Tải bản đầy đủ (.pdf) (172 trang)

Triết lý nhân sinh trong truyện cổ tích việt nam và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng con người mới hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 172 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------

TRẦN THỊ HOA

TRIẾT LÝ NHÂN SINH
TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM
VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI
VIỆC XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------------

TRẦN THỊ HOA

TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH
VIỆT NAM VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI
VIỆC XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI HIỆN NAY
Chuyên ngành : Triết học
Mã số

: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. ĐÀO VĂN DŨNG

HÀ NỘI - 2017


1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Triết lý nhân sinh trong truyện cổ tích
Việt Nam và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng con người mới hiện nay”
là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của GS.TS Đào Văn
Dũng.
Luận văn có kế thừa một số kết quả nghiên cứu liên quan đã được công
bố. Các số liệu, tài liệu trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan và
có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về luận văn của
mình.
Hà Nội, tháng 05 năm 2017
Tác giả luận văn

Trần Thị Hoa


2

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, Phòng Đào tạo Sau đại học và các phòng ban khác cùng các Thầy
Cô giáo trong khoa Triết học đã quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi

được học tập, nghiên cứu tại trường.
Đặc biệt, với tất cả tình cảm, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc
tới GS. TS Đào Văn Dũng - Người đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo và hết
lòng giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện đề tài luận văn. Thầy
đã giúp tôi tìm hiểu được nhiều tri thức mới và rèn luyện kỹ năng trong nghiên cứu
khoa học.
Cuối cùng, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn bè và
những người thân đã luôn động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành
luận văn của mình.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 05 năm 2017
Tác giả luận văn

Trần Thị Hoa


3

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Người Việt Nam ai cũng biết truyện cổ tích qua lời kể của bà, của mẹ, của
những bài học đã được tiếp thu qua bao thế hệ, trở thành định hướng sống cho
con người trong cuộc đời. Nó chắp cánh cho những ước mơ, đem lại cho con
người tinh thần lạc quan, niềm vui, hạnh phúc. Nó nâng đỡ cho những khát vọng
lãng mạn và cao cả, nối liền với hiện thực, trở thành hiện thực của con người.
Truyện cổ tích là một trong những thể loại chủ yếu của văn học dân gian,
nó cũng là thể loại có nhiều vấn đề khá phức tạp và phong phú. Thông qua
những sáng tạo nghệ thuật cổ tích, tác giả dân gian - những người lao động Việt
Nam và thế giới đã gửi gắm quan điểm của mình về thế giới, về con người và

cuộc sống của con người. Chứa đựng trong câu chuyện cổ tích không chỉ là
những ông bụt, bà tiên, ông già Tuyết hay thế giới lý tưởng mà mọi người mong
muốn, trong truyện cổ tích còn có những tư tưởng triết học sâu sắc được tác giả dân
gian thể hiện, trong đó, có những triết lý nhân sinh. Chính những tư tưởng triết học
ấy đã làm nên sức sống mãnh liệt, sức lan tỏa rộng rãi, tình yêu và niềm đam mê
của nhân dân đối với truyện cổ tích: “Tôi yêu truyện cổ nước tôi/ Vừa nhân hậu lại
tuyệt vời sâu xa" [4; tr.19].
Hiện nay ở Việt Nam, trước sự du nhập ồ ạt của văn hóa ngoại lai, những
giá trị truyền thống của dân tộc đứng trước nguy cơ bị mai một, xuống cấp. Tình


4

trạng ly hôn gia tăng; tệ nạn xã hội thâm nhập vào mọi ngóc ngách cuộc sống;
mâu thuẫn, xung đột, bạo lực gia đình đang ở mức báo động; thái độ vô cảm trở
thành vấn nạn tâm lý; một bộ phận người dân lười lao động, sống không có lý
tưởng... Một thực tế đáng buồn là sự xuống cấp đạo đức trên đang diễn ra một
cách phổ biến. Một phần nguyên nhân là do sự biến đổi theo chiều hướng đi
xuống của văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho rằng, một đất nước đánh mất
đi bản sắc văn hóa của mình thì coi như mất tất cả. Về thực trạng văn hóa Việt
Nam, bên cạnh những thành tựu nhất định, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09
tháng 6 năm 2014 của Ban chấp hành Trung ương khóa XI tại Hội nghị Trung
ương 9 chỉ ra rằng “Môi trường văn hóa còn tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh,
ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội, tội phạm có chiều hướng
gia tăng. Còn ít những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và
nghệ thuật, có một số tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp,
thậm chí có hại. Hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật chưa theo kịp
thực tiễn sáng tác. Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiệu quả chưa
cao, nguy cơ mai một chưa được ngăn chặn”[9; tr.1]. Hội nghị xác định “Văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững

đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã
hội”[9;tr.3] và đưa ra nhiệm vụ đầu tiên để phát triển văn hóa là xây dựng con
người Việt Nam – con người mới xã hội chủ nghĩa phát triển toàn diện.
Trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng lần đầu tiên xuất hiện điểm mới rất
quan trọng là xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam “thấm nhuần
tinh thần dân tộc”. “Thấm nhuần tinh thần dân tộc” được hiểu là sự bổ sung mới
và là mục tiêu, tiêu chí của văn hóa, con người Việt Nam. Việc xây dựng con
người mới ở Việt Nam hiện nay cần phải có sự vun đắp từ gốc rễ văn hóa vốn


5

có. Và việc giáo dục thông qua những triết lý nhân sinh của truyện cổ tích là một
trong những giải pháp mang giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, bởi truyện cổ tích
chứa đựng tinh thần của nguồn cội dân tộc, đồng thời là phần vốn có, phần gần
gũi nhất đối với mỗi người dân Việt, khiến việc giáo dục bồi dưỡng nhân cách
con người được thuận lợi hơn.
Vì những lý do trên, việc tìm hiểu những tư tưởng triết học nhân sinh
trong truyện cổ tích Việt Nam góp phần khẳng định tư duy tiến bộ của người
Việt và vận dụng linh hoạt những tư tưởng đó vào việc xây dựng con người mới
ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là một việc làm có ý nghĩa, có hiệu quả.
Chính vì vậy, tôi lựa chọn vấn đề “Triết lý nhân sinh trong truyện cổ tích Việt
Nam và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng con người mới hiện nay” làm đề
tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Đóng vai trò quan trọng trong hệ thống văn học dân gian Việt Nam, truyện
cổ tích và vấn đề xây dựng con người mới ở Việt Nam đã giành được sự quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu văn học trong nước.
Có thể chia tài liệu theo các nhóm nghiên cứu như sau:
Nhóm thứ nhất, các công trình khoa học nghiên cứu về truyện cổ tích Việt

Nam và triết lý nhân sinh trong truyện cổ tích Việt Nam.
Nhóm thứ hai, vấn đề xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay
Nhóm thứ nhất: Trước hết phải kể đến sự dày công tìm hiểu và biên soạn
của tác giả Nguyễn Đổng Chi. Ông đã sưu tầm và viết lại gần 2.000 truyện cổ


6

Việt Nam. Số truyện trên được ông sử dụng để soạn bộ sách “Kho tàng truyện
cổ tích Việt Nam” gồm 5 tập. Đây là bộ sách nghiên cứu được biên soạn và in
trong thời gian 25 năm (1957-1982) với tổng cộng 5 lần in bởi Nxb Khoa học xã
hội. Bộ sách là tài liệu quý báu để các nhà nghiên cứu tham khảo khi tìm hiểu về
truyện cổ tích Việt Nam [2].
Ở nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau, mỗi nhà nghiên cứu đã đưa ra
nhiều vấn đề về truyện cổ tích Việt Nam.
Truyện cổ tích dưới góc độ nhân sinh quan được phản ánh trong công
trình nghiên cứu của tác giả Vũ Tố Hảo và Hà Châu,“Tư tưởng tiến bộ - Triết lý
nhân sinh thực tiễn của nhân dân và vai trò của vè, truyện kể trong văn học dân
gian”, Nxb Thời đại. Tác phẩm đã giới thiệu tư tưởng dân chủ tiến bộ và triết lý
nhân sinh thực tiễn của nhân dân qua văn học dân gian, truyện kể và vè trong đời
sống văn hóa dân tộc [27].
Tác giả Bùi Văn Nguyên cũng nghiên cứu truyện cổ tích ở khía cạnh
những triết lý cuộc sống trong công trình “Việt Nam truyện cổ triết lý và tình
thương” (1991), Nxb Khoa học xã hội [53]. Dưới góc độ thẩm mỹ, có công trình
nghiên cứu của tác giả Hà Châu (tháng 5/1972), “Về đặc điểm thẩm mỹ của
truyện cổ tích thần kỳ ở Việt Nam”, tạp chí Văn học [1].
Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu về truyện cổ tích thông qua các
câu chuyện cụ thể như công trình của Đỗ Lan Phương (2003),“Đạo giáo dân
gian Việt Nam qua biểu tượng Chử Đồng Tử”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3
(87). Qua truyện cổ tích Chử Đồng Tử, tác giả chỉ ra những giá trị triết lý của

Đạo giáo dân gian Việt Nam được thể hiện trong đó [61]. Hay công trình của


7

Đinh Gia Khánh (1968), “Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích qua
truyện Tấm Cám”, Nxb Văn học, là công trình có tính chất toàn diện hơn cả, đề
cập gần như hầu hết các vấn đề chính của kiểu truyện Tấm Cám ở Việt Nam
[19].
Truyện cổ tích cũng được nhiều nhà nghiên cứu đề cập tới trong quá trình
nghiên cứu tiến trình văn học Việt Nam, chẳng hạn như công trình của Cao Huy
Đỉnh (1976), “Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam”, Nxb Khoa học
xã hội. Tác phẩm nghiên cứu truyện cổ tích theo lịch sử văn học, qua phân tích
các câu chuyện cổ, tác giả chỉ ra bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội đã tác động
đến nội dung câu chuyện [15]. Công trình của Trần Đức Ngôn, Dương Thu
Hương, “Giáo trình văn học thiếu nhi Việt Nam”, Nxb Đại học Sư phạm; công
trình của tập thể giảng viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội, “Giáo trình văn
học dân gian”, Nxb Giáo dục Việt Nam cũng khái quát lịch sử hình thành và
phát triển truyện cổ tích theo tiến trình lịch sử văn học dân gian Việt Nam, đây là
cơ sở lý giải nguyên nhân tác giả dân gian đề cập đến các vấn đề nhân sinh khác
nhau ở từng thời kỳ khác nhau trong truyện cổ tích.
Nhóm thứ hai: Về vấn đề xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay,
đây là đề tài được quan tâm rất nhiều trong thời đại hội nhập của đất nước, chính
vì vậy có không ít công trình nghiên cứu khá đồ sộ như: Chương trình khoa học
công nghệ cấp nhà nước của Phạm Minh Hạc (1994), “Vấn đề con người trong
công cuộc đổi mới”đề cập đến những thay đổi cả về mặt tích cực và tiêu cực của
con người Việt Nam trong công cuộc đổi mới [26]. Các bài báo của Dương Phú
Hiệp (1992), “Sự hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam trong
điều kiện chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường”, Tạp chí



8

Triết học, số 4, trang 8 – 11 [30]; Trần Hồng Kì (1996), “Về vấn đề xây dựng
đạo đức mới”, Tạp chí Thông tin lý luận, số 4, trang 42 – 44 cũng đề cập đến
vấn đề con người mới và việc xây dựng con người mới ở Việt Nam [23]. Đây
cũng là đề tài được lãnh đạo Đảng và Nhà nước quan tâm, thể hiện trong Di chúc
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 10-5-1969, t.12 [47]; trong văn kiện của Đảng Cộng
sản Việt Nam (1977), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự
thật [13]; Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật [9]; Đảng Cộng sản Việt Nam
(2014), Nghị quyết số 33-NQ/TW Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và
phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước [10].
Tóm lại, có nhiều công trình nghiên cứu về truyện cổ tích Việt Nam.
Các công trình này đã nghiên cứu sâu các vấn đề: nội dung, kết cấu, sưu tầm,
nhân vật… dưới nhiều góc độ: văn học, mỹ học, giáo dục học… Đây là nguồn
tư liệu quý cho tác giả kế thừa, phát huy giá trị trong quá trình nghiên cứu về
truyện cổ tích. Tuy nhiên, hiện nay, vẫn còn rất ít công trình tìm hiểu các triết
lý nhân sinh trong truyện cổ tích Việt Nam một cách hệ thống chuyên sâu và
vận dụng nó vào xây dựng con người mới ở Việt Nam. Đây là một khoảng
trống để tác giả có thể đi sâu, làm rõ. Việc kế thừa và bổ sung, góp phần làm
rõ triết lý nhân sinh trong truyện cổ tích Việt Nam và vận dụng trong việc xây
dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay là việc làm có ý nghĩa cả về lý luận
và thực tiễn.
3. Mục đích nghiên cứu


9


Trên cơ sở xác định rõ nội dung triết lý nhân sinh trong truyện cổ tích Việt
Nam, luận văn làm rõ ý nghĩa của nó trong xây dựng con người mới ở nước ta
hiện nay.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu là truyện cổ tích Việt Nam.
- Đối tượng nghiên cứu là những triết lý nhân sinh trong truyện cổ tích
Việt Nam.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu phân tích được triết lý nhân sinh trong truyện cổ tích Việt Nam,
chúng ta sẽ thấy được ý nghĩa của nó trong xây dựng con người mới ở Việt Nam
hiện nay.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ sự ra đời, nội dung, ý nghĩa của truyện cổ tích Việt Nam
- Phân tích những nội dung cơ bản của triết lý nhân sinh trong truyện cổ
tích Việt Nam.
- Chỉ ra ý nghĩa triết lý nhân sinh của truyện cổ tích Việt Nam với việc xây
dựng con người mới trong xã hội hiện nay.
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam là tài nguyên văn hóa vô cùng rộng lớn.
Ở đây tôi chỉ chọn những truyện tiêu biểu, phổ biến để tập trung nghiên cứu nội


10

dung và giá trị nhân sinh của nó như các truyện: Tấm Cám, Sọ Dừa, Thạch Sanh,
Sự tích cây khế, Sự tích dưa hấu (truyện Mai An Tiêm), Sự tích bánh chưng bánh
dày, Sự tích trầu cau, Cây tre trăm đốt, Cái cân thủy ngân, Tứ bất tử, Chử Đồng
Tử, Từ Thức lên tiên, Thánh Gióng…
8. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa

duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời đề tài sử dụng những
phương pháp nghiên cứu: phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết, phương
pháp tham vấn chuyên gia, phương pháp sử học, phương pháp logic và lịch sử…
9. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có
kết cấu gồm 2 chương, 5 tiết.
10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
10.1. Những luận điểm cơ bản
- Truyện cổ tích Việt Nam là một loại hình văn học chứa đựng triết lý
nhân sinh hết sức sâu sắc, nếu được khai thác sẽ góp phần tích cực vào việc xây
dựng con người mới trong xã hội hiện nay.
- Triết lý nhân sinh trong truyện cổ tích Việt Nam rất phong phú, song
được tập trung ở vấn đề mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và giữa con
người với cộng đồng xã hội.
10.2. Đóng góp mới của luận văn


11

Về lý luận, luận văn góp phần làm rõ hệ thống những vấn đề lý luận về nội
dung, giá trị triết lý nhân sinh hàm chứa trong truyện cổ tích Việt Nam, góp một
cái nhìn mới về sự vận dụng giá trị của nó vào việc xây dựng con người mới
trong xã hội Việt Nam hiện nay.
Về thực tiễn, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu
và giảng dạy văn học dân gian, Lịch sử triết học Việt Nam, Văn hóa Việt Nam...

NỘI DUNG
Chương 1
TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM – MỘT
SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

1.1.

Khái niệm triết lý nhân sinh và truyện cổ tích Việt Nam

1.1.1. Triết lý nhân sinh
1.1.1.1. Khái niệm triết lý nhân sinh
Triết học là phản ánh bản chất người. Triết học nhân sinh là triết học của
con người, vì con người. Siêu hình học, tri thức luận, triết học khoa học, triết học
xã hội, triết học chính trị, triết học tôn giáo, triết học nghệ thuật và văn hóa… là
các tiếp cận khác nhau về một đối tượng chung là cuộc sống con người. Triết học
được ấp ủ từ chính cuộc sống thường ngày để từ đó trở thành một lĩnh vực có cấu
trúc thuần túy có thể hiểu được. Triết học không phải là để thỏa mãn tham muốn tri
thức đơn thuần, mà là một tri thức nhằm thỏa mãn được mục đích căn bản nhất của


12

con người hạnh phúc hay mãn nguyện. Mối quan hệ giữa triết học với các khoa học
và các lĩnh vực khác đều không ngoài mục đích “nhân sinh”.
Khi nói đến lĩnh vực tư tưởng triết học, lịch sử tư tưởng phương Tây thường
nhắc đến những khái niệm triết học chính trị, triết học nghệ thuật, triết học tôn giáo,
triết học đạo đức…, bởi họ không có sự phân biệt giữa khái niệm triết lý và triết học.
Còn ở phương Đông, khái niệm triết lý được sử dụng phổ biến nhằm thể hiện những tư
tưởng, quan niệm về các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như: triết lý nhân
sinh, triết lý quân sự, triết lý đạo đức, triết lý sống…
Khái niệm triết lý đã được một số công trình nghiên cứu trình bày rất cụ thể.
Để phân biệt giữa triết lý và triết học, trong bài viết “Giá trị bền vững của
triết lý dân gian trong toàn cầu hóa” khi tham gia hội thảo quốc tế “Toàn cầu
hóa: Những vấn đề triết học ở Châu Á – Thái Bình Dương” do Viện Triết học tổ
chức tại Hà Nội, tháng 11 năm 2005, tác giả Tô Duy Hợp cho rằng : “Triết lý và

triết học đều cùng một phạm trù, đó là thế giới quan và nhân sinh quan. Nhưng
triết lý là thế giới quan kinh nghiệm nó khác với triết học là thế giới quan lý
luận” [32]. Trong bài viết “Mấy suy nghĩ về triết học và triết lý” trên Tạp chí
Triết học số 3/1998, theo Hồ Sỹ Quý: “ Mặc dù ở nước ta có một số người dịch
philosophy là triết lý nhưng trong tiếng Việt, chúng ta đều biết triết lý và triết
học là các khái niệm khác nhau, dùng để biểu đạt phản ánh những đối tượng
khác nhau. Nếu như trong đời sống xã hội thuật ngữ triết học chỉ được sử dụng
như một danh từ và đôi khi được sử dụng như một tính từ, thì triết lý thường
xuyên được sử dụng với cả ba tư cách danh từ, tính từ và động từ” [60;tr.57].
Khi bàn luận về giá trị của triết lý người, ông đã chỉ ra điểm hạn chế của
triết lý so với triết học: “Nếu có thể đem so sánh với triết học thì triết lý luôn ở
trình độ thấp hơn về tính hệ thống, độ toàn vẹn và khả năng nhất quán trong việc


13

giải quyết vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy. Nói một cách khác, nếu
không phải là tất cả thì trong đa số các trường hợp, triết lý thường thiếu chặt chẽ
hơn, phiến diện hơn và có khả năng chứa đựng mâu thuẫn so với triết học”
[60;tr.57]. Tuy nhiên, Hồ Sĩ Quý vẫn nhấn mạnh tính độc lập của triết lý: “Triết
lý với tính cách là những định hướng cho hành động thì những khái quát đó
thường không chịu sự ràng buộc hay quy định của bất kỳ hệ thống tư tưởng nào.
Trong thành phần của mỗi triết lý, các khái niệm và các quan điểm không bắt
buộc phải tuân theo một học thuyết hay một hệ tư tưởng nào. Thật khó có thể bắt
bẻ một khái niệm trong một triết lý xem khái niệm ấy có phù hợp với một học
thuyết cụ thể nào không” [60; tr.57].
Để định nghĩa về khái niệm triết lý, Hồ Sĩ Quý cho rằng: “Triết lý có thể và
nên được hiểu là những tư tưởng, quan điểm hay quan niệm… mang tính khái
quát cao; được phản ánh một cách cô đúc dưới dạng các mệnh đề hoặc các phán
đoán thường là trau chuốt về mặt ngôn ngữ; và được sử dụng trong đời sống xã

hội với tính cách là những định hướng cho hoạt động của con người về mặt thế
giới quan, phương pháp luận hoặc nhân sinh quan” [60;tr.59].
Tác giả cuốn sách Triết lý phát triển ở Việt Nam – mấy vấn đề cốt yếu đã định
nghĩa: “Triết lý là kết quả của sự suy ngẫm, chiêm nghiệm và đúc kết thành những
quan điểm, luận điểm, phương châm cơ bản và cốt lõi nhất về cuộc sống cũng như về
hoạt động thực tiễn rất đa dạng của con người trong xã hội. Chúng có vai trò định
hướng trực tiếp ngược trở lại đối với cuộc sống và những hoạt động thực tiễn rất đa
dạng ấy”[49; tr.31].
Trong sách Triết lý phát triển C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh,
học giả Nguyễn Văn Huyên cho rằng: “Triết lý có thể thể hiện bằng một mệnh đề hàm
súc những ý nghĩa về nhân tình thế thái; về tự nhiên, về xã hội; nó cũng có thể là một


14

hệ mệnh đề tạo thành một quan niệm, một luận thuyết (…) Triết lý đúng và khoa học
thì nó trở thành cơ sở lý luận khoa học cho một hệ thống quan điểm học thuyết; nó làm
công cụ lý thuyết cho hành động hiệu quả của con người” [34; tr. 9].
Như vậy, chúng ta có thể định nghĩa rằng triết lý là những quan niệm,
quan điểm, luận điểm phản ánh một cách khái quát, cơ bản về cuộc sống và hoạt
động thực tiễn của xã hội được đúc kết thông qua sự suy ngẫm, trải nghiệm của
con người. Triết lý có vai trò định hướng cho hoạt động của con người, trở
thành công cụ tác động trở lại cuộc sống và hoạt động thực tiễn của xã hội.
Nhân sinh có nguồn gốc là tiếng Hán Việt. Nhân là người. Sinh là cách
thức tồn tại, hoạt động, sinh sống. Nhân sinh là cuộc sống của con người.
Theo Từ Điển Tiếng Việt [58], nhân sinh quan là quan niệm thành hệ
thống về cuộc đời, về ý nghĩa, mục đích của cuộc sống con người.
Vậy có thể hiểu nhân sinh quan là sự xem xét, suy nghĩ về sự sống của
con người, là quan niệm về những định luật diễn hóa trong đời sống nhân loại và
sự sống của con người.

Nói đến “nhân sinh” tức là nói đến sinh mệnh con người, đến cuộc sống
con người và cả nhân tính của con người trong xã hội. Sinh mệnh là yếu tố cơ
bản duy trì sự sinh tồn của con người. Cuộc sống ở đây là cuộc sống nội tâm và
cuộc sống ngoại tâm, nói cách khác là đời sống tinh thần và đời sống vật chất
của con người. Nhân tính giúp con người chỉ ra phương hướng hay mục đích
sống của mình, hướng về một mục tiêu nhất định. Nghiên cứu về vấn đề nhân
sinh tức là đi nghiên cứu về bản chất của mỗi con người thể hiện như thế nào
trong cuộc sống, mục đích, thái độ, hành vi của đời sống con người.
Về bản chất, vấn đề nhân sinh là cốt lõi nội tại của triết học. Mọi hoạt
động triết học từ các cấp độ khác nhau, trong các mức liên ngành, lý thuyết hay


15

ứng dụng triết học đều phản ánh một khát vọng chung nhất của con người là
mưu cầu một cuộc sống hoàn thiện hơn, tốt hơn, hạnh phúc hơn (Chân, Thiện,
Mỹ) trên cơ sở hiểu biết sâu sắc hơn về mục đích, giá trị, hoàn cảnh cuộc sống
cũng như khả năng và giới hạn của các kỹ thuật và phương thức sống (tư duy và
hành động) của chính con người.
Trong cuốn “Lịch sử triết học”, Trần Đăng Sinh cho rằng, tư tưởng về
nhân sinh bao gồm những vấn đề cơ bản như: bản chất của con người, đạo làm
người, đường lối trị nước, mối quan hệ giữa “trị” và “loạn”, mối quan hệ giữa
vua và quan, mối quan hệ giữa vua và dân, vấn đề sử dụng nhân tài … được đặc
biệt chú trọng trong tư tưởng triết học Việt Nam. Mặc dù chịu ảnh hưởng khá
nhiều của tư tưởng “Tam cương” “Ngũ thường” của Nho giáo nhưng nhân sinh
quan của người Việt vẫn mang trong mình những nét riêng không pha trộn. Sự
gia trưởng và quan niệm nam tôn nữ ti không làm mất đi sự trân trọng đối với
người phụ nữ trong đời sống xã hội [62; tr. 55].
Như vậy, qua sự phân tích về triết lý và nhân sinh, có thể hiểu triết lý nhân sinh
là hệ thống những tư tưởng, quan niệm, cách nhìn nhận của con người về ý

nghĩa, mục đích của cuộc đời, về thế giới xung quanh con người; từ đó định
hướng suy nghĩ, thái độ, hoạt động, hành vi của con người nhằm tác động lại
cuộc sống và thực tiễn xã hội. Với tính cách định hướng cho con người những
hoạt động về mặt thế giới quan và phương pháp luận, triết lý nhân sinh tiến bộ
chính là kim chỉ nam dẫn dắt con người đi đến thành công.
Triết lý nhân sinh trong truyện cổ tích Việt Nam là hệ thống những tư tưởng,
quan niệm của con người Việt Nam (của các tác giả dân gian Việt Nam) về cuộc
sống, số phận con người, về các giá trị của con người trong cuộc đời được thể


16

hiện qua những câu chuyện cổ tích; thông qua đó nhằm giáo dục con người
hướng tới những hành vi, thái độ đạo đức phù hợp với chuẩn mực.
1.1.1.2. Một số đặc trưng cơ bản của triết lý nhân sinh
Triết lí nhân sinh gồm những quan niệm về cuộc sống của con người: Con
người là gì? Con người từ đâu mà sinh ra? Con người chết rồi sẽ ra sao? Vị trí
của con người trong cuộc đời? Lẽ sống của con người là gì? Mục đích, ý nghĩa,
giá trị của cuộc sống con người ra sao và sống như thế nào cho xứng đáng? Trả
lời những câu hỏi đó là vấn đề nhân sinh quan. Nhân sinh quan trong thời đại
mới được đưa ra nhằm mục đích bóc tách và vạch ra những sai lầm của quan
niệm cũ, quan niệm phản tiến bộ và xây dựng một quan niệm mới về cuộc sống.
Có thế chỉ ra một số đặc trưng cơ bản của triết lý nhân sinh và vấn đề nhân
sinh quan như sau:
Một là, triết lý nhân sinh là một đặc trưng chỉ có ở loài người, thể hiện
trình độ tư duy của con người. Khác với loài cầm thú, bất kì người nào cũng có
quan niệm của mình về cuộc sống, tức là phải có nhân sinh quan. Trong đời
thường, đó là nhân sinh quan tự phát, “ngây thơ” của đại chúng; các nhà tư
tưởng khái quát những quan điểm ấy, nâng lên thành lí luận, tạo ra nhân sinh
quan tự giác, mang tính nguyên lí triết học.

Nhân sinh quan là cách nhìn nhận đời sống, công tác, xã hội, lịch sử, dựa
theo lợi ích của giai cấp mình. Có nhiều loại nhân sinh quan, chẳng hạn như:
Nhân sinh quan cách mạng: nhân sinh quan của giai cấp công nhân đấu
tranh để cải tạo xã hội.
Nhân sinh quan cộng sản: nhân sinh quan của những người cộng sản đấu
tranh để thực hiện chủ nghĩa cộng sản, đầy lòng tin tưởng ở tương lai tốt đẹp của
loài người và sẵn sàng hi sinh chiến đấu cho tương lai ấy.


17

Nhân sinh quan tôn giáo: nhân sinh quan của các tôn giáo khác nhau mang
đặc điểm nổi bật của tôn giáo đó nhưng cũng chứa đầy tính chất duy tâm chủ
quan.
Nhân sinh quan triết học: nhân sinh quan của các trường phái triết về
những định luật diễn hóa trong đời sống nhân loại và sự sống của con người.
Hai là, trong xã hội có giai cấp, nhân sinh quan có tính giai cấp. Giai cấp
đang đi lên trong lịch sử có nhân sinh quan lạc quan, tích cực, cách mạng; nhân
sinh quan của giai cấp đang suy thoái thường mang tính bi quan, yếm thế. Nhân
sinh quan có tác dụng lớn đến hoạt động của con người; những quan niệm về
nhân sinh quan trở thành niềm tin, lối sống, tạo ra phương hướng, mục tiêu cho
hoạt động của con người (lí tưởng sống). Nếu phản ánh đúng khuynh hướng
khách quan của lịch sử thì nó là nhân tố mạnh mẽ để cải tạo xã hội một cách hợp
lí; nếu phản ánh không đúng thì nó có tác dụng ngược lại, cản trở xã hội tiến lên.
Trong lịch sử xã hội trước đây, hoạt động của con người bị tha hóa. Từ đó
sinh ra những loại hình nhân sinh quan lạc hậu hoặc phản động, phản khoa học;
hoặc mang tính tôn giáo, chuyển ý nghĩa cuộc đời ra bên ngoài cõi đời, sang thế
giới bên kia; hoặc có xuất phát từ tính người, nhưng hiểu nó một cách trừu
tượng, định hướng hoạt động vào những nhu cầu và lợi ích cá nhân (chủ nghĩa
khoái lạc; chủ nghĩa hạnh phúc; chủ nghĩa vị lợi). Có thứ nhân sinh quan yếm

thế, lánh đời (ẩn dật); có thứ nhân sinh quan tích cực, nhập thế (giúp đời, cứu
nước), song vẫn mang ít nhiều màu sắc cá nhân chủ nghĩa (lập thân, lập công
danh sự nghiệp).
Ba là, nhân sinh quan phản ánh tồn tại xã hội của con người. Sự khác nhau
về nhân sinh quan của con người được biểu hiện thông qua các thời kì lịch sử,
hiện hữu rõ nét nhất trong các hình thái kinh tế xã hội. Nội dung của nó biểu hiện


18

ở quan điểm, lẽ sống, khát vọng, nhu cầu của con người trong từng hoàn cảnh cụ
thể. Nó không thể tách rời sự phát triển của thời đại do ảnh hưởng của những yếu
tố khác nhau. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải nhận thức rõ thời đại của mình để
tìm cách thích ứng.
Chủ nghĩa Mác là khoa học về các quy luật phát triển của lịch sử, chỉ rõ
hoạt động của con người có tác dụng cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và qua đó
mà tự cải tạo, tự nâng mình lên, đó là nhân tố quyết định sự tiến bộ xã hội. Vì
vậy, sứ mệnh của mỗi người là thúc đẩy quá trình phát triển xã hội đã chín muồi,
những hoạt động lao động sáng tạo và cải tạo xã hội, đem lại một xã hội tốt đẹp
tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người, đồng thời qua đó mà hoàn thiện những
năng lực trí tuệ, tình cảm của bản thân mình. Đó là nhân sinh quan cách mạng,
mang tính khoa học của giai cấp vô sản và của con người mới trong chế độ xã
hội chủ nghĩa. Để làm cho nhân sinh quan cách mạng chiếm ưu thế tuyệt đối
trong đời sống xã hội, phải cố gắng về nhiều mặt, trong đó giáo dục chiếm một
vị trí đặc biệt quan trọng.
Khi bàn đến “triết lý nhân sinh” chính là bàn về những tư tưởng, quan
điểm, quan niệm thể hiện trên tất cả các mối quan hệ của con người với đời sống
xã hội như: mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, mối quan hệ giữa con
người với con người, mối quan hệ giữa con người với chính bản thân mình.
Hệ thống truyện cổ tích chứa đựng triết lý nhân sinh sâu sắc, là sự phản

ánh hiện thực khách quan qua mỗi một giai đoạn lịch sử, là cách thể hiện quan
niệm về con người, cuộc sống, số phận… của con người một cách độc đáo, rất
Việt Nam.
1.1.2. Truyện cổ tích
1.1.2.1. Khái niệm truyện cổ tích


19

Truyện cổ tích là loại hình quan trọng, phong phú nhất của truyện tự sự
dân gian. Nó có rất nhiều thể loại, nhiều kiểu nhân vật và mỗi dạng thức đều tạo
nên sức hấp dẫn riêng biệt với đông đảo tầng lớp nhân dân. Trong ngôn ngữ của
các dân tộc trên thế giới đều có những từ riêng để chỉ truyện kể dân gian có tính
chất hoang đường, kì ảo, thể hiện quan niệm của dân gian về truyện kể và ý
nghĩa của chúng trong đời sống, sinh hoạt cộng đồng. Đến với truyện cổ tích
người ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp kì ảo phong phú đầy tính bất ngờ của
chúng, tính lạc quan yêu đời, tràn đầy ước mơ bay bổng và trí tuệ sâu sắc của
nhân dân. Do đó, truyện cổ tích xứng đáng trở thành đối tượng quan tâm tìm
hiểu của nhiều nhà nghiên cứu.
Chính vì sự quen thuộc của truyện cổ tích đối với mỗi chúng ta cho nên
việc định nghĩa nó càng trở nên khó khăn. Tình hình tư liệu của truyện cổ tích rất
phức tạp, đa dạng, ranh giới của nó với các thể loại tự sự dân gian khác cũng
không thật rõ ràng (có tình trạng giao thoa với thần thoại, truyền thuyết). Vì thế,
khái niệm “truyện cổ tích” thường được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm các truyện
dân gian khác. “Khi nói tới đến mấy từ truyện cổ tích, truyện đời xưa, chúng ta
thường có sẵn quan niệm rằng đấy là danh từ chung bao hàm hết thảy những loại
truyện do quần chúng vô danh sáng tác,…” [2;tr. 1]. Như vậy, khái niệm “truyện cổ
tích” bao hàm nội dung rộng lớn, thường dùng để chỉ nhiều loại truyện khác nhau
về đề tài, phương pháp sáng tác. Truyện cổ tích có thể là truyện về loài vật, về các
dũng sĩ, về người mồ côi, về người em… nhưng khác nhau về phương pháp như

truyện thần kỳ hay truyện thực về đời sống sinh hoạt…
Việc xác định thể loại truyện cổ tích ở nước ta khá khó khăn vì bản thân
truyện cổ tích Việt Nam mang tính chất phức tạp và có xu hướng đan xen vào
các thể loại khác như thần thoại, truyền thuyết. Giáo trình Văn học dân gian Việt


20

Nam vẫn xếp truyền thuyết vào loại “truyện cổ tích lịch sử”. Khi định nghĩa
truyện cổ tích, tác giả cũng không đưa ra định nghĩa cụ thể mà hiểu nó thông qua
cách đối chiếu với thần thoại: “Thần thoại là những truyện mà nhân vật là thần,
còn truyện cổ tích thì nhân vật là người; thần thoại là sáng tác dân gian thời
nguyên thủy, còn truyện cổ tích là sản phẩm của xã hội thị tộc đã tan rã, phản
ánh đấu tranh xã hội; thần thoại hấp dẫn bằng những hình tượng mĩ lệ, táo bạo,
còn truyện cổ tích lôi cuốn chúng ta vào những nỗi niềm vui khổ, không khí đấu
tranh chống cường quyền…”[20].
“Truyện cổ tích” là thuật ngữ có gốc Hán Việt, xét về mặt từ nguyên thì cổ
có nghĩa là cũ, tích là dấu vết còn để lại. Cổ tích là những truyện từ xưa còn
truyền lại. Cách giải thích như thế không bao hàm phạm vi sáng tác truyện cổ
tích, không trùng với nội hàm khái niệm “truyện cổ tích”, vì rất nhiều truyện
không tìm thấy dấu vết hay mối liên hệ của nó với thực tế.
Hiện nay ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu về thể loại tương đối thống
nhất. Toàn bộ kho tàng truyện cổ dân gian mà trước đây gọi chung là truyện cổ
tích đã được chia làm năm thể loại: thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích,
truyện cười, truyện ngụ ngôn. Theo Từ điển văn học thì: “Truyện cổ tích nảy
sinh từ xã hội nguyên thủy, song phát triển chủ yếu trong xã hội có giai cấp, chủ
đề chủ yếu của nó là chủ đề xã hội. Nó biểu hiện cách nhìn hiện thực của nhân
dân đối với thực tại đồng thời nói lên những quan điểm đạo đức, những quan
niệm về công lí xã hội và ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn cuộc sống hiện
tại. Truyện cổ tích là sản phẩm của trí tưởng tượng thần kì tạo nên một đặc trưng

nổi bật trong phương thức phản ánh hiện thực và ước mơ” [55, tr. 452].
Còn ở sách giáo khoa Văn học 10, truyện cổ tích được định nghĩa như sau:
“Truyện cổ tích là những truyện dân gian có nội dung kể lại những câu chuyện


21

tưởng tượng về một số nhân vật như dũng sĩ, nhân vật bất hạnh, nhân vật chàng
ngốc,…” [41; tr. 19].
Như vậy, khi nói về truyện cổ tích, có định nghĩa đầy đủ nhưng khá phức
tạp, có những định nghĩa ngắn gọn lại khá đơn giản. Khái quát lại, có thể hiểu
truyện cổ tích như sau: “Truyện cổ tích là loại truyện dân gian có tính phổ biến,
hình thành từ thời cổ đại, phát triển, tồn tại qua nhiều thời kì xã hội khác nhau,
gắn chặt với quá trình tan rã của công xã nguyên thủy, hình thành gia đình phụ
quyền và phân hóa giai cấp trong xã hội. Nó hướng vào những vấn đề cơ bản,
những số phận, những quan hệ và xung đột có tính chất riêng tư và phổ biến
trong xã hội có giai cấp (ở Việt Nam chủ yếu là xã hội phong kiến). Nó dùng
một kiểu tưởng tượng và hư cấu riêng (có thể gọi là “tưởng tượng và hư cấu cổ
tích”) kết hợp với các thủ pháp nghệ thuật đặc thù để phản ánh đời sống và khát
vọng của nhân dân, đáp ứng nhu cầu nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ và tiêu khiển
của nhân dân” [67; tr. 63].
Phân loại truyện cổ tích:
- Truyện cổ tích thần kì: Ra đời vào thời kì đầu của xã hội có giai cấp,
truyện cổ tích thần kì tập trung vào việc nhận thức, phản ánh xung đột mới nảy
sinh trong xã hội. Đặc trưng nổi bật của loại truyện này là yếu tố kì ảo. Nhân vật
của truyện cổ tích thần kì là con người đời thường bé nhỏ, bất hạnh đại diện cho
cái thiện đối lập với những nhân vật đại diện cho cái ác.
- Truyện cổ tích loài vật: Truyện cổ tích về loài vật là một bộ phận quan
trọng của truyện kể dân gian có nguồn gốc từ thần thoại và vì thế chúng nằm
trong ranh giới giao thoa với thần thoại. Ở nước ta, những truyện cổ tích loài vật

bị mất mát nhiều và nhiều truyện còn lại ít nhiều bị ngụ ngôn hóa hoặc pha trộn


22

với truyện thần thoại như truyện: Cóc kiện trời, Công và Quạ, Bồ câu và Sáo,
Thỏ và Rùa.
- Truyện cổ tích sinh hoạt: Truyện cổ tích sinh hoạt ra đời muộn hơn
truyện cổ tích thần kì, khi mâu thuẫn xã hội và đấu tranh giai cấp trở nên gay gắt.
Nhân vật chính là con người trong các mối quan hệ gia đình, xã hội phức tạp.
Phân loại truyện cổ tích nêu trên chỉ mang tính chất tương đối, ranh giới
thực tế giữa các loại truyện cổ tích không phải lúc nào cũng rành mạch, rõ ràng.
Cho nên, để hiểu sâu hơn tính chất đa dạng, phong phú của từng loại truyện cổ
tích cần phải đi vào tìm hiểu hệ thống đặc trưng của từng loại truyện.
1.1.2.2. Đặc trưng cơ bản của truyện cổ tích Việt Nam
Nhân vật trong truyện cổ tích
Nhân vật trong truyện cổ tích rất phức tạp, đa dạng và mang tính hiện thực
rõ nét hơn nhân vật trong thần thoại, truyền thuyết. Nhân vật trong truyện cổ tích
thường mang tính chất đại diện chứ không mang tính cá nhân. Họ đại diện cho
một kiểu người, một tầng lớp trong xã hội hay phát ngôn cho một quan niệm
nhân sinh nhất định.
Các kiểu nhân vật chính thường gặp trong truyện cổ tích là những nhân vật
có hoàn cảnh đặc biệt như: Kiểu nhân vật người con riêng, kiểu nhân vật người
mồ côi, kiểu nhân vật người em út, kiểu nhân vật người đi ở, kiểu nhân vật dũng
sĩ, kiểu nhân vật ngốc nghếch, khờ khạo, kiểu nhân vật xấu xa… Dựa vào đặc
điểm của mỗi loại truyện cổ tích mà có sự phân loại các kiểu nhân vật khác nhau
tương ứng với đặc trưng của loại truyện đó nhưng đều có điểm chung là chuyển tải
nội dung sâu sắc, những triết lí nhân sinh để răn dạy con người.
Không gian và thời gian cổ tích



23

- Không gian nghệ thuật
Theo tác giả Lê Trường Phát, trên cơ sở xét về phương diện bản thể,
không gian cổ tích thần kì có hai dạng: “Không gian cuộc sống trần thế và
không gian kì ảo phi trần thế. Không gian cuộc sống trần thế chủ yếu là không
gian làng quê. Có thể có không gian cung đình trong Tấm Cám, không gian đảo
hoang trong Sọ Dừa, không gian biển cùng với đảo vàng trong Cây khế nhưng
về cơ bản vẫn là không gian làng quê nơi nhân vật sinh ra và sống phần lớn
cuộc đời của mình. Không gian Thiên phủ (cõi tiên, thiên đình) trong truyện Từ
Thức lấy vợ tiên, không gian Âm phủ trong Sự tích sông Nhà Bè, không gian
Thủy phủ (cõi nước) trong Người thợ mộc Thanh Hoa” [56; tr. 44]. Tuy nhiên
loại không gian kì ảo ít xuất hiện trong truyện cổ tích, phần lớn là không gian đời
thường, không gian sinh hoạt, chủ yếu diễn ra trong phạm vi gia đình.
Không gian cổ tích bao quanh hoạt động của nhân vật chính và là không
gian khép kín, không gian chỉ tồn tại xung quanh nhân vật chính mà thôi. Không
gian cổ tích khó xác định phạm vi, địa điểm, đặc điểm. Truyện nào cũng có một
không gian gần giống nhau mà ta có thể bắt gặp trong một truyện cổ tích khác.
Không gian tự nhiên và không gian xã hội kết hợp với nhau tạo nên một
“thế giới cổ tích” độc đáo. Phần không gian sinh hoạt xã hội cho thấy hơi thở
nhân sinh, còn phần không gian tự nhiên lại mở ra cho người nghe một không
gian bao la cho trí tưởng tượng vỗ cánh. Kết quả là người nghe kể chuyện cổ tích
đều bị cuốn hút vào thế giới cổ tích cho dù đó là người lớn hay trẻ em.
- Thời gian nghệ thuật
Thời gian trong truyện cổ tích luôn là thời gian quá khứ vĩnh hằng, không
bao giờ thay đổi. Thời gian không thể xác định bằng năm tháng. Thời gian trong
cổ tích không gián đoạn mà diễn biến theo hành động nhân vật. Các từ chỉ thời



×