Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN lực NGÀNH y tế của THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 107 trang )

MỤC LỤC
Trang
3

MỞ ĐẦU

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH Y TẾ CỦA THÀNH
PHỐ HÀ NỘI
1.1. Nguồn nhân lực và nguồn nhân lực ngành y tế

12
12

1.2. Quan niệm, nội dung và nhân tố ảnh hưởng đến phát triển
nguồn nhân lực ngành y tế của thành phố Hà Nội

20

Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
NGÀNH Y TẾ CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI

33

2.1. Thành tựu và hạn chế về phát triển nguồn nhân lực ngành
y tế của thành phố Hà Nội

33

2.2. Nguyên nhân thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra
từ thực trạng phát triển nguồn nhân lực y tế của thành phố


Hà Nội

48

Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH Y TẾ CỦA THÀNH PHỐ
HÀ NỘI THỜI GIAN TỚI

60

3.1. Phương hướng và mục tiêu phát triển nguồn nhân lực
ngành y tế của thành phố Hà Nội

60

3.2. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực ngành y tế của thành
phố Hà Nội thời gian tới

66

KẾT LUẬN

84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

86

PHỤ LỤC


94


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Nguồn nhân lực luôn là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại
của một tổ chức, một ngành hay một địa phương. NYT tế có nhiệm vụ
chăm sóc sức khoẻ cho toàn bộ nhân lực quốc gia; đóng vai trò quyết định
trực tiếp tới hiệu quả phòng, chống dịch bệnh và khám, chữa bệnh cho
nhân dân, quyết định đến sự phát triển bền vững của NYT nói riêng và phát
triển KT-XH của đất nước nói chung.
Nhận thức đúng tầm quan trọng của NNL NYT, những năm qua, NYT
thành phố Hà Nội luôn tìm cách để phát triển NNL do đó đội ngũ cán bộ y
tế được tăng cường; trình độ chuyên môn của NNL được nâng cao; chính
sách đãi ngộ, thu hút NNL bước đầu được quan tâm...Tuy nhiên, do điều
kiện KT-XH phát triển, mật độ dân số của thành phố tăng nhanh, nhu cầu
chăm sóc sức khỏe của xã hội ngày càng tăng; trong khi đó, công tác phát
triển NNL NYT của thành phố lại đang bộc lộ nhiều hạn chế và bất cập cả
về số lượng, chất lượng và cơ cấu, nhất là NNL có trình độ, tay nghề cao
và NNL quản lý giỏi. Một số bệnh viện, trung tâm y tế và cơ quan quản lý
y tế các cấp của thành phố (gọi chung là đơn vị y tế) cũng đang trong tình
trạng khó tuyển chọn các nhà quản lý, điều hành có kinh nghiệm và trình
độ chuyên môn cao. Đối với công tác quản lý vĩ mô NNL NYT của thành
phố chưa theo kịp với tình hình thực tiễn…Hơn nữa, sự chỉ đạo trực tiếp
của Sở Y tế cũng còn có những bất cập, NNL NYT của thành phố còn có
khoảng cách giữa qui mô, chất lượng, cơ cấu ngành nghề đào tạo với nhu
cầu sử dụng lao động thực tế tại các đơn vị y tế.
Trước thực trạng trên, việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp khả thi để
phát triển NNL NYT của thành phố Hà Nội nhằm đáp ứng sự nghiệp chăm

sóc sức khỏe nhân dân trong thời gian tới là vấn đề hết sức cần thiết. Nhận
thức đúng tầm quan trọng đó, tác giả lựa chọn “Phát triển nguồn nhân lực
3


ngành y tế của thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn Thạc sĩ kinh tế, chuyên
ngành Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài; bước
đầu tác giả tiếp cận được một số công trình khoa học và khái quát thành hai
nhóm chính như sau:
Một là, nhóm các công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực ngành y tế
- Đỗ Nguyên Phương (1997), Phát triển giáo dục đào tạo và khoa học
công nghệ Ngành Y tế theo nghị quyết Trung ương 2, Nxb Y học, H. Cuốn
sách là tuyển tập các bài viết về khoa học, công nghệ chiến lược đào tạo, giáo
dục, nghiên cứu khoa học y tế và các vấn đề chiến lược y tế cụ thể của Việt
Nam theo Nghị quyết Trung ương 2 đến năm 2010.
- Nguyễn Xuân Hạnh (2005), Quản lý chỉ đạo văn hoá, giáo dục, y tế và
chính sách xã hội: Sách dùng cho học viên, Nxb CTQG, H. Cuốn sách trình
bày những kiến thức và kĩ năng điều hành, quản lý các hoạt động văn hoá, xã
hội, y tế, giáo dục và chính sách xã hội ở cấp xã; những kiến thức pháp lý áp
dụng cho từng hoạt động về quản lý văn hoá, giáo dục, y tế và chính sách xã
hội ở cấp xã thông qua những bài tập thực hành.
- Trần Thị Trung Chiến (2005), “Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ
Y tế trước những yêu cầu mới của sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ nhân dân”,
Tạp chí Cộng sản, số 4/2005, tr.34 - 38. Tác giả đánh giá khái quát thực trạng
phát triển đội ngũ cán bộ Y tế ở nước ta; chỉ ra những yêu cầu mới của sự
nghiệp chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Từ đó, tác giả đề xuất giải pháp xây
dựng và phát triển đội ngũ cán bộ Y tế trước những yêu cầu mới của sự
nghiệp chăm sóc sức khoẻ nhân dân.

- Nguyễn Huy Quang (2008), “Xử lý kỷ luật đối với các bộ, viên chức y tế
biện pháp quan trọng của quản lý nhà nước về Y tế”, Tạp chí Quản lí Nhà
nước, số 145/2008, tr.35 - 38. Theo tác giả, thời gian gần đây cán bộ, nhân viên
4


y tế ở một số cơ sở y tế trong cả nước có những biểu hiện vi phạm kỷ luật,
thậm chí phải xử lý kỷ luật hoặc xử lý theo pháp luật… làm ảnh hưởng đến
chất lượng khám chữa bệnh của nhân dân và uy tín của Ngành. Trước thực
trạng đó, để nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước về y tế cần phải xử lý
nghiêm đối với các bộ, viên chức y tế vi phạm. Đây là biện pháp quan trọng
của quản lý nhà nước về y tế.
- Nguyễn Quốc Triệu (2010), Đội ngũ trí thức bậc cao ngành Y tế Việt
Nam hiện đại, Nxb Y học, H. Cuốn sách giới thiệu tiểu sử, sự nghiệp của những
giáo sư, phó giáo sư, viện sĩ và tiến sĩ thuộc NYT cách mạng Việt Nam hiện đại
cùng những đóng góp của họ cho sự nghiệp phát triển của NYT Việt Nam.
- Trương Việt Dũng (2010), Phát triển nhân lực y tế ở tuyến tỉnh: Dùng
cho cán bộ quản lý và đào tạo nhân lực y tế, Nxb Y học, H. Cuốn sách trình
bày khái quát về phát triển nhân lực y tế và hướng dẫn xây dựng kế hoạch và
quản lý nhân lực, triển khai công tác đào tạo, đào tạo liên tục cán bộ y tế ở
tuyến tỉnh.
- Nguyễn Văn Cường (2011), Quản lý nhà nước đối với nguồn nhân lực
y tế công, Nxb Y học, H. Cuốn sách trình bày những vấn đề lý luận về quản lý
nhà nước đối với NNL y tế. Khảo sát thực trạng quản lý nhà nước và một số
đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với NNL y tế
công ở thành phố Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Xuân Lãng (2012), Kỷ niệm 55 năm thành lập Công đoàn Y tế
Việt Nam: Tuyên dương lao động giỏi, lao động sáng tạo Ngành Y tế 2007 2012, Nxb Y học, H. Cuốn sách giới thiệu quá trình xây dựng, trưởng thành
và những sự kiện quan trọng trong hoạt động của Công đoàn Y tế Việt Nam
trong 55 năm qua và tuyên dương những lao động xuất sắc của NYT.

- Nguyễn Minh San (2012), Mười thế kỷ Y tế Việt Nam, Nxb Dân trí, H.
Cuốn sách giới thiệu những thành tựu và sự trưởng thành của NYT Việt Nam
trong mười thế kỷ thông qua những sự kiện, hoạt động được ghi lại qua nhiều
5


giai đoạn lịch sử: những di huấn của các đại y tôn và lời dạy của Bác Hồ; sự chỉ
đạo của Đảng và Nhà nước; kinh nghiệm dân gian trong y học cổ truyền. Tổ
chức và hoạt động y tế ở Việt Nam dưới thời phong kiến, thời Pháp thuộc, thời
kỳ kháng chiến chống Mỹ và NYT nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đồng thời giới thiệu toàn cảnh NYT 63 tỉnh thành, các cơ quan y tế, các đơn
vị chuyên NYT.
- Nguyễn Thị Ái Liên (2013), “Một số biện pháp quản lí công tác giáo
dục y đức cho học sinh, sinh viên ở các cơ sở đào tạo y tế”, Tạp chí Giáo dục,
số 312, tháng 6/2013, tr.60 - 62. Theo tác giả, do đặc thù hoạt động của
Ngành Y nên vấn đề giáo dục đạo đức, y đức cần phải được qua tâm đặc biệt;
tác giả cũng chỉ rõ thực trạng y đức của một bộ phận cán bộ, nhân viên NYT
hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số biện pháp quản lý công tác
giáo dục y đức cho học sinh, sinh viên ở các cơ sở đào tạo y tế.
- Nguyễn Thị Kim Tiến (2014), Bác Hồ với Ngành Y tế - Ngành Y tế với
Bác Hồ, Nxb Y học, H. Cuốn sách tập hợp các bài viết, bài phát biểu, hình ảnh
của Chủ tịch Hồ Chí Minh với NYT và các bài viết của các đồng chí lãnh đạo
Đảng, Nhà nước, Bộ Y tế viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh; các bài viết, hình ảnh
NYT thực hiện tư tưởng, quan điểm của Người; cùng những câu chuyện hồi ức,
kỷ niệm của cán bộ y tế với Người; đồng thời tôn vinh các thành tích của Ngành,
các đơn vị và cá nhân trong phong trào "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh".
- Nguyễn Hoàng Long (2015), Báo cáo chung tổng quan Ngành Y tế
năm 2014: Tăng cường dự phòng và kiểm soát bệnh không lây nhiễm, Nxb Y
học, H. Cuốn sách đánh giá tiến độ thực hiện các nhiệm vụ đã đề ra trong kế

hoạch 5 năm Ngành Y tế 2011-2015, cập nhật thực trạng hệ thống y tế, tăng
cường dự phòng và kiểm soát bệnh không lây nhiễm.
- Nguyễn Thị Kim Tiến (2015), Trang vàng Y tế Việt Nam: 60 năm thi
đua làm theo lời Bác, Nxb Y học, H. Cuốn sách giới thiệu những thành tựu
6


công nghệ khoa học phát triển và tiêu biểu của NYT Việt Nam gắn với lịch sử
Việt Nam qua thời gian và 60 năm thi đua làm theo lời dạy của Bác Hồ; các
tấm gương tập thể và cá nhân tiêu biểu của NYT nhằm tôn vinh các cá nhân
có nhiều danh hiệu, giải thưởng cao quý do Nhà nước, Chính phủ trao tặng...
- Mỹ Châu (2015), Ngành Y tế Việt Nam - 60 năm phát triển và hội
nhập: Vietnam health sector 60 years of development & integration, Nxb
thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh. Cuốn sách giới thiệu những bài viết
ghi lại chặng đường 60 năm phát triển và hội nhập NYT Việt Nam.
Gần đây, nhiều cơ quan, nhà trường đã tổ chức hội thảo khoa học bàn về
phát triển NNL NYT tế đã cho thấy việc phát triển NNL NYT được xã hội
đặc biệt quan tâm. Cụ thể; năm 2012 các Trường Đại học Kỹ thuật Y tế Hải
Dương đã tổ chức Hội thảo “Đào tạo NNL điều dưỡng Việt Nam”; Trường
Đại học Y tế công cộng với Hội thảo “Khởi động và triển khai nghiên cứu
đánh giá thực trạng công tác đào tạo nhân lực y tế”. Năm 2015, Ban Tuyên
giáo Trung ương với Hội thảo “Đổi mới đào tạo nguồn nhân lực Y tế Ngành
Y - Dược khu vực miền núi phía Bắc: Thực trạng và giải pháp”. Tháng 01
năm 2016, Bộ Y tế đã tổ chức Hội thảo “Đổi mới đào tạo nhân lực y tế Việt
Nam”. Tuy nhiên, vấn đề NNL NYT Hà Nội lại chưa được đề cập ở đây và
đặc biệt chưa luận giải, phân tích một cách hệ thống, logic và khoa học.
Hai là, nhóm các công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực Ngành Y tế
của thành phố Hà Nội
- Nguyễn Xuân Bình (2007), “Phát triển đội ngũ giảng viên, nâng cao
chất lượng đào tạo của Trường Cao đẳng Y tế Hà Nội đến năm 2015”, Tạp

chí Giáo dục, số 180/2007, tr.14 -16,13. Theo tác giả, trước yêu cầu đổi mới
hoạt động giáo dục đào tạo cũng như nhu cầu cấp bách về việc nâng cao chất
lượng đào tạo NNL NYT nói chung và NYT Hà Nội nói riêng; Trường Cao
đẳng Y tế Hà Nội phải đặc biệt quan tâm đến phát triển đội ngũ nhà giáo. Xây
dựng, kiện toàn và phát triển đội ngũ nhà giáo đủ về số lượng, cao về chất
7


lượng và hợp lý về cơ cấu. Từ những luận giải, phân tích, đánh giá trên, tác
giả đề xuất giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên, nâng cao chất lượng đào
tạo của Trường Cao đẳng Y tế Hà Nội đến năm 2015.
- Trần Vũ Hoàng Anh (2008), “Biện pháp quản lí hoạt động thực tập
bệnh viện của học sinh tại Trường Cao đẳng Y tế Hà Nội”, Tạp chí Khoa học
Giáo dục, số 33/2008, tr.56 - 58. Theo tác giả, hoạt động thực tập bệnh viện
của học sinh là một nội dung quan trọng trong bảo đảm chất lượng đào tạo tại
Trường Cao đẳng Y tế Hà Nội. Đồng thời, tác giả đã đề xuất những biện pháp
quản lí hoạt động thực tập bệnh viện của học sinh tại Trường Cao đẳng Y tế
Hà Nội.
- Lê Anh Tuấn (2011), Đánh giá kết quả hoạt động các chương trình y
tế 5 năm 2006 - 2010 và kế hoạch phát triển 5 năm giai đoạn 2011 - 2015, Hà
Nội, H. Cuốn sách trình bày những vấn đề gồm kết quả hoạt động và kết quả
điều tra các chương trình y tế chăm sóc sức khoẻ người dân ở Hà Nội trong
giai đoạn 2006 - 2010 phòng chống các bệnh dịch, các bệnh xã hội, bảo vệ bà
mẹ trẻ em, y tế cơ sở. Kế hoạch phát triển các chương trình y tế 5 năm giai
đoạn 2011 - 2015.
- Lê Anh Tuấn (2011), Vượt qua khó khăn, xây dựng Ngành Y tế Thủ đô
lớn mạnh, Sở Y tế Hà Nội, H. Theo tác giả cần phải chú trọng nâng cao đạo đức
nghề nghiệp, khắc phục những biểu hiện tiêu cực tại các cơ sở y tế. Đa dạng hóa
các hình thức và nội dung tuyên truyền, đảm bảo thu hút mọi tổ chức, đông đảo
quần chúng, nhân dân tự nguyện tham gia bảo vệ sức khỏe cho bản thân và cộng

đồng; nâng cao chất lượng xã hội hóa công tác y tế.
- Đào Thị Dung (2013), “Thực trạng nhân lực và hoạt động chuyên môn
mạng lưới y tế công lập chuyên khoa răng hàm mặt thuộc Sở Y tế Hà Nội”,
Tạp chí Y học thực hành, số 6 (872)/2013, tr.74 - 77. Tác giả phân tích, đánh
giá thực trạng nhân lực và hoạt động chuyên môn mạng lưới y tế công lập
chuyên khoa răng hàm mặt thuộc Sở Y tế Hà Nội; chỉ ra những kết quả đạt
8


được và hạn chế, bất cập hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số biện
pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động chuyên môn mạng lưới y tế công
lập chuyên khoa răng hàm mặt thuộc Sở Y tế Hà Nội.
Những công trình khoa học trên đây đã bàn đến nhiều vấn đề về phát
triển NNL NYT thành phố Hà Nội thông qua việc đánh giá kết quả hoạt động
các chương trình y tế của Ngành; về phương hướng xây dựng NYT thành phố
Hà Nội thời gian tới. Một số công trình bàn đến nâng cao chất lượng NNL
NYT thông qua việc phát triển đội ngũ giảng viên để nâng cao chất lượng đào
tạo; biện pháp quản lý hoạt động thực tập bệnh viện của học sinh tại Trường
Cao đẳng Y tế Hà Nội; thực trạng nhân lực và hoạt động chuyên môn mạng
lưới y tế công lập chuyên khoa răng hàm mặt thuộc Sở Y tế Hà Nội...Tuy
nhiên, các công trình trên mới chỉ đề cập đến các góc độ, khía cạnh khác nhau
về NNL NYT của thành phố Hà Nội mà thiếu một công trình khoa học nghiên
cứu và bàn đến NNL NYT của TP.HN một cách hệ thống, khoa học.
Tổng quan các công trình nêu trên cho thấy, hiện chưa có công trình nào
nghiên cứu độc lập về phát triển NNL NYT của thành phố Hà Nội. Vì thế, đề
tài này được nghiên cứu trên góc độ kinh tế chính trị không trùng lặp với các
công trình khoa học đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về phát triển NNL

NYT của thành phố Hà Nội, đề xuất phương hướng và giải pháp phát triển
NNL NYT của thành phố Hà Nội thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về phát triển nguồn nhân lực
NYT của thành phố Hà Nội.
- Đánh giá thực trạng phát triển NNL NYT của thành phố Hà Nội, chỉ
rõ nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế và những mâu thuẫn đặt ra.
9


- Đề xuất phương hướng và giải pháp phát triển NNL NYT của thành
phố Hà Nội trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Phát triển nguồn nhân lực ngành y tế.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu sự phát triển NNL NYT của thành phố Hà
Nội dưới góc độ kinh tế chính trị. Tập trung nghiên cứu phát triển đội ngũ cán
bộ quản lý; các bác sĩ, điều dưỡng, kỹ thuật viên…tại các bệnh viện công lập
của thành phố, bệnh viện huyện, trạm y tế xã phường thị trấn của thành phố
Hà Nội. Còn phát triển NNL NYT của Quân đội, Công an, cơ sở khám bệnh
do Trung ương quản lý và các bệnh viện tư nhân không thuộc phạm vi nghiên
cứu của đề tài.
- Về không gian: Thành phố Hà Nội.
- Về thời gian: Nghiên cứu khảo sát từ năm 2008 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn thực hiện trên cơ sở vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về phát triển NNL, NNL NYT; Nghị quyết, Chỉ thị, Chương trình
của Đảng bộ, UBND thành phố Hà Nội và Sở Y tế thành phố về phát triển
NNL và phát triển NNL NYT.

* Cơ sở thực tiễn
Luận văn dựa trên cơ sở thực tiễn phát triển NNL và phát triển NNL
NYT ở nước ta và khảo sát thực tiễn phát triển NNL NYT thành phố Hà Nội
những năm qua.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nền tảng là phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử; phương pháp trừu tượng hóa khoa học; phương
pháp kết hợp logic với lịch sử; phương pháp tiếp cận hệ thống, tổng hợp, so
sánh và phương pháp chuyên gia... để hoàn thành luận văn.
10


6. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn được nghiên cứu thành công sẽ góp phần cung cấp thêm luận cứ
khoa học cho việc hoạch định và thực thi các chính sách phát triển NNL NYT
thành phố Hà Nội; kết quả của luận văn còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
phục vụ công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học về NNL nói chung và NNL
NYT nói riêng.
7. Kết cấu của đề tài
Gồm phần mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.

11


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
NGÀNH Y TẾ CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI

1.1. Nguồn nhân lực và nguồn nhân lực ngành y tế

1.1.1. Nguồn nhân lực
Thuật ngữ “Nguồn nhân lực” được sử dụng rộng rãi ở các nước có nền
kinh tế phát triển từ những năm 80 của thế kỷ XX với ý nghĩa là nguồn lực
con người, phản ánh sự đánh giá vai trò yếu tố con người trong quá trình phát
triển. Sự xuất hiện của thuật ngữ “Nguồn nhân lực” thể hiện sự công nhận của
phương thức quản lý mới trong việc sử dụng nguồn lực con người. Cho đến
nay, trên thế giới có những cách hiểu và quan niệm khác nhau về NNL. Do
đặc điểm, điều kiện lịch sử khác nhau, tâm lý, tập quán và phong tục khác
nhau; hệ thống luật pháp khác nhau, quy định độ tuổi lao động khác nhau nên
quan niệm của các nước về NNL cũng có sự khác nhau.
Theo nhà kinh tế người Anh, William Petty cho rằng lao động là cha,
đất đai là mẹ của mọi của cải vật chất. Trong truyền thống Việt Nam xác định
“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Nhà tương lai học người Mỹ Avill
Toffer trong cuốn sách “Power Shift - Thăng trầm quyền lực” đã nhấn mạnh
đến vai trò của lao động tri thức, theo ông: Tiền bạc tiêu mãi cũng hết, quyền
lực rồi sẽ mất; chỉ có trí tuệ của con người thì khi sử dụng không những không
mất đi mà còn lớn lên. Theo quan điểm các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác Lênin, con người có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của các quốc gia.
C.Mác cho rằng con người là yếu tố số một của lực lượng sản xuất. "Sức lao
động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất, tinh thần tồn
tại trong cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận
dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó" [42, tr.258]. V.I.Lênin
12


tiếp tục khẳng định: "Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là
công nhân, là người lao động" [39, tr.430].
Ở Việt Nam, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về NNL với các
góc độ, khía cạnh khác nhau, mức độ khác nhau nhưng đều chỉ ra được vai trò
của NNL đối với sự phát triển KT-XH nói chung và đối với từng tổ chức kinh tế,
chính trị, xã hội nói riêng. Khi nghiên cứu về vai trò của Nhà nước trong việc tạo

tiền đề NNL cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, tiến sĩ Hà Quý Tình
cho rằng: “Nguồn nhân lực là toàn bộ sức lao động của những người trong độ
tuổi lao động có khả năng huy động trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã
hội” [68, tr.6]. Nghiên cứu về phát triển NNL phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, tiến sĩ Nguyễn Thanh lại cho rằng, “Nguồn nhân lực, nguồn lực
con người là tổng thể các chỉ số phát triển con người mà con người có được nhờ
sự trợ giúp của cộng đồng xã hội và sự nỗ lực của bản thân, là tổng thể số lượng
dân và chất lượng con người, là tổng thể sức mạnh thể lực, trí lực, kinh nghiệm
sống, nhân cách, đạo đức, lí tưởng, chất lượng văn hoá, năng lực chuyên môn và
tính năng động trong công việc mà bản thân con người và xã hội có thể huy
động vào cuộc sống lao động sáng tạo vì sự phát triển và tiến bộ xã hội” [57,
tr.75].
Gần đây, có khá nhiều công trình khoa học tiếp tục nghiên cứu và bàn luận
đến vấn đề NNL và phát triển NNL dưới các góc độ, khía cạnh khác nhau, các
lĩnh vực khác nhau. Song, các công trình khoa học này đều có một điểm chung
là đề cập đến các đặc trưng cơ bản về đào tạo, phát triển NNL cả về số lượng,
chất lượng và cơ cấu. Luận giải và làm rõ được NNL là tổng hoà thể lực, trí lực
và tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia; là sự kết
tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch
sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu
cầu hiện tại và tương lai của đất nước. Các công trình khoa học cũng chỉ rõ việc
đào tạo, bồi dưỡng và phát triển NNL là một tất yếu khách quan đối với xã hội,
13


doanh nghiệp và đến từng người lao động. Trong đó, đối với xã hội và với doanh
nghiệp việc đào tạo, bồi dưỡng, phát triển sẽ đảm bảo cho NNL của xã hội và
doanh nghiệp có thể thích ứng, theo sát được sự tiến hoá và phát triển của khoa
học kỹ thuật, công nghệ. Quá trình này sẽ đảm bảo cho xã hội, doanh nghiệp có
được một lực lượng lao động giỏi, hoàn thành thắng lợi các mục tiêu của xã hội,

doanh nghiệp đặt ra, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi thế giới đang dần
chuyển sang nền kinh tế tri thức. Mặt khác, việc đào tạo và phát triển NNL sẽ
trực tiếp góp phần nâng cao trình độ, năng lực, kỹ năng lao động sáng tạo của
người lao động; giúp họ tự tin hơn, nhanh nhẹn hơn, ứng biến linh hoạt với sự
thay đổi của môi trường làm việc đem lại hiệu quả cao trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh. Đồng thời, nâng cao nhận thức mọi mặt của người lao động, nhất là
sự hiểu biết về luật pháp. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh sự hợp tác và phát triển trong
đoàn thể, cải thiện được thông tin giữa các nhóm và cá nhân trong xã hội; cải
thiện mối quan hệ giữa cấp trên, cấp dưới; xoá bỏ được sự thiếu hiểu biết, sự
tranh chấp, sự ngăn chặn sự căng thẳng, mâu thuẫn tạo ra bầu không khí đoàn
kết thân ái cùng phấn đấu phát triển làm cho xã hội ngày càng tốt đẹp hơn, các
doanh nghiệp có vị trí hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, khi nghiên cứu NNL cũng cần
xem xét đến nguồn cung cấp nhân lực trong tương lai của mỗi tổ chức, mỗi địa
phương, mỗi quốc gia, khu vực và thế giới.
Với cách tiếp cận trên, tác giả quan niệm: Nguồn nhân lực là nguồn lực con
người có khả năng sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội được
biểu hiện là số lượng, chất lượng và cơ cấu tại một thời điểm nhất định.
Ngày nay, nguồn lực con người được coi là một “tài nguyên đặc biệt”,
một nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Bởi vậy, việc phát triển nguồn lực
con người là vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển của các
nguồn lực. Phát triển nguồn lực con người là yếu tố bảo đảm chắc chắn nhất
sự phồn vinh, thịnh vượng của các tổ chức, các ngành, lĩnh vực và nền kinh
14


tế; đồng thời đặt ra yêu cầu bức thiết cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu.
1.1.2. Nguồn nhân lực ngành y tế
* Ngành Y tế
Y tế hay chăm sóc sức khỏe, là việc chuẩn đoán, điều trị và phòng ngừa
bệnh, bệnh tật, thương tích và suy yếu về thể chất, tinh thần khác ở người.

Chăm sóc sức khỏe được thực hiện bởi những người hành nghề y như chỉnh
hình, nha khoa, điều dưỡng, dược, y tế liên quan, và các nhà cung cấp dịch vụ
chăm sóc. Y tế đề cập đến những việc cung cấp chăm sóc sức khỏe ban đầu,
chăm sóc thứ cấp và chăm sóc thứ 3, cũng như trong y tế công cộng. Hệ thống
chăm sóc y tế là các tổ chức được thành lập để đáp ứng nhu cầu sức khỏe của
dân cư. Thể thức chính xác của chúng thay đổi khác nhau giữa các nước. Ở
một số quốc gia và vùng lãnh thổ, kế hoạch chăm sóc sức khỏe được phân
phối giữa các đối tác trên thị trường, trong khi ở một số nước kế hoạch này
được thực hiện tập trung vào các chính phủ hoặc các cơ quan phối hợp khác.
Trong mọi trường hợp, theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), hệ thống chăm
sóc sức khỏe tốt đòi hỏi một cơ chế tài chính mạnh mẽ, đội ngũ cán bộ được
đào tạo và trả lương tốt; thông tin đáng tin cậy làm cơ sở để ra quyết định và
lập chính sách; cơ sở vật chất và hậu cần duy trì tốt để cung cấp thuốc và công
nghệ có chất lượng. Chăm sóc sức khỏe có thể tạo thành một phần trong nền
kinh tế quốc gia. Năm 2008, NYT sử dụng trung bình 9% (GDP) trong các
quốc gia phát triển nhất; cụ thể, Mỹ (16.0%), Pháp (11.2%), và Thụy Sĩ
(10.7%); đây là 3 nước dẫn đầu về tỷ lệ GDP cho NYT. Chăm sóc sức khỏe
thông thường được coi là một yếu tố quyết định quan trọng trong việc nâng
cao sức khỏe và hạnh phúc của mọi người trên khắp thế giới. Đơn cử như xóa
bệnh đậu mùa trên toàn thế giới vào năm 1980 - WHO tuyên bố rằng căn
bệnh đầu tiên trong lịch sử nhân loại được loại bỏ hoàn toàn bởi sự can thiệp
chăm sóc sức khỏe.
Với Việt Nam, một nước đã phải trải qua các cuộc chiến tranh giải
15


phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, nền kinh tế bị tàn phá nặng nề, kinh tế
gặp nhiều khó khăn; theo đó, NYT cũng gặp không ít khó khăn, cơ sở vật chất
thiếu thốn, NNL còn nhiều hạn chế và bất cập. NYT Việt Nam chưa có bề dày
lịch sử về phát triển y khoa như nhiều nước trong khu vực; nhưng hơn 60 năm

qua, NYT Việt Nam nói chung và đội ngũ các thầy thuốc Việt Nam đã tạo nên
những bước tiến khoa học để làm nên thành tựu chung của nền y học nước nhà.
Đặc biệt năm 2015, NYT Việt Nam đã chứng kiến một bước “chuyển mình”
vượt bậc với nhiều thành tựu trước nay chưa từng có như ca ghép tạng xuyên
Việt thành công, vắc xin Việt Nam lần đầu tiên đạt chuẩn quốc tế để xuất khẩu
hay hiện thực hóa mục tiêu chăm sóc sức khỏe bằng cách ký các cam kết thay
đổi thay đổi thái độ phục vụ làm hài lòng người bệnh…
* Nguồn nhân lực ngành y tế
Nguồn nhân lực NYT là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống y
tế nhằm bảo đảm chất lượng dịch vụ y tế, hiệu quả của công tác chăm sóc bảo
vệ và nâng cao sức khỏe của nhân dân. Được sự quan tâm của Đảng và Nhà
nước, sự nỗ lực cố gắng của Bộ Y tế cùng với sự vào cuộc của các bộ ngành,
cơ quan liên quan, các cơ sở đào tạo và toàn thể nhân dân nên NNL NYT đã có
sự phát triển nhanh từng bước đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân.
Bên cạnh đó, việc Việt Nam tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế và trở
thành thành viên chính thức của nhiều tổ chức quốc tế như APEC, AFTA,
ASEM, WTO…Trong tiến trình hội nhập này, Việt Nam đã ký thỏa thuận
khung về công nhận lẫn nhau về dịch vụ ngành Y.
Theo đó, NNL NYT nước ta phải thực hiện tốt nguyên tắc công bố công
khai chuẩn NNL của Ngành. Vì lẽ đó, đào tạo NNL NYT là một khâu quan
trọng trong việc nâng cao chất lượng sự nghiệp chăm sóc và nâng cao sức khỏe
nhân dân, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của quá trình phát triển và hội nhập.
Nghị quyết số 46-NQ/TW của Bộ Chính trị, ngày 23 tháng 02 năm 2005 đã
khẳng định: “Sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi con người và của toàn xã hội.
16


Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân là hoạt động nhân đạo, trực
tiếp bảo đảm NNL cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là một trong
những chính sách ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Đầu tư cho lĩnh

vực này là đầu tư phát triển, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ”. [04, tr.2].
Đảng và Nhà nước ta thực hiện nhiều chính sách quan trọng và được luật
pháp hóa nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển NYT nói chung và
NNL NYT nói riêng. Tại khoản 2, Điều 4 Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm
2009 quy định chính sách của Nhà nước về khám, chữa bệnh: Tăng cường phát
triển NNL y tế, đặc biệt là NNL y tế ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó
khăn và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Thực hiện chế độ
luân phiên có thời hạn đối với người hành nghề tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
từ tuyến trên xuống tuyến dưới, từ vùng có điều kiện kinh tế - xã hội không khó
khăn đến vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và vùng có điều kiện kinh
tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Do vậy, chúng ta cần phải nhận thức đúng về nghề y là một nghề đặc
biệt, theo đó NNL NYT phải đáp ứng được yêu cầu đặc biệt đó. Mục tiêu là
giảm tỷ lệ mắc bệnh, tật và tử vong, nâng cao sức khoẻ, tăng tuổi thọ, cải
thiện chất lượng giống nòi, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, chất
lượng NNL, hình thành hệ thống chăm sóc sức khỏe đồng bộ từ trung ương
đến cơ sở và thói quen giữ gìn sức khỏe của nhân dân, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong thời gian qua, NNL NYT đã thực hiện có hiệu quả kế hoạch bảo
vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. NNL NYT liên tục phát triển về
số lượng và không còn tình trạng thiếu trầm trọng, ngoại trừ đối với chuyên
khoa tâm thần. Tỷ lệ bác sỹ trên một vạn dân tăng đều qua các năm và đạt
mức 7,5 vào năm 2013. Để giải quyết tình trạng thiếu NNL y tế, Bộ Y tế đã
triển khai nhiều giải pháp. Trong đó, Đề án 1816, được triển khai từ năm
2008 đã cử các chuyên gia có kinh nghiệm từ các cơ sở y tế tuyến trên hỗ trợ
17


và chuyển giao kỹ thuật cho tuyến dưới. Ngay trong năm đầu thực hiện đề án
đã có 1037 lượt cán bộ thuộc 19 chuyên khoa đi hỗ trợ tuyến dưới trong thời

gian từ 1 tuần đến 3 tháng. Đề án đã có tác động tích cực theo hướng nâng
cao năng lực của tuyến dưới và giảm tải cho tuyến trên; ước tính số bệnh nhân
chuyển về tuyến trên giảm khoảng 30%. Dự án thí điểm đưa bác sỹ trẻ tình
nguyện về công tác tại miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng
có điều kiện KT-XH khó khăn (ưu tiên 62 huyện nghèo) được Bộ trưởng Bộ
Y tế phê duyệt và bắt đầu triển khai từ năm 2014. Bên cạnh đó, quá trình này
cũng bộc lộ một số khó khăn thách thức, đòi hỏi cần có những giải pháp hợp
lý để thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo, phát triển NNL NYT đủ
về số lượng, nâng cao chất lượng, cơ cấu hợp lý và hướng tới hội nhập quốc
tế, đáp ứng yêu cầu về chất lượng bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe
nhân dân.
Hiện nay, KT-XH cũng đang tác động lớn đến sự thay đổi về mô hình
bệnh tật; nhất là sự gia tăng nhanh chóng của các bệnh không lây nhiễm như
tim mạch, tiểu đường, huyết áp… Ngoài gánh nặng bệnh tật, các bệnh không
lây nhiễm còn gây gánh nặng rất lớn về kinh tế thông qua các chi phí trực tiếp
và gián tiếp ảnh hưởng đến bản thân người bệnh gia đình và phát triển KTXH. Do đó, việc kiểm soát các yếu tố nguy cơ, phát hiện sớm, điều trị kịp thời
các bệnh không lây nhiễm sẽ giúp giảm thiểu các khoản chi phí trực tiếp, gián
tiếp rất lớn cho điều trị, chăm sóc các bệnh không lây nhiễm. Mặt khác, việc
giảm tỷ lệ mắc bệnh, tàn phế cũng góp phần tăng năng suất lao động và tổng
sản phẩm xã hội, giảm thiểu gánh nặng bệnh tật.
Trong khi nhu cầu của người bệnh và xã hội ngày càng phát triển,
NYT vẫn chưa theo kịp sự phát triển này của xã hội, đặc biệt là việc nâng
cao chất lượng của dịch vụ y tế. Để cải thiện tình hình đó, Bộ Y tế và các
bệnh viện công lập đã có một số báo động về tình trạng yếu kém về chất
lượng dịch vụ y tế tại các cơ sở công lập. Tuy nhiên để cải thiện tình trạng
18


này cần phải có sự đầu tư rất lớn về con người và cơ sở vật chất trong khi
ngân sách y tế lại thiếu, thu nhập cán bộ y tế còn thấp và nhiều vấn đề liên

quan khác.
Nhận thức đúng tầm quan trọng về vai trò của NNL NYT, thủ tướng
Chính phủ đã có Quyết định số 153/2006/QĐ-TTg ngày 30 tháng 6 năm 2006
về phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống y tế Việt Nam giai đoạn
đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Trong đó, chỉ rõ phải phát triển NNL
NYT cân đối và hợp lý, phấn đấu bảo đảm đạt được các chỉ tiêu cơ bản đã đề
ra. Phát triển NNL NYT có trình độ cao, cán bộ y tế trên đại học để cung cấp
cho các cơ sở y tế. Bổ sung biên chế dược tá cho trạm y tế xã bảo đảm NNL
phục vụ công tác cung ứng thuốc tại tuyến xã. Ban hành quy hoạch mạng lưới
các cơ sở đào tạo cán bộ y tế, xây dựng tiêu chuẩn định mức và cơ cấu NNL y
tế hợp lý để kiện toàn đội ngũ cán bộ y tế nhằm không ngừng nâng cao chất
lượng và hiệu quả các hoạt động chăm sóc sức khỏe nhân dân. Xây dựng 2
trung tâm đào tạo cán bộ y tế tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh ngang tầm
các nước tiên tiến trong khu vực. Xây dựng cơ chế hoạt động phù hợp để các
trung tâm này có khả năng liên kết đào tạo với một số trường đại học của nước
ngoài trong lĩnh vực chuyên môn và quản lý y tế. Xây dựng kế hoạch nâng cấp
một cách có chọn lọc một số trường trung học y, dược của các tỉnh, thành phố
thành trường cao đẳng y, dược.
Bảo đảm NNL NYT đủ về số lượng, chất lượng nâng cao và cơ cấu hợp
lý cho các cơ quan, đơn vị y tế của thành phố Hà Nội sẽ tạo bước phát triển
mới của NYT Thủ đô phù hợp với quy hoạch phát triển toàn ngành và có điều
kiện thuận lợi thực hiện việc luân chuyển cán bộ; khuyến khích thầy thuốc về
công tác ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn.
Từ cách tiếp cận, phân tích và luận giải trên, tác giả đưa ra quan niệm
Nguồn nhân lực ngành y tế là một bộ phận của nguồn nhân lực quốc gia hoạt
động trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, được thể hiện ở
19


số lượng, chất lượng và cơ cấu trong từng giai đoạn nhất định.

1.2. Quan niệm, nội dung và nhân tố ảnh hưởng đến phát triển
nguồn nhân lực ngành y tế của thành phố Hà Nội
1.2.1. Quan niệm phát triển nguồn nhân lực ngành y tế của thành
phố Hà Nội
Trong thời kỳ đổi mới, NYT của Hà Nội đã có sự phát triển nhất định,
được tăng cường cả về cơ sở vật chất khám chữa bệnh, chất lượng đội ngũ
cán bộ với các hình thức dịch vụ ngày càng đa dạng; công tác KBCB và
phòng chống bệnh tật ngày một nâng cao về chất lượng. Cùng với hệ thống
bệnh viện Trung ương, Bộ, Ngành, các cơ sở y tế của thành phố ngày càng
đáp ứng nhu cầu chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho nhân dân Hà Nội
và cả nước. Hầu hết các chỉ tiêu về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân
đều đạt như: tuổi thọ trung bình, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi, xã
đạt chuẩn quốc gia về y tế. Cơ sở vật chất kỹ thuật NYT Thủ đô được đầu tư
nâng cấp rõ rệt. Nhiều máy móc thiết bị hiện đại được mua sắm và trang bị
cho các bệnh viện tuyến thành phố, nhiều bệnh viện chuyên khoa được đầu tư
trang thiết bị hiện đại. Thu hút NNL chất lượng cao từ các cơ sở Trung ương
trên địa bàn; đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào khám, chữa
bệnh góp phần nâng cao chất lượng công tác, năng lực chẩn đoán điều trị
bệnh cho nhân dân.
Để đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân, thành phố đã rất
quan tâm đến phát triển mạng lưới y tế cơ sở, góp phần giảm tải cho công tác
khám chữa bệnh của các bệnh viện tuyến trên. Từ năm 2002, thành phố Hà
Nội đã đầu tư xây mới, nâng cấp cơ sở hạ tầng theo đúng chuẩn thiết kế của
Bộ Y tế cho 202 TYT xã. Ngoài ra, nhiều quận, huyện đã rất quan tâm đến hệ
thống y tế, nhất là các TYT như quận Long Biên, quận Tây Hồ, quận Cầu
Giấy... Đồng thời, thành phố cũng đặc biệt chú ý và quan tâm đến phát triển
NNL Y tế. Thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện
20



giáo dục và đào tạo, Sở Y tế thành phố chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện
đào tạo phát triển NNL NYT theo hướng tiếp cận phương thức đào tạo của các
nước tiên tiến trên thế giới. Trước mắt, đào tạo NNL NYT đi sâu vào đổi mới
một số chương trình đào tạo chủ chốt theo hướng dựa trên năng lực đáp ứng
với mô hình bệnh tật và hoàn cảnh thực tế của Việt Nam, gắn đào tạo với sử
dụng NNL. Triển khai nghiên cứu và đề xuất mô hình đào tạo ngành y, dược
theo hướng đảm bảo tính khoa học, hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu nâng
cao chất lượng đào tạo NNL y tế.
Tuy nhiên, đổi mới đào tạo NNL y tế là một quá trình lâu dài, cần sự chỉ
đạo thống nhất của cơ quan quản lý cũng như sự tham gia tích cực của cả hệ
thống đào tạo nhân lực y tế hướng tới mục tiêu là nâng cao chất lượng đào tạo
đáp ứng yêu cầu thực tiễn chăm sóc sức khỏe nhân dân và hội nhập quốc tế.
UBND thành phố đã chỉ đạo Sở Y tế thành phố triển khai thực hiện đồng bộ
nhiều giải pháp. Trong đó, tập trung phối hợp hiệu quả với các đơn vị đào tạo
trên địa bàn thành phố, xây dựng chính sách phù hợp, triển khai các đề án
phát triển NNL y tế cho thủ đô. Phát triển NNL y tế cân đối và hợp lý. Bảo
đảm đạt được các chỉ tiêu cơ bản: nâng tỷ lệ bác sỹ lên 12,5/10.000dân, Dược
sỹ đại học 2/10.000 dân. Đến năm 2020 lên tỷ lệ bác sỹ 13,5/10.000 dân; số
Dược sỹ đại học đạt 2,5/10.000 dân; nhân viên điều dưỡng từ 3 - 4 nhân
viên/bác sỹ. Phát triển NNL y tế trình độ cao, cán bộ y tế trên đại học để cung
cấp cho các cơ sở y tế. Bổ sung biên chế dược tá cho TYT xã bảo đảm NNL
phục vụ công tác cung ứng thuốc tại tuyến xã. Sắp xếp, mở rộng và nâng cấp
các cơ sở đào tạo, đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng cán bộ y tế phù
hợp với quy hoạch phát triển NYT. Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, phát
triển đội ngũ giảng viên, giáo viên; xây dựng các tiêu chí kiểm định chất
lượng đào tạo, chuẩn hóa đội ngũ giảng viên, giáo viên tại các trường y dược
của thành phố nhằm đáp ứng số lượng và chất lượng cán bộ y, dược, điều
dưỡng và nữ hộ sinh. Xây dựng kế hoạch nâng cấp trường Cao đẳng y, dược
21



Hà Nội, Hà Đông thành Trường Đại học Y Dược Hà Nội và Trường Đại học
Y Dược Hà Đông. Xây dựng đề án đào tạo cán bộ y tế có trình độ chuyên
môn và kỹ thuật cao cho các tuyến dịch vụ y tế của thành phố. Tiếp tục thực
hiện và bổ sung các chính sách ưu đãi đối với cán bộ, nhân viên y tế, đặc biệt
là cán bộ y tế tuyến cơ sở.
Phát triển NNL NYT thủ đô còn tác động và đem lại hiệu quả kinh tế
và hiệu quả xã hội. Trong đó, về hiệu quả xã hội, việc nâng cao năng lực,
phẩm chất đạo đức của cán bộ, nhân viên y tế thủ đô sẽ góp phần đáp ứng
nhiều hơn nữa nhu cầu chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân, bảo đảm
an sinh xã hội, tạo ra tâm lý an tâm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước, đời sống chính trị ổn định. Nâng cao sức khỏe nhân dân, giảm tỷ
lệ bệnh tật, cải thiện chất lượng cuộc sống, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân
dân được tiếp cận khám chữa bệnh với chất lượng cao. Về hiệu quả kinh tế,
nâng cao chất lượng NNL y tế thủ đô sẽ trực tiếp góp phần làm giảm chi phí,
thời gian, công sức của người dân trong việc KBCB. Phòng chống có hiệu
quả các dịch bệnh, thực hiện tốt các chương trình y tế góp phần làm giảm tỷ
lệ bệnh tật chi phí thực tế cho công tác chăm sóc sức khỏe vì trên thực tế chi
phí cho phòng bệnh thấp hơn nhiều chi phí cho chữa bệnh. Khi sức khỏe của
người dân được cải thiện, thời gian và năng suất lao động tăng lên góp phần
phát triển kinh tế gia đình và xã hội.
Mặc dù vậy, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh đã làm gia tăng dân số trên
địa bàn đã làm cho hệ thống các bệnh viện trong nội thành Hà Nội đã quá tải ở
mức báo động và trở thành một vấn đề hiện rất bức xúc. Trong khi đó, NNL
NYT của Hà Nội còn thiếu cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu bất hợp lý, mất
cân đối theo ngành đào tạo và theo tuyến; công tác đào tạo và chính sách sử
dụng cán bộ y tế chưa hợp lý; chưa có chế độ đãi ngộ xứng đáng cho cán bộ y tế.
Chương trình đào tạo liên quan đến y khoa, điều dưỡng, y tế công cộng vẫn còn
nhiều hạn chế; chú trọng nhiều đến chuyên môn hẹp, khu vực bệnh viện mà bỏ
22



qua việc chăm sóc sức khỏe ban đầu, chưa đáp ứng được nhu cầu của cá nhân và
cộng đồng v.v… Dự báo nhu cầu NNL y tế đến năm 2020 cho các cơ sở y tế tiếp
tục tăng; bên cạnh đó, NYT Hà Nội tiến hành nâng cấp và xây mới cơ sở 2 của
Trường Cao đẳng Y tế Hà Nội và Hà Đông thành Trường Đại học về các lĩnh
vực Y, Dược, Y tế công cộng; xây dựng mới 5 - 6 trường cao đẳng, trung cấp,
đào tạo kỹ thuật về y tế tại các tổ hợp theo quy hoạch. Do đó, nhu cầu NNL
NYT Hà Nội càng trở nên bức thiết.
Kế thừa kết quả nghiên cứu ở trên, tác giả quan niệm: Phát triển nguồn
nhân lực ngành y tế của thành phố Hà Nội là hoạt động của các chủ thể làm
tăng số lượng, nâng cao chất lượng và hợp lý về cơ cấu nguồn nhân lực
ngành y tế Thủ đô để thực hiện tốt công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khỏe của nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Nội hàm quan niệm thể hiện ở những vấn đề sau:
Một là, phát triển NNL NYT của thành phố Hà Nội là hoạt động tích cực
chủ động của Thành uỷ, HĐND, UBND, các cơ quan hữu quan và nhân dân,
trực tiếp là Sở Y tế thành phố, các trường đào tạo ngành y và đội ngũ cán bộ,
nhân viên ngành y của thành phố Hà Nội. Hai là, phát triển NNL NYT của
thành phố được thể hiện ở tăng về số lượng, chất lượng và hợp lý về cơ cấu
NNL hoạt động trong cơ quan quản lý y tế các cấp, trong các bệnh viện, các
trung tâm y tế, các cơ sở đào tạo, viện nghiên cứu của NYT thành phố Hà Nội.
Ba là, phát triển NNL này do Sở Y tế thành phố quản lý, dưới sự lãnh đạo, chỉ
đạo của Thành uỷ, chính quyền Thành phố. Bốn là, phát triển NNL NYT để
thực hiện tốt công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân trên địa bàn thành
phố Hà Nội.
1.2.2. Nội dung phát triển nguồn nhân lực ngành y tế củaTP.HN
Từ cách tiếp cận trên cùng những phân tích và luận giải trên, theo tác
giả để phát triển NNL NYT của thành phố Hà Nội đáp ứng được nhu cầu
bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho nhân dân trên địa bàn thành

23


phố cần phải quan tâm đến cả số lượng, chất lượng và cơ cấu. Do vậy, tác
giả xác định nội dung phát triển NNL NYT của thành phố Hà Nội bao
gồm phát triển về số lượng, chất lượng và hợp lý về cơ cấu.
* Một là, phát triển về số lượng nguồn nhân lực ngành y tế của thành
phố Hà Nội
Số lượng NNL NYT của thành phố Hà Nội được biểu hiện ở quy mô
tổng số nhân lực và số lượng các loại hình nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu
phát triển của Ngành. Thực tế cho thấy, việc phát triển NNL về mặt số lượng
có ý nghĩa rất quan trọng, ảnh hưởng đến khả năng hoàn thành nhiệm vụ của
NYT. Vì không thể nói NNL phục vụ có chất lượng khi mà NNL thiếu về số
lượng; tình trạng thiếu về số lượng sẽ dẫn đến cường độ lao động của cán
bộ, nhân viên y tế tăng cao, áp lực công việc lớn, dễ dẫn đến sai sót và sự cố
đáng tiếc có thể xảy ra; theo đó mà chất lượng và hiệu quả KBCB, chăm sóc
sức khỏe cho nhân dân sẽ không cao.
Để phát triển về số lượng NNL NYT của thành phố Hà Nội, các cơ
quan chức năng chuyên môn cần phải căn cứ vào hệ thống các văn bản pháp
luật, thông tư, nghị định, các văn bản dưới luật, quy định của ngành và các
đơn vị để xác định đúng nhu cầu số lượng NNL NYT. Trong đó, tập trung
vào một số văn bản chính như Luật Viên chức; Nghị định số 29/2012/NĐCP ngày 12 tháng 4 năm 2012 về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên
chức; Quyết định số 103/2009/QĐ-UBND ngày 24 tháng 9 năm 2009 về
việc ban hành Quy định về tổ chức bộ máy, biên chế, tiền lương, tiền công,
cán bộ, công chức, viên chức và người lao động hợp đồng trong các cơ quan
đơn vị thuộc thành phố Hà Nội; Quyết định số 11/2012/QĐ-UBND ngày 22
tháng 5 năm 2012 của UBND thành phố Hà Nội về việc sửa đổi, bổ sung,
điều chỉnh một số điều của Quyết định số 103/2009/QD-UBND; căn cứ vào
thông báo của Sở Nội vụ thành phố Hà Nội về chỉ tiêu biên chế hành chính,
sự nghiệp các năm. Trên cơ sở đó, số lượng NNL NYT của thành phố Hà

Nội được đánh giá, xác định cụ thể như nhu cầu NNL NYT theo biên chế;
24


tổng số NNL hiện có của ngành; tổng số NNL còn thiếu so với biên chế.
* Hai là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành y tế
của thành phố Hà Nội
Chất lượng NNL là một trong những nội dung quan trọng bảo đảm cho
NYT của thành phố Hà Nội hoàn thành tốt nhiệm vụ trung tâm; đặc biệt trong
điều kiện nền kinh tế phát triển nhanh, tính chất và mức độ bệnh tật ngày càng
phức tạp, nhu cầu KBCB của nhân dân cao đã và đang đòi hỏi yêu cầu cao về
chất lượng của đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế Hà Nội. Vì lẽ đó, phát triển chất
lượng NNL là một nội dung, là tiêu chí quan trọng được Sở Y tế và UBND
thành phố Hà Nội quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Theo đó, nâng cao chất lượng
NNL NYT của thành phố Hà Nội được đánh giá ở một số nội dung sau:
Về kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ: Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của
NNL đã đạt được; tỷ lệ của từng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ trong tổng số
NNL hiện có; tỷ lệ đào tạo, bồi dưỡng theo từng cấp học hàng năm.
Về kỹ năng của NNL NYT của TP.HN: Khả năng đảm nhận, khả năng
hoàn thành nhiệm vụ; khả năng vận dụng kiến thức vào các thao tác của công
việc; khả năng xử lý tình huống, khả năng truyền đạt, thu hút sự chú ý, khả
năng ứng xử trong giao tiếp nội bộ và giao tiếp với nhân dân, với người bệnh.
Về nhận thức chính trị, phẩm chất đạo đức của NNL NYT của thành phố
Hà Nội như: Ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tự giác và hợp tác; trách nhiệm
và niềm say mê nghề nghiệp, năng động trong công việc; mức độ hài lòng của
người bệnh, của người được cung cấp dịch vụ y tế và đạo đức nghề nghiệp.
Đặc biệt là “vấn đề y đức”. Đạo đức nghề nghiệp được thể hiện ở tình thương
yêu con người sâu sắc, đồng cảm và thấu hiểu với nỗi đau của đồng loại như
nỗi đau về bệnh tật, nỗi khổ về vật chất thiếu thốn, nghèo khó của nhân dân
cũng như tinh thần, nỗi đau khi phải mất mát người thân. Trên cơ sở đó, đội

ngũ bác sỹ và nhân viên y tế hết sức, hết lòng tận tình cứu chữa, giành giật sự
sống cho người bệnh. Trước thực tế “vấn đề y đức”, Bộ Y tế đã ban hành
25


nhiều văn bản nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế. Cụ
thể: Quyết định số 2088/BYT- QĐ ngày 06 tháng 11 năm 1996 của Bộ trưởng
Bộ Y tế về việc ban hành “Quy định về Y đức”; Quyết định số 29/2008/QĐBYT ngày 18 tháng 8 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành Quy
tắc ứng xử của cán bộ, viên chức trong các đơn vị sự nghiệp Y tế; Chỉ thị số
03/CT-BYT ngày 01 tháng 4 năm 2013 về việc tăng cường các giải pháp thực
hiện tốt quy tắc ứng xử, nâng cao đạo đức nghề nghiệp, học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, Thông
tư số 07/2014/TT-BYT ngày 25 tháng 02 năm 2014 Quy định về quy tắc ứng
xử của công chức, viên chức, người lao động làm việc tại các cơ sở y tế.
Các văn bản trên đã quy định nhiều nội dung quan trọng về “vấn đề y
đức”. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận văn, tác giả không thể luận giải,
phân tích được hết mà khái quát vấn đề chung nhất là: Y đức là phẩm chất tốt
đẹp của người làm công tác y tế, được biểu hiện ở tinh thần trách nhiệm cao,
tận tuỵ phục vụ, hết lòng thương yêu chăm sóc người bệnh, coi họ đau đơn
như mình đau đớn, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Lương y phải như
từ mẫu". Phải thật thà đoàn kết, khắc phục khó khăn, học tập vươn lên để
hoàn thành nhiệm vụ, toàn tâm toàn ý xây dựng nền Y học Việt Nam. Y đức
được thể hiện qua những tiêu chuẩn, nguyên tắc đạo đức được xã hội thừa
nhận và cán bộ, nhân viên NYT phải nghiêm túc thực hiện.
* Ba là: Bảo đảm cơ cấu hợp lý nguồn nhân lực ngành y tế của thành
phố Hà Nội
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, nhất là hoạt động đặc thù
của Ngành Y mà nhất là đặc thù NYT của thành phố Hà Nội thì cơ cấu NNL
phải được quan tâm hàng đầu. Bởi vì Thủ đô Hà Nội, nơi tập trung nhiều
bệnh viện lớn của Trung ương và các bộ ngành; quy mô, tính chất, mức độ,

phạm vi và cơ cấu bệnh tật rất phức tạp. Trong xu thế hội nhập, Hà Nội có
một số lượng lớn người nước ngoài đến, lưu trú và đi nên nguồn lây nhiễm
26


×