tâm linh của người
dân tỉnh Hà Nam thêm phong phú ...................................................... 73
2.3.1. Ý thức tâm linh Tôn giáo .............................................................. 73
2.3.2. Thiêng liêng hóa hoạt động nông nghiệp ...................................... 74
2.4. Một số phương hướng và giải pháp nhằm phát huy những giá
trị khuyến nông trong lễ hội Tịch Điền Đọi Sơn ................................ 77
2.4.1. Về phương hướng ......................................................................... 77
2.4.2. Về một số giải pháp cơ bản .......................................................... 80
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 86


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lễ hội là một bộ phận quan trọng của di sản văn hóa phi vật thể và
một hiện tượng văn hóa có tính chất cộng đồng. Ở nước ta có rất nhiều loại
hình lễ hội như: lễ hội nông nghiệp, lễ hội tín ngưỡng, lễ hội thi tài…Từ xưa,
lễ hội nông nghiệp đã được cha ông ta coi là lễ hội quan trọng nhất phản ánh
cuộc sống của nhà nông trong quá trình làm ăn, sinh hoạt, cải tạo thiên nhiên,
xây dựng làng, xã; bao gồm: lễ hội cầu mùa, lễ hội được mùa, lễ hội xuống
đồng hay lễ hội Tịch Điền…Ngày nay, đời sống vật chất được cải thiện, nhu
cầu của con người về đời sống tinh thần ngày càng cao nên các lễ hội nông
nghiệp cũng được coi trọng, giữ gìn, phát triển. Việt Nam là một nước thuần
nông nên có nhiều lễ hội truyền thống về nông nghiệp diễn ra ở khắp các
vùng miền. Những lễ hội đó trở thành hoạt động cộng đồng, đáp ứng nhu cầu

giao lưu văn hóa, kế thừa giá trị truyền thống và xây dựng những giá trị phù
hợp, tốt đẹp. Từ thời dựng nước, các bậc đế vương đã chăm lo, duy trì nghề
nông cho người dân nên tổ chức lễ hội Tịch Điền để thể hiện chính sách
khuyến nông, trọng nông.
1.2. Hà Nam có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời với bề dày
truyền thống văn hiến. Nhận thấy vùng đất này có tiềm năng cho phát triển
nông nghiệp nhưng còn gặp nhiều khó khăn vì là đồng chiêm trũng thuộc
Châu thổ Sông Hồng nên các vị Vua ngày trước đã rất quan tâm đến canh tác,
sản xuất, khuyến nông. Người xưa đã nói, một hành động có công hiệu hơn cả
ngàn lời nói, Vua gần dân thì kỷ cương phép nước được giữ vững, đất nước
vững vàng, kinh tế phát triển. Trong cuốn “Đại Việt sử ký toàn thư” ghi chép,
vào đầu xuân năm 987, vua Lê Đại Hành “cày Tịch Điền” để khuyến khích
nhân dân tăng gia sản xuất tại Đọi Sơn, tỉnh Hà Nam - lễ Tịch Điền đầu tiên
mà một vị Vua đi cày được sử sách ghi nhận. Như vậy, trong suốt chiều dài


2
lịch sử, nhiều triều đại phong kiến Việt Nam đã tổ chức nghi lễ Tịch Điền
nhằm khuyến khích phát triển nông nghiệp, phát huy truyền thống trọng nông
của dân tộc và khuyến nông thực sự trở thành quốc sách [42, tr.43]. Nghi lễ
Tịch Điền cũng trở thành quốc lễ, không chỉ mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc,
thể hiện sự quan tâm của nước nhà đối với nông nghiệp và nông dân, mà còn
tuyên truyền, giáo dục các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ, lòng biết
ơn tiền nhân, tích cực phát triển sản xuất nông nghiệp.
Sau khi nước ta giành được độc lập, nhất là từ khi miền Bắc giải phóng,
nhân dân xây dựng hậu phương lớn, tiến lên chủ nghĩa xã hội, Bác Hồ cũng
rất quan tâm đến phát triển nông nghiệp. Người trực tiếp phát động phong
trào “nông dân thi đua canh tác” vào tháng 2 năm 1951 và trực tiếp sửa chữa
rất kỹ bản dự thảo Điều lệ Hợp tác xã. Đặc biệt, hình ảnh Bác xắn quần lội
ruộng, tát nước chống hạn với người dân là những hình ảnh đẹp phản ánh quan

niệm trọng nông, vì đời sống nông dân, luôn sống mãi trong lịch sử nước nhà.
Bác Hồ dẫu bận trăm công ngàn việc nhưng vẫn có thói quen đi thăm đồng,
nhổ cỏ lúa, tát nước, trò chuyện với nông dân. Trong Di chúc, Người căn dặn:
“Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng
gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức, bóc lột, lại kinh qua nhiều
năm chiến tranh. Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần
cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn đi theo Đảng, rất trung thành với
Đảng” vì thế Đảng, Nhà Nước ta phải có kế hoạch sẵn sàng, để tránh bị động,
thiếu sót và sai lầm. Ngay trong phiên họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu
Kiến quốc, ngày 10-01-1946, Bác nhấn mạnh “Chúng ta đã hy sinh, phấn đấu
để giành độc lập, chúng ta đã tranh được rồi… Chúng ta tranh được tự do, độc
lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân
chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Hội
nghị Ban chấp Hành Trung Ương Đảng lần thứ 7 - khóa X - có nghị quyết


3
riêng về vấn đề “tam nông”, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh cho rằng: “Nông
nghiệp là cơ sở, nông thôn là địa bàn, nông dân là lực lượng đông đảo góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, ổn định chính trị - xã hội và bảo
đảm an ninh, quốc phòng”. Từ quan điểm này ta thấy muốn phát triển đất nước
phải chú trọng hơn nữa vào việc phát triển nông nghiệp và nông thôn.
Hà Nam là vùng đất có nhiều lễ hội truyền thống, di tích lịch sử và nền
văn hóa dân gian phong phú. Lễ hội Tịch Điền Đọi Sơn ở Hà Nam là một lễ
hội điển hình thể hiện tinh thần trọng nông, tôn vinh nền nông nghiệp và có
mục đích cầu mùa, nhân khang, vật thịnh. Sau khi được phục dựng, Đảng,
Nhà Nước luôn nhắc nhở các ngành, các cấp và tất cả người dân cùng nhìn
nhận đầy đủ hơn trong việc khai thác nét tinh túy của lễ hội để phục vụ cho
phát triển nông nghiệp bền vững.
1.3. Trong xu thế toàn cầu hóa, Đảng, Nhà Nước rất quan tâm gìn giữ,

bảo tồn và duy trì bản sắc dân tộc, vấn đề cấp bách đặt ra đó là việc “hòa
nhập” nhưng không “hòa tan”. Văn hóa truyền thống cũng được quan tâm
trong đó có nhiều lễ hội nông nghiệp được phục hồi và phát huy, làm phong
phú hơn đời sống văn hóa, tinh thần con người Việt Nam.
Lễ hội Tịch Điền Đọi Sơn là điểm nhấn văn hóa đầu năm đi vào tâm
thức của mọi người với hình ảnh một cao niên khoác áo Long bào, khoan thai
đi đường cày đầu tiên, lật lên những lớp đất nâu, tơi xốp hứa hẹn những vụ
mùa bội thu. Việc phục dựng thành công lễ hội Tịch Điền Đọi Sơn (từ năm
2009) có ý nghĩa to lớn về văn hóa, chính trị và đặc biệt là phát triển kinh tế
nông nghiệp. Những năm qua, từ khí thế đầu xuân của lễ hội này, nông dân
Hà Nam phấn khởi thâm canh, áp dụng khoa học kỹ thuật phát triển nông
nghiệp toàn diện.
Theo quan điểm của Triết học Mác - Lênin, mọi hành động của con
người đều bắt nguồn từ nhận thức, do đó khi nhận thức đúng về lễ hội cổ


4
truyền thì việc phục dựng sẽ mang lại hiệu quả cao. Việc phục dựng lễ hội
Tịch Điền Đọi Sơn cũng đặt ra một số vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu,
giáo dục, tuyên truyền cho nhân dân Hà Nam hiểu, trân trọng, giữ gìn, phát
huy truyền thống và khuyến khích phát triển nông nghiệp.
Từ những lý do trên, tôi chọn vấn đề “Lễ hội Tịch Điền Đọi Sơn và ý
nghĩa của nó đối với việc khuyến nông ở Hà Nam hiện nay” làm đề tài luận
văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về lễ hội
Lễ hội, đặc biệt là lễ hội nông nghiệp liên quan đến cuộc sống của con
người trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên nên được rất nhiều nhà khoa
học quan tâm.
Tác phẩm của tác giả Phan Kế Bính "Việt Nam phong tục" (1909), Nhà

xuất bản Đồng Tháp là cuốn chuyên khảo đầu tiên nói về phong tục, tập quán,
lễ hội, lễ nghi, đình đám…của người Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX, trong đó, tác giả đã đề cập khá chi tiết đến các giá trị tín ngưỡng dân
gian và đưa ra những nhận xét về lễ hội truyền thống.
Cuốn “Lễ hội cổ truyền của người Việt ở Bắc bộ”, 1992, Nxb KHXH,
Hà Nội do Lê Trung Vũ chủ biên đã trình bày khá chi tiết về các vấn đề liên
quan trực tiếp đến lễ hội cổ truyền như: vị trí, nguồn gốc, lịch sử lễ hội của
người Việt ở Bắc bộ, trong đó có đề cập đến các lễ hội nông nghiệp.
Tác giả Nguyễn Mạnh Cường có cuốn “Văn hóa tín ngưỡng của một số
dân tộc trên đất nước Việt Nam”, Nxb Văn hóa thông tin. Cuốn sách này là
sự chắt lọc cái hay cái đẹp, giá trị văn hóa tín ngưỡng của một số dân tộc tiêu
biểu trên mảnh đất Việt Nam: Thái, H’mông, Chăm, Khơ Me, Tày, Nùng…
nhấn mạnh sự kết hợp giữa những nét tín ngưỡng trong văn hóa lễ hội của các
dân tộc theo dòng lịch sử.


5
Trong cuốn “Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng” (2004) và “Những
giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống” (2010), tác giả Ngô Đức Thịnh, Nxb
Khoa học xã hội, đã có những nét phác họa chung về tín ngưỡng dân gian của
các dân tộc ở Việt Nam. Công trình này đã phác họa một số loại hình tín
ngưỡng tiêu biểu và mối quan hệ giữa văn hóa tín ngưỡng với văn hóa nghệ
thuật dân gian, đồng thời chỉ ra những giá trị của tín ngưỡng đối với văn hóa
Việt Nam hiện nay. Qua đó làm giàu thêm những hiểu biết của chúng ta về tín
ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng qua các lễ hội của nước nhà.
Tác giả Nguyễn Duy Hinh với cuốn “Tín ngưỡng thành hoàng” (1996),
Nxb KHXH, Hà Nội đã phân tích một cách sâu sắc, hệ thống về nguồn gốc,
bản chất của tín ngưỡng thờ thành hoàng và rước thành hoàng trong một số lễ
hội đặc sắc, tiêu biểu.
2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về lễ hội Tịch Điền

Tác giả Nguyễn Xuân Nghĩa với công trình“Lễ hội nông nghiệp cổ
truyền ở người Khơme vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Văn hóa
dân gian, 1987, số 4, tr.63-68, đã cho chúng ta thấy được những nét độc đáo
và đặc sắc trong lễ hội nông nghiệp của người Khơme từ xưa đến nay. Qua lễ
hội được tác giả khắc họa lại ta thấy nổi bật tinh thần đoàn kết cùng chung
sức, đồng lòng giúp đỡ nhau trong quá trình canh tác, sản xuất nông nghiệp
của người Khơme ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Các tác giả Phan Hữu Dật, Lê Ngọc Thắng, Lê Sĩ Giáo, Lâm Bá Nam
công bố cuốn “Lễ cầu mùa của các dân tộc ở Việt Nam”, 1993, Nxb Văn hóa
dân tộc, Hà Nội. Đây là kết quả của một công trình khoa học cấp Bộ đề cập
đến tục cầu mùa của người Kinh, các dân tộc vùng Việt Bắc, Đông Bắc, Tây
Bắc và Bắc Trung Bộ cũng như vùng Trường Sơn - Tây Nguyên. Công trình
này đưa ra cái nhìn bao quát về lễ cầu mùa của các cư dân nông nghiệp ở các
vùng, miền trên. Và cũng nhờ đó mà chúng ta thêm hiểu biết về các lễ hội có
liên quan đến tục cầu mùa của nhân dân Việt Nam.


6
Tác giả Đàm Thị Hạnh với công trình nghiên cứu “Lễ hội Lồng
Tồng và ý nghĩa của nó trong đời sống văn hóa tín ngưỡng của người dân
huyện Định Hóa - tỉnh Thái Nguyên”, 2013, trường Đại học Sư Phạm Hà
Nội, Hà Nội. Công trình này đề cập đến nghi thức Tịch Điền của người
dân tộc Tày, bao gồm những điểm giống và có thêm những điểm khác so
với Tịch Điền của người Kinh. Tuy tác giả chỉ đề cập đến một vài nét
nghi thức Tịch Điền của dân tộc Tày nhưng qua đó chúng ta cũng phần
nào thấy được sự khác biệt độc đáo của nghi thức ở vùng miền này so với
những vùng miền khác.
2.3. Nhóm công trình nghiên cứu về lễ hội Tịch Điền Đọi Sơn
Lễ cày Tịch Điền Đọi Sơn về bản chất nằm trong hệ thống các lễ nghi
nông nghiệp truyền thống của dân tộc Việt Nam. Khi Nhà nước phong kiến tự

chủ Đại Việt ra đời, các ông vua - mở đầu là vua Lê Hoàn đã đích thân đi cày,
thể hiện tinh thần trọng nông, tôn vinh nông nghiệp, tôn vinh người nông dân
và các giá trị văn hóa làng xã của các vương triều phong kiến.
Tác giả Bùi Thị Phương Thúy nghiên cứu công trình “Nghi lễ cày Tịch
điền Đọi Sơn huyện Duy Tiên tỉnh Hà Nam với phát triển du lịch”, 2011, Văn
hóa du lịch, Đại học dân lập Hải Phòng, Hải Phòng. Công trình đã đánh giá vị
trí của lễ hội Tịch điền Đọi Sơn trong hệ thống lễ nghi nông nghiệp của người
Việt ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời đề xuất, nêu một số kiến nghị đối
với việc tổ chức lễ hội này, từ đó phát huy và khai thác để phục vụ cho việc
phát triển du lịch Hà Nam.
Công trình nghiên cứu của tác giả Trần Thị Nhật Lệ, Nâng cao hiệu
quả công tác tổ chức và quản lý lễ hội Tịch Điền tại xã Đọi Sơn, huyện Duy
Tiên, tỉnh Hà Nam, 2013, Đại học Văn hóa Hà Nội, cung cấp một số thông tin
về cơ sở ra đời, quá trình hình thành, những đặc điểm cũng như tìm ra những
giá trị tiêu biểu và thực trạng của công tác tổ chức và quản lý lễ hội.


7
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến phần lý thuyết và trình bày
chung, phần nào đem đến cho chúng ta những nét khái quát cơ bản về Lễ Hội
Tịch Điền Đọi Sơn ở Hà Nam. Dựa vào những tài liệu đã thu thập được, tôi
muốn nghiên cứu, tìm hiểu sâu hơn những giá trị mà lễ hội này đem lại cho
người dân tỉnh Hà Nam, đặc biệt là giá trị khuyến nông mà lễ hội Tịch Điền
mang lại cho người dân cả nước nói chung và nhân dân Hà Nam nói riêng.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khảo sát thực địa, thu thập tài liệu, luận văn góp phần làm
sáng tỏ nguồn gốc, bản chất của lễ hội Tịch Điền Đọi Sơn từ đó giúp chúng ta
có cái nhìn đúng đắn về bản chất, ý nghĩa của lễ hội góp phần giữ gìn và phát
huy truyền thống tốt đẹp mà lễ hội mang lại. Bên cạnh đó, luận văn cũng chỉ ra
vai trò của lễ hội Tịch Điền Đọi Sơn đồng thời đưa ra một số phương hướng và

giải pháp để khai thác phục vụ cho việc khuyến nông ở Hà Nam hiện nay.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Lễ hội Tịch Điền Đọi Sơn và ý nghĩa của lễ hội đối với việc phát triển
nông nghiệp ở Hà Nam hiện nay.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Tính triết học trong lễ hội Tịch Điền Đọi Sơn, ở huyện Duy Tiên, tỉnh
Hà Nam.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu như đi sâu vào nghiên cứu lễ hội Tịch Điền Đọi Sơn ở Hà Nam
chúng ta sẽ thấy được ảnh hưởng rõ nét của lễ hội này đối với người dân Hà
Nam, đặc biệt với việc khuyến khích phát triển nông nghiệp.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, luận văn cần giải quyết
những nhiệm vụ sau:
- Giới thiệu khái quát về lễ hội Tịch Điền Đọi Sơn - nét đẹp truyền
thống của người dân Hà Nam


8
- Phân tích ý nghĩa của lễ hội Tịch Điền Đọi Sơn với việc khuyến nông
ở tỉnh Hà Nam hiện nay
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Ý nghĩa triết học của Lễ hội Tịch Điền, xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên,
tỉnh Hà Nam.
8. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp nghiên cứu liên ngành trong triết học văn
hóa, triết học lịch sử, triết học tôn giáo với những phương pháp cụ thể như
sau: quan sát - thực địa, phỏng vấn - nghiên cứu tài liệu, điều tra xã hội học,

phân tích - tổng hợp, thống kê - so sánh, logic - lịch sử,…
9. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm có ba phần: phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận
trong đó, phần nội dung gồm 2 chương và 8 tiết. Ngoài ra còn có các phần:
mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục.
10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
10.1. Những luận điểm cơ bản
Trên cơ sở nghiên cứu công trình tìm những giá trị tốt đẹp trong lễ hội
Tịch Điền Đọi Sơn với những luận điểm:
- Khái quát về tỉnh Hà Nam
- Đặc trưng của Lễ hội Tịch Điền Đọi Sơn tỉnh Hà Nam
- Lễ hội Tịch Điền Đọi Sơn ở Hà Nam qua phục dựng 2009 (Không
gian lễ hội; hoạt động chuẩn bị cho lễ hội; nội dung, tiến trình của Lễ hội, các
Lễ được tiến hành trong Lễ hội Tịch Điền Đọi Sơn, diễn xướng các trò chơi).
- Lễ hội khuyến khích nông nghiệp Hà Nam phát triển tích cực (trước
khi phục dựng Lễ Hội Tịch Điền Đọi Sơn (trước năm 2009); sau khi phục
dựng Lễ hội Tịch Điền Đọi Sơn (sau năm 2009).


9
- Lễ hội đã nâng cao tình yêu của người dân với nông nghiệp (tình yêu
đối với đất nông nghiệp; tình yêu đối với vật nuôi, cây trồng).
- Lễ hội Tịch Điền Đọi Sơn giúp đời sống tâm linh người dân Hà Nam
thêm phong phú.
- Một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao, phát huy những
giá trị khuyến nông trong lễ hội Tịch Điền Đọi Sơn.
10.2. Đóng góp mới của luận văn
- Đóng góp về mặt lý luận
Công trình luận giải một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về Lễ
hội Tịch Điền Đọi Sơn góp phần là một nguồn tư liệu, dẫn chứng để bảo tồn,

phát huy giá trị văn hóa dân tộc nói chung và khuyến khích phát triển nông
nghiệp ở Hà Nam nói riêng; đồng thời làm phong phú và đa dạng thêm cho
kho tàng tư liệu văn hóa dân tộc về các lễ hội.
- Đóng góp về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần giáo dục, tuyên truyền cho người
dân, nâng cao ý thức giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở địa phương.
Đề tài đưa ra một số định hướng và giải pháp có tính cấp thiết nhằm phát huy
những giá trị khuyến nông từ Lễ hội Tịch Điền Đọi Sơn ở Hà Nam, góp phần
mở ra một hướng mới cho việc phát triển kinh tế nông nghiệp tại địa phương.

Chương 1
GIỚI THIỆU VỀ LỄ HỘI TỊCH ĐIỀN
Ở XÃ ĐỌI SƠN, HUYỆN DUY TIÊN, TỈNH HÀ NAM


10

1.1. Một vài khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm Lễ hội
Trên thế giới, mỗi một quốc gia lại có một loại hình sinh hoạt văn hóa
riêng, mang đậm bản sắc văn hóa của quốc gia mình, và có lẽ “lễ hội” là loại
hình tiêu biểu nhất. Đây là một loại hình sinh hoạt văn hóa đặc biệt có tính tập
thể, phản ánh tín ngưỡng và sinh hoạt của người dân trong lao động sản xuất,
hay trong việc hình dung lại các sự kiện lịch sử. Lễ hội nào cũng có những
hình thức rước xách, diễu hành, vui chơi nhưng ở mỗi quốc gia thì lễ hội lại
có những nét độc đáo riêng, mang đậm dấu ấn riêng của quốc gia đó. Vì thế lễ
hội giữ một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần và đời sống xã hội, nó
chứa đựng và phản ánh nhiều mặt của đời sống như: kinh tế - xã hội, văn hóa,
tâm lý và tôn giáo tín ngưỡng của con người.
Mỗi vùng miền, quốc gia lại có hình thức tổ chức Lễ hội khác nhau.

Chính vì thế mà đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về hình thái sinh hoạt
văn hóa này. Sau đây là một số khái niệm điển hình về “lễ hội”:
- Khi nghiên cứu về đặc tính và ý nghĩa “lễ hội” ở nước Nga, M.Bachie
cho rằng: “Lễ hội là cuộc sống được tái hiện dưới hình thức tế lễ và trò biểu
diễn, đó là cuộc sống chiến đấu của cộng đồng cư dân. Tuy nhiên bản thân
cuộc sống không thể thành lễ hội được nếu chính nó không được thăng hoa,
liên kết và quy tụ lại thành thế giới tâm linh, tư tưởng của các biểu tượng, vượt
lên trên thế giới của những phương tiện và điều kiện tất yếu. Đó là thế giới, là
cuộc sống thứ hai thoát ly tạm thời thực tại hữu hiện, đạt tới hiện thực lý tưởng
mà ở đó, mọi thứ đều trở nên đẹp đẽ, lung linh, siêu việt và cao cả” [32].
- Ở Việt Nam, khái niệm Lễ hội mới chỉ xuất hiện cách đây không lâu,
ban đầu chỉ có khái niệm lễ hoặc hội. Cả hai khái niệm này đều là từ gốc Hán
được dùng để gọi một nhóm loại hình phong tục, chẳng hạn như: lễ Thành


11
Hoàng, lễ gia tiên... cũng như vậy trong hội cũng có nhiều hội khác nhau như:
Hội Gióng, Hội Lim... Thêm chữ “lễ” cho “hội”, thời nay con người chúng ta
mong muốn gắn hai hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng, hai đặc trưng này
đi liền với nhau, đầu tiên là lễ bái, tế lễ thần linh, cầu phúc và sau là thăm thú,
vui chơi ở nơi đông đúc, vui vẻ.
- Trong “Từ điển Tiếng Việt” lại có định nghĩa về “Lễ hội” như sau: lễ
là hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kính của con người
đối với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước
cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện. Hội là sinh hoạt văn
hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, từ
sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, sự bình yên hạnh phúc cho từng cá
nhân, gia đình, sự vững mạnh cho từng dòng họ, sự sinh sôi nảy nở của gia
súc, gia cầm, sự bội thu của mùa màng, mà từ bao đời nay quy tụ niềm mơ
ước chung vào bốn chữ "nhân khang, vật thịnh" [71].

- Trong cuốn “Hội hè Việt Nam” các tác giả cho rằng “hội và lễ” là
một sinh hoạt văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam. Hội và lễ có sức hấp
dẫn, lôi cuốn các tầng lớp trong xã hội cũng tham gia để trở thành một nhu
cầu, một khát vọng của nhân dân trong nhiều thập kỷ.
- Trong cuốn “Lễ hội cổ truyền” - Phan Đăng Nhật cho rằng “Lễ hội là
một pho lịch sử khổng lồ, ở đó tích tụ vô số những phong tục, tín ngưỡng, văn
hóa, nghệ thuật và cả các sự kiện xã hội - lịch sử quan trọng của dân tộc....Lễ
hội còn là nơi bảo tồn, tích tụ văn hóa (theo nghĩa rộng) của nhiều thời kỳ lịch
sử trong quá khứ dồn nén lại cho tương lai” [48].
Như vậy ta thấy “Lễ hội” là một thể thống nhất không thể tách rời. Lễ
là phần đạo đức tín ngưỡng, phần tâm linh sâu xa trong mỗi con người. Hội là
các trò diễn mang tính nghi thức, gồm các trò chơi dân gian phản ánh cuộc
sống thường nhật của người dân và một phần đời sống cá nhân nhằm kỷ niệm
một sự kiện quan trọng với cả cộng đồng.


12
1.1.2. Khái niệm “Lễ hội Tịch Điền”
Lễ hội Tịch Điền nhằm cầu cho cầu quốc thái dân an, mùa màng bội
thu, đồng thời tuyên truyền, giáo dục các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ
trẻ, lòng biết ơn tiền nhân, tích cực phát triển sản xuất nông nghiệp.
Năm 980, vua Lê Đại Hành (941 - 1005) lên ngôi, lãnh đạo nhân dân ta
đánh bại lũ giặc phương Bắc, bình định phương Nam, ổn định lại việc triều
chính, đồng thời thực thi nhiều chính sách khuyến khích nông nghiệp. Mặc dù
phải giải quyết rất nhiều nhiệm vụ cấp bách nhưng vua Lê Đại Hành vẫn tổ chức
nghi lễ Tịch Điền vào dịp Tết Nguyên đán hằng năm cho nhân dân tham gia.
Đến đời nhà Lý, nghi lễ Tịch Điền được triều đình tổ chức thường
xuyên ở nhiều địa điểm khác nhau. Đại Việt sử ký toàn thư có ghi: “Nhâm
Thân năm thứ 5 (1032), mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1, vua ngự đến Tín
Hương ở Đỗ Động giang cày ruộng tịch điền, có nhà nông dâng một cây lúa

chiêm có 9 bông thóc. Xuống chiếu đổi gọi ruộng ấy là ruộng Ứng Thiên.
Ngày ấy trở về cung... Mậu Dần (Thông Thụy) năm thứ 5 (1038), mùa xuân,
tháng 2, vua ngự ra cửa Bố Hải cày ruộng tịch điền. Sau Hữu ty dọn cỏ đắp
đàn. Vua thân tế Thần Nông, tế xong tự cầm cày để làm lễ cày. Các quan tả
hữu có người can rằng: “Đó là công việc của nông phu, bệ hạ cần gì làm thế”?
Vua nói: “Trẫm không tự cày thì lấy gì làm xôi cúng, lại lấy gì cho thiên hạ
noi theo?”. Nói xong đẩy cày ba lần rồi thôi. Tháng 3 vua về Kinh sư.... Nhâm
Ngọ (Càn Phù Hữu Đạo) năm thứ 4 (1042), mùa xuân, tháng 3 vua ngự ra cửa
biển Kha Lãm cày ruộng tịch điền rồi về Kinh sư”.
Nghi lễ Tịch Điền được miêu tả chi tiết, sâu sắc nhất trong các thư
tịch lịch sử của triều Nguyễn. Đại Nam thực lục chính biên có ghi: “Vua tay
phải cầm cày, tay trái cầm roi, kỳ lão và nông phu đều hai người dắt trâu, thị
vệ hai người đỡ cày. Ca sinh hát bài “Hoa từ”, nhạc sinh múa cờ màu; nhã
nhạc cử nhạc. Phủ Thừa Thiên bưng thùng lúa đi theo. Hoàng tử cùng quan


13
bộ Hộ đều cử một người theo sau vãi lúa. Vua cày ba đường đi ba đường lại
xong, ngự lên đài Quan canh. Các quan ở dưới đài chia hai bên đứng hầu.
Các hoàng tử, và thần công theo cày, đều đội mũ vàng mặc áo đỏ, cầm cày
cầm roi cày năm đường đi năm đường lại, kế đến văn võ đại thần chín
người, văn đội mũ văn công, võ đội mũ hở đầu, đều mặc áo lam, cùng cầm
cày cầm roi cày chín đường đi chín đường lại. Đều dùng thuộc lại kinh
huyện đi theo sau bưng thùng lúa vãi lúa. Lễ xong, vua ngự điện cụ phục,
thay mặc long bào rộng tay, lên kiệu. Đại nhạc, nhã nhạc đều nổi. Các quan
lại ở trong cửa phường quỳ tống”.
Như vậy, trong suốt chiều dài lịch sử, nhiều triều đại phong kiến Việt
Nam đã tổ chức nghi lễ tịch điền nhằm khuyến khích phát triển nông nghiệp,
phát huy truyền thống trọng nông của dân tộc. Khuyến nông thực sự trở thành
quốc sách. Nghi lễ tịch điền cũng trở thành quốc lễ, không chỉ mang ý nghĩa

nhân văn sâu sắc, thể hiện sự quan tâm của nước nhà đối với nông nghiệp và
nông dân, mà còn tuyên truyền, giáo dục các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế
hệ trẻ, lòng biết ơn tiền nhân, tích cực phát triển sản xuất nông nghiệp.
Sau khi nước ta giành được độc lập, nhất là từ khi miền Bắc giải
phóng, nhân dân xây dựng hậu phương lớn, tiến lên chủ nghĩa xã hội, Bác
Hồ cũng rất quan tâm đến phát triển nông nghiệp. Người trực tiếp phát động
phong trào “nông dân thi đua canh tác” vào tháng 2 năm 1951; trực tiếp sửa
chữa rất kỹ bản dự thảo Điều lệ Hợp tác xã. Đặc biệt, hình ảnh Bác xắn quần
lội ruộng, tát nước chống hạn với người dân là những hình ảnh đẹp phản ánh
quan niệm trọng nông, vì đời sống nông dân, luôn sống mãi trong lịch sử
nước nhà.
Nhằm bảo tồn nét văn hóa tâm linh tốt đẹp này của dân tộc, phát huy
truyền thống “dĩ nông vi bản”, Lễ hội Tịch điền Đọi Sơn được phục hồi trở lại
từ năm 2009 với nhiều nghi lễ truyền thống hấp dẫn, giàu giá trị trọng nông,


14
khuyến khích người dân tham gia canh tác nông nghiệp.
1.1.3. Nguồn gốc hình thành và quá trình phát triển của Lễ hội Tịch
Điền Đọi Sơn
Tỉnh Hà Nam nằm ở phía Tây Nam đồng bằng châu thổ sông Hồng,
trong vùng trọng điểm phát triển kinh tế Bắc Bộ với hệ thống giao thông
đường thủy, đường bộ, đường sắt đầy đủ, tạo điều kiện thuận lợi về đi lại và
vận chuyển hàng hóa cho các phương tiện cơ giới. Cách trung tâm Thành phố
Hà Nội khoảng 60 km, Hà Nam có phía Bắc giáp với Hà Nội, phía Đông giáp
với Hưng Yên và Thái Bình, phía Nam giáp với Nam Định và Ninh Bình,
phía Tây giáp với Hòa Bình. Được gọi là cửa ngõ phía Nam của Thủ đô Hà
Nội, vị trí địa lý này tạo thuận lợi cho việc phát triển, giao lưu kinh tế, văn
hóa - xã hội, khoa học - kỹ thuật của Hà Nam với các tỉnh, thành phố trong
vùng và trong cả nước. Toàn tỉnh Hà Nam gồm 6 đơn vị hành chính cấp thành

phố và cấp huyện: thành phố Phủ Lý, huyện Duy Tiên, huyện Kim Bảng,
huyện Lý Nhân, huyện Thanh Liêm, huyện Bình Lục.
Xã Đọi Sơn, thuộc huyện Duy Tiên cách trung tâm tỉnh Hà Nam thành phố Phủ Lý 10 km về hướng Bắc, đi từ Hà Nội đến ga Đồng Văn rẽ
trái đi hướng thị trấn Hòa Mạc khoảng 16 km là đến xã. Xã Đọi Sơn có 7
thôn (làng): Đọi Nhất, Đọi Nhì, Đọi Tam, Đọi Trung, Đọi Lĩnh, Đọi Tín và
Ngân Hà, gồm 1048 hộ với 4.356 nhân khẩu. Đọi Sơn - một vùng nông trang
trù phú, có dòng sông Châu chảy qua phía Đông xã cùng với núi Đọi đã trở
thành biểu tượng thiên nhiên vượt trội tiêu biểu của Hà Nam. Từ trên đỉnh
núi Đọi, phóng tầm mắt ra bốn phía thấy phong cảnh thật nên thơ: đồng lúa,
bãi ngô, ruộng khoai mượt mà, tươi xanh, xa xa dòng sông Châu Giang
quanh co, lượn khúc như dải lụa uốn lượn. Với truyền thống từ xa xưa, các
thế hệ người Đọi Sơn cần cù lao động, xây dựng quê hương, ngày càng làm
cho quê hương đẹp giàu.


15
Dưới các triều đại phong kiến Việt Nam, ruộng tịch điền thuộc quyền
quản lý trực tiếp của triều đình, giống lúa cấy trên ruộng được chọn để cho
loại gạo ngon dùng vào việc tế lễ, đặc biệt là tế Thần Nông và thần Xã Tắc.
Tùy theo quan niệm phong thủy và tâm linh mà mỗi triều đại chọn nơi đặt
ruộng tịch điền. Dưới thời Lý, ruộng tịch điền đều ở đồng bằng sông Hồng,
khá xa thành Thăng Long. Thời Trần, sử cũ chỉ cho biết một lần vua Trần
Minh Tông sai tế thần.
Thời Hậu Lê, vào thời vua Lê Thánh Tông, lễ tịch điền tiến hành ở làng
Hoàng Mai, ngoại thành Thăng Long.Thời Nguyễn, dưới triều vua Gia Long,
ruộng tịch điền ở phòng Hòa Thái, ngưỡng trị trong Kinh thành, sau chuyển
về hai phường Yên Trạch và Hậu Sinh.
Lê Đại Hành, vị vua lỗi lạc quê ở Hà Nam, là một trong những anh
hùng dân tộc tiêu biểu nhất trong lịch sử nước ta. Ông không chỉ nổi tiếng bởi
mối tình chuyển giao triều đại với thái hậu Dương Vân Nga cũng như tài cầm

quân kiệt xuất, phá Tống, bình Chiêm, giữ toàn vẹn bờ cõi trước sự nể trọng
của phong kiến Trung Hoa mà còn được đường thời và hậu thế ngợi ca ở trị
nước, đặc biệt là việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp để
chấn hưng đất nước. Không phải ngẫu nhiên mà Lê Đại Hành đã mở ra lễ hội
tịch điền Đọi Sơn, lễ hội khuyến nông đầu tiên dưới chế độ phong kiến Việt
Nam, một lễ nghi trọng đại ở một đất nước chủ yếu sống bằng nông nghiệp
mà các vương triều sau tiếp tục noi theo .
Theo nhiều sử sách, Lê Đại Hành sinh năm 941 mất năm 1005 là người
làng Bảo Thái, huyện Thanh Liêm, Hà Nam. Cha mẹ qua đời sớm, Lê Hoàn
được một vị quan là Lê Đột nhận về nuôi. Lớn lên ông đi theo Nam Việt
Vương Đinh Liễn và đã lập được nhiều chiến công lớn trong cuộc đánh dẹp
12 sứ quân lập nên nhà Đinh của Đinh Bộ Lĩnh nên được vua Đinh giao chức
vụ Thập đạo tướng quân (tướng chỉ huy mười đạo quân), Điện tiền đô chỉ huy
sứ - tức chức vụ tổng chỉ huy quân đội cả nước Đại Cồ Việt, trực tiếp chỉ huy


16
đội quân cấm vệ của triều đình lúc ông mới 27 tuổi. Năm 979, cha con Đinh
Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị sát hại, Vệ vương Đinh Toàn mới 6 tuổi lên ngôi.
Lê Hoàn trở thành nhiếp chính, nhanh chóng dẹp yên nội loạn, Thấy triều
đình Hoa Lư rối ren, nhà Tống tỏ rõ ý định xâm lược, thái hậu Dương Vân
Nga cùng tướng Phạm Cự Lạng và các triều thần tôn Lê Hoàn lên ngôi giữ
nước. Lê Hoàn lên ngôi mở ra triều Tiên Lê, tổ chức đánh thắng quân xâm
lược Tổng trong năm 981 với hai trận quyết chiến chiến lược ở Bạch Đằng và
Bình Lỗ đuổi giặc ra khỏi bờ cõi. Một năm sau đó, năm 982, tức giận vì sứ
thần của mình bị vua Chiêm Thành bắt giữ, Lê Đại Hành sai đóng chiến
thuyền, sửa binh khí, đích thân dẫn đại quân bình Chiêm, đánh tan quân
Chiêm ngay trên đất Chiêm. Sự nghiệp bình Chiêm thời Lê Đại Hành được
cho là đã trực tiếp chuẩn bị cho quá trình Nam tiến của người Việt, mở rộng
thêm cương giới lãnh thổ của quốc gia Đại Việt.

Đất nước ta dưới thời vua Lê Đại Hành được cho là kinh tế phát triển
mạnh mẽ hơn cả thời Đinh. Vua hết sức chú trọng phát triển nông nghiệp.
Chính ông là vị vua đầu tiên tổ chức đào sông. Di tích lịch sử sông đào Nhà
Lê (đi qua 4 tỉnh Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh) do Lê Đại Hành
khởi dựng không những phục vụ đắc lực cho sản xuất nông nghiệp mà còn là
con đường giao thông thủy nội địa đầu tiên của Việt Nam. Từ con sông đào
do Lê Hoàn khai phá trên đất Thanh Hóa, đến thời Lý, Trần sông đào đã xuất
hiện ở đồng bằng Bắc Bộ đến Thanh - Nghệ - Tĩnh. Đến thời Lê thì đã phát
triển rộng ở Trung Bộ và đến thời Nguyễn thì sông đào có mặt ở khắp mọi
miền Việt Nam. Theo "Viện sử lược", vào mùa xuân năm Đinh Hợi, niên hiệu
Thiên Phúc thứ 7 (năm 987), lần đầu tiên vua Lê Đại Hành cùng văn võ bá
quan cày ruộng ở vùng Đọi Sơn và bắt được chum vàng, năm 988 cày ở Bàn
Hải bắt được chum bạc. Từ đó, hàng năm vào đầu xuân, nhà vua đã về Đọi
Sơn mở Lễ tịch điền (đích thân vua xuống đi cày ruộng), cầu mưa thuận gió
hòa, cầu được mùa, cầu quốc thái dân an, mở ra một lễ hội khuyến nông đầy ý
nghĩa. Nhận thức được tầm quan trọng của lễ hội này, các triều đại sau Lê Đại


17
Hành đều duy trì nghi lễ cày tịch điền Đọi Sơn với các hình thức khác nhau.
Thời Nguyễn là thời lễ tịch điền có nhiều "niêm luật" cụ thể, được tổ chức
quy mô, do bộ lễ đứng ra chủ trì nhưng lễ hội này cũng chấm dứt dưới thời
vua Khải Định [79]. Sau một thời gian dài gián đoạn, từ năm 2009, phong tục
tốt đẹp này được phục hồi lại. Khác với thời Hậu Lê, Lê Hoàn không cho
ruộng tịch điền ở gần trong kinh thành mà giống thời Lý, Lê Hoàn lấy đất
Trường Châu là quê quán để cày ruộng tịch điền. Hơn nữa, ruộng Tịch điền ở
Đọi Sơn nằm trong vùng chịu sự quản lý trực tiếp của Vua. Sử cũ ghi chép,
sau khi lên ngôi, Lê Hoàn lần lượt phong vương cho các con, kể cả con nuôi
rồi cử đi trấn, trị ở các vùng đất thuộc đồng bằng Bắc Bộ và Thanh Hóa, trừ
Trường Châu. Căn cứ vào bia Sùng Thiện Diên Linh hiện còn lưu giữ cẩn

thận tại chùa Long Đọi Sơn có thể thấy vào thời Lê Hoàn, núi có tên là núi
Long Đĩnh, nghĩa là núi rồng, núi thiêng. Các phát hiện khảo cổ học quanh
Đọi Sơn đã minh chứng từ thời mộ thuyền văn hóa Đông Sơn, mộ Hán, đến
mộ thời Hậu Lê, người chết đều được chôn quay đầu về núi Đọi và từ lâu lưu
truyền phương ngôn:
“Đầu gối núi Đọi
Chân dọi Tuần Vường
Phát tích đế Vương
Lưu truyền vạn đại”.
Núi Đọi thì như trên đã nói, còn Tuần Vường là khúc sông Hồng giáp
với huyện Lý Nhân và huyện Mỹ Lộc (tỉnh Nam Định) sóng to, gió lớn gây
hiểm họa, thuyền bè rất sợ phải qua nơi này “Mười hai cửa bể cũng nể Tuần
Vường”. Phải chăng bốn câu phương ngôn này thể hiện triết lý Âm Dương:
Núi Đọi (dương), Tuần Vường (âm), âm dương hài hòa chế áp lẫn nhau thì mọi
sự thịnh vượng thể hiện ước vọng, cầu nguyện hơn là thực tế hiển nhiên. Từ
Long Đĩnh thời Tiền Lê, đến thời Lý Nhân Tông núi có tên là Long Đội Sơn
(hang rồng). Sách Đại Nam nhất thống chí chép: “Dưới chân núi có chín ngọn
suối, lại có huyệt đã gọi là huyệt Hàm Rồng”. Theo thuyết Âm- Dương Ngũ


18
hành của triết học phương Đông cổ đại, số chín là số thiêng, đó là con số cực
dương, biểu tượng của sự sinh sôi, phát triển thuận lý. Thời Hậu Lê núi đổi
thành núi Đọi Sơn. Đọi là từ thuần Việt, nghĩa cổ là cái bát, có lẽ hình dáng
núi Đọi giống cái bát lộn ngược nên mới có tên như thế. Các sách địa chí thời
Nguyễn gọi núi là Long Đội, Long Đọi Sơn [53, tr.52].
Ngày nay, nhân dân quen gọi là núi Đọi, còn tên xã là Đọi Sơn. Truyền
thuyết dân gian vẫn ghi nhớ sự kiện cách đây 1010 năm, cánh đồng vua Lê
cày tịch điền nằm sát chân núi phía Tây, trên cánh đồng còn lưu lại các địa
danh: Nhà Hiến (nơi dân chúng dâng thức ăn lên nhà vua), Dinh trong (nơi

vua ở), Dinh ngoài (nơi ở của các quan), Sứ tàu ngựa (chuồng ngựa của vua
và các quan).
Nói đến Đọi Sơn không thể không nhắc đến làng trống ngàn năm tuổi
Đọi Tam, ở phía Tây Bắc chân núi Đọi. Với bàn tay khéo léo đặc biệt, người
Đọi Tam đã tạo ra được những chiếc trống với âm thanh rền vang, trầm bổng
vang xa oai hùng, linh thiêng. Giữa làng Đọi Tam có ngôi đình cổ, đình thờ
Thành hoàng làng là hai ông tổ nghề. Theo truyền thuyết, một ngày cách nay
hơn 1000 năm, có hai anh em là Nguyễn Đức Năng và Nguyễn Đức Bản khi
đi qua làng Đọi Tam thấy vùng này có nhiều gỗ mít chín thơm lừng, gỗ mít
vàng thơm lại không bị mọt, hai anh em liền chọn nơi này làm chốn định cơ để
hành nghề làm trống. Truyền thuyết cũng kể lại rằng, năm 986, được tin Vua
Lê Đại Hành sửa soạn về làng cày ruộng khuyến nông, hai anh em cụ Năng và
cụ Bản đã tự tay làm một cái trống to để đón vua. Tiếng trống vang như sấm
rền nên về sau hai ông được dân làng tôn là trạng Sấm. Trước khi Thái hậu Ỷ
Lan và vua Lý Nhân Tông về đây xây dựng chùa Long Đọi Sơn năm 1118,
làng trống Đọi Tam dưới chân núi Đọi Sơn đã có lịch sử trên 200 năm.
Nghề làm trống Đọi Tam nổi tiếng khắp nơi. Thợ của làng có mặt ở
mọi miền đất nước. Theo quy định, kỹ thuật làm trống chỉ được truyền cho


19
con trai, không truyền cho con gái, con rể hay người ngoài làng. Nhà nào vi
phạm quy định này sẽ bị đuổi khỏi làng hoặc là chịu lời nguyền sẽ không làm
ăn, buôn bán được nữa. Chính vì lẽ đó, con trai trong làng được dạy cho biết
làm trống từ hồi 12, 13 tuổi, đến 14, 15 tuổi, người con trai làng Đọi đã vai
đeo bọc da trâu và chão, theo cha rong ruổi đi khắp các tỉnh đồng bằng Bắc
Bộ, lên miền núi, vào cả miền Trung. Họ đến các làng để làm trống mới hay
sửa chữa lại trống cũ, bưng lại mặt trống. Thợ làng Đọi Tam làm đủ các loại
trống: trống đại, trống tiểu, trống dùng trong cung đình, trống dùng trong
trường học, trống trung thu… trong đó trống sấm chỉ dành cho cánh đàn ông

khỏe mạnh, có kinh nghiệm và kỹ thuật điêu luyện.
Để làm được một chiếc trống phải qua ba bước: làm da, làm tang và
bưng trống. Da được chọn làm trống là da trâu cái, đem bào hết lớp màng,
ngâm nước, chống thối rồi phơi khô. Lớp da ngoài được dùng làm trống to,
lớp da dưới dùng làm trống cho trẻ em. Gỗ làm tang trống chủ yếu là gỗ mít loại gỗ dẻo, mềm, không bị cong vênh, hơn nữa “Gỗ mít đánh ít kêu nhiều”.
Gỗ được cắt thành nhiều khúc sau đó pha thành từng “dăm”. Tùy theo kích cỡ
của trống mới định ra bao nhiêu “dăm”, cũng như độ cong và độ dẻo của dăm
để khi ghép với thân trống vừa khít, không có kẽ hở. Ngoài ra, để cho trống
thật kín, người ta còn dùng sơn miết vào các khe, cứ một lớp sơn lại có một
lớp vải màn. Cuối cùng là bưng trống, da trâu được quay tròn căng hết cỡ trên
mặt trống, đóng đinh cố định vào thân trống bằng đinh chốt làm từ vầu hoặc
tre già. Vẫn là những bước làm trống cơ bản nhưng trống Đọi Tam nổi tiếng
nhờ độ bền, đẹp, nhờ bí quyết riêng cũng như tinh thần trách nhiệm của người
thợ. Ngay cả thời kỳ khó khăn, Đọi Tam vẫn duy trì được nghề nhờ truyền
thống của cha ông. Trên địa bàn có 550 hộ thì có tới gần 600 thợ làm trống
với gần 40 cơ sở làm các công đoạn về trống: 14 cơ sở sản xuất khung trống,
13 cơ sở sản xuất da trâu và trên 10 cơ sở làm hoàn chỉnh trống.


×