Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ THEO HƯỚNG bền VỮNG ở THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (570.02 KB, 99 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
3
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
THEO HƯỚNG BỀN VỮNG Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Những vấn đề chung về phát triển làng nghề theo hướng

11

bền vững
1.2. Quan niệm, nội dung và nhân tố ảnh hưởng đến phát triển

11

làng nghề theo hướng bền vững ở thành phố Hà Nội
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ THEO

21

HƯỚNG BỀN VỮNG Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI
GIAN QUA
2.1. Giới thiệu khái quát về thành phố Hà Nội và tổng quan về

35

làng nghề ở thành phố Hà Nội
2.2. Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và vấn đề đặt ra trong phát

35


triển làng nghề theo hướng bền vững ở thành phố Hà Nội
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN LÀNG

37

NGHỀ THEO HƯỚNG BỀN VỮNG Ở THÀNH PHỐ
HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Quan điểm phát triển làng nghề theo hướng bền vững ở

67

thành phố Hà Nội thời gian tới
3.2. Giải pháp phát triển làng nghề theo hướng bền vững ở

67

thành phố Hà Nội trong thời gian tới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

74
87
89
94


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở nước ta, phát triển làng nghề là một trong những nhiệm vụ, đồng thời

là giải pháp quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trịxã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Được sự quan tâm của Đảng và Nhà
nước, nhất là sự nỗ lực vươn lên của các hộ kinh tế cho nên các làng nghề
được khôi phục và có sự phát triển mạnh. Sự phát triển các làng nghề góp
phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn, không chỉ phát triển kinh tế mà còn góp
phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, đảm bảo an ninh trật tự an toàn xã hội,
đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương.
Cùng với sự phát triển các làng nghề trong cả nước, làng nghề ở thành
phố Hà Nội cũng luôn được các cấp chính quyền địa phương quan tâm, tạo
điều kiện để phát triển, mở rộng về quy mô và đa dạng về ngành nghề. Song,
sự phát triển của các làng nghề ở thành phố Hà Nội vẫn còn yếu tố tự phát,
qui mô chưa lớn, công nghệ còn lạc hậu, ô nhiễm môi trường, năng suất thấp,
chưa phát triển doanh nghiệp đầu mối, gần như chưa tạo được thị trường rộng
lớn mà phải chấp nhận gia công…; đi cùng với đó, một số cán bộ quản lý làng
nghề, chủ cơ sở sản xuất còn thiếu kinh nghiệm, trình độ và tay nghề chưa
cao...Đánh giá chung, các làng nghề ở thành phố Hà Nội còn nhiều hạn chế
trong hoạt động sản xuất kinh doanh; làng nghề cũng chưa phát huy tốt vai trò
thúc đẩy sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn; làng
nghề đang gây ô nhiễm môi trường sống rất nặng. Điều đó cho thấy, việc phát
triển làng nghề theo hướng bền vững đang còn nhiều khó khăn thách thức.
Để phát triển làng nghề theo hướng bền vững trong thời gian tới, vấn đề
đặt ra là phải xác định đúng phương hướng phát triển, tìm giải pháp khả thi
phát triển làng nghề phù hợp với tình hình thực tế ở khu vực nông thôn của
Hà Nội, phù hợp với xu hướng vận động và phát triển của làng nghề cả nước
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Vì lý do trên, học viên chọn vấn đề
3


“Phát triển làng nghề theo hướng bền vững ở thành phố Hà Nội” làm đề tài
luận văn thạc sỹ chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Đề nghiên cứu về làng nghề không phải là đề tài mới, nhưng lại là một
đề tài thu hút được sự quan tâm và đầu tư nhiều của các nhà nghiên cứu, các
cơ quan ban ngành và thực thi chính sách, các nghiên cứu mang tính hàn lâm.
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu lớn nhỏ từ các cuốn sách tới
đề tài cấp nhà nước đến các đề tài cấp Bộ, các luận văn, luận án như:
* Công trình nghiên cứu về làng nghề truyền thống , ngành nghề
Mai Thế Hởn (1998) “Phát triển làng nghề truyền thống trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở vùng ven thủ đô Hà Nội”[13], Luận án
tiến sĩ kinh tế. Tác giả đã đi sâu phân tích đánh giá thực trạng của việc phát
triển làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
vùng ven thủ đô Hà Nội. Đồng thời đề xuất quan điểm và giải pháp phát triển
làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở vùng
ven thủ đô Hà Nội.
Phạm Đức Minh, Lê Thị Nghệ, Nguyễn Văn Thăng (2000) “ Nghiên cứu,
đề xuất những giải pháp chủ yếu phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp
nhằm nâng cao và đa dạng hoá thu nhập cho hộ gia đình ở khu vực nông thôn
đồng bằng sông Hồng”[16], Báo cáo khoa học, Viện kinh tế nông nghiệp, Hà
Nội. Báo cáo đã đánh giá khái quát những thành công và hạn chế trong phát triển
ngành nghề tiểu thủ công nghiệp của các hộ gia đình ở khu vực nông thôn đồng
bằng sông Hồng; qua đó khẳng định nơi đây các hộ gia đình đã duy trì và phát
triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp đã và đang tạo ra những sản phẩm nghề
truyền thống tinh xảo, độc đáo, mang ý nghĩa nhân văn. Những sản phẩm đó
cuốn hút người tiêu dùng cả nước, nhất là du khách nước ngoài và mang lại thu
nhập khá cao cho các hộ gia đình. Hạn chế chủ yếu là sản phẩm được sản xuất ra
mới chỉ chiếm thị phần khiêm tốn, chủ yếu là phục vụ tiêu dùng trong nước, cho
4


nên thu nhập lúc cao lúc thấp. Để khắc phục, tập thể tác giả đề xuất nhiều giải
pháp, đáng lưu ý là giải pháp phát huy vai trò của chính quyền cùng các hộ gia

đình có ngành nghề thủ công cần kết hợp sử dụng công cụ truyền thống với máy
móc hiện đại trong sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm có chất lượng và khẳng
định được thương hiệu trên thị trường.
Dương Bá Phượng (2001) “ Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội [19].
Tác giả đã luận giải những vấn đề chung về làng nghề, đánh giá vai trò và những
nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của làng nghề. Đồng thời tác giả cũng trình
bày đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh của các làng nghề trên các phương
diện như vốn, công nghệ, lao động, thị trường tiêu thụ và môi trường. Trên cơ sở
đó tác giả đưa ra các quan điểm và phương hướng bảo tồn và phát triển các làng
nghề trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa.
Nguyễn Viết Sự (2001) “ Tuổi trẻ với nghề truyền thống Việt Nam”,
Nxb Thanh niên, Hà Nội [26]. Tác giả đã đề cập đến một số nghề truyền
thống Việt Nam và vai trò của nó trong giải quyết việc làm cho người lao
động cũng như đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội. Đồng thời tác giả
cũng có trăn trở về sự phát triển của các nghề truyền thống trong quá trình hội
nhập quốc tế và làm rõ vai trò của tuổi trẻ Việt Nam đối với việc bảo tồn và
phát triển các nghề truyền thống hiện nay.
Bùi Văn Vượng (2002) “Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam”,
Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội [44]. Tác giả đã vẽ một bức tranh tổng quát về các
làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam trong lịch sử cũng như hiện tại. Bên
cạnh đó tác giả cũng thể hiện sự lo lắng của mình về sự phát triển của các làng
nghề thủ công truyền thống trước xu thế hội nhập.
Trần Minh Yến (2004) “Làng nghề truyền thống trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội [47]. Tác giả đã trình
bày những vấn đề lý luận cơ bản về làng nghề truyền thống và làm rõ vai trò của
5


làng nghề truyền thống trong phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn Việt Nam.

Nhận định xu hướng phát triển của làng nghề truyền thống trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng quan điểm và đề xuất các giải pháp cơ bản để
phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn.
Nguyễn Trung Quế (2006), “Làng gốm sứ truyền thống Bát Tràng”,
Nxb Nông nghiệp, Hà Nội [20]. Tác giả đã trình bày một cách khái quát lịch
sử phát triển của Làng gốm sứ Bát Tràng. Trong điều kiện mới, làng gốm sứ
truyền thống Bát Tràng đang thay đổi theo hướng kết hợp truyền thống với
hiện đại tạo ra những sản phẩm thể hiện được sự kết hợp trên. Tác giả đã phân
tích những điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến phát
triển làng gốm sứ Bát Tràng kết hợp truyền thống với hiện đại và đưa ra định
hướng cùng gợi mở giải pháp cho phát làng nghề truyền thống Bát Tràng.
Tạ Long (chủ biên), Trần Thị Hồng Yến, Nguyễn Thị Thanh Bình đồng
thực hiện (2007),“Sự phát triển của Làng nghề La Phù”, Nhà xuất bản Khoa học
xã hội [15]. Đề tài đã góp thêm tiếng nói trong nghiên cứu làng nghề hiện nay nói
riêng và đóng góp vào kho tàng nghiên cứu xã hội học những cứ liệu khoa học
trong nghiên cứu làng xã Việt Nam nói chung. Các tác giả tập trung trình bày về
các ngành nghề đang phát triển trên đất La Phù; Sự xuất hiện của các mô hình tổ
chức sản xuất và các thành phần kinh tế, sự tăng trưởng giá trị sản phẩm, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế hay sự thay đổi về cơ cấu thu nhập bình quân của lao động qua
các năm dẫn đến các thay đổi trong cơ cấu xã hội và sự biến chuyển trong quan hệ
sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Sự phát triển ngành nghề của các xóm
và dòng họ thời kinh tế thị trường những năm gần đây. Tác giả vẽ lên bức tranh
văn hoá đang thay đổi trong đời sống của người dân La Phù từ lối sống nông
nghiệp sang lối sống công nghiệp. Đề cập đến những đóng góp của La Phù vào
ngân sách Nhà nước và sự đầu tư của Nhà nước cho La Phù, cũng như những khó
khăn mà La Phù cần phải giải quyết trong việc xây dựng điểm công nghiệp và đề
ra chủ trương chính sách phát triển khu công nghiệp.
Trương Minh Hằng (2007), Gốm sành nâu ở Phù Lãng, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội [11]. Tác giải giới thiệu chung về gốm sành nâu. Những phát
6



hiện gần đây nhất của giới khảo cổ học cho biết, có nhiều khả năng là nghề
gốm ở Phù Lãng xuất hiện từ thời Trần. Cùng với Bát Tràng và Thổ Hà, Phù
Lãng là một trong ba làng gốm nổi danh ở xứ Bắc ngày xưa, cung cấp sản
phẩm cho toàn bộ thị trường Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Trong các làng sành
nâu ở đồng bằng Bắc Bộ, có lẽ duy nhất chỉ có Phù Lãng sản xuất sành nâu có
men. Khái quát diện mạo văn hoá truyền thống làng Phù Lãng trong mối liên
quan với nghề gốm sành nâu ở Phù Lãng qua các thời kì lịch sử, các hoạt
động xung quanh việc truyền dạy nghề, tổ chức sản xuất và tiêu thụ, các mối
giao lưu văn hoá và thị trường buôn bán. Thông qua quá trình sản xuất và các
loại hình sản phẩm, tìm hiểu những đặc trưng riêng của nghệ thuật gốm sành
nâu Phù Lãng trong tương quan so sánh với các sản phẩm sành nâu của Thổ
Hà và Hương Canh. Từ đó đưa ra những biện pháp cụ thể nhằm tham gia tháo
gỡ một phần những khó khăn trước mắt và đóng góp ý kiến cho việc bảo tồn,
phát huy, phát triển nghề gốm sành nâu truyền thống ở Phù Lãng trong hiện
tại và cho tương lai.
T.Sonobe, K.Otsuka và Vu Hoang Nam (2010), “Một điều tra sự phát
triển của làng nghề: Trường hợp của một cụm dệt kim ở miền Bắc Việt Nam,
[21] đã tìm hiểu quá trình phát triển của một làng nghề truyền thống chuyên sản
xuất mặt hàng may mặc đang phát triển ở miền Bắc Việt Nam trong điều kiện
các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp được biết là có nhiều tiềm năng để phát
triển nhưng lại không được đầu tư thoả đáng. Họ cho rằng có hai điều kiện quan
trọng là con người và vốn xã hội (đo bằng các mối quan hệ họ hàng với thương
nhân Việt Nam ở nước ngoài) của các chủ sở hữu, điều này tạo điều kiện để mở
rộng hoạt động trao đổi, mua bán vào thị trường xuất khẩu mới. Hơn nữa, trình
độ và kinh nghiệm quản lý của nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực cụ
thể góp phần nâng cao hiệu suất doanh nghiệp.
* Công trình nghiên cứu về phát triển làng nghề theo hướng bền vững
Phan Trung Chính (2010), Phát triển làng nghề ở Bắc Ninh theo hướng

bền vững [55]. Bài viết xác định, phát triển các làng nghề là một trong những
hướng đi quan trọng nhằm phát triển công nghiệp nông thôn, xóa đói giảm
7


nghèo ở Bắc Ninh. Tuy nhiên, để làng nghề phát triển bền vững, cần nghiên
cứu và có những phương hướng, giải pháp thích hợp...Bài viết đã đánh giá
bước đầu về thực trạng phát triển làng nghề ở Bắc Ninh, từ đó xác định một
số phương hướng và giải pháp chính để phát triển làng nghề ở Bắc Ninh theo
hướng bền vững. Bài viết gợi ý cho tác giả có thể vận dụng một số giải pháp
xét thấy phù hợp với phát triển làng nghề theo hướng bền vững ở Hà Nội.
Nguyễn Văn Hiến (2012), Phát triển làng nghề theo hướng bền vững ở
Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới [12]. Bài viết cho rằng,
trong quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn, làng nghề có vai trò
đặc biệt quan trọng, bởi nhờ có làng nghề, hàng triệu người lao động đã được
tạo việc làm, góp phần xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập. Tuy nhiên, làng
nghề đang gặp rất nhiều khó khăn như: Đầu ra cho các sản phẩm, đào tạo
nghề cho người lao động...Để thích nghi với nền kinh tế hội nhập, các làng
nghề sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức, trong đó thách thức lớn nhất là
phát triển theo hướng bền vững. Bài viết sử dụng phương pháp thống kê, tổng
hợp, và phân tích những đóng góp của làng nghề cùng những thách thức và
giải pháp để phát triển bền vững. Bài báo giúp cho tác giả có cái nhìn rộng
hơn phát triển làng nghề theo hướng bền vững phạm vi cả nước.
Tất cả các các công trình nghiên cứu đã được tổng quan trên đây, chưa
có một nghiên cứu nào nghiên cứu chuyên sâu về phát triển làng nghề theo
hướng bền vững ở thành phố Hà Nội . Vì thế đề tài không có sự trùng lặp với
các công trình đã được công bộ.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển làng nghề theo

hướng bền vững ở thành phố Hà Nội, đề xuất quan điểm và giải pháp phát
triển làng nghề theo hướng bền vững ở thành phố Hà Nội thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về làng nghề, phát triển làng nghề

8


theo hướng bền vững để tập trung làm rõ quan niệm, nội dung và các nhân tố
ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển làng nghề theo hướng bền vững ở thành
phố Hà Nội hiện nay.
- Khảo sát đánh giá thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và vấn đề đặt ra
trong phát triển làng nghề theo hướng bền vững ở thành phố Hà Nội.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp phát triển làng nghề theo hướng bền
vững ở thành phố Hà Nội thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Phát triển làng nghề theo hướng bền vững.
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung và không gian: Nghiên cứu phát triển làng nghề theo
hướng bền vững dưới góc độ kinh tế chính trị. Làng nghề ở luận văn này
nghiên cứu là làng nghề sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông
thôn là chủ yếu của thành phố Hà Nội sau mở rộng.
Về thời gian: Nghiên cứu phát triển làng nghề theo hướng bền vững từ
khi thành phố Hà Nội mở rộng địa giới hành chính (2008) đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng vềnông nghiệp và phát triển
nông nghiệp, kinh tế nông thôn và phát triển công nghiệp, tiểu thủ công

nghiệp ở nông thôn trong nền kinh tế thị trường.
* Cơ sở thực tiễn
Luận văn dựa trên cơ sở thực tiễn phát triển nông nghiệp và kinh tế
nông thôn ở nước ta và thành phố Hà Nội. Luận văn còn dựa trên các Báo cáo
của thành phố Hà Nội có liên quan đến phát triển làng nghề và từ khảo sát thực tế
của tác giả... để nghiên cứu sự phát triển làng nghề theo hướng bền vững ở
thành phố Hà Nội.

9


* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
phương pháp trừu tượng hoá khoa học; phương pháp kết hợp lô gíc với lịch
sử; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp thống kê, so sánh;
phương pháp nghiên cứu tài liệu, khảo sát thực tiễn và phương pháp chuyên
gia…để hoàn thành mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài luận văn nghiên cứu thành công sẽ góp phần bổ sung và làm sâu
sắc thêm những vấn đề lí luận về làng nghề, phát triển làng nghề theo hướng
bền vững nói chung, phát triển làng nghề theo hướng bền vững ở thành phố
Hà Nội nói riêng.
Kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn là tài liệu tham khảo cho chính
quyền, cơ quan chức năng của Thành phố để hoàn thiện cơ chế, chính sách
tiếp tục phát triển làng nghề theo hướng bền vững ở thành phố Hà Nội.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 3 chương (6 tiết).

10



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
THEO HƯỚNG BỀN VỮNG Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI

1.1. Những vấn đề chung về phát triển làng nghề
theo hướng bền vững

1.1.1.Quan niệm và đặc điểm làng nghề

* Quan niệm về làng nghề
Đã từ lâu, làng nghề trở thành bộ phận quan trọng cấu thành lịch sử
kinh tế - văn hóa Việt Nam. Làng nghề là một trong những nét đặc sắc của
quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam. Hà Nội là nơi tập trung các nghề, làng
nghề, phường nghề từ rất sớm với rất nhiều các nghề nổi tiếng và lâu đời như
nghề đúc đồng, dệt vải, làm giấy, làm gốm, chạm gỗ, chế tác đồ kim
loại….Làng nghề có phạm vi hoạt động rộng lớn, có truyền thống lâu đời và
để lại cho đời sau những sản phẩm quý giá, nhưng quan trọng hơn trong
chính sách hoạch định và phát triển kinh tế theo từng giai đoạn, Nhà nước
cũng xác định nghề và làng nghề là một trong những thế mạnh của thương
mại; phát triển làng nghề là một hướng đi cơ bản, góp phần chuyển dịch cơ
cấu lao động và kinh tế của cả nước.
Làng nghề như một gương mặt khác của làng xã nông nghiệp, nó là
một bộ phận không thể tách rời và phát triển song hành cùng làng xã của
người Việt. Chính vì vậy, hiện có rất nhiều quan niệm về làng nghề dưới
nhiều góc độ khác nhau, cụ thể:
Có ý kiến cho rằng, sự hình thành các làng nghề là biểu hiện của trình
độ phân công lao động của xã hội. Thủ công nghiệp từng bước tách rời nông
nghiệp. Đồng thời ngay trong những làng trên lại xuất hiện lớp người buôn

bán những sản phẩm do gia đình hay phường hội của họ sản xuất - một kiểu
tự sản tự tiêu. Tuy nhiên sự phân công này còn rất hạn chế, chậm chạp và kéo
dài. Xét về mặt hình thái kinh tế, các làng nghề thủ công vẫn là loại làng nông
công thương nghiệp.
11


Tiến sỹ Phạm Côn Sơn trong cuốn “Làng nghề truyền thống Việt
Nam” quan niệm “Làng là một đơn vị hành chính cổ xưa mà cũng có nghĩa là
một đơn vị quần cư đông người, sinh hoạt có tổ chức, có kỷ cương tập quán
riêng theo nghĩa rộng. Làng nghề không những là một làng sống chuyên nghề
mà cũng hàm ý là những người cùng nghề sống hợp quần để phát triển công
ăn việc làm. Cơ sở vững chắc của các làng nghề là sự vừa làm ăn tập thể vừa
phát triển kinh tế, vừa giữ gìn bản sắc dân tộc và cá biệt của địa phương”[22].
Tác giả Tạ Long đưa ra định nghĩa: “Làng nghề với tư cách là một
thực thể vật chất và tinh thần được tồn tại cố định về mặt địa lý, ổn định về
mặt nghề nghiệp, hay một nhóm nghề nghiệp có mối liên hệ mật thiết với
nhau để làm ra một loại sản phẩm” [15].
Các nhà nghiên cứu nêu trên do góc độ nghiên cứu khác nhau đã nêu
lên những vấn đề về nguồn gốc làng nghề truyền thống, quan niệm có tính
lịch sử về làng nghề truyền thống, quan niệm hiện tại về làng nghề. Tựu
chung các quan niệm trên đều phản ánh được bản chất của làng nghề mà tác
giả luận văn có thể kế thừa. Từ các quan niệm trên, làng nghề được tác giả
luận văn khái quát như sau: Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư ấp,
thôn, bản làng, buôn, phun sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn
một xã, thị trấn có các hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một
hoặc nhiều loại sản phẩm nghề khác nhau được nhà nước khuyến khích và
được qui định trong luật.
Cụ thể hoá khái niệm cho thấy, làng nghề ở nước ta được nhà nước
công nhận gồm các vấn đề sau:

Làng nghề là một hay nhiều cụm dân cư...song tối thiểu cũng phải có
30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành nghề nông thôn.
Hoạt động ngành nghề sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu hai năm
tính đến thời điểm đề nghị công nhận làng nghề.
Làng nghề phải chấp hành tốt chính sách, pháp luật của nhà nước.
12


* Đặc điểm làng nghề
Một là:Hoạt động làng nghề gắn liền với làng quê và sản xuất nông
nghiệp.
Trong cái nôi của nền văn minh lúa nước, các nghề thủ công ở Việt
Nam dường như không tách khỏi nông nghiệp mà luôn đan xen, tồn tại song
hành với nghề nông. Làng nghề là một phần không thể thiếu của làng xã nông
nghiệp cổ truyền. Nó phản ánh tính tự cung, tự cấp khép kín cố hữu của xã
hội nông thôn Việt Nam xưa. Người nông dân làm nghề để giải quyết hợp lý
sức lao động dư thừa được cơ cấu đặc trưng cho nông nghiệp là mùa vụ. Phần
lớn người nông dân đều là thêm nghề thủ công và phần lớn thợ thủ công đều
làm công việc đồng áng. Nói cách khác, thủ công nghiệp ở nước ta chưa hoàn
toàn tách khỏi nông nghiệp. Giá trị văn hóa nghề thể hiện rất rõ trong kinh tế
làng xã. Các làng có nghề, đời sống nhân dân được ổn đinh, khá giả hơn
những làng thuần nông. Ban đầu, nghề thủ công chỉ là nghề phụ trong những
lúc nông nhàn, sau dần trở thành nguồn thu nhập và là nghề chính của người
dân. Từ đó, các nghề thủ công truyền thống được duy trì và phát triển.
Hai là: Làng nghề có truyền thống lâu đời.
Nước ta, cũng như ở hầu hết các nước, thủ công nghiệp xuất hiện từ
rất lâu đời. Các tài liệu chứng minh Việt Nam là một trong những cái nôi cổ
nhất của loại người. Đó là khu vực cầu nối nhóm những người có từ Bắc và
Nam Á, cách đấy 4000 năm trên mảnh đất này đã xuất hiện những cộng đồng
người Việt sinh sống, khai phá đất đai xây dựng cuộc sống và đã tao ra nền

văn minh nổi tiếng được giới khảo cổ gọi là nền “Văn minh sông Hồng” với
nhiều thành tựu đáng kể trong đó có sự đóng góp của nghề thủ công. Ngay từ
thời Phùng Nguyên, khoảng thiên niên kỷ thứ III trước Công Nguyên (3000
năm tr.CN) người Việt cổ đã phát minh và sáng chế ra hầu hết kỹ thuật tác
chế đá và sản xuất gốm, mà đến nay vẫn còn sử dụng rộng rãi: khoan, mài đá
bán quý, đặc biệt là kỹ thuật khoan đồng tâm từ hai phía và kỹ thuật đánh
13


bong đồ trang sức bằng đá, tạo dáng, nung gốm, nhất là kỹ thuật bàn xoay, lò
nung…Từ trước khi Pháp xâm lược, nghề thủ công đã cung cấp đủ các loại
sản phẩm, phuc vụ cho sản xuất nông nghiệp, cung cấp đủ tư liệu sinh hoạt
thường dùng cho nhân dân. Như làng Vạn Phúc ở Hà Tây cũ (nay thuộc Hà
Nội) là một địa phương có truyền thống dệt lụa cổ truyền. Nghề dệt lụa có từ
những năm 800. Năm 1938 lụa Vạn Phúc đã tham gia hội chợ Marseille
(Pháp). Làng gốm Bát Tràng, hình thành và phát triển suốt 500 năm nay.
Ngay từ thế kỷ XV, Nguyễn Trãi đã nói đến làng gốm trong cuốn sách “Dư
địa chí” của ông [22].
Ba là: Mức độ phân công lao động và chuyên môn hóa khá cao.
Trong các làng nghề nghề ở Việt nam có mức độ phân công và chuyên
môn hóa khá cao và có khuynh hướng đi đến độc quyền sản xuất. Trong nội
bộ một số nghề thủ công, có làng chỉ làm một bộ phận của vật phẩm, có làng
khác làm bộ phận khác…Vì phần lớn những thợ thủ công đều là những người
dân nghèo, lam lũ và ít vốn để sản xuất. Do vậy để đáp ứng nhu cầu cuộc
sống hàng ngày, việc phải bán ngay một số bộ phận của sản phẩm để nhanh
chóng thu hồi vốn và tiếp tục tái sản xuất. Đại đa số các làng nghề truyền
thống đều có xu hướng độc quyền sản xuất một loại sản phẩm nhất định.
Điều này là do đầu óc địa phương, bản vị, do tư tưởng giấu nghề,, muốn độc
quyền và nhất định không truyền nghề đó cho làng khá do vậy tính chuyên
môn hóa thể hiện rất rõ. Làng chuyên nghề dệt tơ lụa, làng chuyên nghề đồng,

nghề gốm..v.v…
Bốn là: Công cụ lao động kết hợp thủ công truyền thống với hiện đại.
Trong các làng nghề ở nước ta chủ yếu là hoạt động sản xuất tiểu thủ
công nghiệp hộ gia đình. Đa phần nông dân đều làm thêm nghề thủ công và
phần lớn thợ thủ công cũng đồng thời làm công việc đồng áng. Công cụ sản
xuất thủ công rất thô sơ và hầu như chỉ dựa vào sức người, song ẩn chưa trong
đó trình độ thao tác điêu luyện, tài tình. Một số nghệ nhân không cần công cụ
14


gì đặc biệt chỉ cần con dao, kim chỉ và đôi bàn tay đã làm nên những sản
phẩm hết sức tinh xảo và tỷ mỷ thể hiện sự khéo léo, tinh tế của người Việt.
Những sản phẩm đó thường có giá trị lớn, được khách hàng trong và ngoài
nước ưa chuộng. Tuy nhiên, thành tựu to lớn của công nghiệp hoá đất nước đã
có sự lan toả hình thành các cụm công nghiệp làng nghề sử dụng kết hợp công
cụ truyền thống, thủ công với máy móc hiện đại; đồng thời còn có sự liên kết
trong sử dụng máy móc ở những khâu, công đoạn nặng nhọc của sản xuất
làng nghề với các cụm điểm công nghiệp tập trung lân cận. Có nhiều hộ sản
xuất hàng thực phẩm, mía đường, mộc, rèn, dệt nhuộm, gốm sứ, tái chế...ở
các làng nghề đã đầu tư máy móc thiết bị hiện đại đã giảm mức độ nặng nhọc,
bệnh nghề nghiệp cho lao động. Điều cốt lõi nhất là tăng năng suất lao động
gấp nhiều lần, sản phẩm mẫu mã đẹp, chất lượng cao hơn. Theo đó, sản phẩm
có sức tiêu thụ mạnh hơn, giá trị sản xuất làng nghề tăng, thu nhập của người
lao động tăng, nhiều xã có làng nghề phát triển đạt chuẩn nông thôn mới.
Năm là: Phần lớn các làng nghề là kinh tế cá thể, tiểu chủ.
Việc phát triển các làng nghề theo thời gian có xu hướng theo con
đường hợp tác xã hoặc doanh nghiệp làng nghề, song trước tiên là kinh tế cá
thể, tiểu chủ. Người thợ làng nghề vừa là người làm chủ tư liệu sản xuất, vừa
là người sản xuất, vừa là người bán sản phẩm, cũng có người đi làm thuê,
cũng có người thuê thêm nhân công. Quá trình phát triển làng nghề trải qua

các cuộc canh tranh gay gắt trong nước, cạnh tranh với hàng hóa nước ngoài
do đó người các chủ thợ làng nghề có khuynh hướng tăng năng lực cạnh tranh
về giá cả, về chất lượng hàng hoá làng nghề để bảo tồn và phát triển sản xuất
bằng cách tăng cường hợp tác liên kết để tăng vốn, nâng cao trình độ kỹ thuật
sản xuất, thu hút nhân công, mở rộng quy mô sản xuất hình thành những
doanh nghiệp làng nghề nhằm phát triển thương hiệu cho các sản phẩm truyền
thống của mình. Do gặp nhiều trở ngại trong quá trình phát triển, các làng
nghề đang rất khó vươn tới “kinh tế tập thể làng nghề”. Đây là đặc điểm phản
15


ánh làng nghề cần được đầu tư phát triển theo hướng bền vững.
Sáu là: Làng nghề luôn gắn với tên làng thương hiệu của các sản phẩm.
Nghề thủ công đã xuất hiện ngày trong lòng xã hội nguyên thủy, không
đợi sự xuất hiện của làng. Tuy nhiên, phải đợi đến khi cơ cấu làng Việt ra đời
và ổn định thì làng nghề - với tư cách là một thực thể vật chất và tinh thần được
tồn tại cố định về mặt địa lý, ổn định về mặt nghề nghiệp hay một nhóm các
nghề có mối liên hệ mật thiết với nhau để làm ra một loại sản phẩm...Do vậy
các sản phẩm thường mang tính đặc trưng của các làng nghề và vùng miền.
Nó trở thành thương hiệu riêng cho từng làng, mang bản sắc văn hóa riêng,
đặc sắc và không dễ lẫn. Những làng nghề nổi tiếng ở nước ta thường in dấu
sâu đậm nhất trong làng nghề Việt là: Làng nghề dệt chiếu Nga Sơn, làng
nghề gạch Bát Tràng, làng nghề vải tơ Nam Định, làng nghề lụa Vạn Phúc Hà Đông, làng chè Thái Nguyên, làng dệt thổ cẩm của người Chăm Ninh
Thuận và Bình Thuận, làng nghề dệt lụa Tân Châu tỉnh An Giang, làng lụa
Kh’me Srây-Skoth xã Văn Giáo huyện Tịnh Biên tỉnh An Giang, làng chiếu
Định Yên tỉnh Đồng Tháp, làng chiếu Tân Thành tỉnh Cà Mau, làng gốm Bàu
Trúc tỉnh Ninh Thuận.
1.1.2. Phát triển bền vững và phát triển làng nghề theo
hướng bền vững
* Quan niệm về phát triển bền vững

Thuật ngữ “Phát triển bền vững” xuất hiện lần đầu tiên vào
năm 1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội
Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội
dung là: Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển
kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động
đến môi trường sinh thái học. Như vậy, phát triển bền vững theo quan niệm
chung nhất là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại nhưng
không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau; có sự kết
16


hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển: phát triển kinh tế,
phát triển xã hội và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường sống .
Bổ sung vào lý luận chung về phát triển bền vững, Việt Nam khẳng
định: “Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để
tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải
luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển
kinh tế - xã hội”[8]. Việt Nam đặt ra mục tiêu phát triển bền vững là đạt được
sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của
các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con người và tự
nhiên; phát triển kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà ba mặt là phát triển kinh
tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.
Trên cơ sở nghiên cứu những quan điểm về phát triển bền vững từ Đại
hội VIII đến Đại hội XII của Đảng ta, trên góc độ kinh tế chính trị, tác giả đưa
ra quan niệm: Phát triển bền vững là sự phát triển với mức tăng trưởng kinh tế
cao và liên tục, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hoá dân tộc, củng cố quốc phòng an ninh vững mạnh và bảo vệ môi
trường sinh thái.
Quan niệm phát triển bền vững thể hiện những nội hàm như sau:
Phát triển bền vững về kinh tế là đạt được sự tăng trưởng cao, liên tục

và ổn định với cơ cấu kinh tế hợp lý; nâng cao đời sống của nhân dân, tránh
được sự suy thoái hoặc đình trệ trong tương lai, tránh để lại gánh nặng nợ nần
cho các thế hệ mai sau.
Phát triển bền vững về xã hội là bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội.
Đó là chế độ dinh dưỡng, chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân ngày càng
được nâng cao, mọi người đều có cơ hội được học hành, có việc làm, giảm
nghèo, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp và nhóm xã hội,
giảm các tệ nạn xã hội, nâng cao mức độ công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ
giữa các thành viên và giữa các thế hệ trong một xã hội, không ngừng nâng
17


cao trình độ văn minh về đời sống vật chất và tinh thần. Phát triển bền vững
về xã hội còn bao hàm cả bảo tồn và phát huy văn hoá dân tộc. Không có sự
bảo tồn và phát huy văn hoá thì sự phát triển hôm nay không chỉ là tụt lại, mà
còn là sự phát triển không chắc chắn. Phương thức phát triển chỉ nhằm tăng
tiện nghi sinh hoạt, bất chấp thẩm quan văn hoá, là không bền vững. Văn hoá
được phát triển không chỉ vì giá trị tự tại của nó, mà còn vì sự quan trọng của
văn hoá trong phát triển kinh tế, xã hội và giá trị của sự phát triển văn
hoá. Bởi thế, phát huy văn hoá sẽ làm tăng giá trị kinh tế, xã hội, môi trường
và quốc phòng, an ninh trong quá trình phát triển, cho nên phải tôn trọng và
bảo tồn vốn văn hoá. Phát triển làng nghề theo hướng bền vững còn bao
hàm cả về quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội luôn gắn với quá
trình phát triển làng nghề về kinh tế, môi trường. Theo đó, phải phát huy vai
trò bảo vệ và tự bảo vệ thành quả kinh tế làng nghề, bảo vệ hệ thống chính
trị, bảo vệ lợi ích chung của quốc gia, dân tộc; bảo vệ giá trị văn hoá trong
hợp tác quốc tế về phát triển làng nghề.
Phát triển bền vững về môi trường là khai thác hợp lý, sử dụng tiết
kiệm và có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý và
kiểm soát được ô nhiễm môi trường, bảo vệ tốt môi trường sống, bảo vệ được

các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu dự trữ sinh quyển, bảo tồn sự
đa dạng sinh học, khắc phục suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường.
* Quan niệm phát triển làng nghề theo hướng bền vững ở nước ta
Kế thừa kết quả nghiên cứu về phát triển bền vững ở trên và từ đặc
điểm của làng nghề nước ta và quá trình phát triển làng nghề qua các giai
đoạn, tác giả luận văn khẳng định rằng, làng nghề nước ta được phát triển
theo hướng bền vững thì mới bảo tồn và gia tăng số, chất lượng, hợp lý về
cơ cấu, tạo ra nhiều sản phẩm cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng xã hội
và nhu cầu phát triển du lịch trong bối cảnh hội nhập.
Làng nghề nước ta hiện có đủ điều kiện cần thiết để phát triển theo
18


hướng bền vững. Đó là có 5.096 làng nghề, số làng nghề truyền thống được
công nhận theo tiêu chí làng nghề hiện nay của Chính phủ là 1.748 làng nghề,
thu hút khoảng 10 triệu lao động [30]. Các làng nghề với các nhóm nghề
chính như: rèn, sơn mài, gốm sứ, vàng bạc, thêu ren, mây tre đan,
cói, dệt, giấy, tranh dân gian, gỗ, đá...được phân bố rộng khắp tập trung chủ
yếu tại đồng bằng sông Hồng (chiếm khoảng 60%), miền Trung (khoảng
30%) và miền Nam (khoảng 10%). Sự phát triển của làng nghề đang góp phần
đáng kể trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các địa phương. Tại nhiều làng
nghề, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ đạt từ 60% - 80% và ngành nông
nghiệp chỉ đạt 20% - 40%. Nhiều làng nghề nổi tiếng phát triển mạnh như tại
làng Phú Vinh (xã Phú Nghĩa, Chương Mỹ, Hà Nội) xã có 7/7 làng duy trì và
phát triển nghề với 90% số hộ tham gia, làng nghề Bát Tràng (Gia Lâm, Hà
Nội), lụa Vạn Phúc (Hà Đông, Hà Nội) làm giàu từ hiện đại hóa công nghệ
truyền thống, nắm bắt nhu cầu của thị trường, nhờ đó các sản phẩm làng nghề
đã tìm được đầu ra, nhiều làng nghề đứng vững và phát triển. Đời sống của
NLĐ tại các làng nghề này ổn định, thu nhập từ làng nghề cao hơn từ 4 – 5
lần so với làm nông nghiệp.

Trong những năm gần đây, số hộ và cơ sở ngành nghề ở nông thôn
đang tăng lên với tốc độ bình quân từ 8,8% - 9,8%/năm, kim ngạch xuất khẩu
từ các làng nghề cũng không ngừng tăng lên. Trung bình mỗi cơ sở doanh
nghiệp tư nhân chuyên làm nghề tạo việc làm ổn định cho khoảng 27 lao động
thường xuyên và 8 - 10 lao động thời vụ; các hộ cá thể chuyên nghề tạo 4 - 6
lao động thường xuyên và 2 - 5 lao động thời vụ. Ở những làng nghề thêu ren,
dệt, mây tre đan, mỗi cơ sở có thể thu hút 200 - 250 lao động. Làng nghề thực
sự đóng vai trò quan trọng đối với việc xóa đói, giảm nghèo, trực tiếp giải
quyết việc làm cho người lao động trong lúc nông nhàn, góp phần tăng thu
nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động.
Các làng nghề đang tái cấu trúc để thích nghị với hội nhập kinh tế.
19


Chính mở cửa, hội nhập, đã tạo cơ hội cho các làng nghề giới thiệu sản phẩm
của mình ra thị trường thế giới, nhờ đó đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm có
xuất xứ từ các làng nghề truyền thống trong cả nước, như thủ công mỹ nghệ,
thêu ren, gốm sứ.... Hiện hàng hóa của các làng nghề nước ta đã có mặt ở hơn
100 nước trên thế giới với kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng.
Trên cơ sở quy hoạch tổng thể làng nghề nông thôn để phát triển bền
vững, quy hoạch vùng nguyên liệu...nhờ đó, nhiều làng nghề đã bước đầu có
phát triển. Những làng nghề phát triển tương đối khá, có sức sống tốt là
những làng tìm được đầu ra của sản phẩm như đan cót, chế biến chè, mộc,
tương, bánh, bún. Từ ngành nghề truyền thống một số người đã vươn lên mở
mang cơ ngơi sản xuất ra địa bàn khác, đầu tư thêm máy móc, thiết bị, nhà
xưởng, thậm chí vươn ra lập đại lý sản xuất, bán sản phẩm, thu mua nguyên
liệu. Nhiều cơ sở sản xuất ở các làng nghề đã mạnh dạn đầu tư máy móc, cải
tiến mẫu mã nhằm tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. chẳng
hạn các làng nghề ở tỉnh Bình Định như: rèn Tây Phương Danh (phường Đập
Đá), tiện gỗ mỹ nghệ Nhạn Tháp (Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn); dệt thảm xơ

dừa ở Hoài Nhơn… nhiều cơ sở sản xuất khác đã mạnh dạn đầu tư nâng cấp
máy móc để nâng cao năng suất lao động, tăng chất lượng và hạ giá thành sản
phẩm, nên đã tạo được chỗ đứng trên thị trường và cạnh tranh được với các
sản phẩm cùng loại.
Sản phẩm của làng nghề có những giá trị hết sức to lớn và độc đáo do
bàn tay tài hoa, sức sáng tạo của các nghệ nhân làng nghề tạo nên, cho dù hiện
nay công nghệ tin học và công nghệ cao có sự phát triển. Sản phẩm làng nghề
còn có giá trị nhân văn, giá trị văn hóa của dân tộc thể hiện qua nét vẽ, hình
mẫu, cách trang trí và cấu trúc của sản phẩm. Sản phẩm làng nghề còn có giá
trị về phát triển du lịch vì các làng nghề tạo nên sức hấp dẫn mới lạ đối với du
khách. Đó là nét độc đáo của làng nghề phát triển theo hướng bền vững.
Từ sự phân tích trên đây, tác giả luận văn có thể khái quát quan niệm về
20


phát triển làng nghề theo hướng bền vững: Là hoạt động chủ động của các chủ
thể làng nghề, các tổ chức hữu quan làm cho sản xuất ở làng nghề đạt tổng giá
trị gia tăng cao liên tục, tăng thu nhập và việc làm, góp phần thực hiện an sinh
xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo đảm sự ổn định, trật tự
an toàn xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái khu vực làng nghề, góp phần phát
triển kinh tế - xã hội vững mạnh ở các tỉnh thành trong cả nước.
Nhận thức nội hàm quan niệm này trên những vấn đề chủ yếu sau:
Phát triển làng nghề theo hướng bền vững được thực hiện bởi các chủ
thể làng nghề và các tổ chức có quan hệ trực tiếp đến phát triển làng nghề
theo quy hoạch, kế hoạch được xác định trên cơ sở nhận thức và vận dụng
đúng đắn các quy luật phát triển kinh tế - xã hội nhằm thực hiện mục tiêu đề
ra trong qui hoạch, kế hoạch phát triển làng nghề.
Phát triển làng nghề theo hướng bền vững với ba trụ cột: về kinh tế; về
xã hội (bao hàm cả văn hoá, quốc phòng và an ninh, trật tự an toàn xã hội) và
về môi trường. Nếu thực hiện không tốt các trụ cột này thì sự phát triển làng

nghề không thể bền vững như lý luận về phát triển bền vững đã vạch ra.
Mục tiêu phát triển làng nghề theo hướng bền vững suy đến cùng là
góp phần phát triển kinh tế - xã hội vững mạnh ở các tỉnh thành và cả nước.
Nghĩa là sự phát triển làng nghề không chỉ góp phần phát triển kinh tế theo
chiều sâu, dựa trên tri thức và đổi mới công nghệ, mà còn góp phần thực hiện
từng bước các nội dung về tiến bộ xã hội và phát triển con người. Thực hiện
mục tiêu phát triển làng nghề theo hướng bền vững đòi hỏi sự đánh đổi tối ưu,
ăn khớp giữa những diễn biến xã hội và kinh tế khác nhau.
1.2. Quan niệm, nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển
làng nghề theo hướng bền vững ở thành phố Hà Nội
1.2.1. Quan niệm, nội dung phát triển làng nghề theo hướng bền
vững ở thành phố Hà Nội
* Quan niệm phát triển làng nghề theo hướng bền vững ở thành phố Hà Nội
21


Từ nghiên cứu lý luận phát triển bền vững, phát triển làng nghề theo
hướng bền vững nói chung, tác giả luận văn khái quát quan niệm về phát triển
làng nghề theo hướng bền vững ở thành phố Hà Nội: Là hoạt động tích
cực, chủ động của Thành phố Hà Nội bằng các phương thức
phù hợp tạo ra giá trị gia tăng cao ở các làng nghề, tăng thu nhập và
giải quyết việc làm cho người lao động, thực hiện an sinh xã hội, giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc, văn hiến Thủ đô, bảo đảm quốc phòng, an
ninh, trật tự an toàn xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái khu vực làng
nghề, góp phần giải quyết tốt vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân và
phát triển vững mạnh về kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội.
Khái niệm trên phản ánh nội hàm trên những vấn đề sau:
Một là: Chủ thể phát triển là đảng bộ, chính quyền, cơ quan chức năng
các cấp của Thành phố Hà Nội và các tổ chức có quan hệ trực tiếp đến phát
triển làng nghề, chủ doanh nghiệp, chủ các cơ sở làng nghề và người lao động

trong hệ thống làng nghề của Thành phố Hà Nội.
Hai là: Nội dung phát triển phù hợp với đặc thù của Thủ đô với ba trụ cột
chính: 1) Sự tăng lên các chỉ số về làng nghề, hộ sản xuất, lực lượng lao động
và giá trị gia tăng. 2) Bảo đảm số chất lượng lao động ở làng nghề; tăng thu
nhập và việc làm cho người lao động, thực hiện an sinh xã hội, giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc, văn hiến Thủ đô, bảo đảm quốc phòng và an ninh,
trật tự an toàn xã hội. 3) Bảo vệ môi trường sinh thái khu vực làng nghề của
thành phố Hà Nội.
Ba là: Phát triển làng nghề theo hướng bền vững ở thành phố Hà Nội
được thực hiện bằng các phương thức: Tuyên truyền giáo dục tạo sự đồng
thuận xã hội đối với phát triển làng nghề theo hướng bền vững. Phát triển làng
nghề và sản phẩm làng nghề gắn với thị trường. Tăng đầu tư vốn, máy móc,
phương tiện kỹ thuật công nghệ, bảo đảm mặt bằng sản xuất, phát triển vùng
nguyên vật liệu. Nâng cao trình độ lao động, trình độ tổ chức quản lý trong
làng nghề. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng và sự hỗ trợ của chính
22


quyền, hiệp hội làng nghề, trung tâm khuyến công, khuyến nông các cấp đối
với hệ thống làng nghề ở thành phố Hà Nội.
Bốn là: Mục tiêu là phát triển làng nghề theo hướng bền vững, góp phần
giải quyết tốt vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân ngoại thành Hà Nội,
đồng thời góp phần quan trọng trong phát triển vững mạnh về kinh tế - xã hội,
trong đó thúc đẩy phát triển kinh tế du lịch của thành phố Hà Nội.
* Nội dung phát triển làng nghề theo hướng bền vững ở thành phố Hà
Nội
Một là, sự tăng lên các chỉ số về làng nghề, hộ sản xuất, lực lượng lao
động và giá trị sản xuất hàng năm.
Thực hiện nội dung này, điều kiện cần là bảo đảm các làng nghề không
bị mai một, mà còn tăng số lượng và qui mô các làng nghề hơn nữa trong quá

trình phát triển. Điều kiện đủ là thực hiện các biện pháp giảm chi phí, hạ giá
giá thành, tăng năng suất lao động. Theo đó, phải bảo đảm số lượng và coi
trọng nâng cao chất lượng lao động. Muốn vậy, phải làm tốt công tác dạy
nghề, truyền nghề, tuyển chọn lao động nghề có trình độ tạo nên đội ngũ lao
động có đủ khả năng duy trì, tái tạo các kỹ xảo truyền thống ngày càng thành
thục, khéo léo, biết vận dụng kinh nghiệm đã tích lũy được; mặt khác cần phải
tăng cường đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, đầu tư đổi mới các
thiết bị, máy móc và công nghệ sản xuất tiên tiến. bảo đảm đủ số lượng người
lao động, có chất lượng cao được kết hợp với máy móc, thiết bị, công nghệ sản
xuất hiện đại và quản lý tổ chức sản xuất tiên tiến sẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế làng nghề, cơ cấu lao động có nghề hợp lý... là nhân tố quyết định gia
tăng tổng giá trị sản lượng, tăng doanh thu lợi nhuận của làng nghề. Các làng
nghề phát triển theo hướng bền vững sẽ tạo ra nguồn tích lũy lớn và ổn định cho
ngân sách các huyện, quận.
Tổng giá trị sản xuất và doanh thu của làng nghề là chỉ tiêu phản ánh tình
hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm làng nghề, doanh thu doanh thu hàng năm từ
23


ngành nghề ít nhất đạt trên 300 triệu đồng. Đây là mục tiêu để các chủ thể sản
xuất kinh doanh tại làng nghề mở rộng hay thu hẹp quy mô sản xuất. Nếu sản
lượng tiêu thụ các sản phẩm làng nghề tăng hàng năm có nghĩa là mặt hàng đó
duy trì và giữ vững được thị phần thì tiếp tục mở rộng. Tương tự, nếu doanh thu
tăng với tốc độ hợp lý qua các năm là sự khẳng định sản phẩm của làng nghề có
năng lực cạnh tranh cao, được thị trường chấp nhận. Nếu sản lượng tăng nhưng
doanh thu không tăng chứng tỏ giá bán sản phẩm giảm, tức năng lực cạnh tranh
của sản phẩm giảm thì có thể thu hẹp sản xuất.
Hai là, bảo đảm số chất lượng lao động ở làng nghề có ít nhất là 300 lao
động, giải quyết được nhiều việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, tăng


khả năng thực hiện an sinh xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc,
văn hiến Thủ đô, bảo đảm quốc phòng và an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Lực lượng lao động có vai trò quyết định sự phát triển làng nghề theo
hướng bền vững ở thành phố Hà Nội. Do đó, trước hết là duy trì và nhân lên đội
ngũ nghệ nhân tại các làng nghề - một bộ phận lao động tuyệt kỹ nhất trong lực
lượng lao động của làng nghề; tăng số lượng thợ làng nghề từ thợ bậc cao (bậc 5,
bậc 6, hay bậc 7), thợ có tay nghề (bậc 1, bậc 2, bậc 3, bậc 4) đến thợ đang học
việc. Vấn đề quan trọng để bảo đảm lực lượng lao động làng nghề là thường
xuyên cải thiện tình trạng sức khỏe, bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, kỹ
năng nghề nghiệp, phẩm chất, tác phong sản xuất mang tính công nghiệp, lòng
yêu nghề, gắn bó và tiếp tục lưu truyền, gìn giữ nghề truyền thống của họ.
Phát triển làng nghề theo hướng bền vững phải tạo nhiều việc làm mới,
thu hút nhiều lao động vào các cơ sở sản xuất làng nghề, nhất là lao động nông
nhàn, tăng số lao động có trình độ sử dụng thành thạo thiết kế trên PC và vận
hành máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất. Giải quyết việc làm không chỉ trong
khu vực làng nghề, mà còn thu hút nhiều lao động, từ lao động phổ thông đến
lao động trên độ tuổi có nhiều kinh nghiệm từ nơi khác đến, góp phần hạn chế
việc di dân tự do từ vùng này sang vùng khác. Điều đó cho thấy các làng nghề
24


luôn là nơi tuyển dụng, thu nhận lao động, bố trí việc làm phù hợp với khả năng,
sở trường, trình độ mỗi người, khuyến khích lao động trẻ tài năng...Sự gia tăng
số lượng và mở rộng qui mô làng nghề càng thu hút nhiều lao động hơn nữa, mở
ra cơ hội việc làm cho những người đáp ứng tiêu chuẩn tuyển dụng phù hợp với
mỗi nghề. Từ đó khuyến khích mọi người tích cực, chủ động tham gia các lớp
đào tạo nghề, các lớp bồi dưỡng thuộc các chương trình khuyến công để nâng
cao trình độ toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển làng nghề theo hướng bền
vững ở thành phố Hà Nội.
Quá trình phát triển làng nghề theo hướng bền vững ở thành phố Hà Nội

đồng thời là quá trình nâng cao trình độ mọi mặt của người lao động làm việc
trong các cơ sở sản xuất làng nghề. Điều đó thể hiện ở phẩm chất chính trị, quan
hệ xã hội, trình độ hiểu biết, học vấn và tác phong sản xuất công nghiệp được
phát triển cao hơn. Những lao động có chất lượng cao trong quá trình phát triển
làng nghề theo hướng bền vững thường có thu nhập cao hơn và mức sống cao
hơn lao động các vùng thuần nông và cao hơn so với thời gian trước. Từ mức
thu nhập tăng lên, người lao động và chủ cơ sở làng nghề có điều kiện tham gia
các chương trình giảm nghèo bền vững ở khu vực làng nghề, thực hiện chính
sách xã hội như văn hóa, giáo dục, chăm sóc sức khỏe người lao động, chính
sách ưu đãi người có công, thương binh, gia đình liệt sĩ, trợ giúp xã hội, phòng
chống các tệ nạn trong khu vực làng nghề.
Bên cạnh đó còn phải giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, văn
hiến Thủ đô trong quá trình phát triển làng nghề theo hướng bền vững thể
hiện ở sự kết tinh trong các sản phẩm làng nghề đặc sắc riêng biệt so với các
dân tộc khác trên thế giới. Giá trị văn hoá ở các sản phẩm làng nghề góp phần
làm tăng giá trị kinh tế, xã hội, môi trường và quốc phòng an ninh.
Đồng thời phát triển làng nghề theo hướng bền vững về xã hội còn là
bảo đảm sự ổn định, giữ gìn trật tự an toàn xã hội khu vực làng nghề. Theo đó,
bảo vệ và tự bảo vệ, giữ gìn tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn, đời
25


sống xã hội và con người, bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội trong phát triển
làng nghề là một nội dung quan trọng cần được tổ chức thực hiện chu đáo. Thiếu
nội dung này thì làng nghề không thể phát triển theo hướng bền vững.
Ba là, cải thiện, bảo vệ môi trường sinh thái khu vực làng nghề ở thành
phố Hà Nội theo hướng xanh, sạch, đẹp.
Xử lý ô nhiễm môi trường, bảo vệ môi trường làng nghề xanh, sách, đẹp
là nội dung “nóng” nhất hiện nay mà chính quyền thành phố Hà Nội đặc biệt
quan tâm. Hiện tại, các chất thải phát sinh từ làng nghề đang gia tăng mức độ

ô nhiễm môi trường, tác động trực tiếp tới sức khỏe người dân. Như ô nhiễm
bụi tại các làng nghề gốm, sứ, vật liệu xây dựng, khai thác đá, đồ gỗ mỹ nghệ
ở Gia Lâm, Thạch Thất, Phú Xuyên, Hoài Đức.. và các làng nghề tái chế ở
Thạch Thất, Phú Xuyên, Thường Tín...Tại các làng nghề chế biến lương thực,
thực phẩm; chăn nuôi và giết mổ như ở Chương Mỹ, Đan Phượng, Thanh
Oai, Thường Tín, Ba Vì...nước thải có độ ô nhiễm hữu cơ cao. Công tác thu
gom và xử lý chất thải rắn ở các làng nghề vẫn còn nhiều hạn chế, gây ảnh
hưởng đến môi trường sống xung quanh.
Theo đó, thành phố Hà Nội cần tiến hành điều tra, thống kê, phân loại
làng nghề ở Thành phố theo các loại hình sản xuất như: chế biến lương thực,
thực phẩm; thủ công, mỹ nghệ; nhuộm, thuộc da; tái chế chất thải; gia công
cơ kim khí; sản xuất vật liệu xây dựng; chăn nuôi, giết mổ gia súc; loại hình
khác. Điều tra, thống kê, phân loại các cơ sở trong làng nghề theo các nhóm:
nhóm có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường thấp; nhóm có một hoặc một số
công đoạn sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao và nhóm có nguy
cơ gây ô nhiễm môi trường cao. Rà soát các điều kiện bảo vệ môi trường đối
với các làng nghề đã được công nhận, lập kế hoạch khắc phục và triển khai
thực hiện đối với các làng nghề đã được công nhận nhưng chưa đáp ứng các
điều kiện về bảo vệ môi trường. Tổ chức thanh tra, kiểm tra định kỳ, đột xuất
việc chấp hành quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các cơ sở
26


×