MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO
3
ĐỘNG Ở HUYỆN MỸ ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Cơ cấu lao động và chuyển dịch cơ cấu lao động
1.2. Quan niệm, nội dung và nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ
12
12
cấu lao động ở huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội
22
Chương 2. THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG
Ở HUYỆN MỸ ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI
GIAN QUA
39
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội liên quan đến chuyển dịch cơ
cấu lao động ở huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội
39
2.2. Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra từ thực
trạng chuyển dịch cơ cấu lao động ở huyện Mỹ Đức
54
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG Ở HUYỆN MỸ
ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN TỚI
63
3.1. Phương hướng đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động ở huyện Mỹ
Đức thời gian tới
3.2. Giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động ở huyện Mỹ
Đức thời gian tới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
63
69
83
86
90
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chuyển dịch CCLĐ có vai trò quan trọng tạo điều kiện để chuyển dịch cơ cấu
kinh tế CCKT. CCLĐ phù hợp sẽ thúc đẩy quá trình chuyển dịch CCKT, làm cho
nền kinh tế phát triển. Chuyển dịch CCLĐ là một trong những nhiệm vụ quan trọng,
nó vừa là kết quả, vừa là yếu tố thúc đẩy chuyển dịch CCKT, và góp phần cân đối lại
cung - cầu trên thị trường lao động giữa các ngành kinh tế trong quá trình đẩy mạnh
CNH, HĐH ở nước ta hiện nay. Chuyển dịch CCLĐ không chỉ tuân theo các quy
luật kinh tế, mà còn nhằm vào các mục tiêu phát triển bền vững, ổn định, cải thiện xã
hội và phát triển con người.
Chuyển dịch CCLĐ là một xu hướng tất yếu của quá trình phát triển kinh tế
ở nước ta trong giai đoạn hiện nay theo hướng CNH, HĐH, tăng giá trị sản xuất các
sản phẩm hàng hóa trên cơ sở phát huy thế mạnh của mỗi địa phương, vùng, miền.
Đây là chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong quá trình đẩy mạnh
CNH, HĐH, nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”. Trong những năm qua, quá trình chuyển dịch CCLĐ đã góp phần thúc
đẩy nhanh chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH, đã làm cho tỷ trọng lao
động trong các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng lên, lao động trong
ngành nông nghiệp giảm.
Cùng với cả nước và Thành phố Hà Nội, trong những năm qua quá
trình chuyển dịch CCLĐ của huyện Mỹ Đức đạt được những thành tựu nhất
định, cơ bản đã đạt được mục tiêu kinh tế - xã hội mà Nghị quyết Đại hội
đảng bộ lần thứ XV và Nghị quyết của Đảng bộ Huyện đề ra. Do vậy, tốc độ
tăng trưởng kinh tế hàng năm bình quân khá cao, giai đoạn 2010 - 2015 là
11,7%/năm; thu nhập bình quân đầu người đạt 20,5 triệu đồng/người/năm,
tăng 28,1% so với mục tiêu Đại hội XV. Cơ cấu lao động trên địa bàn huyện
từng bước chuyển dịch tích cực trên tất cả các phương diện theo ngành, nội
bộ ngành, vùng, thành phần kinh tế và chuyên môn kỹ thuật.
3
Tuy nhiên, chuyển dịch CCLĐ của huyện Mỹ Đức hiện nay vẫn còn một số
hạn chế nhất định, như: chuyển dịch CCLĐ trong các ngành diễn ra chậm, tỷ trọng
lao động trong lĩnh vực nông nghiệp còn cao, lao động dôi dư còn nhiều, lao động
trong lĩnh vực công nghiệp – xây dựng chưa ổn định, huyện chưa phát huy được lợi
thế của một địa phương có nhiều tiềm năng khai thác lao động trong ngành dịch vụ,
dẫn đến tỷ trọng lao động trong lĩnh vực này còn thấp, … chưa đáp ứng được yêu
cầu đẩy mạnh CNH, HĐH của huyện.
Để chuyển dịch CCLĐ đúng hướng, phát huy lợi thế, tiềm năng của các
ngành kinh tế, sử dụng tối ưu nguồn nhân lực, cần có những nghiên cứu hệ thống,
bài bản về chuyển dịch CCLĐ, trên cơ sở đó phân tích, đánh giá thực trạng chuyển
dịch CCLĐ ở huyện Mỹ Đức để đề ra những phương hướng cơ bản, giải pháp chủ
yếu thúc đẩy quá trình chuyển dịch CCLĐ ở huyện Mỹ Đức trong những năm tới
đúng hướng, góp phần cùng với thành phố Hà Nội sớm đưa Thủ đô trở thành một
thành phố công nghiệp theo hướng hiện đại.
Xuất phát từ những những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài: "Chuyển dịch
cơ cấu lao động ở huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội" làm đề tài luận văn Thạc sĩ
chuyên ngành Kinh tế chính trị là phù hợp, cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và
thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Chuyển dịch cơ cấu lao động trong quá trình CNH, HĐH là một trong
những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, được nhiều nhà khoa học nghiên
cứu ở nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau, đã có những đề tài khoa học, luận án tiến
sĩ, tác phẩm và nhiều bài viết được công bố cụ thể như sau:
- Luận án Phó Tiến sĩ của Trần Thị Tuyết (1996), "Chuyển dịch cơ cấu lao
động nông thôn nhằm tạo việc làm, sử dụng hợp lý nguồn lao động vùng đồng
bằng sông Hồng", Đại học Kinh tế quốc dân, H. Tác giả đã nghiên cứu về những
4
vấn đề lý luận chuyển dịch CCLĐ và chính sách sử dụng hợp lý nguồn lao động
vùng đồng bằng sông Hồng.
- Đề tài khoa học cấp Bộ của PGS.TS.Phạm Đức Thành (1997), "Chuyển
dịch cơ cấu lao động ở một huyện vùng đồng bằng sông Hồng", Đại học Kinh tế
quốc dân, H. Tác giả nghiên cứu về vai trò chuyển dịch CCLĐ và tiềm năng nguồn
lao động trong phát triển kinh tế - xã hội; hiện trạng lao động và việc làm, phương
hướng chuyển dịch CCLĐ ở một huyện vùng đồng bằng sông Hồng.
- Luận án Tiến sỹ của Lê Doãn Khải (2001), "Quá trình chuyển dịch cơ cấu
lao động trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở vùng đồng bằng Bắc Bộ
nước ta", Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, H. Công trình tiếp cận chuyển
dịch CCLĐ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo xu hướng phù hợp với
điều kiện vùng đồng bằng Bắc Bộ nước ta. Các chỉ tiêu, định lượng về tỷ lệ lao động
giữa các ngành được phân tích luận chứng khá chi tiết. Hệ thống giải pháp vừa theo
quy luật chung vừa tính đến yếu tố đặc thù ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Ngoài ra còn khá nhiều các bài viết trong các tạp chí chuyên ngành, hội thảo
khoa học về chuyển dịch CCKT, chuyển dịch CCLĐ nông thôn trong quá trình
CNH, HĐH hóa như:
- Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, Trung tâm thông tin - Tư
liệu, với công trình khảo sát nghiên cứu (2005), “Thực trạng và biện pháp đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động”, công trình nghiên cứu đã phân tích thực trạng
chuyển dịch cơ cấu lao động giai đoạn 2000 - 2005, chỉ ra các vấn đề tồn tại cũng
như các yếu tố tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động và đưa ra các
giải pháp thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu lao động.
- Chử Thị Lân với luận văn thạc sĩ kinh tế (2006), “Chuyển dịch cơ cấu
lao động một số địa phương ngoại thành Hà Nội”, Bộ Giáo dục và Đào tạo,
Trường Đại học Nông nghiệp I, H. Luận văn đã phân tích thực trạng quá trình
chuyển dịch cơ cấu lao động ở một số địa phương ngoại thành Hà Nội, mẫu
nghiên cứu là trên địa bàn các xã Mễ Trì, Mỹ Đình, Minh Phú và Đông Xuân,
5
từ đó chỉ ra các nguyên nhân và giải pháp thúc đẩy quá trình chyển dịch cơ
cấu lao động ở các địa phương nói trên.
- Bài viết “Các yếu tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu lao động nông
nghiệp, nông thôn Việt Nam”, của Nguyễn Mạnh Hải và Trần Toàn Thắng, đăng
trên tạp chí Quản lý kinh tế, số 25 năm 2009. Bài viết đã chỉ ra các điều kiện khách
quan và chủ quan tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động trong lĩnh
vực nông nghiệp nông thôn đồng thời cũng đã phân tích định lượng các yếu tố tác
động đến quá chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn.
- Phan Văn Yên và Nguyễn Thị Phương Lan với bài báo “Kết quả chuyển
dịch cơ cấu lao động tại huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội giai đoạn công nghiệp
hóa, đô thị hóa”, đăng trên Tạp chí Quản lý Kinh tế, số 27 năm 2009. Bài báo nêu
lên thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động trong giai đoạn CNH, HĐH đang diễn
ra hết sức mạnh mẽ tại huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội, qua đó thấy được sự
chuyển dịch cơ cấu lao động trong thời gian qua là đúng hướng, song tốc độ còn
quá chậm chưa tương xứng với tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Huyện.
- Đề tài cấp Nhà nước của PGS.TS Lê Xuân Bá (2009), “Nghiên cứu dự
báo chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp - nông thôn và các giải pháp giải
quyết việc làm trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô
thị hoá ở nước ta”. Tác giả đã đề cập một số vấn đề về lý luận và những dự báo
về chuyển dịch CCLĐ nông nghiệp, nông thôn, đồng thời đưa ra những giải
pháp nhằm giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trong quá trình đẩy mạnh
công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta.
- Phạm Ngọc Dũng (chủ nhiệm đề tài) đề tài cấp bộ (2012) “Chuyển dịch
lao động từ khu vực nhà nước sang tư nhân giai đoạn 2005 đến nay thực trạng và
giải pháp”, Học Viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. Đề tài đã tập
trung nghiên cứu về thực trạng quá trình chuyển dịch lao động từ khu vực kinh tế
nhà nước sang khu vực kinh tế tư nhân trên các phương diện cả thành phần kinh tế
và ngành kinh tế, từ đó đưa ra những giải pháp thúc đẩy quá trình chuyển dịch lao
6
động từ hai khu vực này cho nhau, đặc biệt là quá trình chuyển dịch lao động từ khu
vực nhà nước sang khu vực kinh tế tư nhân.
- Nguyễn Hữu Tuyên (2012), “Nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu lao động tại
các xã ven khu công nghiệp Quế Võ - Bắc Ninh”, Luận văn thạc sĩ, Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội. Trong luận văn của mình, tác giả
đã phân tích thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động của các xã ven khu
công nghiệp có xu hướng chuyển dịch từ lao động nông nghiệp sang phi nông
nghiệp, chủ yếu là ngành dịch vụ; tác giả cũng đã chỉ ra được nguyên nhân cơ bản
tác động đến sự chuyển dịch đó là do sự tác động của sự xuất hiện các khu công
nghiệp mà cụ thể là cụm công nghiệp Quế Võ.
Tác giả Phí Thị Hằng (2014), “Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành
ở Thái Bình hiện nay”, Luận án tiến sỹ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh. Về cách tiếp cận: luận án nghiên cứu chuyển dịch CCLĐ theo ngành
trong mối quan hệ với cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Thái Bình dưới hai góc độ:
chuyển dịch CCLĐ theo ngành và nội bộ ngành xét về quy mô; chuyển dịch
CCLĐ theo ngành và nội bộ ngành xét về chất lượng. Về mặt lý luận: luận án
xây dựng cơ sở lý thuyết về CDCCLĐ theo ngành ở địa bàn cấp tỉnh. Cụ thể
luận án đã làm rõ: Khái niệm chuyển dịch CCLĐ theo ngành và các xu hướng
của chuyển dịch CCLĐ theo ngành; nội dung của chuyển dịch CCLĐ theo
ngành và các chỉ tiêu đánh giá chuyển dịch CCLĐ theo ngành; phân tích, làm rõ
các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch CCLĐ theo ngành ở địa bàn cấp tỉnh.
Về mặt thực tiễn: Luận án sẽ khảo cứu kinh nghiệm chuyển dịch CCLĐ theo
ngành của ba địa phương có hoàn cảnh tương đồng với tỉnh Thái Bình để từ đó
rút ra các bài học cho chuyển dịch CCLĐ theo ngành ở tỉnh Thái Bình; luận án
đã phân tích, đánh giá thực trạng chuyển dịch CCLĐ theo ngành và nội bộ
ngành xét cả về quy mô và chất lượng ở tỉnh Thái Bình. Trên cơ sở lý thuyết đã
xây dựng ở chương 2, luận án đã dự báo nhu cầu lao động theo trình độ đào tạo,
7
nhu cầu lao động các ngành kinh tế tỉnh Thái Bình giai đoạn từ nay đến năm
2020; Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng và dự báo nhu cầu lao động các
ngành kinh tế của Tỉnh đến năm 2020, luận án sẽ đề xuất định hướng và giải
pháp thúc đẩy chuyển dịch CCLĐ theo ngành ở tỉnh Thái Bình đến năm 2020.
Phạm Ngọc Toàn (2010), “Mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và chuyển dịch cơ cấu lao động”, Tạp chí Khoa học lao động và xã hội.
Từ kết quả ước lượng mô hình, tác giả đi đến kết luận:
Vai trò của chuyển dịch CCKT tới TTKT là hết sức to lớn, các ngành
đều có vai trò thúc đẩy TTKT, tuy nhiên mỗi ngành có mức độ đóng góp vào
tăng trưởng với tốc độ khác nhau (ngành công nghiệp và dịch vụ tác động
đến TTKT cao hơn ngành nông nghiệp); Trong giai đoạn nghiên cứu, nếu
TTKT bình quân trên 4,812% thì tỷ trọng lao động nông nghiệp có xu hướng
giảm, lao động chuyển dịch dần từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ;
ngược lại, khi TTKT thấp, dưới 4,812% thì lao động trong các ngành công
nghiệp, dịch vụ có xu hướng giảm do suy giảm kinh tế, những lao động bị
mất việc làm và quay trở lại khu vực nông nghiệp vốn được coi là lưới an sinh
việc làm, do đó tỷ trọng lao động trong nông nghiệp sẽ tăng lên. Như vậy,
TTKT đã thúc đẩy chuyển dịch CCLĐ theo hướng giảm tỷ trọng lao động
trong nông nghiệp và tăng tỷ trọng lao động trong công nghiệp, dịch vụ.
Nguyễn Thị Hương Hiền (2011), “Chuyển dịch lao động nông thôn
khu vực ngoại thành Hà Nội”, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học
Kinh tế quốc dân, Hà Nội đã chỉ ra các chỉ tiêu phản ánh CDLĐ nông thôn và
phân tích các yếu tố tác động đến CDLĐ nông thôn, đó là: vị trí địa lý, điều
kiện tự nhiên; chủ trƣơng hệ thống chính sách; chuyển dịch CCKT; CNH,
HĐH, đô thị hóa; hội nhập kinh tế; yếu tố văn hóa - xã hội; trình độ của người
lao động… Tác giả cho rằng CDLĐ ở nông thôn ngoại thành Hà Nội là rất
cấp thiết do đây là nơi có tốc độ CNH, HĐH và đô thị hóa lớn nhất cả nước,
tuy nhiên thực tế còn tồn tại nhiều vấn đề bức xúc về giải quyết việc làm và
8
CDLĐ của Thành phố nói chung, ngoại thành Hà Nội nói riêng. Tác giả đã đề
xuất ra một số nhóm giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch có hiệu quả lao động
nông thôn ngoại thành Hà Nội giai đoạn 2011-2020 là: Hoàn thiện thể chế,
chính sách tạo môi trường cho CDLĐ nông thôn; Nâng cao chất lượng lao
động nông thôn; phát triển thị trường lao động nông thôn nhằm gắn kết cung cầu lao động; phát triển việc làm phi nông nghiệp nhằm thúc đẩy nhanh
CDLĐ nông thôn; Tăng cường an ninh việc làm và đảm bảo hệ thống an sinh
xã hội; Hỗ trợ phát triển sản xuất - thúc đẩy chuyển dịch CCKT nông thôn.
Tuy nhiên, các giải pháp mà tác giả đưa ra còn chưa đồng bộ, các yếu tố đầu
vào và thị trường nguồn lực vốn, khoa học - công nghệ còn mờ nhạt; thiếu
giải pháp gắn CDLĐ với quy hoạch phát triển KT- XH mà địa phương đặt ra.
Những công trình, tác phẩm, bài viết nêu trên đã phân tích sâu sắc về lý luận,
thực trạng của xu hướng chuyển dịch CCLĐ và các giải pháp thúc đẩy chuyển dịch
CCLĐ. Tuy nhiên, với đặc thù của huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội, dưới góc độ
khoa học kinh tế chính trị đến nay chưa có tác giả nào nghiên cứu sâu, toàn diện và
có hệ thống về thực trạng, xu hướng chuyển dịch CCLĐ trong quá trình CNH,
HĐH nông nghiệp nông thôn trên địa bàn Huyện. Do vậy, đề tài luận văn mà học
viên lựa chọn để nghiên cứu dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị là cần thiết, có
tính độc lập, không trùng lặp với các công trình đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn chuyển dịch CCLĐ ở huyện Mỹ Đức,
thành phố Hà Nội. Từ đó đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm đẩy mạnh chuyển
dịch CCLĐ ở huyện Mỹ Đức trong những năm tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
Một là, luận giải làm rõ cơ sở lý luận về chuyển dịch CCLĐ; nghiên cứu
những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch CCLĐ.
9
Hai là, khảo sát, đánh giá thực trạng chuyển dịch CCLĐ ở huyện Mỹ Đức,
tập trung làm rõ thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra về chuyển
dịch CCLĐ ở huyện Mỹ Đức thời gian qua.
Ba là, đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh chuyển dịch
CCLĐ ở huyện Mỹ Đức trong những năm tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Chuyển dịch cơ cấu lao động ở huyện Mỹ Đức dưới góc độ kinh tế chính trị.
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Nghiên cứu sự chuyển dịch cơ cấu lao động bao gồm:
- Chuyển dịch CCLĐ theo ngành và nội bộ ngành kinh tế
- Chuyển dịch CCLĐ chia theo khu vực thành thị và nông thôn
- Chuyển dịch CCLĐ theo thành phần kinh tế
- Chuyển dịch CCLĐ theo trình độ chuyên môn kỹ thuật
Về không gian: Nghiên cứu chuyển dịch CCLĐ ở huyện Mỹ Đức, thành phố
Hà Nội.
Về thời gian: các số liệu điều tra, khảo sát sử dụng để nghiên cứu trong
phạm vi 5 năm từ 2010 đến 2015.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận, thực tiễn: Đề tài được nghiên cứu dựa trên quan điểm của
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam; Nghị quyết của Thành uỷ, Hội đồng nhân dân, UBND Thành
phố Hà Nội; Nghị quyết của Huyện uỷ, Hội đồng nhân dân, UBND huyện Mỹ Đức
về chuyển dịch CCLĐ.
* Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử; phương pháp đặc thù của Kinh tế chính trị Mác Lênin là trừu tượng hoá khoa học và các phương pháp nghiên cứu kinh tế
10
khác như: Lô gíc lịch sử, phân tích tổng hợp, thống kế so sánh, phương pháp
chuyên gia...
6. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch
CCLĐ ở huyện Mỹ Đức. Là tài liệu tham khảo cho Đảng bộ, chính quyền địa
phương trong hoạch định chính sách phát triển kinh tế và chuyển dịch CCLĐ; đồng
thời là tài liệu tham khảo trong quá trình giảng dạy Kinh tế chính trị ở các trường
đại học và cao đẳng.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung chính của luận văn gồm có 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.
11
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG
Ở HUYỆN MỸ ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Cơ cấu lao động và chuyển dịch cơ cấu lao động
1.1.1. Cơ cấu lao động
* Khái niệm lao động
Lao động: là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm thay đổi
các vật thể tự nhiên phù hợp với nhu cầu của con người. Thực chất là sự vận động
của sức lao động trong quá trình tạo ra của cải vật chất cho xã hội, lao động cũng
chính là quá trình kết hợp của sức lao động với tư liệu sản xuất để sản xuất ra sản
phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Có thể nói lao động là yếu tố quyết định cho
mọi hoạt động kinh tế.
* Khái niệm cơ cấu lao động: Là phạm trù kinh tế - xã hội, phản ánh việc
xác lập mối quan hệ tỷ lệ số lượng, chất lượng lao động giữa các ngành, lĩnh vực,
vùng; mối quan hệ giữa các yếu tố, bộ phận lao động cấu thành tổng thể lao động
trong nền kinh tế quốc dân.
Như vậy có thể thấy rằng:
- CCLĐ là tổng thể các mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận lao động
trong tổng nguồn lao động xã hội và được biểu hiện thông qua những tỷ lệ nhất định.
- CCLĐ là phạm trù kinh tế - xã hội, phản ánh hình thức cấu tạo bên trong
của tổng thể lao động, sự tương quan giữa các bộ phận và mối quan hệ giữa các bộ
phận đó. Đặc trưng của CCLĐ là mối quan hệ tỷ lệ về mặt số lượng lao động theo
những tiêu chí nhất định.
Cơ cấu lao động xuất hiện và tồn tại mang tính khách quan và có tính lịch sử,
tính xã hội. Tính khách quan của CCLĐ bắt nguồn từ cơ cấu dân số và CCKT của
một quốc gia, một địa phương, từ đó xác định CCLĐ xã hội. Tính lịch sử của
CCLĐ được thể hiện ở chỗ xã hội là một chỉnh thể, tồn tại và vận động gắn liền với
phương thức sản xuất xã hội. Khi phương thức sản xuất xã hội có sự thay đổi thì
12
CCLĐ cũng có sự vận động, biến đổi theo. Tính xã hội của CCLĐ phản ánh quá
trình phân công lao động xã hội và quá trình phát triển, tiến hóa của lịch sử xã hội
loài người. Khi lực lượng sản xuất có sự phát triển và nhảy vọt đánh dấu một sự
phân công lao động xã hội mới. Quá trình phát triển của phân công lao động mới,
cùng với CCLĐ là một trong những thước đo, tiêu chí phản ánh trình độ văn minh
của xã hội. Xét về phương diện sản xuất, CCLĐ phản ánh cơ cấu các giai tầng xã
hội trong nền sản xuất xã hội. Thông qua CCLĐ có thể thấy được hoạt động kinh tế
của các giai tầng xã hội trong mỗi giai đoạn phát triển.
* Mối quan hệ giữa CCLĐ với CCKT: giữa CCLĐ và CCKT có mối quan
hệ biện chứng là cơ sở tiền đề, điều kiện cho nhau cùng tồn tại và phát triển. Trong
đó CCKT là cơ sở, tiền đề cho sự phát triển của CCLĐ, mỗi khi có sự phát triển của
CCKT đã tạo ra môi trường cho sự thay đổi của CCLĐ; với CCLĐ phù hợp sẽ tác
động trở lại CCKT, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch của CCKT, làm cho
CCKT phát triển theo chiều hướng tiến bộ và nhanh hơn.
* Phân loại và nội dung cơ cấu lao động.
CCLĐ có thể được phân loại như sau:
Tuỳ theo cách tiếp cận và mục đích nghiên cứu mà có thể phân chia cơ cấu
lao động thành nhiều loại.
CCLĐ có thể được chia làm các loại như: cơ cấu cung về lao động và cơ cấu
cầu về lao động. CCLĐ có thể được chia theo khu vực thành thị - nông thôn;
CCLĐ theo độ tuổi; CCLĐ theo trình độ; CCLĐ theo ngành, nghề kinh tế, CCLĐ
theo nội bộ ngành. Ngoài ra, CCLĐ có thể phân ra làm nhiều loại khác nhau như
CCLĐ theo giới tính, thành phần kinh tế.v.v.
Cụ thể nội dung của các CCLĐ đó như sau:
Cơ cấu cung, cầu về lao động: phản ánh cơ cấu số lượng, chất lượng và tỷ
trọng của nguồn lực lao động theo sự vận động của thị trường sức lao động.
Cơ cấu lao động theo ngành, nghề kinh tế: là quan hệ tỷ lệ cũng như xu
hướng vận động, phát triển của các loại lao động có ngành nghề khác nhau ở quốc
13
gia hay địa phương. Sự phát triển của CCLĐ theo ngành, nghề kinh tế phụ thuộc
vào sự phát triển của phân công lao động xã hội của chính ngành, nghề lĩnh vực
kinh tế đó. CCLĐ theo ngành, nghề kinh tế bao gồm có: lao động trong nông
nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và các ngành nghề khác. Trong mỗi ngành lại được
chia thành những ngành hẹp hơn, chẳng hạn trong nông nghiệp có lao động trồng
trọt, lao động chăn nuôi; trong công nghiệp thì lại có lao động trong ngành công
nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến, lao động cơ khí; trong dịch vụ
có lao động thương nghiệp, dịch vụ du lịch, tư vấn luật, dịch vụ tài chính, tín
dụng.... Trong các ngành hẹp này, sự phân công lao động lại tiếp tục diễn ra làm
cho lao động tiếp tục được phân chia, sắp xếp từ đó tạo lên CCLĐ không những đa
dạng mà còn có trình độ chuyên môn sâu. Với sự phân chia như vậy đã tạo điều
kiện thuận lợi để phát triển trình độ kỹ thuật, chuyên môn nghề nghiệp, sử dụng hợp
lý, hiệu quả nguồn lực lao động xã hội nói riêng và các yếu tố sản xuất nói chung để
nâng cao năng suất lao động xã hội.
CCLĐ theo ngành, nghề kinh tế có vai trò đánh giá thực trạng phân bố,
chuyển dịch CCLĐ giữa các ngành, nhóm ngành trên địa bàn cả nước hoặc tỉnh,
thành phố, địa phương, đồng thời cũng là căn cứ thực tiễn để từ đó nghiên cứu các
kế hoạch và chương trình phát triển phù hợp, phát triển riêng của từng ngành, nghề
và của cả nền kinh tế.
CCLĐ theo vùng, miền, lãnh thổ: là các quan hệ tỷ lệ cũng như xu
hướng vận động phát triển của nguồn lực lao động giữa các vùng miền và
trong nội bộ vùng, miền. Loại CCLĐ theo vùng miền bao gồm có CCLĐ theo
vùng lãnh thổ, tỉnh, thành phố, quận, huyện; CCLĐ thành thị, nông thôn,
miền núi, vùng đồng bằng...
Với tư cách là một hệ thống thống nhất, nền kinh tế quốc dân được cấu thành
từ nhiều bộ phận khác nhau, trong đó vùng, miền kinh tế là bộ phận không thể thiếu
được. Giữa các vùng, miền luôn diễn ra những trao đổi về vật chất và lực lượng lao
động cho nhau, vì vậy khi phân bố lực lượng sản xuất của một vùng, miền kinh tế
14
cần tính đến điểm đặc thù này, xem xét mối liên hệ nội bộ của vùng miền và liên
vùng kinh tế. Giữa CCLĐ theo ngành, nghề kinh tế với CCLĐ theo vùng, miền
không có sự tách rời nhau mà gắn bó với nhau trên cơ sở phân công lao động xã
hội. Chính sự phân công lao động theo ngành đã tạo điều kiện phát triển sự phân
công lao động theo vùng lãnh thổ. Sự phát triển của ngành, nghề kinh tế gắn liền
với vùng lãnh thổ và những đặc trưng về các yếu tố phục vụ sản xuất; còn CCLĐ
theo vùng lại thể hiện CCLĐ theo ngành, nghề kinh tế trên vùng lãnh thổ đó.
CCLĐ theo vùng được coi là hợp lý khi mà nó phát huy được những lợi thế so sánh
của từng vùng, điều này chỉ có được khi có một CCLĐ theo ngành, nghề kinh tế
hợp lý với vùng, miền đó.
CCLĐ theo trình độ chuyên môn, kỹ thuật: là quan hệ tỷ lệ và xu hướng vận
động giữa các loại lao động có trình độ chuyên môn - kỹ thuật trong các ngành, các
lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Trong CCLĐ theo trình độ chuyên môn, kỹ
thuật có thể phân ra như sau: CCLĐ theo trình độ văn hóa, CCLĐ có chuyên môn
cao, được đào tạo cơ bản và bài bản, CCLĐ phổ thông.
CCLĐ theo thành phần kinh tế: thực chất đó là số lượng và tỷ trọng lao động
trong các thành phần kinh tế, là quan hệ tỷ lệ và xu hướng vận động, phát triển của
lực lượng lao động giữa các thành phần kinh tế. Sự tồn tại các thành phần kinh tế
trong nền kinh tế của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam là một tất yếu khách
quan, đồng thời là một chiến lược phát triển kinh tế nhằm xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật tiên tiến, hiện đại cho CNXH. Với 4 thành phần kinh tế song song tồn tại,
bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh với nhau và vận động dưới sự tác động của các
quy luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đồng thời chịu sự
quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm: Kinh tế
nhà nước, Kinh tế tập thể, Kinh tế tư nhân, Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Mỗi
thành phần kinh tế được xây dựng dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư
liệu sản xuất, cho nên cũng có vai trò khác nhau trong nền kinh tế quốc dân. Trong
đó, thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể có vai trò ngày càng trở thành
15
nền tảng của nền kinh tế quốc dân, còn kinh tế tư nhân được coi là một trong những
động lực quan trọng của nền kinh tế, kinh tế vốn đầu tư nước ngoài được khuyến
khích phát triển nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại và thực hiện thành
công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Thực hiện chính sách phát triển kinh tế nhiều
thành phần trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không những
cởi trói, tháo gỡ và giải phóng, phát triển lực lượng sản xuất xã hội, giải phóng sức
sản xuất xã hội trên phạm vi cả nước và từng vùng miền, lãnh thổ; mà còn trên cơ
sở phát triển kinh tế nhiều thành phần đã tạo điều kiện cho sự phát triển và chuyển
dịch CCLĐ trên từng địa bàn và trên phạm vi cả nước. Và như vậy, CCTPKT có
vai trò thúc đẩy sự chuyển dịch CCLĐ cả về số lượng và chất lượng.
CCLĐ theo giới tính, độ tuổi: Là số lượng và tỷ trọng lao động nam, lao
động nữ, lao động trong độ tuổi lao động và lao động ngoài độ tuổi lao động so với
tổng số lao động xã hội.
CCLĐ theo thời gian làm việc thực tế: là quan hệ về tỷ lệ, thời gian lao động
thực tế giữa các ngành, nghề khác nhau trong tổng quỹ thời gian lao động thực tế đã
sử dụng trong các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Loại CCLĐ này có vai
trò tìm ra các giải pháp hữu hiệu để khai thác những khả năng tiềm tàng về thời
gian lao động còn chưa được sử dụng hiện nay ở nông thôn nước ta. Không những
thế, trong điều kiện lao động bình thường khi quỹ thời gian trong kỳ lao động chưa
được sử dụng hết thì chúng còn là một tiềm năng để nâng cao năng suất lao động.
1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu lao động và vai trò của chuyển dịch cơ cấu lao
động trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
* Khái niệm chuyển dịch cơ cấu lao động
CDCCLĐ là một trong những nội dung được nghiên cứu bởi nhiều ngành
khoa học khác nhau, chẳng hạn kinh tế học, xã hội học… trong đó dưới góc độ của
kinh tế chính trị học tiếp cận thì có thể hiểu về CDCCLĐ như sau:
Chuyển dịch CCLĐ là một khái niệm nêu ra trong một không gian và thời
gian nhất định, làm thay đổi số lượng, chất lượng và cơ cấu lao động. Cơ cấu lao
16
động được chuyển dịch tuỳ theo sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế, phục vụ và đáp
ứng cho chuyển dịch của cơ cấu kinh tế. Ngoài ra, cơ cấu lao động được chuyển
dịch nhanh hay chậm phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: sự phát triển của lực lượng
sản xuất; phân công lao động xã hội; sự hấp dẫn của nghề nghiệp, điều kiện làm
việc, hưởng thụ của ngành nghề mới sẽ tạo sự chuyển dịch lao động từ các ngành,
lĩnh vực khác sang làm việc; sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước thông qua các cơ
chế, chính sách cụ thể....
Chuyển dịch CCLĐ được hiểu là một quá trình nhằm thay đổi cấu trúc
và mối liên hệ lao động theo một mục tiêu nhất định. Nói cách khác chuyển
dịch CCLĐ là quá trình phân bố, bố trí lực lượng lao động theo những quy
luật, những xu hướng tiến bộ nhằm mục đích sử dụng đầy đủ và có hiệu quả
nguồn lực lao động để thực hiện các mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế. Đối với Việt Nam hiện nay, chuyển dịch cơ cấu lao động nhằm
đổi mới mô hình tăng trưởng, cấu trúc lại nền kinh tế.
Như vậy, có thể hiểu: Chuyển dịch cơ cấu lao động là quá trình tổ chức và
phân công lại lực lượng lao động, làm thay đổi số lượng lao động và quan hệ tỷ lệ
(tăng, giảm) của từng bộ phận trong tổng số lao động xã hội theo những xu hướng
khác nhau trong thời gian và không gian nhất định nhằm thực hiện các mục tiêu
kinh tế - xã hội đã xác định.
Thực chất của CDCCLĐ là quá trình tổ chức và phân công lại lao động,
qua đó làm thay đổi qua hệ tỷ trọng lao động giữa các ngành, thành phần, vùng
kinh tế và từng bước nâng cao trình độ chuyên môn của người lao động.
* Mối quan hệ giữa chuyển dịch CCLĐ với chuyển dịch CCKT
Giữa chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó chuyển dịch cơ cấu
kinh tế quyết định chuyển dịch cơ cấu lao động. Mặc dù sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và cơ cấu lao động đều chịu sự tác động của nhiều yếu tố như: vốn
đầu tư, nhân lực, môi trường luật pháp, nhưng chúng vận động theo các
17
hướng, cường độ khác nhau, trong đó cơ cấu kinh tế thường chuyển dịch
trước và nhanh hơn, định hướng cho chuyển dịch cơ cấu lao động. Cùng với
tiến bộ khoa học - công nghệ và phát triển kinh tế cần phát huy vai trò tích
cực của các chủ thể, đặc biệt là của Nhà nước, trong đó phân bố nguồn nhân
lực xã hội, định hướng việc làm để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động
nhanh hơn và tiến bộ hơn.
Chuyển dịch cơ cấu lao động tạo điều kiện để thực hiện chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng CNH, HĐH nhằm thích ứng với cơ cấu kinh tế mới. Sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế đòi hỏi phải phối hợp chặt chẽ với sự thay đổi về chính sách
khoa học kỹ thuật, công nghệ, tài chính với chính sách phát triển nguồn nhân lực.
CDCCKT nhanh hay chậm phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sự tác động của
các quy luật thị trường; việc phân bổ vốn đầu tư cho từng ngành, vùng; cơ chế,
chính sách, sự thực hiện và vận dụng cơ chế, chính sách ở từng ngành, vùng; sự đáp
ứng về các yếu tố cơ sở vật chất của lao động như đất đai, hệ thống giao thông,
nguồn lực lao động.... cho sự phát triển và CDCCKT của từng ngành, vùng. CCLĐ
được chuyển dịch trên cơ sở sự tác động từ môi trường chuyển dịch của CCKT tạo
ra, đồng thời sau khi chuyển dịch phù hợp, CCLĐ sẽ quay trở lại phục vụ và đáp
ứng cho quá trình CDCCKT. Tuy nhiên, cần lưu ý tỷ trọng và tốc độ chuyển dịch
của CCKT và CCLĐ là không giống nhau, vì sự khác biệt trên nhiều phương diện
của hai loại chuyển dịch cơ cấu này.
* Xu hướng chuyển dịch CCLĐ hiện nay
Trong những năm tới, với sự tác động của quá trình CNH, HĐH và đô thị
hóa; sự phát triển của kinh tế thị trường mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, xu hướng
CDCCLĐ ở nước ta diễn ra như sau:
Một là, xu hướng CDCCLĐ gắn với xu hướng CDCCKT ngành. Đây là xu
hướng chuyển dịch có tính chất trung tâm, xu hướng chính. Về cơ bản xu hướng
chuyển dịch này chia thành hai giai đoạn cơ bản. Ở giai đoạn đầu, lao động nông
nghiệp từ chỗ chỉ tập trung vào độc canh cây lúa, chuyển sang sản xuất thâm canh,
18
tăng vụ và đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi, qua đó từng bước hình thành các vùng
sản xuất chuyên canh tập trung, quy mô lớn, hiện đại. Giai đoạn thứ hai, khi lao
động trong nông nghiệp đã đạt đến thặng dự cả tuyệt đối lẫn tương đối thì các
ngành sản xuất phi nông nghiệp sẽ từng bước được đầu tư và đẩy mạnh phát triển
nhằm thu hút, luân chuyển lao động nông nghiệp sang các lĩnh vực phi nông
nghiệp khác, tạo ra sự chuyển dịch nguồn nhân lực từ nông nghiệp sang công
nghiệp và dịch vụ, làm cho cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch theo
hướng nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ; trong đó số lượng và tỷ trọng tuyệt
đối lao động trong lĩnh vực sản xuất phi nông nghiệp ngày càng tăng và tăng
nhanh hơn so với nông nghiệp.
Cơ cấu lao động theo ngành chuyển dịch theo hướng giảm tuyệt đối về tỷ
trọng lao động trong nông nghiệp; tăng tuyệt đối về tỷ trọng lao động trong công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Đây là xu hướng tất yếu khách quan của quá trình
CNH, HĐH. Các ngành công nghiệp và dịch vụ thu hút và sử dụng ngày càng
nhiều lao động từ nông nghiệp chuyển sang. Việc phân bố nguồn lao động giữa các
khu vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ gắn liền với sự phân bố nguồn lao
động này giữa nông thôn và thành thị, công nghiệp hóa gắn liền với nó là quá trình
đô thị hóa. Do vậy, cùng với quá trình này thì luồng di dân, dịch chuyển lao động từ
nông thôn ra thành thị diễn ra ngày càng mạnh mẽ.
Hai là, xu hướng CDCCLĐ gắn với các thành phần kinh tế, trên cơ sở thực
hiện CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân cũng như sự tác động của các quy luật kinh
tế thị trường đã thực hiện phân bố và tái phân bố lại nguồn lực lao động giữa các
thành phần kinh tế. CDCCLĐ gắn với các thành phần kinh tế có vai trò phản ánh
tương quan tỷ lệ phân bố nguồn nhân lực giữa các thành phần kinh tế trong nền
kinh tế quốc dân. Cùng với sự phát triển của các thành phần kinh tế, số lượng và tỷ
trong lao động trong thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể giảm, tăng số
lượng, tỷ trọng lao động trong thành phần kinh tế tư nhân và thành phần kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài.
19
Ba là, xu hướng CDCCLĐ gắn với sự thay đổi cơ cấu trình độ chuyên môn
kỹ thuật. Xu hướng này phản ánh sự biến đổi về chất của nguồn lao động nông thôn
trước sự tác động của quá trình CNH, HĐH, đặc biệt là CNH, HĐH nông nghiệp
nông thôn và được diễn ra như sau: ở giai đoạn thấp, sự CDCCLĐ chủ yếu diễn ra
theo xu hướng tăng tỷ trọng lao động có trình độ văn hóa, giảm tỷ trọng lao động
chưa qua đào tạo, bồi dưỡng. Ở giai đoạn cao, quá trình CDCCLĐ diễn ra theo xu
hướng tăng tỷ trọng và số lượng lao động có trình độ công nhân kỹ thuật, nghệ
nhân, lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp trở lên và giảm tỷ trọng cũng
như số lượng lao động có trình độ tay nghề thấp.
Cơ cấu lao động lành nghề của đội ngũ lao động chuyển dịch theo cơ cấu trí
tuệ ngày càng cao và chuyển dịch ngày càng linh hoạt phù hợp với cơ cấu nhiều
trình độ công nghệ, nhiều loại quy mô và trình độ tiên tiến thích hợp. Cơ cấu lao
động theo trình độ chuyển dịch theo hướng tăng lao động qua đào tạo, lao động có
trình độ, có chuyên môn kỹ thuật cả về tuyệt đối lẫn tỷ trọng. Kinh nghiệm của các
nước cho thấy, với mỗi giai đoạn phát triển của tiến bộ kỹ thuật cần có cơ cấu chất
lượng lao động theo các trình độ kỹ thuật tương ứng.
Bốn là, xu hướng CDCCLĐ gắn với sự thay đổi của hình thức tổ chức
và phương pháp lao động. Về hình thức tổ chức lao động, song song với quá
trình tích tụ và tập trung vốn, tư liệu sản xuất, khoa học công nghệ sẽ diễn ra
CDCCLĐ từ hoạt động có tính chất riêng lẻ, phân tán với quy mô nhỏ, hộ gia
đình là chủ yếu chuyển sang hoạt động theo hình thức hợp tác và quy mô
ngày càng lớn. Về phương pháp lao động từ chỗ lao động thủ công là chính
chuyển sang phương pháp lao động bằng máy móc là phổ biến, với cách thức
tổ chức sản xuất theo lối công nghiệp ngày càng tiên tiến, hiện đại.
Năm là, xu hướng CDCCLĐ gắn với CCKT vùng lãnh thổ diễn ra theo xu
hướng tỷ trong lao động trong các làng nghề truyền thống, các vùng sản xuất
chuyên môn hóa, khu công nghiệp tập trung trình độ cao sẽ ngày càng tăng lên. Kết
quả sẽ tạo ra các vùng kinh tế trọng điểm chuyên môn hóa cao, các khu công
20
nghiệp chế biến tập trung và làng nghề tiểu thủ công nghiệp có cơ cấu ngành nghề
phong phú, đóng vai trò vừa là kinh tế vệ tinh, vừa là hạt nhân đẩy nhanh tốc độ
CDCCLĐ nông nghiệp, nông thôn.
* Vai trò của chuyển dịch CCLĐ đối với phát triển kinh tế - xã hội
Một là, chuyển dịch CCLĐ tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế.
Thông qua CDCCLĐ hợp lý trên các nội dung và phù hợp với từng vùng,
miền đã tạo điều kiện đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tăng nguồn thu cho
ngân sách nhà nước. Đối với công nghiệp, dịch vụ, CDCCLĐ góp phần bổ sung
nguồn lực lao động có trình độ cao, tạo đà, điều kiện cho công nghiệp và dịch vụ
phát triển, qua đó góp phần tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đối với nông nghiệp,
kết quả CDCCLĐ sẽ tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất, cơ cấu mùa vụ, cây
trồng vật nuôi, làm tăng năng suất lao động nông nghiệp, tăng giá trị kinh tế trên
một đơn vị diện tích canh tác, tăng tỷ trọng giá trị hàng hóa nông sản.
Hai là, chuyển dịch CCLĐ tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH.
Trên cơ sở CDCCLĐ diễn ra theo ngành, nghề, lĩnh vực kinh tế,
CDCCLĐ theo vùng, miền, trình độ đã từng bước tác động đến quá trình CNH,
HĐH cả trên lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp nông thôn. Đối với
lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, CDCCLĐ thúc đẩy mạnh sự phát triển của
công nghiệp nông thôn, dịch vụ phi nông nghiệp; hình thành các khu công
nghiệp, khu chế xuất tập trung, các điểm công nghiệp, các làng nghề truyền
thống. Đối với lĩnh vực nông nghiệp, CDCCLĐ góp phần thiết thực vào quá
trình xây dựng cơ cấu nông nghiệp một cách hợp lý theo hướng hiện đại; thực
hiện điều chỉnh quy hoạch sản xuất nông nghiệp, từng bước xây dựng nền sản
xuất nông nghiệp hàng hóa; từng bước giảm tỷ lệ nhưng tăng giá trị trồng trọt,
đồng thời tăng tỷ trọng chăn nuôi, từng bước đưa chăn nuôi trở thành ngành
phát triển chính, mũi nhọn trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn.
Ba là, CDCCLĐ góp phần thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển.
Phân công lao động xã hội là một trong những điều kiện ra đời và
phát triển kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường. Sự phát triển của phân
21
công lao động xã hội là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mà phân
công lao động xã hội lại gắn liền với CDCCKT trong nội bộ ngành, lĩnh
vực, vùng kinh tế. Sự chuyển dịch đó tất yếu sẽ dẫn đến sự chuyển dịch
CCLĐ để đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành, lĩnh vực, vùng kinh tế.
Theo đó, làm cho các chủ thể kinh tế phụ thuộc vào nhau trong sản xuất
và tiêu dùng, muốn tiêu dùng sản phẩm của nhau phải thông qua trao đổi
trên thị trường, và đến lượt nó sự giao lưu nguồn lực sẽ thúc đẩy kinh tế
thị trường phát triển.
Bốn là, chuyển dịch CCLĐ góp phần cải thiện và nâng cao điều kiện sống
của người lao động.
Căn cứ vào đặc thù của nền kinh tế nước ta, một trong những xu hướng
CDCCLĐ là sự luân chuyển người lao động từ lĩnh vực nông nghiệp sang các lĩnh
vực ngành, nghề kinh tế khác. Điều này, một mặt tăng quỹ đất canh tác cho số
người lao động nông nghiệp còn lại, mặt khác chuyển mục đích sử dụng một phần
quỹ ruộng đất từ phục vụ canh tác nông nghiệp sang phục vụ cho sản xuất công
nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống. Sự phát triển của
các cơ sở công nghiệp, các khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung ở nông thôn và
vùng ven đô đã có tác dụng giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động nói
chung và nông dân nói riêng; tăng thu nhập cho người lao động nông thôn, đảm bảo
sự phát triển công nghiệp đồng đều giữa các địa phương, đồng thời thu hẹp khoảng
cách phát triển giữa các vùng miền.
1.2. Quan niệm, nội dung và nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu
lao động ở huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội
1.2.1. Quan niệm, nội dung chuyển dịch cơ cấu lao động ở huyện Mỹ
Đức, thành phố Hà Nội
* Quan niệm chuyển dịch CCLĐ ở huyện Mỹ Đức
Trên cơ sở những vấn đề lý luận chung về cơ cấu lao động và chuyển dịch cơ
cấu lao động ở trên có thể hiểu chuyển dịch CCLĐ huyện Mỹ Đức như sau:
22
Chuyển dịch CCLĐ ở huyện Mỹ Đức là tổng thể các hoạt động quản lý kinh
tế của Đảng bộ, chính quyền Huyện thực hiện tổ chức và phân công lại lực lượng
lao động trong các ngành kinh tế, từng bước làm thay đổi cơ cấu lao động trong
tổng số lao động xã hội theo những xu hướng khác nhau nhằm thực hiện thắng lợi
các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã xác định của Huyện
Từ quan niệm trên, có thể thấy:
Một là, chủ thể chuyển dịch cơ cấu lao động. Xét trên khía cạnh chung, chủ
thể CDCCLĐ là một hệ thống thống nhất phản ánh mối quan hệ biện chứng, phối
kết hợp chặt chẽ giữa các chủ thể bao gồm: Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện; các
chủ thể sản xuất kinh doanh; Người lao động.
Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện thực hiện chức năng quản lý vĩ mô
nền kinh tế, thông qua hệ thống đường lối, chính sách kinh tế tác động, điều
tiết, chuyển dịch CCLĐ theo mục tiêu đã xác định có lợi cho sự phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương. Trên cơ sở nhận thức các quy luật kinh tế
khách quan, nắm vững đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; nghị quyết lãnh đạo của Đảng bộ thành phố Hà Nội, sự chỉ đạo của Ủy
ban nhân dân, các sở, ban ngành của Thành phố vào điều kiện cụ thể của Mỹ
Đức để bố trí, sắp xếp lại lực lượng lao động phù hợp với yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương mà trước hết là đổi mới mô hình tăng trưởng,
cơ cấu lại nền kinh tế của Huyện cho phù hợp với xu hướng phát triển chung
của Thành phố Hà Nội và đất nước trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH,
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập kinh tế quốc tế.
Các chủ thể sản xuất kinh doanh với tư cách là người đầu tư, trên cơ sở
nắm bắt thị trường, đường lối, chính sách kinh tế của Đảng, Nhà nước, Thành
phố Hà Nội, Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện thực hiện đầu tư có hiệu quả
vào các ngành nghề, lĩnh vực, vùng và thành phần kinh tế, qua đó tác động
đến quá trình CDCCLĐ.
23
Người lao động là một trong những chủ thể trực tiếp thực hiện và làm cho
quá trình CDCCLĐ diễn ra trên thực tế, bằng năng lực và nhu cầu lao động của bản
thân, người lao động đã ra nhập và từng bước làm biến đổi quá trình CDCCLĐ
trong chính các ngành nghề, lĩnh vực, vùng và thành phần kinh tế.
Hoạt động của các chủ thể phải trên cơ sở nhận thức đúng đắn, khoa học các
quy luật kinh tế, tức là phải xuất phát từ yêu cầu của thị trường mà các nguồn lực và
các yếu tố của quá trình sản xuất được di chuyển và sử dụng có hiệu quả, từ đó tác
động trực tiếp đến quá trình phân bố và phân bố lại lực lượng lao động, làm thay
đổi cơ cấu nguồn nhân lực; đồng thời trên cơ sở lợi ích kinh tế của chính những
người lao động, lại tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế
thị trường, chịu sự tác động của cạnh tranh đã không ngừng làm thay đổi cơ cấu
nguồn nhân lực trong mỗi ngành, mỗi địa phương, vùng và giữa thành phần kinh tế.
Hai là, mục tiêu tổng quát chuyển dịch CCLĐ trên địa bàn huyện Mỹ
Đức là thực hiện phân bố và phân bố lại nguồn nhân lực của Huyện, xây dựng
CCLĐ theo hướng khai thác và sử dụng có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của
từng ngành nghề, lĩnh vực kinh tế, thành phần kinh tế, từng vùng trên địa bàn của
Huyện phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chung
của Thành phố Hà Nội, cả nước và của khu vực; tạo ra những quan hệ kinh tế
mới đem lại năng suất và hiệu quả kinh tế cao cho nền kinh tế Huyện. Đổi mới
mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế để xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp
lý, tiến bộ, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, từng bước cải thiện và
nâng cao chất lượng đời sống dân cư trên địa bàn Huyện. Do đó, chuyển dịch
CCLĐ luôn gắn với mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch CCKT; giải quyết việc
làm, tăng thu nhập cho người lao động và thực hiện công bằng xã hội; sử dụng
có hiệu quả và hợp lý nguồn nhân lực, giảm lao động dư thừa và thời gian nhàn
rỗi, đồng thời vừa đảm bảo từng bước nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu
quả lao động; không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; phân bố hợp lý
24
và khai thác triệt để nguồn lao động trên địa bàn Huyện, thực hiện mục tiêu
CNH, HĐH; thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động đồng bộ trong nội bộ từng
ngành và giữa các ngành, vùng và giữa các vùng, từng thành phần kinh tế và
giữa các thành phần kinh tế.
Ba là, phương thức chuyển dịch cơ cấu lao động trên địa bàn huyện Mỹ Đức.
Căn cứ theo mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, điều kiện vật chất, kinh tế xã hội, điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và yêu cầu thực tiễn sản xuất, kinh
doanh trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà các chủ thể thực hiện
CDCCLĐ thì sẽ diễn ra CDCCLĐ trực tiếp hoặc gián tiếp. Đối với chính quyền địa
phương, trên cơ sở đường lối của Đảng, Nghị quyết lãnh đạo của Đảng bộ Thành
phố Hà Nội và Đảng bộ Huyện, tạo cơ chế, chính sách, tạo môi trường thuận lợi cho
CDCCLĐ được diễn ra. Các thành phần kinh tế, nhà đầu tư trên cở sở nghị quyết
lãnh đạo của đảng bộ, chính sách, cơ chế của địa phương thực hiện đầu tư sản xuất
kinh doanh tạo việc làm, tạo chuyển biến về CCKT, từ đó tạo điều kiện thực hiện
CDCCLĐ trên địa bàn. Người lao động, một trong những chủ thể quyết định trực
tiếp đến quá trình CDCCLĐ, tích cực tìm kiếm việc làm, thay đổi và nâng cao trình
độ, trực tiếp tham gia vào quá trình CDCCLĐ.
Theo mức độ tích tụ, tập trung của các nguồn lực, chuyển dịch CCLĐ sẽ
diễn ra từ chỗ lấy việc tập trung lao động làm chính, chuyển sang lấy việc tập trung
vốn làm yếu tố kích thích sản xuất, sau đó lấy việc tập trung kỹ thuật làm nội dung
cơ bản để chuyển dịch lao động.
Theo khả năng tiếp nhận thành quả của cách mạng khoa học kỹ thuật thì
chuyển dịch CCLĐ diễn ra trước tiên từ chỗ lấy khả năng giải quyết việc làm cho
lao động là chính, sang giai đoạn lấy việc nâng cao trình độ nhận thức và kỹ năng
làm việc cho lao động làm mục tiêu cơ bản.
Theo mức độ gia tăng của giá trị đầu ra, chuyển dịch CCLĐ sẽ diễn ra từ nơi
có giá trị đầu ra thấp đến nơi có giá trị đầu ra cao.
Căn cứ vào không gian di chuyển của lao động thì chuyển dịch CCLĐ có thể
25
diễn ra theo hai phương thức chuyển dịch CCLĐ tại chỗ, đây là sự chuyển dịch của
lao động ngay trong địa bàn; hoặc chuyển dịch CCLĐ kèm theo sự di cư.
* Nội dung của chuyển dịch cơ cấu lao động
CCLĐ có nội dung đa dạng và được chia theo nhiều tiêu chí khác nhau, tuy
nhiên CCLĐ thường được dung phổ biến là: CCLĐ chia theo ngành kinh tế, CCLĐ
phân theo thành thị nông thôn; CCLĐ phân theo giới tính độ tuổi; CCLĐ chia theo
trình độ học vấn; CCLĐ phân theo trình độ chuyên môn, kỹ thuật; CCLĐ phân theo
loại hình sở hữu. Như vậy, về nội dung chuyển dịch CCLĐ cũng đa dạng như:
chuyển dịch CCLĐ chia theo ngành kinh tế, chuyển dịch CCLĐ phân theo thành thị
nông thôn; chuyển dịch CCLĐ phân theo giới tính độ tuổi; chuyển dịch CCLĐ chia
theo trình độ học vấn; chuyển dịch CCLĐ phân theo trình độ chuyên môn, kỹ thuật;
chuyển dịch CCLĐ phân theo loại hình sở hữu.
Nội dung cụ thể chuyển dịch CCLĐ như sau:
Một là, chuyển dịch CCLĐ theo ngành và nội bộ ngành kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành và nội bộ ngành xét về quy
mô hay tỷ trọng trong các ngành. Theo đó, quá trình này là sự thay đổi quy
mô, tỷ trọng lao động trong các ngành kinh tế để đảm bảo CCLĐ phù hợp với
CCKT trong từng thời kỳ phát triển, xoá bỏ khoảng cách giữa CCLĐ còn lạc
hậu với CCKT đang phát triển theo hướng CNH, HĐH. Gắn với quá trình phân
công lao động xã hội, nền sản xuất và lao động xã hội thường được phân chia theo
ba nhóm ngành lớn là: công nghiệp (công nghiệp – xây dựng); dịch vụ (thương mại,
du lịch, vận tải…) và ngành nông nghiệp (nông, lâm, ngư nghiệp). Hiện nay theo
xu hướng chuyển dịch CCLĐ chung của Việt Nam và huyện Mỹ Đức thành phố
Hà Nội cũng không nằm ngoài xu hướng ấy, chính là sự chuyển dịch CCLĐ theo
hướng tăng tỷ trọng lao động trong các ngành nông nghiệp sẽ giảm mạnh so với
tổng số lao động của huyện Mỹ Đức, trong khi đó tỷ trọng lao động trong các
ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ tăng lên chiếm tỷ trọng lớn so với tổng số
lao động của Huyện.
26