Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ bồi DƯỠNG NĂNG lực CÔNG tác của đội NGŨ cán bộ, CÔNG CHỨC LIÊN đoàn LAO ĐỘNG cấp HUYỆN ở TỈNH bạc LIÊU HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (927.76 KB, 126 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC CÔNG
TÁC CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở
LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG CẤP HUYỆN TỈNH
BẠC LIÊU
1.1. Năng lực công tác và những vấn đề cơ bản về bồi

3

13

dưỡng năng lực công tác của đội ngũ cán bộ, công
chức ở Liên đoàn lao động cấp huyện tỉnh Bạc Liêu
1.2. Thực trạng và một số kinh nghiệm bồi dưỡng năng lực

13

công tác của đội ngũ cán bộ, công chức ở Liên đoàn lao
động cấp huyện tỉnh Bạc Liêu
Chương 2. YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG
CƯỜNG BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC CÔNG TÁC
CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở LIÊN
ĐOÀN LAO ĐỘNG CẤP HUYỆN TỈNH BẠC LIÊU
HIỆN NAY
2.1. Tình hình nhiệm vụ và yêu cầu tăng cường bồi dưỡng năng

41

58



lực công tác của đội ngũ cán bộ, công chức ở Liên
đoàn lao động cấp huyện tỉnh Bạc Liêu hiện nay
2.2. Những giải pháp tăng cường bồi dưỡng năng lực công

58

tác của đội ngũ cán bộ, công chức ở Liên đoàn lao
động cấp huyện tỉnh Bạc Liêu hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

70
96
98
105


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến
việc lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm nòng cốt để xây dựng các tổ
chức cách mạng và phong trào cách mạng. Người khẳng định: “Muôn việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Với ý nghĩa đó có thể
hiểu, cán bộ là lực lượng tinh túy của xã hội, có vai trò cực kỳ quan trọng
trong hệ thống chính trị nước ta. Đảng ta xác định công tác cán bộ là khâu
then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Vì thế, trong thời gian qua Đảng
luôn quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng ĐNCB đủ đức, đủ tài hoàn thành

nhiệm vụ do Tổ quốc và nhân dân giao cho.
Là một bộ phận thuộc ĐNCB, công chức của tỉnh Bạc Liêu, ĐNCB, công
chức Công đoàn có vai trò rất quan trọng, quyết định việc tổ chức triển khai
thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội Công đoàn ở cấp mình và Công đoàn cấp
trên. ĐNCB, công chức Công đoàn là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước, Công đoàn
với giai cấp công nhân, đồng thời thực hiện chức năng đại diện bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp chính đáng của đoàn viên, CN, VC-LĐ. Tổ chức Công đoàn
phải đại diện trong các khâu của quan hệ lao động một cách có hiệu quả và
mang lại lợi ích thiết thực cho người lao động nhằm hiện thực hóa chủ trương
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và nghị quyết, quy định của Công
đoàn có liên quan đến CN, VC-LĐ ở tỉnh; góp phần quan trọng vào việc xây
dựng mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ, tạo tiền đề cho phát triển
kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng ở tỉnh Bạc Liêu.
Trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng của đất
nước, các vấn đề đảm bảo tự do lao động, tự do thành lập tổ chức đại diện
của người lao động ngày càng được chú trọng. Để thu hút người lao động gia

3


nhập vào Công đoàn Việt Nam, đòi hỏi các cấp Công đoàn và nhất là LĐLĐ
cấp huyện phải đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, đảm bảo nội dung,
chương trình hoạt động thiết thực và hiệu quả. Vì thế ĐNCB, công chức
LĐLĐ huyện, phải có đầy đủ bản lĩnh, nhiệt tình, tâm huyết, đồng thời phải
có năng lực công tác tốt, giỏi chuyên môn, kỹ năng hoạt động thì mới có thể
hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao. Từ thực tế đặt ra một trong
những nhiệm vụ cấp bách là phải nâng cao NLCT của ĐNCB, công chức
LĐLĐ cấp huyện, bảo đảm cho họ vững vàng về chính trị, có đức có tài, có
phương pháp làm việc khoa học, có đủ năng lực trí tuệ và thực tiễn, biết phát
huy thế mạnh của tổ chức, biết khơi dậy và phát triển nguồn lực nội sinh,

quán triệt chủ trương, nghị quyết, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, chủ trương, nghị quyết của tổ chức Công đoàn, vận dụng vào điều kiện
cụ thể của địa phương một cách chủ động, sáng tạo, biết khai thác, học tập trí
tuệ, tài năng của đoàn viên, CN, VC – LĐ, đề ra kế hoạch sát hợp, tổ chức
thực hiện thắng lợi các mục tiêu đặt ra.
Nhận thức đúng yêu cầu bồi dưỡng nâng cao NLCT của ĐNCB, công
chức Công đoàn để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, trong
những năm qua, Tỉnh ủy Bạc Liêu đã ban hành chỉ thị, kế hoạch nhằm thực
hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của Tỉnh. Đại hội
Công đoàn tỉnh Bạc Liêu khóa IX ban hành nghị quyết về đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ Công đoàn. Đảng đoàn, Chi ủy chi bộ và Ban Thường vụ LĐLĐ tỉnh
đã xây dựng chương trình hành động về bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán
bộ Công đoàn và CN, VC-LĐ giai đoạn 2013 – 2018, trong đó chú trọng
công tác bồi dưỡng NLCT của ĐNCB, công chức ở LĐLĐ cấp huyện. Tuy
nhiên, hoạt động bồi dưỡng NLCT của ĐNCB, công chức ở LĐLĐ cấp
huyện tỉnh Bạc Liêu trong thời gian qua có lúc còn thiếu sự quan tâm của cấp
ủy, chính quyền địa phương; nội dung, hình thức, phương pháp bồi dưỡng có

4


thời điểm chậm đổi mới. Vì thế, NLCT của ĐNCB, công chức ở LĐLĐ cấp
huyện tỉnh Bạc Liêu còn bộc lộ những hạn chế, vẫn còn một bộ phận không
nhỏ NLCT chưa ngang tầm và chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ công tác
Công đoàn trong giai đoạn hiện nay, một số ít còn hạn chế về trình độ hiểu
biết kinh tế, pháp luật, khoa học kỹ thuật, tin học, ngoại ngữ, hội nhập kinh tế
và kỹ năng hoạt động Công đoàn….
Từ những vấn đề trên, đặt ra phải có nghiên cứu mang tính hệ thống,
toàn diện, chuyên sâu nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, đánh giá đúng
thực trạng, tìm ra nguyên nhân, đúc kết kinh nghiệm, để từ đó đưa ra những

yêu cầu, đề xuất các giải pháp về bồi dưỡng NLCT của ĐNCB, công chức ở
LĐLĐ cấp huyện tỉnh Bạc Liêu hiện nay.
Với những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: Bồi dưỡng năng lực công
tác của ĐNCB, công chức ở LĐLĐ cấp huyện tỉnh Bạc Liêu hiện nay làm luận
văn thạc sĩ, chuyên ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Bồi dưỡng NLCT của ĐNCB, công chức nói chung, ĐNCB, công chức
Công đoàn nói riêng có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp cách mạng của
Đảng, công cuộc đổi mới của đất nước. Vì thế, trong những năm gần đây đã có
nhiều công trình nghiên cứu của nhiều nhà khoa học dưới nhiều góc độ khác nhau
góp phần quan trọng vào việc xây dựng ĐNCB của Đảng, phục vụ sự nghiệp phát
triển đất nước.
* Nhóm các công trình nghiên cứu về cán bộ, công chức, công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức trên phạm vi cả nước
Cuốn sách Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng ĐNCB trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Nguyễn Phú
Trọng và Trần Xuân Sầm đồng chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà

5


Nội, 2001. Các tác giả của cuốn sách đã xây dựng và phân tích những khái
niệm cơ bản về cán bộ, phân loại cán bộ, công chức, viên chức, cán bộ lãnh
đạo; làm rõ vị trí, vai trò cán bộ, công tác cán bộ, tiêu chuẩn cán bộ, phát hiện
bồi dưỡng đào tạo, sử dụng và cất nhắc cán bộ, kiểm tra, chính sách, quản lý
cán bộ. Những nội dung này, cung cấp cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu bồi
dưỡng NLCT của ĐNCB, công chức Công đoàn cấp huyện ở tỉnh Bạc Liêu
hiện nay.
Cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ của Bùi
Đình Phong, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội, 2006. Trong nội dung, tác giả đi

sâu nghiên cứu cán bộ và công tác cán bộ, làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về vị
trí, vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng, nhấn mạnh quan điểm “Cán
bộ là cái gốc của mọi công việc. Công việc thành công hay thất bại đều do cán
bộ tốt hay kém”. Với vị trí và vai tro to lớn như thế, người cán bộ phải luôn tự
rèn luyện mình với tư cách là chủ thể. Tác giả tập trung phân tích yêu cầu của
Hồ Chí Minh đối với người cán bộ cách mạng trên các lĩnh vực, từ đạo đức,
NLCT, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng đến nâng cao trình
độ lý luận chính trị, văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ; phải coi huấn luyện cán
bộ là công việc gốc của Đảng.
Cuốn sách Hồ Chí Minh đào tạo cán bộ và trọng dụng nhân tài của Đức
Vượng, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010. Tác giả trình bày quan
điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, khẳng định cán bộ là gốc của mọi công
việc. Bất cứ chính sách, công tác gì nếu cán bộ tốt thì thành công, vì vậy phải
coi trọng vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm sao cho đúng, cho tốt. Theo tác
giả, muốn đào tạo tốt thì phải phát hiện người có thể làm được cán bộ, từ đó có
kế hoạch đưa họ đi đào tạo tại các trường lớp chính quy, hoặc có thể bồi dưỡng
kiến thức thường xuyên cho cán bộ; sau khi đào tạo xong phải căn cứ vào kết

6


quả đào tạo, năng lực, sở trường của mỗi người để bố trí, sử dụng cho đúng,
cho tốt.
Cuốn sách Đảng lãnh đạo xây dựng ĐNCB, công chức, viên chức nhà
nước của Trần Đình Thắng, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013. Tác
giả phân tích, luận giải các vấn đề lý luận và thực tiễn, đồng thời tổng kết lịch sử
Đảng lãnh đạo xây dựng ĐNCB, công chức, viên chức nhà nước từ khi thành lập
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho đến nay. Theo tác giả, muốn xây dựng
nền công vụ chuyên nghiệp, tiên tiến, hiện đại với ĐNCB, công chức, viên chức
nhà nước “vừa hồng, vừa chuyên” thì phải đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ theo hướng thiết thực có hệ thống, đồng thời phải xây dựng phẩm chất
đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh cho ĐNCB, công chức, viên chức.
Bài Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức từ góc nhìn chuỗi kết quả và
chỉ số đánh giá, của tác giả Đoàn Văn Dũng, đăng trên Tạp chí Lý luận chính
trị, số 4/2014. Trong bài viết, tác giả đề cập nguyên nhân hạn chế của công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong thời gian qua như: Chưa gắn với
mục tiêu phát triển năng lực, nên phương thức đào tạo, bồi dưỡng hiện nay chủ
yếu theo chức nghiệp, nhằm vào việc tiêu chuẩn hoá ngạch bậc; tư duy đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức chưa gắn với phát triển năng lực, trình độ… Từ
đó, tác giả cho rằng cần phải có những chỉ số đánh giá trong đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức.
Bài viết Công tác đào tạo, bồi dưỡng phục vụ công tác quy hoạch cán
bộ của PGS,TS Tô Huy Rứa, in trong Kỷ yếu hội thảo khoa học: Một số vấn đề
về công tác quy hoạch cán bộ, thuộc Chương trình khoa học xã hội cấp Nhà
nước (KHXH.05, Hà Nội, 10/1998). Tác giả cho rằng, xây dựng ĐNCB lãnh
đạo, quản lý có tầm quan trọng đặc biệt. Trong công tác cán bộ, công tác quy
hoạch cán bộ là nền tảng, đào tạo bồi dưỡng vừa là yêu cầu trước mắt, vừa là
nhiệm vụ lâu dài. Vì vậy, phải lựa chọn cán bộ đưa đi đào tạo bồi dưỡng, phải
7


đổi mới nội dung chương trình, phương thức đào tạo, bồi dưỡng hướng vào
nâng cao năng lực mọi mặt cho cán bộ.
* Nhóm các công trình nghiên cứu về cán bộ, công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức ở các ngành và địa phương
Cuốn sách Xây dựng ĐNCB lãnh đạo chủ chốt của hệ thống chính trị cấp
tỉnh, thành phố (qua kinh nghiệm của Hà Nội), của Cao Khoa Bảng, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008. Tác giả đã phân tích vị trí vai trò cán bộ lãnh đạo
chủ chốt trong hệ thống chính trị, chủ yếu là cấp tỉnh, thành phố; xác định phương
hướng và các giải pháp chủ yếu để xây dựng ĐNCB, nâng cao chất lượng quy hoạch,

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Phạm Công Khâm, Xây dựng ĐNCB chủ chốt cấp xã vùng nông thôn
đồng bằng sông Cửu Long hiện nay, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Xây dựng
Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2002. Luận án đã làm
rõ thêm cơ sở khoa học, nét đặt thù về vị trí, vai trò cấp xã và của ĐNCB,
công chức cấp xã nói chung, cấp xã vùng đồng bằng sông Cửu Long nói
riêng trong thời kỳ CNH, HĐH. Luận án bước đầu phân tích thực trạng
ĐNCB, công tác cán bộ, chỉ rõ mục tiêu, quan điểm và các giải pháp khả thi
xây dựng ĐNCB ở đó đủ khả năng thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn.
Lê Khắc Á, Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng công chức cơ quan Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành
Quản lý hành chính công, Học viện Hành chính, năm 2012. Luận văn đã làm
rõ một số vấn đề về lý luận công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức;
đánh giá thực trạng và nguyên nhân tồn tại của công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức đồng thời đưa ra một số giải pháp đổi mới công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cơ quan Tổng LĐLĐ Việt Nam.

8


Luận án tiến sĩ của Bùi Thị Hà về: Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt từ năm 1997 đến năm 2010,
chuyên ngành Lịch sử Đảng, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn,
Hà Nội, 2015. Luận án đã làm sáng tỏ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh
Phú Thọ về công tác đào tạo, bồi dưỡng mọi mặt, trong đó có NLCT cho
ĐNCB chủ chốt từ khi tái lập tỉnh (1997) đến năm 2010. Đồng thời đúc kết
bài học kinh nghiệm trên lĩnh vực này.
Bên cạnh các công trình nêu trên, còn có các bài viết đề cập tới công tác
cán bộ và bồi dưỡng cán bộ ở các địa phương được đăng trên các tạp chí khoa

học như: Xây dựng ĐNCB tỉnh Bắc Kạn đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ hiện nay
của Nguyễn Văn Côi, Tạp chí Lịch sử Đảng, số tháng 6/2009. Nâng cao chất
lượng đào tạo ĐNCB, công chức ở Tuyên Quang của Nguyễn Sáng Vang, Tạp
chí Cộng sản số 814, tháng 8/2010. Xây dựng ĐNCB, công chức tỉnh Thanh
Hoá đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH, Tạp chí Lịch sử Đảng, số
6/2013 và Xây dựng ĐNCB tỉnh Điện Biên trong tình hình hiện nay, Tạp chí
Lịch sử Đảng, số 7/2013 của Trần Đức Lương…
Các bài báo nêu trên đề cập tới công tác xây dựng ĐNCB, công chức nói
chung; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói riêng, đều nhấn mạnh yêu cầu
về trình độ, NLCT cũng như kỹ năng lãnh đạo, quản lý ở các địa phương cụ thể.
Từ các bài viết cho thấy, trong những năm trước mắt, cần nhanh chóng khắc
phục những hẫng hụt về kỹ năng quản lý, điều hành cho cán bộ, công chức để họ
có khả năng thực thi các nhiệm vụ công vụ, trong đó phải chú ý bồi dưỡng
NLCT mọi mặt.
Những công trình nghiên cứu trên đều cho rằng, cán bộ, công chức có vai
trò vị trí rất quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng; để nâng cao trình độ mọi
mặt của ĐNCB, công chức phải vận dụng nhiều hình thức đào tạo, bồi dưỡng
khác nhau; phải tiến hành thường xuyên, liên tục, có nền nếp; nâng cao hơn nữa
9


chất lượng nguồn đào tạo; đổi mới nội dung, chương trình, hình thức, phương
pháp đào tạo, bồi dưỡng; phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng trong
đào tạo, bồi dưỡng; kết hợp tốt giữa việc đào tạo, bồi dưỡng tại trường với bồi
dưỡng tại đơn vị và tự bồi dưỡng của cán bộ, công chức; thực hiện tốt công tác
chính sách đối với cán bộ, công chức. Trong đó có nội dung rất cần quan tâm là
tăng cường bồi dưỡng nâng cao NLCT của ĐNCB, công chức các cấp.
Các công trình nghiên cứu tiêu biểu trên khá gần với hướng nghiên cứu
của luận văn, đó là hệ thống tài liệu tham khảo có giá trị cả về lý luận và thực
tiễn. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một

cách cơ bản, toàn diện, hệ thống về bồi dưỡng NLCT của ĐNCB, công chức
ở LĐLĐ cấp huyện tỉnh Bạc Liêu hiện nay. Do đó, đề tài: Bồi dưỡng năng
lực công tác của đội ngũ cán bộ, công chức ở Liên đoàn Lao động cấp
huyện tỉnh Bạc Liêu hiện nay là đề tài nghiên cứu độc lập, không trùng lặp
với công trình khoa học đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn bồi dưỡng
NLCT cho ĐNCB, công chức ở LĐLĐ cấp huyện tỉnh Bạc Liêu trong thời gian
qua, đề xuất những giải pháp chủ yếu trong bồi dưỡng NLCT của ĐNCB, công
chức ở LĐLĐ cấp huyện tỉnh Bạc Liêu hiện nay và trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận NLCT và bồi dưỡng NLCT của ĐNCB,
công chức ở LĐLĐ cấp huyện tỉnh Bạc Liêu hiện nay.
Khảo sát, đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra những
kinh nghiệm về bồi dưỡng NLCT của cán bộ, công chức ở LĐLĐ cấp huyện
tỉnh Bạc Liêu trong những năm vừa qua.
10


Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp chủ yếu nâng cao NLCT
của ĐNCB, công chức ở LĐLĐ cấp huyện thuộc tỉnh Bạc Liêu hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là bồi dưỡng NLCT của ĐNCB, công chức ở
LĐLĐ cấp huyện tỉnh Bạc Liêu.
* Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và khảo sát thực tiễn, đề tài tập trung nghiên cứu: Bồi
dưỡng NLCT của ĐNCB, công chức ở LĐLĐ cấp huyện tỉnh Bạc Liêu. Số liệu,
tư liệu phục vụ cho nghiên cứu được giới hạn từ năm 2010 đến năm 2015.

5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác cán bộ,
năng lực cán bộ, công chức và tổ chức Công đoàn.
* Cơ sở thực tiễn
Luận văn được nghiên cứu dựa trên thực tiễn bồi dưỡng NLCT của
ĐNCB, công chức ở LĐLĐ cấp huyện tỉnh Bạc Liêu. Quá trình thực hiện đề
tài, tác giả có tiếp thu, kế thừa chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công trình
khoa học có liên quan; các số liệu của các cơ quan Đảng, đoàn thể, chính quyền
trong tỉnh Bạc Liêu và nghị quyết, báo cáo tổng kết của Đảng đoàn, Chi ủy chi
bộ, Ban Thường vụ LĐLĐ tỉnh Bạc Liêu có liên quan trực tiếp đến công tác
đào tạo, bồi dưỡng NLCT của ĐNCB, công chức Công đoàn. Các số liệu điều
tra, khảo sát, trưng cầu ý kiến trong quá trình nghiên cứu ở các cơ quan thuộc
LĐLĐ tỉnh Bạc Liêu thời gian qua.

11


* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tác giả sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành Xây
dựng Đảng, trong đó chú trọng kết hợp sử dụng các phương pháp phân tích,
tổng hợp, lôgic, lịch sử, điều tra khảo sát, tổng kết thực tiễn để làm rõ các nội
dung cụ thể của đề tài.
6. Ý nghĩa của đề tài
Những kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần cung cấp luận cứ khoa
học cho Tỉnh ủy, các Huyện ủy, Thị ủy, Thành ủy và LĐLĐ tỉnh Bạc Liêu
lãnh đạo, chỉ đạo công tác bồi dưỡng NLCT của ĐNCB, công chức ở LĐLĐ
cấp huyện tỉnh Bạc Liêu hiện nay và trong thời gian tới.

Kết quả nghiên cứu của luận văn còn có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo phục vụ học tập, giảng dạy ở Trường Chính trị Châu Văn Đặng tỉnh Bạc
Liêu và ở các Trung tâm bồi dưỡng chính trị của huyện, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh Bạc Liêu.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Phần mở đầu, hai chương (4 tiết), kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo và phụ lục.

12


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN BỒI DƯỠNG
NĂNG LỰC CÔNG TÁC CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở
LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG CẤP HUYỆN TỈNH BẠC LIÊU
1.1. Năng lực công tác và những vấn đề cơ bản về bồi dưỡng năng
lực công tác của đội ngũ cán bộ, công chức ở Liên đoàn lao động cấp
huyện tỉnh Bạc Liêu
1.1.1. Đội ngũ cán bộ, công chức và năng lực công tác của đội ngũ
cán bộ, công chức ở Liên đoàn lao động cấp huyện tỉnh Bạc Liêu
* Khái quát một số nét về tỉnh Bạc Liêu
Bạc Liêu là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, có diện tích đất
tự nhiên là 2.570 km2, trong đó đất sản xuất nông nghiệp là 102.771,27 ha, đất
lâm nghiệp 4.707,70 ha, đất chuyên dùng là 11.093,51 ha và đất ở 4.305,24
ha. Tỉnh có 7 đơn vị hành chính cấp huyện đó là: Thành phố Bạc Liêu, thị xã
Giá Rai và 5 huyện (Hồng Dân, Phước Long, Đông Hải, Hòa Bình và Vĩnh
Lợi), với 64 xã, phường, thị trấn. Dân số toàn tỉnh đến cuối năm 2013 có
881.118 người, gồm 4 dân tộc chính là: Kinh, Khmer, Hoa và Chăm cùng
sinh sống trong một cộng đồng dân cư của Tỉnh; mật độ dân số trung bình là
342 người/km2, dân số thành thị chiếm 27,27%, nông thôn chiếm 72,73%.

Qua gần 20 năm (1997 – 2016) được tái lập Tỉnh, cơ cấu kinh tế ngày
càng chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ và du lịch. Kinh tế công
nghiệp, dịch vụ, du lịch và kinh tế biển có sự phát triển mạnh. ĐNCB, CN, VCLĐ phát triển nhanh về số lượng, có mặt ở tất cả các ngành nghề, lĩnh vực kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đóng vai trò nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp
CNH, HĐH của Tỉnh. Với số lượng 31.491 CN,VC – LĐ, trong đó khu vực
ngoài quốc doanh gần 9,5 ngàn người, số lượng công nhân ở tỉnh Bạc Liêu

13


chiếm trên 3% dân số của Tỉnh. Cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tăng tỷ
lệ trong các ngành sản xuất chế biến, giáo dục, y tế, dịch vụ, xây dựng và khu
vực kinh tế ngoài nhà nước; lực lượng lao động trực tiếp sản xuất có trình độ kỹ
thuật, tay nghề cao ngày càng nhiều. Tuy có nhiều đóng góp vào sự phát triển
kinh tế của Tỉnh, nhưng hiện nay công nhân lao động ở tỉnh Bạc Liêu còn gặp
khó khăn về nhiều mặt như: Điều kiện sinh hoạt tinh thần còn thiếu, không có
thời gian, điều kiện sinh hoạt, học tập nâng cao nhận thức chính trị và chuyên
môn nghiệp vụ…Trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp của một bộ phận
công nhân còn thấp, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp, ý thức
chính trị, hiểu biết về pháp luật còn rất hạn chế. Một bộ phận công nhân sống
thiếu lý tưởng, niềm tin, không quan tâm đến tình hình đất nước, tình hình của
Tỉnh, sa vào các tệ nạn xã hội dẫn đến tha hóa về phẩm chất lối sống, phai
nhạt bản chất của giai cấp công nhân, giảm lòng tin và sự gắn bó với Đảng,
với Công đoàn.
Để Công đoàn thật sự là trung tâm đoàn kết, giáo dục CN, VC-LĐ và
thực hiện tốt chức năng cơ bản của mình, việc nâng cao NLCT của ĐNCB,
công chức ở LĐLĐ tỉnh Bạc Liêu nói chung và nhất là ĐNCB, công chức ở
LĐLĐ cấp huyện của Tỉnh là một nhiệm vụ hết sức quan trọng; là yếu tố cơ
bản quyết định, đảm bảo cho việc thực hiện tốt vai trò, chức năng của tổ chức
Công đoàn.

* Khái quát về LĐLĐ tỉnh Bạc Liêu
Hệ thống Công đoàn tỉnh Bạc Liêu gồm có LĐLĐ tỉnh, 05 LĐLĐ
huyện, 01 LĐLĐ thị xã, 01 LĐLĐ thành phố, 04 Công đoàn ngành, 07 Công
đoàn Giáo dục huyện, thị xã, thành phố và 675 CĐCS. LĐLĐ tỉnh Bạc Liêu
được tổ chức theo đơn vị hành chính cấp Tỉnh trực thuộc Trung ương do
Đoàn Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam quyết định thành lập. Đối tượng tập
hợp của LĐLĐ tỉnh là đoàn viên, người lao động trên địa bàn. LĐLĐ tỉnh
14


quyết định thành lập và chỉ đạo trực tiếp các LĐLĐ cấp huyện, Công đoàn
ngành ở địa phương và một số CĐCS lớn, thuộc loại hình doanh nghiệp sản
xuất, kinh doanh.
* Khái quát LĐLĐ cấp huyện tỉnh Bạc Liêu
LĐLĐ cấp huyện tỉnh Bạc Liêu được tổ chức theo đơn vị hành chính
huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, do LĐLĐ tỉnh Bạc Liêu quyết định
thành lập và chỉ đạo trực tiếp. Hiện nay, LĐLĐ cấp huyện tỉnh Bạc Liêu gồm
có 07 đơn vị. Trong đó có 05 LĐLĐ huyện, 01 LĐLĐ thị xã và 01 LĐLĐ
thành phố. Đối tượng tập hợp của LĐLĐ cấp huyện là đoàn viên, người lao
động trên địa bàn cấp huyện. LĐLĐ cấp huyện quyết định thành lập hoặc giải
thể và chỉ đạo trực tiếp Công đoàn Giáo dục huyện; Quyết định thành lập,
giải thể hoặc công nhận và chỉ đạo trực tiếp các CĐCS, nghiệp đoàn đóng
trên địa bàn.
LĐLĐ cấp huyện có chức năng: Đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp chính đáng của đoàn viên CN,VC-LĐ trên địa bàn của mình, có trách
nhiệm tham gia với Huyện ủy, Thị ủy, Thành ủy và UBND huyện, thị xã,
thành phố phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, cải thiện điều kiện vật chất
và tinh thần cho người lao động; Tham gia cùng với UBND các huyện, thị xã,
thành phố quản lý kinh tế, xã hội trên địa bàn huyện trong lĩnh vực lao động;
Tổ chức tuyên truyền, giáo dục động viên người lao động trong địa bàn

huyện, phát huy vai trò làm chủ đất nước, thực hiện nghĩa vụ công dân, xây
dựng và phát triển quê hương, đất nước.
LĐLĐ huyện có nhiệm vụ: Tuyên truyền, vận động người lao động
trong huyện thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước và nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn; Tổ chức phong trào thi đua
yêu nước; Phối hợp với các cơ quan chức năng kiểm tra, thanh tra, giám sát
việc thực hiện các chế độ, chính sách; Giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp
15


lao động đối với các cơ sở đóng trên địa bàn huyện; Hướng dẫn, hỗ trợ, giúp
Ban Chấp hành CĐCS trong việc thương lượng, ký kết TƯLĐTT, giải quyết
tranh chấp lao động, tổ chức đối thoại với người sử dụng lao động, tổ chức,
lãnh đạo đình công theo quy định của pháp luật; Đại diện khởi kiện, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và người lao động; Tham
gia với cấp Ủy cấp huyện và UBND cấp huyện về các chủ trương phát triển
kinh tế - xã hội và các vấn đề có liên quan đến việc làm, đời sống của đoàn
viên, người lao động; Thực hiện công tác phát triển đoàn viên, thành lập
CĐCS, nghiệp đoàn; Xây dựng CĐCS, nghiệp đoàn vững mạnh…
* Quan niệm ĐNCB, công chức ở LĐLĐ cấp huyện tỉnh Bạc Liêu
Đội ngũ cán bộ Công đoàn gồm có cán bộ chuyên trách và không
chuyên trách là những người được bầu cử hoặc được cấp Công đoàn có thẩm
quyền chỉ định, công nhận, bổ nhiệm giữ chức vụ từ Tổ phó Tổ Công đoàn
trở lên. Cán bộ Công đoàn không chuyên trách là người làm việc kiêm nhiệm.
Cán bộ Công đoàn chuyên trách là người làm việc thường xuyên trong tổ
chức Công đoàn.
Từ thực tiễn ở tỉnh Bạc Liêu cho thấy: Đội ngũ cán bộ, công chức ở
LĐLĐ cấp huyện tỉnh Bạc Liêu là những người được bầu cử, chỉ định hoặc bổ
nhiệm giữ chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch LĐLĐ cấp huyện hoặc giữ ngạch
công chức và làm việc thường xuyên trong các cơ quan LĐLĐ cấp huyện.

Các chức danh cán bộ chuyên trách thuộc LĐLĐ cấp huyện gồm: Chủ tịch
LĐLĐ huyện, thị xã, thành phố; Các Phó chủ tịch LĐLĐ huyện, thị xã, thành phố.
Các chức danh công chức thuộc LĐLĐ cấp huyện gồm: Kế toán
LĐLĐ huyện, thị xã, thành phố; Công chức tuyên truyền, phát triển đoàn
viên, Văn thư, Văn phòng tổng hợp và Thủ quỹ cơ quan LĐLĐ huyện, thị xã,
thành phố.

16


* Chức trách, nhiệm vụ của ĐNCB, công chức ở LĐLĐ cấp huyện tỉnh
Bạc Liêu
Tùy vào điều kiện của từng địa phương mà Đảng đoàn LĐLĐ tỉnh phối
hợp với Huyện ủy, Thị ủy, Thành ủy để bố trí số lượng cán bộ, công chức từ
5 đến 7 người. Chức trách, nhiệm vụ cụ thể của từng chức danh cán bộ, công
chức LĐLĐ cấp huyện như sau:
Chủ tịch LĐLĐ cấp huyện: Là người đứng đầu Công đoàn cấp huyện,
giúp cho Ban Chấp hành LĐLĐ cấp huyện quản lý, điều hành các mặt hoạt
động của Công đoàn huyện giữa hai kỳ họp Ban Chấp hành, đại diện, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho người lao động. Chủ tịch LĐLĐ cấp
huyện là thủ trưởng cơ quan LĐLĐ huyện, thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản
như sau: Phụ trách chung và chịu trách nhiệm trước Huyện ủy, Thị ủy, Thành
ủy và LĐLĐ tỉnh về kết quả hoạt động của đơn vị; Phụ trách công tác tổ chức
và chính sách xã hội; Trực tiếp phụ trách và theo dõi, kiểm tra đôn đốc các
hoạt động về công tác tuyên truyền giáo dục; tài chính, tài sản Công đoàn;
công tác tổ chức và xây dựng CĐCS, nghiệp đoàn vững mạnh; Lãnh đạo, điều
hành công tác phát triển đoàn viên và thành lập CĐCS, nghiệp đoàn khu vực
ngoài quốc doanh…..
Phó chủ tịch LĐLĐ cấp huyện: Là cấp Phó của Công đoàn cấp huyện,
được Ban Chấp hành bầu ra, giúp cho Ban Chấp hành thực hiện một số

nhiệm vụ theo sự phân công của Ban Chấp hành và Chủ tịch LĐLĐ cấp
huyện giữa hai kỳ họp Ban Chấp hành. Phó chủ tịch LĐLĐ cấp huyện là Phó
thủ thưởng cơ quan LĐLĐ cấp huyện thực hiện một số nhiệm vụ như: Tham
mưu đề xuất và giúp đồng chí Chủ tịch chỉ đạo, xử lý những công việc hàng
ngày, các mặt công tác liên quan đến hoạt động Công đoàn và phong trào CN,
VC-LĐ, phong trào văn hóa, văn nghệ thể dục thể thao, quy chế dân chủ cơ
sở; Phụ trách công tác Nữ công và trực tiếp hướng dẫn Ban Nữ công Công
đoàn từ huyện đến cơ sở thực hiện nhiệm vụ công tác nữ công theo nghị quyết
17


Ban Chấp hành đề ra; Trực tiếp phụ trách các CĐCS khối cơ quan hành chính
sự nghiệp thuộc khu vực Nhà nước…
Phó chủ tịch LĐLĐ cấp huyện phụ trách Giáo dục: Là cấp Phó của
Công đoàn cấp huyện, được Ban Chấp hành bầu ra, giúp cho Ban Chấp hành
thực hiện một số nhiệm vụ theo sự phân công của Ban Chấp hành và Chủ tịch
LĐLĐ cấp huyện giữa hai kỳ họp Ban Chấp hành. Phó chủ tịch LĐLĐ cấp
huyện là Phó thủ thưởng cơ quan LĐLĐ cấp huyện thực hiện một số nhiệm
vụ như: Trực tiếp phụ trách và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của
CĐCS khối Giáo dục; Thực hiện, triển khai, phổ biến, giáo dục pháp luật,
nghị quyết trong CN, VC-LĐ ngành Giáo dục; Tuyên truyền viên Công đoàn
huyện; Xây dựng trường học văn hóa; Cùng với Ban Thường vụ thực hiện
công tác phát triển đoàn viên, CĐCS ngoài nhà nước trên lĩnh vực giáo dục và
đào tạo; Thay mặt Chủ tịch giải quyết công việc khi được ủy quyền; trực tiếp
phụ trách công tác kiểm tra; Tham mưu giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo…
Kế toán LĐLĐ cấp huyện: Là công chức LĐLĐ huyện, tham mưu, giúp
việc cho Chủ tịch LĐLĐ cấp huyện theo dõi tình hình tài chính của Công đoàn
huyện, thực hiện một số nhiệm vụ như: Chỉ đạo, hướng dẫn các CĐCS, các đơn
vị trực thuộc xây dựng và thực hiện dự toán hàng năm; Xét duyệt và tổng hợp
dự toán, quyết toán của Công đoàn cấp dưới, báo cáo LĐLĐ tỉnh; Thực hiện

nhiệm vụ thu kinh phí Công đoàn theo phân cấp của LĐLĐ tỉnh; Tổ chức chi,
thanh quyết toán, theo dõi kinh phí chi phục vụ hoạt động của các đơn vị do cấp
mình quản lý chưa thành lập CĐCS đã đóng kinh phí Công đoàn theo quy định
của Tổng LĐLĐ Việt Nam; Thực hiện công tác kế toán, thống kê của đơn vị kế
toán Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở; Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán
bộ tài chính của CĐCS…
Công chức Văn phòng Tổng hợp: Là công chức LĐLĐ huyện, tham
mưu, giúp việc Ban Thường vụ, Ban Chấp hành thực hiện các nhiệm vụ:
Tổng hợp thông tin, báo cáo tuần, tháng, quý, năm và các báo cáo chuyên
18


đề; chuẩn bị và tham dự các cuộc họp, hội nghị; ghi biên bản cuộc họp, kết
luận của Chủ tọa hội nghị; in ấn và kiểm tra tài liệu phục vụ các cuộc họp,
hội nghị…
Công chức phụ trách tuyên truyền, phát triển đoàn viên: Là công chức
LĐLĐ huyện, tham mưu, giúp việc Ban Thường vụ, Ban Chấp hành thực
hiện các nhiệm vụ: Xây dựng kế hoạch phát triển tổ chức Công đoàn khu vực
ngoài Nhà nước; tuyên truyền, phổ biến Điều lệ Công đoàn Việt Nam đến
người lao động, gặp gỡ, vận động người lao động gia nhập tổ chức Công
đoàn; hướng dẫn công tác xây dựng CĐCS, nghiệp đoàn khu vực ngoài Nhà
nước vững mạnh…
Nhân viên văn thư kiêm thủ quỹ: Là công chức LĐLĐ huyện, tham
mưu, giúp việc Ban Thường vụ, Ban Chấp hành thực hiện các nhiệm vụ:
Theo dõi việc quản lý văn bản đi, văn bản đến, nội dung các văn bản theo quy
trình xử lý văn bản đã ban hành; Chịu trách nhiệm quản lý tiền mặt theo quy
định của Nhà nước và Tổng Liên đoàn, không để tồn quỹ tiền mặt nhiều; báo
cáo thường xuyên cho Thủ trưởng cơ quan về tồn quỹ tiền mặt để xử lý kịp
thời; thu, chi quỹ kịp thời khi chứng từ phát sinh, chứng từ đã được phê
duyệt; Báo cáo tình hình nợ tạm ứng để thu hồi; Thực hiện nhiệm vụ tiếp

đoàn viên và CN,VC-LĐ…
* Đặc điểm cơ bản của ĐNCB, công chức ở LĐLĐ cấp huyện
tỉnh Bạc Liêu
Một là, ĐNCB, công chức khi mới về làm việc tại các cơ quan LĐLĐ
cấp huyện hầu hết là chưa qua đào tạo nghiệp vụ Công đoàn. Do phân cấp
quản lý cán bộ của Đảng nên cán bộ, công chức ở LĐLĐ cấp huyện đa phần
là do các Huyện ủy, Thị ủy, Thành ủy điều động về làm cán bộ, công chức
Công đoàn. Số cán bộ, công chức này tuy có trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
lý luận chính trị tương đối cao, song đều chưa qua đào tạo, bồi dưỡng về
nghiệp vụ Công đoàn. Từ đó, hiểu biết và kỹ năng hoạt động Công đoàn còn
19


rất nhiều hạn chế, không đủ khả năng đại diện tham gia vào quá trình quan hệ
lao động, tổ chức lãnh đạo phong trào công nhân và hoạt động công đoàn còn
nhiều lúng túng, chất lượng và hiệu quả chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm
vụ đặt ra…
Hai là, cán bộ, công chức ở LĐLĐ cấp huyện được điều động từ nhiều
cơ quan, tổ chức khác về nên rất đa dạng. ĐNCB, công chức ở LĐLĐ cấp
huyện tỉnh Bạc Liêu được tập hợp từ nhiều nguồn khác nhau. Có nhiều đồng
chí xuất thân từ các đoàn thể chính trị khác, từ cơ quan của Đảng, từ các cơ
quan Nhà nước và thậm chí được điều động từ cấp xã, phường thị trấn lên.
Bộ phận này chiếm tỷ lệ tương đối lớn (chiếm 44,73%) và chủ yếu là cán bộ
lãnh đạo của Công đoàn cấp huyện. Vì thế ĐNCB, công chức ở LĐLĐ cấp
huyện có xuất thân rất đa dạng, từ đó nhận thức về tổ chức Công đoàn cũng
có sự khác nhau, ý chí, tình cảm và tinh thần trách nhiệm đối với CN, VC-LĐ
cũng có sự khác nhau.
Ba là, cán bộ, công chức ở LĐLĐ cấp huyện tỉnh Bạc Liêu thường
xuyên có biến động, có hiện tượng vừa thừa, vừa thiếu ở một vài nơi. LĐLĐ
cấp huyện là một trong 5 đoàn thể chính trị - xã hội ở địa phương, đặt dưới sự

lãnh đạo của cấp ủy cấp huyện, vì thế, trong những năm qua số cán bộ Công
đoàn được điều động, luân chuyển về những đơn vị khác cũng tương đối cao,
tỷ lệ biến động trong một nhiệm kỳ (5 năm) là 65,79%. Riêng trong nửa đầu
nhiệm kỳ khóa IX, Công đoàn tỉnh Bạc Liêu, ĐNCB LĐLĐ cấp huyện có
08/38 đồng chí được điều chuyển công tác, chiếm tỷ lệ 21,05%. Một vài đơn
vị còn trường hợp cán bộ hạn chế về năng lực, lớn tuổi, có quá trình công tác
lâu dài, khó điều chuyển hoặc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ. Bên cạnh
đó, còn có những đơn vị thiếu cán bộ nhưng chưa chọn được người đủ tiêu
chuẩn để bổ sung.
Bốn là, tuổi đời bình quân của cán bộ Công đoàn cấp huyện ở tỉnh Bạc
Liêu không cao; NLCT không đồng đều. Trong những năm qua được sự quan
20


tâm của Đảng, Đoàn LĐLĐ tỉnh và các Huyện ủy, Thị ủy, Thành ủy mà
ĐNCB, công chức LĐLĐ cấp huyện đã được trẻ hóa. Tuổi đời bình quân hiện
nay là 40,34 tuổi. Người có tuổi đời trẻ nhất là 26 tuổi, người có tuổi đời cao
nhất là 59 tuổi. Ngoài ra, về NLCT của ĐNCB, công chức LĐLĐ cấp huyện là
không đồng đều. Người thì làm việc năng động, linh hoạt, chất lượng công
việc rất cao, người thì chông chờ, ỷ lại, đôi khi phải cầm tay chỉ việc thì mới
hoàn thành nhiệm vụ được giao….
* Vai trò của ĐNCB, công chức ở LĐLĐ cấp huyện tỉnh Bạc Liêu
ĐNCB, công chức ở LĐLĐ cấp huyện tỉnh Bạc Liêu có vai trò rất
quan trọng, quyết định chất lượng, hiệu quả việc tổ chức triển khai thực hiện
nghị quyết đại hội Công đoàn ở cấp mình và Công đoàn cấp trên. Cụ thể trên
một số vấn đề cơ bản như sau:
Một là, giữ vai trò quyết định việc hiện thực hóa chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và nghị quyết, quy định của Công
đoàn liên quan đến CN, VC-LĐ ở các huyện, thị xã, thành phố.
Cán bộ, công chức Công đoàn cấp huyện là người xây dựng, tổ chức

triển khải thực hiện các kế hoạch về thực hiện chủ trương, chính sách, pháp
luật của Nhà nước và nghị quyết, quy định của Công đoàn đến với người lao
động. ĐNCB, công chức Công đoàn là cầu nối phản ảnh tâm tư, nguyện vọng
của CN, VC-LĐ, cũng như những vấn đề chưa phù hợp trong chủ trương của
Đảng, chính sách của Nhà nước để ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung cho
phù hợp.
Hai là, tham gia với cấp ủy, chính quyền địa phương xây dựng chính
sách, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích của đoàn viên, CN, VC-LĐ; góp phần
ổn định và phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi địa phương.
Cán bộ, công chức Công đoàn cấp huyện bám sát thực tiễn, tích cực
tham mưu cho cấp ủy, phối hợp với chính quyền để xây dựng chương trình,
kế hoạch nhằm xây dựng và chăm lo cho CN, VC-LĐ ở địa phương mình;
21


ĐNCB, công chức là trung tâm phát động các phong trào thi đua lao động
giỏi, lao động sáng tạo, phòng chống tệ nạn xã hội… trong đoàn viên, CN,
VC-LĐ, góp phần quan trọng trong việc giữ gìn an ninh, trật tự và thúc đẩy
phát triển kinh tế -xã hội ở huyện nhà.
Ba là, tổ chức quán triệt, thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật
của Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền địa phương và của Công đoàn góp
phần chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của CN, VC-LĐ, nhằm xây dựng
giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng vững mạnh.
Cán bộ, công chức LĐLĐ cấp huyện tổ chức tuyên truyền, quán triệt
cho đoàn viên, CN, VC-LĐ của địa phương mình những chủ trương, chính
sách, pháp luật có liên quan đến quyền, lợi ích và cả nghĩa vụ làm cho người
lao động nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật, kỷ luật, kỷ cương
để có lối sống văn hóa- văn minh hơn.
Bốn là, là cầu nối quan trọng giữa Đảng, Nhà nước, Công đoàn với
giai cấp công nhân ở từng địa phương.

Cán bộ, công chức là những người đem chủ trương, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước, các nghị quyết quy định của Công đoàn đến với đoàn
viên, CN, VC-LĐ để họ thực hiện, đồng thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và
những phản ánh của người lao động cho Đảng, Nhà nước và Công đoàn cấp trên
biết, để từ đó Đảng, Nhà nước và Công đoàn cấp trên sửa đổi, bổ sung hoặc xây
dựng các chế độ, chính sách phù hợp hơn đối với người lao động.
Năm là, giữ vai trò quyết định đến chất lượng, hiệu quả và
thúc đẩy các phong trào cách mạng của quần chúng trong CN,
VC-LĐ ở tỉnh Bạc Liêu.
Cán bộ, công chức LĐLĐ cấp huyện là đầu tàu, là người có liên hệ mật
thiết với đoàn viên, CN, VC-LĐ. Vì thế cán bộ, công chức LĐLĐ cấp huyện
phải hướng các hoạt động, các phong trào cách mạng của người lao động
theo đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước,
22


tham gia lãnh đạo, chỉ đạo và giúp đỡ người lao động tổ chức các phong trào
hành động thiết thực, hiệu quả cho người lao động.
* Tiêu chuẩn cán bộ, công chức ở LĐLĐ cấp huyện tỉnh Bạc Liêu
Để đưa chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước và nghị
quyết của Công đoàn đi vào đời sống của đoàn viên, CN, VC-LĐ, tập hợp
được giai cấp công nhân và tổ chức các phong trào hoạt động Công đoàn đạt
hiệu quả, đòi hỏi người cán bộ, công chức phải có một số tiêu chuẩn sau đây:
Một là, có bản lĩnh chính trị vững vàng; nhiệt tình, tâm huyết với sự
nghiệp xây dựng tổ chức Công đoàn; có uy tín, có phương pháp hoạt động
quần chúng và khả năng đoàn kết tập hợp được đông đảo đoàn viên, CN, VCLĐ; có tinh thần đấu tranh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
đoàn viên, CN, VC-LĐ.
Hai là, có năng lực tham gia xây dựng, cụ thể hoá các nghị quyết của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào lĩnh vực công tác Công đoàn
và tham gia quyết định các chủ trương công tác của Ban Chấp hành Công

đoàn; có kiến thức về quản lý kinh tế, xã hội, pháp luật; có kỹ năng hoạt động
và nghiệp vụ công tác Công đoàn.
Ba là, có phương pháp, tác phong công tác khoa học, sâu sát quần
chúng, cụ thể, tỉ mỷ. Giữ vững nguyên tắc, chấp hành nghiêm quy định, quy
chế. Có tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật cao; có sự thống nhất
giữa nhận thức với hành động, có tư duy khoa học, biết phân tích, đánh giá
tình hình diễn biến trong CN, VC-LĐ và những vấn đề mới nảy sinh trong đời
sống vật chất, tinh thần của CN, VC-LĐ.
Bốn là, có sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ; có đạo đức, lối sống lành
mạnh, trung thực, giản dị; không cục bộ bản vị, cơ hội; không lãng phí, tham
nhũng và bao che cho tham nhũng, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng và
lãng phí.

23


Ngoài những tiêu chuẩn chung đó, tùy từng vị trí, chức vụ công tác mà
từng cán bộ, công chức LĐLĐ cấp huyện cần phải đáp ứng một số tiêu chuẩn
cụ thể sau đây:
Chủ tịch LĐLĐ cấp huyện phải là người am hiểu về công tác Công
đoàn, đảm bảo các tiêu chuẩn: Có trình độ Đại học, Cao cấp lý luận chính trị,
có chứng chỉ quản lý nhà nước và Đại học phần Công đoàn…
Phó chủ tịch LĐLĐ cấp huyện phải là người am hiểu về công tác Công
đoàn, đảm bảo các tiêu chuẩn: Có trình độ Đại học, trung cấp lý luận chính
trị, có chứng chỉ Đại học phần Công đoàn…
Phó chủ tịch LĐLĐ cấp huyện phụ trách Giáo dục phải là người am
hiểu về công tác Công đoàn, đảm bảo các tiêu chuẩn: Có trình độ Đại học
chuyên ngành về sư phạm, trung cấp lý luận chính trị, có chứng chỉ Đại học
phần Công đoàn…
Kế toán LĐLĐ huyện là người am hiểu về công tác Công đoàn, đảm

bảo các tiêu chuẩn: Có trình độ Đại học chuyên ngành Kế toán, có chứng chỉ
bồi dưỡng nghiệp vụ kế toán – tài chính và Đại học phần Công đoàn…
Công chức Văn phòng Tổng hợp phải là người am hiểu về công tác
Công đoàn, đảm bảo các tiêu chuẩn: Có trình độ Đại học, có chứng chỉ bồi
dưỡng công tác văn phòng và Đại học phần Công đoàn…
Công chức Phụ trách tuyên truyền, phát triển đoàn viên phải là người
am hiểu về công tác Công đoàn, đảm bảo các tiêu chuẩn: có trình độ Đại học,
có chứng chỉ Đại học phần Công đoàn…
Nhân viên văn thư kiêm thủ quỹ phải là người am hiểu về công tác
Công đoàn, đảm bảo các tiêu chuẩn: Có trình độ trung cấp, có chứng chỉ Đại
học phần Công đoàn…
* Quan niệm về NLCT của ĐNCB, công chức ở LĐLĐ cấp
huyện, tỉnh Bạc Liêu

24


Trong công cuộc đổi mới, hội nhập sâu rộng với thế giới và tiến trình
CNH, HĐH, việc đổi mới về tổ chức, phân công lại lao động và nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động của Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở nói
chung và LĐLĐ cấp huyện nói riêng là một vấn đề đặt ra cần phải thực hiện
như một nhiệm vụ cấp thiết. Từ thực tế đòi hỏi cần phải có ĐNCB, công chức
LĐLĐ cấp huyện vững vàng về chính trị, có phẩm chất đạo đức tốt, giỏi
nghiệp vụ, có kỹ năng và nhiệt tình, tâm huyết với hoạt động Công đoàn. Từ
đó, đặt ra cho tổ chức Công đoàn một trong những nhiệm vụ cấp bách là
phải nâng cao NLCT của ĐNCB, công chức LĐLĐ cấp huyện, bảo đảm cho
họ vững vàng về chính trị, có đức có tài, có phương pháp làm việc khoa
học, có đủ năng lực trí tuệ và thực tiễn, biết phát huy thế mạnh của tổ chức,
biết khơi dậy và phát triển nguồn lực nội sinh, quán triệt chủ trương, nghị
quyết, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chủ trương, nghị quyết

của tổ chức Công đoàn để vận dụng vào điều kiện cụ thể của địa phương
một cách chủ động, sáng tạo; đồng thời biết khai thác trí tuệ, tài năng của
đoàn viên, CN, VC – LĐ, đề ra kế hoạch sát hợp, tổ chức thực hiện thắng
lợi các mục tiêu đặt ra.
Quan niệm chung về năng lực: Nói đến năng lực là nói đến phẩm chất
đạo đức về trí nhớ, tính nhạy cảm, trí tuệ, tính cách của mỗi cá nhân con
người (năng lực con người). Năng lực là một từ trừu tượng, khó định lượng
và có nhiều quan điểm khác nhau:
Theo từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên thì: “Năng lực là
khả năng đủ để thực hiện tốt một công việc nào đó: Năng lực chuyên môn,
năng lực tổ chức…”. Theo từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Văn Xô chủ biên
thì: “Năng lực là khả năng làm được việc”.
Xét dưới góc độ pháp lý thì năng lực của một chủ thể bao gồm nhiều
yếu tố, nhưng chủ yếu là năng lực hành vi và năng lực pháp luật. Năng lực
hành vi là khả năng hoạt động của cá nhân, một tổ chức hay một cộng đồng,
25


có thể tự mình tạo lập, tự thực hiện các hành vị, xử sự của bản thân và tự
mình trực tiếp tham gia vào các quan hệ xã hội theo ý chí của mình, của tổ
chức và của nhà nước. Năng lực pháp luật là khả năng của một chủ thể có
được các quyền và phải thực hiện những nghĩa vụ cũng như phải chịu trách
nhiệm mà nhà nước quy định cho tổ chức hay cá nhân trước khi tham gia vào
các quan hệ pháp luật nhất định.
Trên thực tế cuộc sống hàng ngày của chúng ta, năng lực gồm có năng
lực suy nghĩ, năng lực làm việc, năng lực hoạt động… Các dạng năng lực này
thể hiện ở nhiều hình thức khác nhau nhưng về bản chất nó là khả năng của
một cá nhân phải có mới có thể hoàn thành tốt công việc nào đó. Xét về phạm
vi, có năng lực của cá nhân và năng lực của tổ chức. Trong phạm vi của luận
văn này, tác giả chỉ nghiên cứu năng lực của cá nhân, mà trực tiếp là NLCT

của ĐNCB, công chức ở LĐLĐ cấp huyện tỉnh Bạc Liêu.
Về năng lực của con người: Là tổng hòa những điều kiện, những nhân
tố chủ quan tiềm năng bên trong con người cùng tham gia vào công việc giải
quyết, thực hiện các mục tiêu đề ra nhằm đáp ứng nhu cầu công việc của bản
thân và cộng đồng xã hội. Năng lực gắn liền với một chủ thể nhất định. Năng
lực được tạo nên bởi các yếu tố tâm lý và sinh lý, tạo ra cho con người khả
năng hoàn thành một hoạt động nào đó có kết quả cao, đó là các yếu tố về thể
chất, năng khiếu bẩm sinh, kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm, thái độ,
phẩm chất đạo đức, quan hệ xã hội, định hướng giá trị bản thân… Năng lực
của mỗi cá nhân có thể có được là do yếu tố bẩm sinh, sinh trưởng tự nhiên,
tuy nhiên chủ yếu vẫn là do tác động từ bên ngoài thông qua đào tạo, bồi
dưỡng hay là tự rèn luyện, tích lũy kinh nghiệm của mỗi cá nhân. Chủ tịch Hồ
Chí Minh từng nhận xét: Năng lực của con người không phải hoàn toàn tự
nhiên mà có, mà phần nhiều do công tác tập luyện mà nên. Năng lực của mỗi
cá nhân là yếu tố cần thiết, đảm bảo cho mọi công việc, hoạt động được hoàn

26


×