Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ bồi DƯỠNG NĂNG lực CÔNG tác xây DỰNG ĐẢNG của đội NGŨ bí THƯ ĐẢNG ủy xã ở TỈNH cà MAU HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.75 KB, 108 trang )

Trang
MỞ ĐẦU

Chương 1.

3
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN, THỰC
TIỄN BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC CÔNG TÁC XÂY
DỰNG ĐẢNG CỦA ĐỘI NGŨ BÍ THƯ ĐẢNG ỦY
XÃ Ở TỈNH CÀ MAU

11

1.1. Năng lực công tác xây dựng Đảng và những vấn đề
cơ bản về bồi dưỡng năng lực công tác xây dựng
Đảng của đội ngũ bí thư đảng ủy xã ở tỉnh Cà Mau

11

1.2. Thực trạng và một số kinh nghiệm bồi dưỡng năng
lực công tác xây dựng Đảng của đội ngũ bí thư đảng
ủy xã ở tỉnh Cà Mau
Chương 2.

41

YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG
BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC CÔNG TÁC XÂY DỰNG
ĐẢNG CỦA ĐỘI NGŨ BÍ THƯ ĐẢNG ỦY XÃ Ở
TỈNH CÀ MAU HIỆN NAY


58

2.1. Những yếu tố tác động và yêu cầu tăng cường bồi
dưỡng năng lực công tác xây dựng Đảng của đội ngũ
bí thư đảng ủy xã hiện nay

58

2.2. Những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh bồi dưỡng năng
lực năng lực công tác xây dựng Đảng của đội ngũ bí
thư đảng ủy xã ở tỉnh Cà Mau hiện nay

69

KẾT LUẬN

89

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

92

PHỤ LỤC

97


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bí thư đảng uỷ xã ở tỉnh Cà Mau là cán bộ chủ trì công tác xây dựng

Đảng, người đứng đầu tổ chức cơ sở đảng, là hạt nhân đoàn kết thống nhất
trong đảng ủy, đảng bộ và hệ thống chính trị của xã. Bí thư đảng ủy có vị trí,
vai trò đặc biệt quan trọng trong chỉ đạo, điều hành công tác đổi mới, chỉnh
đốn, xây dựng Đảng bộ xã TSVM, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu. Chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn các đảng bộ
xã ở tỉnh Cà Mau phụ thuộc rất lớn vào năng lực chỉ đạo, tổ chức, điều hành
công tác xây dựng Đảng của đội ngũ bí thư đảng ủy xã. Bồi dưỡng năng lực
công tác xây dựng Đảng của đội ngũ bí thư đảng ủy xã là vấn đề cơ bản, then
chốt, thiết thực góp phần xây dựng các đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau ngày càng
TSVM, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu ngang tầm đòi hỏi của tình
hình nhiệm vụ trong thời kỳ mới.
Quán triệt, thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ Sáu Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa X về củng cố kiện toàn TCCSĐ, nâng cao chất lượng
cán bộ, đảng viên, trong những năm qua các cấp ủy, tổ chức đảng thuộc Đảng
bộ tỉnh Cà Mau đã xác định và tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp
bồi dưỡng năng lực công tác xây dựng Đảng cho đội ngũ bí thư đảng ủy xã.
Kế hoạch, chương trình, nội dung, hình thức, biện pháp, cơ sở vật chất bảo
đảm cho bồi dưỡng năng lực công tác XDĐ của đội ngũ BTĐU xã từng bước
được đổi mới và ngày càng hoàn thiện. Chất lượng bồi dưỡng năng lực công
tác XDĐ của đội ngũ BTĐU xã có những chuyển biến tương đối rõ nét. Năng
lực công tác XDĐ của đội ngũ BTĐU xã ngày càng được nâng cao, từng
bước đáp ứng yêu cầu xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn các đảng bộ xã ở tỉnh Cà
Mau trong thời kỳ mới. Tuy nhiên, công tác bồi dưỡng năng lực XDĐ của đội
ngũ BTĐU xã ở tỉnh Cà Mau hiện nay cũng đang gặp nhiều khó khăn, lúng
túng, hạn chế, khuyết điểm. Nội dung, hình thức bồi dưỡng năng lực công tác
XDĐ của đội ngũ BTĐU xã tuy có đổi mới nhưng còn rất chậm, thậm chí có
những mặt còn cũ kỹ, lạc hậu. Tổ chức bộ máy bồi dưỡng năng lực công tác
XDĐ của đội ngũ BTĐU xã chưa thật đồng bộ và hoạt động thiếu nhịp nhàng.
3



Chưa duy trì thường xuyên chế độ, nếp bồi dưỡng năng lực công tác XDĐ
của đội ngũ BTĐU xã. Chất lượng, hiệu quả bồi dưỡng năng lực công tác
XDĐ của đội ngũ BTĐU xã còn rất khiêm tốn. Năng lực công tác XDĐ của
một số BTĐU xã có những mặt chưa ngang tầm đòi hỏi của tình hình nhiệm
vụ. Thực tiễn công tác bồi dưỡng năng lực XDĐ của đội ngũ BTĐU xã ở tỉnh
Cà Mau đang đặt ra nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu, giải quyết.
Sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, hội nhập quốc tế
đang phát triển nhanh chóng, diễn biến phức tạp, thời cơ, thuận lợi đan xen
với những nguy cơ thách thức không thể xem thường. Tình hình KT-XH, QP,
AN đặc biệt là tình hình biến đổi khí hậu ở tỉnh Cà Mau ngày càng diễn biến
phức tạp, gây khó khăn, cản trở rất lớn, kìm hãm tốc độ tăng trưởng KT-XH,
làm cho đời sống của cán bộ, công chức, nhân dân ở các xã và cả tỉnh Cà Mau
gặp nhiều khó khăn. Đây là thách thức gay gắt đối với năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của các đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau, đồng thời đặt ra những yêu cầu
mới đối với năng lực công tác xây dựng Đảng của đội ngũ bí thư đảng ủy xã.
Nhiệm vụ chính trị của các đảng bộ xã của tỉnh Cà Mau ngày càng nặng nề,
diễn biến phức tạp đòi hỏi phải khẩn trương đổi mới, chỉnh đốn các đảng bộ
xã, bồi dưỡng, nâng cao năng lực công tác xây dựng Đảng của đội ngũ BTĐU
xã. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã chỉ rõ: “Tập trung củng
cố, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, đổi mới nội
dung, hình thức, phương pháp, tạo chuyển biến về chất lượng hoạt động của
các loại hình tổ chức cơ sở đảng…Kiện toàn tổ chức, bảo đảm sự lãnh đạo
toàn diện của Đảng ở cơ sở”.
Từ những lý do trên tác giả xin chọn vấn đề “Bồi dưỡng năng lực công
tác xây dựng Đảng của đội ngũ bí thư đảng ủy xã ở tỉnh Cà Mau hiện nay”
làm đề tài luận văn Thạc sĩ xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước. Đây là
vấn đề cơ bản, cấp thiết, có ý nghĩa lý luận, thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
* Những công trình nghiên cứu về công tác tổ chức xây dựng Đảng

- Đề tài khoa học (1992): Mẫu hình và con đường hình thành người
lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở, của Học viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội.
4


- Đề tài khoa học cấp Nhà nước (1993) KXO5-11, “Xác định cơ cấu và
tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở xã, phường, thị trấn”. do TS Phan Văn
Tích làm chủ nhiệm.
- Đề tài khoa học cấp Nhà nước (1999), “Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn
cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị đổi mới”, thuộc chương
trình KX-O5 do PGS TS Trần Xuân Sầm làm chủ nhiệm.
- Đề tài khoa học cấp nhà nước 1996 – 2000, Luận cứ khoa học cho
việc Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. KHXH.05.03 do GS TS Nguyễn Phú Trọng (chủ
biên), Nxb CTQG – ST - 2003.
Nhìn chung các công trình trên đều khẳng định công tác xây dựng Đảng
luôn là một trong những hoạt động có vai trò then chốt trong sự nghiệp cách
mạng của Đảng; dự báo những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng
công tác xây dựng đảng đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong tình hình mới. Đây là
những công trình có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc góp phần nâng cao chất
lượng công tác xây dựng đảng của Đảng và công tác xây dựng đảng ở cơ sở.
Tuy nhiên, các công trình này chưa đi sâu nghiên cứu năng lực tiến hành công
tác xây dựng đảng và bồi dưỡng năng lực công tác xây dựng đảng của đội ngũ
bí thư đảng ủy xã.
* Những công trình nghiên cứu về bồi dưỡng năng lực công tác xây
dựng Đảng
Một số luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ nghiên cứu về bồi dưỡng
năng lực công tác xây dựng Đảng:
- Lê Thành Danh (2014), “Xây dựng đội ngũ công chức cấp xã ở thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay”, Luận văn thạc sĩ xây dựng Đảng và chính quyền

Nhà nước, Học viện chính trị, Hà Nội
- Trương Thanh Nhã (2014) “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cấp
huyện diện Ban Thường vụ tỉnh ủy Bạc Liêu quản lý trong giai đoạn hiện
nay”, Luận văn thạc sĩ XDĐ và CQNN, Học viện chính trị, Hà Nội.
5


- Trần Tấn Lộc (2015) “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã ở huyện Củ Chi giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ XDĐ và CQNN,
Học viện chính trị, Hà Nội.
- Nguyễn Quốc Hận (2015) “Xây dựng đội ngũ cán bộ, phường ở thành
phố Cà Mau hiện nay”, Luận văn thạc sĩ XDĐ và CQNN, Học viện chính trị,
Hà Nội.
- Ngô Công Hầu (2015) “Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cấp
xã ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay”, Luận văn thạc sĩ XDĐ và CQNN, Học viện
chính trị, Hà Nội.
- Lê Quang Thoan (2015) “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong
hệ thống chính trị các phường trên địa bàn Quận Hà Đông hiện nay”, Luận
văn thạc sĩ XDĐ và CQNN, Học viện chính trị, Hà Nội
- Từ Minh Phúc (2015) “Bồi dưỡng năng lực công tác tư tưởng của đội
ngũ bí thư đảng ủy xã ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay”, Luận văn thạc sĩ XDĐ và
CQNN, Học viện chính trị, Hà Nội.
- Phan Việt Thái Dương (2015) “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
đoàn cấp xã ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay”, Luận văn thạc sĩ XDĐ và CQNN,
Học viện chính trị, Hà Nội.
- Hồ Bá Thâm, Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt cấp xã hiện nay. Luận án tiến sĩ (1994), bảo vệ tại Học Viện Chính
trị Quốc Gia Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Mậu Dựng, Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của
Đảng bộ các cấp ở Tây Nguyên hiện nay. Luận án tiến sĩ (1996), bảo vệ tại

Học Viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh.
- Phạm Công Khâm, Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng
nông thôn đồng bằng sông Cửu Long hiện nay”. Luận án tiến sĩ (2000), bảo
vệ tại Học Viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Văn Côi, Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính
trị cấp xã ở huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn hiện nay. Luận
văn thạc sĩ (2002), bảo vệ tại Học Viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh.
6


- Trần Trung Trực, Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt hệ thống chính
trị cấp xã ở huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay.
Luận văn thạc sĩ (2005), bảo vệ tại Học Viện Chính trị quốc gia Hồ chí Minh.
- Đinh Ngọc Giang, Xây dựng đội ngũ chủ tịch ủy ban nhân dân xã của
tỉnh Ninh Bình giai đoạn hiện nay. Luận văn thạc sĩ (2005) bảo vệ tại Học
Viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh.
Sách chuyên khảo, tham khảo, kỷ yếu hội thảo khoa học liên quan đến
bồi dưỡng năng lực công tác xây dựng Đảng, tiêu biểu là:
- PGS Thang Văn Phúc, Đạo đức, phong cách, lề lối làm việc của cán
bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb CTQG – ST, 1998.
- GS TS Nguyễn Phú Trọng; PGS TS tô Huy Rứa; PGS TS Trần Khắc
Việt (đồng chủ biên), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng trong thời kỳ mới, Nxb CTQG – ST, 2004.
- TS Nguyễn Duy Hùng (chủ biên), Luận cứ khoa học và một số giải pháp
xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường hiện nay, Nxb CTQG – ST, 2008.
Các bài báo khoa học liên quan đến bồi dưỡng năng lực công tác xây
dựng Đảng, tiêu biểu như:
- PGS TS Trương Thị Thông, Công tác xây dựng Đảng trong tình hình
mới - mấy vấn đề đặt ra. Tạp chí Quốc phòng ngày 11/02/2010.
- Lê Hồng Anh, Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao năng

lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt
Nam ngày 03/02/2015.
- PGS TS Tô Huy Rứa, Công tác xây dựng Đảng qua gần 30 năm đổi
mới: Nhận thức lý luận và vấn đề thực tiễn. Tạp chí cộng sản, ngày 06/02/2015.
- ThS Bùi Thị Như Ngọc, Tăng cường công tác xây dựng đảng trong
tình hình mới. Tạp chí xây dựng đảng, ngày 03/7/2015.
Với nhiều quy mô nghiên cứu, dưới nhiều góc độ tiếp cận bằng nhiều
dạng sản phẩm khác nhau các tác giả đã xác lập cơ sở lý luận, thực tiễn, đánh
giá thực trạng, nguyên nhân, đúc kết kinh nghiệm, xác định yêu cầu, đề xuất
nhiều giải pháp khả thi năng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
7


Nhiều công trình nghiên cứu về xây dựng đảng ủy, đảng bộ xã TSVM, nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của đảng bộ xã, phường, thị trấn, trong
đó luận bàn sâu về bồi dưỡng phẩm chất năng lực của bí thư đảng ủy xã, coi
đó là vấn đề cơ bản then chốt góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của đảng bộ xã.
Rất nhiều công trình nghiên cứu về xây dựng, nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, cán bộ chủ chốt cấp xã, trong đó xây dựng, nâng cao chất lượng
đội ngũ bí thư đảng ủy đã được xác định là công việc quan trọng hàng đầu,
làm nòng cốt để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cấp xã. Bởi vì bí thư
đảng xã là người đứng đầu HTCT cấp xã. Bồi dưỡng phẩm chất, năng lực,
phương pháp tác phong công tác cho bí thư đảng ủy được nhiều tác giả đề cập
dưới nhiều góc độ khác nhau. Thậm chí có công trình chuyên bàn về bồi
dưỡng năng lực công tác tư tưởng của đội ngũ bí thư đảng ủy xã. Những công
trình nghiên cứu trên đây là những tư liệu rất quý, tác giả xin học tập, kế thừa,
chắt lọc để nâng cao kiến thức và vận dụng xây dựng luận văn thạc sĩ.
Tóm lại, các công trình luận văn, các bài hội thảo, bài báo khoa học trên
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, đã đề cập và luận giải nhiều vấn đề về

công tác XDĐ như: quan niệm, nội dung hoạt động, các hình thức, biện pháp công
tác xây dựng Đảng; bồi dưỡng năng lực tiến hành công tác xây dựng Đảng; bồi
dưỡng năng lực thực hành công tác xây dựng Đảng. Mỗi công trình khoa học có
đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu cụ thể khác nhau về vấn đề bồi
dưỡng năng lực công tác xây dựng Đảng cho đội ngũ cán bộ. Tuy nhiên, cho đến
nay chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện về bồi
dưỡng năng lực công tác xây dựng Đảng của đội ngũ bí thư đảng ủy xã ở tỉnh Cà
Mau trong những thập niên đầu thế kỷ XXI.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn,
đề xuất giải pháp tăng cường bồi dưỡng năng lực công tác xây dựng Đảng của
đội ngũ bí thư đảng ủy xã ở tỉnh Cà Mau hiện nay.
8


* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải làm rõ những vấn đề lý luận về năng lực công tác xây dựng
Đảng và bồi dưỡng năng lực công tác xây dựng Đảng của đội ngũ bí thư đảng
ủy xã ở tỉnh Cà Mau.
- Đánh giá đúng thực trạng, phân tích nguyên nhân, rút ra một số kinh
nghiệm bồi dưỡng năng lực công tác xây dựng Đảng của đội ngũ bí thư đảng
ủy xã ở tỉnh Cà Mau
- Xác định yêu cầu, đề xuất giải pháp tăng cường bồi dưỡng năng lực công
tác xây dựng Đảng của đội ngũ bí thư đảng ủy xã ở tỉnh Cà Mau hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Bồi dưỡng năng lực công tác xây dựng Đảng của đội ngũ bí thư đảng
ủy xã ở tỉnh Cà Mau.
* Phạm vi nghiên cứu

- Đề tài tập trung nghiên cứu năng lực công tác xây dựng Đảng và hoạt
động bồi dưỡng năng lực công tác xây dựng Đảng của đội ngũ bí thư đảng ủy
xã ở tỉnh Cà Mau.
- Đối tượng điều tra, khảo sát là các đảng bộ xã và đội ngũ bí thư đảng
ủy trong 82 xã của tỉnh Cà Mau. Số liệu, tư liệu của luận văn giới hạn từ năm
2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của đề tài là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác xây
dựng Đảng; về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
* Cơ sở thực tiễn
- Là hiện thực hoạt động bồi dưỡng năng lực công tác xây dựng Đảng
của đội ngũ bí thư đảng ủy xã ở tỉnh Cà Mau; Nghị quyết, chỉ thị báo cáo tổng
kết công tác XDĐ ở Tỉnh Cà Mau; kết quả điều tra, khảo sát, tổng kết thực
tiễn cùng với kinh nghiệm công tác của tác giả.
9


- Quá trình thực hiện đề tài, tác giả tiếp thu, kế thừa có chọn lọc kết quả
nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan;
* Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tác giả sử
dụng tổng hợp các phương pháp của khoa học chuyên ngành xây dựng Đảng
và khoa học liên ngành. Trong đó chú trọng các phương pháp: phân tích, tổng
hợp, đối chiếu – so sánh, điều tra khảo sát, kết hợp logic với lịch sử, tổng kết
thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần cung cấp luận cứ khoa học
cho các cấp ủy, tổ chức đảng ở tỉnh Cà Mau nghiên cứu, tham khảo,xác định
chủ trương, biện pháp bồi dưỡng năng lực công tác xây dựng Đảng của đội

ngũ bí thư đảng ủy xã ở tỉnh Cà Mau. Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo, phục vụ nghiên cứu, giảng dạy môn xây dựng Đảng ở Trường Chính trị
tỉnh và các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện.
7. Kết cấu của đề tài
Gồm: Phần mở đầu, 2 chưng (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.

10


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN BỒI DƯỠNG
NĂNG LỰC CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG CỦA ĐỘI NGŨ
BÍ THƯ ĐẢNG ỦY XÃ Ở TỈNH CÀ MAU

1.1. Năng lực công tác xây dựng Đảng và những vấn đề cơ bản về
bồi dưỡng năng lực công tác xây dựng Đảng của đội ngũ bí thư đảng ủy
xã ở tỉnh Cà Mau
1.1.1. Đội ngũ bí thư đảng ủy xã và năng lực công tác xây dựng
Đảng của bí thư đảng ủy xã ở tỉnh Cà Mau
* Khái quát về các xã ở tỉnh Cà Mau:
Cà Mau là một tỉnh thuộc đồng bằng Sông Cửu Long, nằm phía đất cực
Nam của Tổ Quốc. Diện tích tự nhiên là 5.331,64 km 2, bằng 13,1% diện tích
đồng bằng sông Cửu Long và bằng 1,58% diện tích cả nước. Ngoài phần đất
liền, Cà Mau còn có một số đảo diện tích xấp xỉ 10 km2.
Tỉnh Cà Mau có 3 mặt giáp biển: phía Bắc giáp tỉnh Kiên Giang; phía
Đông-Bắc giáp tỉnh Bạc Liêu, phía Nam và phía Đông giáp Biển Đông; phía
Tây giáp vịnh Thái Lan.
Địa hình của tỉnh thuần nhất là đồng bằng, có nhiều sông rạch chằng chịt,
giao thông đi lại chủ yếu bằng đường thủy. Độ cao trung bình 0,5m so với mặt

nước biển. Hàng năm ở vùng Mũi Cà Mau bồi lấn ra biển trên 50m về phía Nam.
Cà Mau có khí hậu nhiệt đới gió mùa, ổn định và phân ra hai mùa
tương đối rõ, mùa khô và mùa mưa. Cà Mau nằm trọn trong vùng bán đảo Cà
Mau nên không bị ảnh hưởng lũ lụt hệ thống sông Cửu Long. Điều kiện khí
hậu ổn định, là điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp. Chế độ phân
mùa kết hợp với thủy triều ven biển tạo hệ sinh thái thuận lợi cho nuôi trồng
thủy sản kết hợp với trồng lúa có hiệu quả.
Cà Mau, là một tỉnh giàu tiềm năng về kinh tế rừng và biển. Diện tích
rừng Cà Mau, đến năm 2015 hơn 100.000 ha, trong đó rừng ngập mặn phân
bố ven biển Đông và biển Tây (chủ yếu là rừng đước + mắm). Rừng ngập
ngọt (rừng tràm) phân bố trong các huyện Trần Văn Thời, U Minh, Thời
11


Bình. Hệ sinh thái rừng Cà Mau có vai trò quan trọng trong lấn biển, vừa có
vai trò điều hòa khí hậu. Trong rừng có nhiều loại động thực vật rất đa dạng
và phong phú; có Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau và Vườn Quốc gia U Minh
Hạ, đã được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới.
Cà Mau có bờ biển dài 254 km, vùng biển khá rộng, với diện tích trên
71.000 km2, với độ sâu trung bình 30 – 50 mét. Trong lòng biển có nhiều loại
tôm, cá và các loài động thực vật khác; dưới thềm lục địa có trữ lượng dầu khí
và khí đốt có khả năng khai thác trong nhiều năm. Ngoài khơi của tỉnh Cà
Mau có cụm đảo Hòn Chuối (diện tích hơn 7 km2) cách đất liền hơn 30 km;
cụm đảo Hòn Khoai, có diện tích hơn 4 km2, điểm gần nhất cách đất liền 14,2
km. Biển, đảo Cà Mau có vị trí rất quan trọng về an ninh quốc phòng và phát
triển kinh tế.
- Về đặc điểm dân cư
Tỉnh Cà Mau được chia thành 09 đơn vị hành chính cấp huyện (08
huyện và 01 thành phố), gồm các huyện: Thới Bình, U Minh, Trần Văn Thời,
Cái Nước, Phú Tân, Đầm Dơi, Năm Căn, Ngọc Hiển và thành phố Cà Mau.

Dân số Cà Mau tính đến 12/2014: 1.237.414 người, 295.748 hộ; toàn tỉnh có
khoảng 20 dân tộc, trong đó có 03 dân tộc chính gồm Kinh - Khmer và Hoa.
Người Kinh chiếm đại đa số với 1.188.659 người, chiếm 96,06 %, sống ở hầu
hết các nơi trong vùng, kế đến là người Khmer có 32.668 người, chiếm
2,64%, chủ yếu sinh sống tập trung ở xung quanh những ngôi chùa tạo thành
các xóm người khmer và sinh sống bằng nghề trồng lúa, chăn nuôi, nuôi
trồng, khai thác thủy sản và mua bán nhỏ. Người Hoa có 8.291 người, chiếm
0,67%, sống tập trung phần lớn vẫn là vùng đất đô thị, sinh sống chủ yếu
bằng nghề mua bán. Các dân tộc khác khoảng 7.796 người, chiếm 0,63% dân
số của tỉnh và sống rải rác khắp nơi trên địa bàn tỉnh.
Dân số phân bổ không đều, trong đó, dân cư nông thôn 955.042 người,
chiếm 77,18% dân số trong toàn tỉnh, sống chủ yếu là nghề nuôi trồng, khai
thác thủy hải sản, trồng trọt, chăn nuôi; dân cư thành thị 262.311 người,
chiếm tỷ lệ 22,82% dân số trong toàn tỉnh, phần đông là dân di cư từ nơi khác
12


đến. Tình hình kinh tế - xã hội ở đây rất phức tạp, hội đủ các thành phần dân
cư, dân tộc trên khắp địa bàn các vùng miền trong cả nước. Lao động của Cà
Mau phần lớn là trẻ, người dân chất phát, cần cù lao động, mến khách, trọng
nghĩa tình, giàu tình quê hương đất nước, sẵn sàng hy sinh bảo vệ Tổ quốc, có
thể đáp ứng nhu cầu lao động cho nhiều lĩnh vực lao động khác nhau.
- Về tình hình kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh luôn đạt tỷ lệ cao. Tổng vốn đầu tư
toàn xã hội giai đọa 2010 – 2015 đạt 56.228 tỷ đồng, chiếm 30,6% GRDP,
trong đó, riêng vốn đầu tư cụm khí – điện – đạm Cà Mau, với vốn đầu tư 2,5
tỷ USD, thu ngân sách năm 2015 đạt trên 4.000 tỷ đồng.
Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phần lớn diện tích trồng lúa kém
hiệu quả chuyển sang nuôi tôm, đã phát huy lợi thế, tiềm năng và giải phóng
sức sản xuất của đại bộ phận nông dân. Địa bàn nông thôn hình thành nhiều

hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ mới về nuôi trồng, chế biến thủy –
hải sản, tác động mạnh đến chuyển dịch cơ cấu lao động, ngành nghề và nếp
sinh hoạt của nông dân.
Diện tích nuôi trồng thủy – hải sản 296.300 ha. Kinh tế thủy sản, khẳng
định là thế mạnh của tỉnh, phát triển toàn diện trên 4 lĩnh vực: khai thác, nuôi
trồng, chế biến và xuất khẩu. Tổng sản lượng khai thác thủy – hải sản năm
2015 ước đạt 248,4 nghìn tấn, trong đó, sản lượng tôm ước đạt 117 nghìn tấn.
Kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 01 tỷ USD. Thương hiệu hàng thủy sản
xuất khẩu của tỉnh có mặt ở hơn 40 nước, vùng lãnh thổ trên thế giới, tập
trung ở các thị trường lớn và đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao như: Mỹ, Nhật,
EU, Hàn Quốc, Australia,… và có trên 100 bạn hàng.
Sản xuất nông nghiệp từng bước ổn định, diện tích lúa 2 vụ tăng, đảm
bảo cung cấp lương thực cho tỉnh, diện tích rau màu, cây ăn trái phát triển.
Công tác trồng và bảo vệ rừng được quan tâm; diện tích rừng đạt được độ che
phủ 19% diện tích tự nhiên, Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau, Vườn Quốc gia U
Minh Hạ có nhiều động vật quý hiếm được bảo tồn, thuận lợi cho phát triển
du lịch sinh thái.
13


Tỉnh đã được Chính phủ đầu tư xây dựng cụm công nghiệp khí – điện –
đạm, tổng công xuất 2 nhà máy điện là 1.500 MW, nhà máy đạm 800.000
tấn/năm và nhiều công trình hạ tầng kỹ thuật, tạo điều kiện phát huy tiềm
năng, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng kinh tế - xã hội.
Huy động các nguồn lực đẩy mạnh đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội đạt kết quả quan trọng. Các công trình được đầu tư, đưa vào
sử dụng, như: cầu Đầm Cùng, cầu Năm Căn, đường Quản lộ Phụng Hiệp;
đường Hành lang ven biển phía Nam; đường Hồ Chí Minh, Khu tưởng niệm
Bác Hồ; đường ô tô đến trung tâm xã, giao thông nông thôn; các công trình
thủy lợi, lưới điện, bệnh viện, trạm y tế, trường học, công trình văn hóa - thể

thao… đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống
nhân dân.
- Về Văn hóa – Xã hội
Có nhiều tiến bộ, nhân dân hăng hái tham gia phong trào xã hội giáo
dục, đào tạo, y tế, văn hóa, thể dục, thể thao,… đời sống dân cư không ngừng
cải thiện, nhóm hộ khá, hộ giàu tăng; nhà kiên cố và bán kiên cố trên 70%;
trung bình mỗi năm có từ 1,5 đến 2% thoát nghèo, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn
10,14%.
Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư
phát triển mạnh, tỷ lệ hộ gia đình đạt chuẩn văn hóa là 90%, tỷ lệ ấp, khóm
đạt chuẩn văn hóa 85%, tỷ lệ xã, phường, thị trấn đạt chuẩn văn hóa hơn 50%.
Tập trung chỉ đạo Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn
mới, được nhân dân tích cực hưởng ứng; kinh tế - xã hội và kết cấu hạ tầng
nông thôn phát triển khá toàn diện; toàn tỉnh bình quân đạt khoảng 11/19 tiêu
chí; đến nay có 17 xã đạt chuẩn nông thôn mới, bằng 20,73% số xã trong tỉnh.
Chất lượng, hiệu quả giáo dục - đào tạo chuyển biến tích cực ở tất cả
các bậc học, cấp học; đã hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở, đang
triển khai phổ cập giáo dục trung học phổ thông; phổ cập giáo dục mầm non
cho trẻ 5 tuổi được triển khai thực hiện tốt, tỷ lệ huy động trẻ đến trường hàng
năm đều tăng; đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên được chuẩn hóa.
14


Cơ sở vật chất và các điều kiện nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông và
giáo dục chuyên nghiệp được quan tâm; tỷ lệ trường học đạt chuẩn quốc gia
đạt 40%.
Tình hình an ninh - chính trị, trật tự an toàn được giữ vững; ý thức về
nhiệm vụ giữ gìn an ninh, bảo vệ Tổ quốc được nâng lên; xây dựng nền quốc
phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn thế trận an ninh nhân dân
ngày càng vững chắc. Công tác đấu tranh, phòng, chống các loại tội phạm,

bảo vệ an ninh chính trị và giữ vững trật tự, an toàn xã hội đạt kết quả, phong
trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc có bước phát triển mới, kịp thời đấu
tranh với mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đỗ” của
các thế lực thù địch.
* Quan niệm các Đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau
Các đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau là hệ thống tổ chức cơ sở đảng được
thiết lập ở các đơn vị hành chính cấp xã, là nền tảng của Đảng, hạt nhân
chính trị ở cơ sở, có chức năng nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân trong xã chấp
hành đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết chỉ
thị của cấp trên, phát triển KT-XH, củng cố QP, AN trên địa bàn xã, xây
dựng đảng bộ TSVM, lãnh đạo xây dựng chính quyền và các tổ chức trong
HTCT cấp xã vững mạnh chăm lo đời sống của các tầng lớp nhân dân trong
xã.
Các đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau là TCCSĐ hai cấp, bao gồm các chi bộ
trực thuộc là: chi bộ cơ quan; chi bộ trường học; chi bộ quân sự; chi bộ bệnh
xá; chi bộ khóm ấp; chi bộ doanh nghiệp. Hầu hết các chi bộ trực thuộc đảng
ủy xã đều có chi ủy. Cơ quan lãnh đạo giữa hai kỳ đại hội đại biểu hoặc đại
hội đảng bộ xã là đảng ủy xã.
Cà Mau hiện có 82 đảng bộ xã, chiếm hơn 37% trong tổng số các đảng
bộ cơ sở (221 Đảng bộ cơ sở của toàn tỉnh). Do chiếm tỷ lệ khá cao về số
lượng tổ chức cơ sở đảng và số lượng đảng viên, nên các đảng bộ xã có vị trí,
vai trò quan trọng đối với năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Các
15


đảng bộ này là nền tảng của Đảng; là nơi trực tiếp tiến hành các hoạt động
xây dựng Đảng; nơi thể hiện sự gắn bó giữa Đảng và nhân dân.
Các đảng bộ xã là những đơn vị chiến đấu, đại diện cho lập trường
giai cấp công nhân ở cơ sở, lãnh đạo và định hướng giải quyết mọi vấn đề ở
cơ sở theo quan điểm, đường lối của Đảng, đặc biệt là các vấn đề nông

nghiệp, nông dân và nông thôn. Đó là nơi đúc kết những kinh nghiệm, nắm
bắt tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân phản ánh với Đảng, để
Đảng sửa đổi, bổ sung đường lối, chủ trương, chính sách ngày càng đúng
đắn, hoàn thiện hơn.
* Quan niệm Đảng ủy xã ở tỉnh Cà Mau
Đảng ủy xã là cơ quan lãnh đạo giữa hai kỳ đại hội đại biểu đảng bộ
xã, do đại hội đại biểu đảng bộ xã bầu ra và được huyện ủy trực tiếp chuẩn y,
trường hợp đặc biệt huyện ủy có thể chỉ định thành lập đảng ủy xã; đảng ủy
xã là cơ quan lãnh đạo, trung tâm đoàn kết thống nhất, tập trung trí tuệ và
sức mạnh của toàn đảng bộ xã. Các đảng ủy xã ở tỉnh Cà Mau thường có số
lượng 15 đảng ủy viên, trong đó ban thường vụ đảng ủy xã thường có số
lượng không quá 5 ủy viên.
Đảng ủy xã là hạt nhân chính trị, lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; lãnh đạo chính
quyền xã thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn,
xây dựng hệ thống chính trị sơ sở vững mạnh, không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa
vụ đối với Nhà nước.
Là hạt nhân chính trị, các đảng ủy xã ở tỉnh Cà Mau có chức năng,
nhiệm vụ vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước cho phù hợp với địa phương mình; xác định nhiệm
vụ, mục tiêu, chương trình phát triển KT – XH ở địa phương, bảo đảm cho
các hoạt động đó đúng với đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà
nước. Các đảng ủy xã trực tiếp lãnh đạo xây dựng chính quyền, các đoàn thể
chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, uốn nắn kịp thời những lệch
16


lạc trong xây dựng, tổ chức và hoạt động của những tổ chức đó, đồng thời
lãnh đạo chính quyền xã giám sát hoạt động của các cơ quan, văn phòng đại

diện, các tổ chức kinh tế đóng trên địa bàn xã.
* Chức năng, nhiệm vụ của các đảng ủy xã ở tỉnh Cà Mau
- Chức năng: Đảng ủy cơ sở xã là hạt nhân chính trị, lãnh đạo thực
hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng hệ thống chính trị ở xã vững
mạnh, nông thôn giàu đẹp, văn minh; không ngừng nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối
với Nhà nước.
- Nhiệm vụ:
Một là, lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc
phòng: Lãnh đạo chính quyền thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội theo nghị quyết đại hội của đảng bộ xã và của cấp trên; phát
triển nông, lâm, ngư, diêm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, tạo thêm
việc làm mới cho người lao động; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà
nước; xây dựng nông thôn giàu đẹp, văn minh. Lãnh đạo chính quyền thực
hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, quản lý và sử dụng đất hợp lý, tích cực
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất, tăng giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích; thực hiện nhiệm
vụ xây dựng cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm...), quản lý và sử dụng
tốt các nguồn vốn vay, vốn nhân dân đóng góp và các nguồn vốn khác; phát
triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường, thực hiện tốt các
chính sách xã hội, xoá đói, giảm nghèo. Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc
phòng toàn dân và chính sách hậu phương quân đội, giữ vững an ninh chính
trị và trật tự an toàn xã hội; đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng, bảo vệ nội
bộ, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, tính mạng và tài sản của nhân
dân; ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội, nhất là ma tuý, mại dâm.
17



Hai là, Lãnh đạo công tác tư tưởng: Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh và phát huy
truyền thống yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội trong các tầng lớp nhân dân, nhất là
trong thanh niên, thiếu niên; xây dựng tình đoàn kết, gắn bó tình làng, nghĩa
xóm, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau; xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh ở ấp
và trong từng gia đình. Tuyên truyền, vận động làm cho nhân dân hiểu và chấp
hành đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
và các nhiệm vụ của địa phương. Kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của các
tầng lớp nhân dân để giải quyết và báo cáo lên cấp trên; Lãnh đạo cán bộ, đảng
viên và nhân dân đấu tranh chống các quan điểm sai trái, những hành vi nói, viết
và làm trái với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; chống tư tưởng cơ hội, thực dụng, cục bộ, bè phái, gia trưởng, bảo thủ và
các hủ tục lạc hậu, mê tín, dị đoan; phòng, chống sự suy thoái về đạo đức, lối
sống của cán bộ, đảng viên.
Ba là, Lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ: Lãnh đạo xây dựng chính
quyền, các tổ chức trong hệ thống chính trị, các đơn vị kinh tế, sự nghiệp ở cơ
sở vững mạnh. Xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, tích cực tạo nguồn cán bộ tại chỗ, từng bước trẻ hoá đội ngũ
cán bộ, công chức xã; xây dựng quy chế về công tác tổ chức, cán bộ; nhận
xét, đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, đãi ngộ đối với
cán bộ thuộc quyền; quản lý và kiểm tra việc thực hiện chính sách đối với cán
bộ ở cơ sở theo phân cấp. Giới thiệu người đủ tiêu chuẩn, có tín nhiệm trong
tổ chức đảng và nhân dân để bầu vào các chức danh chủ chốt của hội đồng
nhân dân, ủy ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân theo luật
định và điều lệ của mỗi tổ chức. Đề xuất ý kiến trong việc lựa chọn, giới thiệu
cán bộ tham gia vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng, chính quyền, đoàn thể
nhân dân ở cấp trên và cán bộ chủ chốt ở cơ sở do cấp trên quản lý.
Bốn là, Lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân: Xây dựng
18



Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở xã vững mạnh, thực hiện đúng
chức năng, nhiệm vụ theo luật định và điều lệ của mỗi đoàn thể. Thực hiện tốt
các chính sách về dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước, xây dựng khối đoàn
kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thi đua thực hiện có hiệu
quả các nhiệm vụ được giao. Lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ của địa phương, trước hết là những
chủ trương, chính sách về nông nghiệp, nông dân và nông thôn.
Năm là, Xây dựng tổ chức đảng: Đề ra chủ trương, nhiệm vụ và biện
pháp xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh, gắn với xây dựng,
củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên. Chú trọng củng cố, xây dựng và nâng
cao chất lượng lãnh đạo của các chi bộ, tổ đảng ở ấp. Thực hiện đúng nguyên
tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự
phê bình và phê bình; thực hiện có nền nếp và nâng cao chất lượng sinh hoạt
đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ, bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục và tính
chiến đấu. Giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên nêu cao vai trò tiền phong,
gương mẫu, phấn đấu trở thành người lao động giỏi, công dân mẫu mực. Xây
dựng kế hoạch và tạo điều kiện cho đảng viên thực hiện nhiệm vụ học tập,
không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt; xây dựng kế hoạch, biện pháp
quản lý, phân công nhiệm vụ và tạo điều kiện để đảng viên hoàn thành nhiệm
vụ được giao. Làm tốt công tác động viên, khen thưởng, kỷ luật đảng viên.
Xây dựng cấp ủy và bí thư cấp ủy bảo đảm tiêu chuẩn về phẩm chất, năng lực,
thực sự là trung tâm đoàn kết, hoạt động có hiệu quả, được đảng viên và nhân
dân tín nhiệm. Thường xuyên kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên chấp hành
Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước và Quy định
của Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm.
* Quan niệm bí thư đảng ủy xã


19


Bí thư đảng ủy xã là người đứng đầu đảng bộ xã, được đại hội đảng bộ
xã bầu vào ban chấp hành đảng bộ (đảng ủy) và được đảng ủy xã bầu làm bí
thư hoặc cấp trên chỉ định; chủ trì toàn bộ công việc của đảng ủy, thường trực
đảng ủy, trực tiếp nắm các vấn đề trọng yếu, các khâu trung tâm về chính trị,
kinh tế - xã hội, những vấn đề cơ mật về quốc phòng, an ninh; chăm lo xây
dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức; đặc biệt là xây dựng đội ngũ cán
bộ cơ sở thuộc quyền quản lý của đảng ủy và xây dựng mối liên hệ mật thiết
giữa Đảng với nhân dân; chịu trách nhiệm với cấp ủy cấp trên và trước đảng
bộ, nhân dân trong xã về kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của đảng bộ và
công tác xây dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh.
* Chức trách, nhiệm vụ của bí thư đảng ủy xã
Một là, Nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng, các nghị quyết đại
hội, của ban chấp hành, ban thường vụ và cấp trên để quán triệt trong cấp ủy
và chủ trì xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng; đề
xuất với tập thể đảng ủy xác định đúng đắn, chính xác các chủ trương, biện
pháp lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị trong từng thời gian.
Hai là, Nắm vững nhiệm vụ chính trị, nhất là các nhiệm vụ trọng tâm,
các nhiệm vụ nảy sinh, các khâu then chốt, khó khăn, phức tạp trong từng thời
gian, chủ trì việc tổ chức thực hiện nghị quyết và trực tiếp phụ trách các vấn
đề cơ mật về quốc phòng, an ninh.
Ba là, Chủ động chuẩn bị và chỉ đạo nội dung, chương trình hoạt động
của cấp ủy, chuẩn bị các quyết định của tập thể, chủ trì các cuộc họp của cấp
ủy, chuẩn bị kết luận những vấn đề đã được thảo luận. Chỉ đạo tổng kết kinh
nghiệm xây dựng điển hình tiên tiến, nơi làm điển hình, làm thử và các mặt
công tác trọng yếu của đảng bộ.
Bốn là, Chăm lo công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh,

đồng bộ, bao gồm cán bộ chính trị, cán bộ chính quyền, cán bộ Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Năm là, Chấp hành nghiêm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng. Thực
20


hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách và
phát huy trách nhiệm cá nhân; quy chế làm việc của cấp ủy và các chế độ
công tác. Giữ vững đoàn kết nội bộ cấp ủy.
* Đặc điểm của đội ngũ bí thư đảng ủy xã ở tỉnh Cà Mau
Một là, hầu hết đội ngũ BTĐU xã là người địa phương và trưởng thành
từ cơ sở.
Bí thư đảng uỷ xã ở tỉnh Cà Mau thực sự là những đảng viên ưu tú nhất
trong đảng bộ. Trước khi làm bí thư đảng uỷ, bản thân họ đã là đảng viên ưu
tú, có uy tín, có phương pháp làm việc tốt, đã từng tham gia công tác và giữ
chức vụ chủ chốt của tổ chức đảng hay chính quyền, hoặc đoàn thể, ở địa
phương, cơ sở và khi được tín nhiệm bầu làm bí thư đảng uỷ xã đó là cơ hội
để đội ngũ cán bộ này thể hiện năng lực công tác của mình góp phần xây
dựng quê hương giàu đẹp, văn minh.
Đội ngũ bí thư đảng uỷ xã ở tỉnh Cà Mau chủ yếu xuất thân từ nông
dân, hiện tại sống và làm việc ở nông thôn, đa số có tác phong giản dị, gần
gũi với quần chúng, là chỗ dựa tin cậy để quần chúng đề đạt tâm tư nguyện
vọng của mình. Gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là, trong việc
ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi trồng trọt.
Tuy nhiên, do đặc điểm sống cùng bà con thân hữu, mối quan hệ họ tộc
gắn kết chặt chẽ ở địa phương, đội ngũ bí thư đảng uỷ xã nói riêng vẫn còn
mang nặng những yếu tố tâm lý truyền thống. Khi có quyền trong công tác họ
thường hay ưu ái, thiên vị bố trí những người bà con trong họ tộc, những
người quen thân trong gia đình mình vào làm việc. Ở mức độ bình thường cán

bộ đó đảm đương được công việc cũng tạo nên những dư luận không tốt. Nếu
cán bộ đó không hoàn thành nhiệm vụ sẽ dẫn đến mất đoàn kết nội bộ, làm
giảm sút niềm tin trong nhân dân.
Hai là, kiến thức, trình độ, kinh nghiệm của đội ngũ BTĐU xã không
đồng đều.
21


Bí thư đảng uỷ xã ở tỉnh Cà Mau là những người có uy tín trong đảng bộ
và trong cộng đồng dân cư. Thực tế ở đảng bộ các xã ở tỉnh Cà Mau trong nhiều
trường hợp đảng viên chọn bí thư của mình theo uy tín mà không theo tiêu
chuẩn, vẫn còn một số bí thư chưa được đào tạo đầy đủ về trình độ chuyên môn,
lý luận chính trị và bồi dưỡng về tin học, ngoại ngữ.... Để đảm bảo hoàn thành
nhiệm vụ trong suốt nhiệm kỳ, họ phải cần đến nhiều yếu tố mà không phải chỉ
là uy tín ban đầu là đủ, uy tín ấy phải được đảm bảo bằng một hệ thống những
điều kiện khách quan và chủ quan trong suốt thời gian dài.
Đối chiếu tiêu chuẩn chức danh, đội ngũ bí thư đảng uỷ xã của tỉnh Cà
Mau đã nhận thức rõ được ưu, nhược điểm của mình không ngừng phấn đấu
để đáp ứng công việc, hơn ai hết họ hiểu rõ khả năng kiến thức, trình độ của
mình nên đã tích cực tham gia học tập chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, nâng
cao trình độ. Nhiều đồng chí theo học các lớp đại học chuyên ngành hệ tại
chức và đang học trung cấp, cao cấp lý luận chính trị; tự đăng ký học để hoàn
chỉnh trình độ tin học, ngoại ngữ theo tiêu chuẩn quy định. Do vậy, số lượng
bí thư đảng ủy xã có trình độ đại học chuyên môn, cao cấp lý luận chính trị
của tỉnh tăng nhanh.
Đội ngũ bí thư đảng ủy xã của tỉnh Cà Mau có trình độ học vấn, tuổi đời,
nghề nghiệp phong phú đa dạng. Tuyệt đại bộ phận đội ngũ bí thư đảng ủy xã
trong tỉnh đều được đào tạo, bồi dưỡng ở Trường Chính trị tỉnh và Trung tâm
Bồi dưỡng chính trị huyện, thành phố về công tác xây dựng Đảng. Những bí
thư đảng ủy ở các xã có nghề chính là nông nghiệp và buôn bán nhỏ. Thu nhập

chính của họ từ tiền lương của Đảng và từ nghề nghiệp của gia đình.
Đội ngũ bí thư đảng ủy xã có trình độ học vấn khác nhau. Hiện tại đại
đa số có trình độ đại học chuyên ngành, cá biệt có trường hợp trình độ chuyên
môn trung cấp nhưng đang học đại học về một chuyên ngành. Đội ngũ bí thư
đảng ủy ở xã là những người được đại hội Đảng bộ bầu và cấp trên quyết định
công nhận, có người do luân chuyển cán bộ nên cấp trên chỉ định. Với những
người luân chuyển thì thường chỉ trong một nhiệm kỳ. Những người ở tại địa
22


phương thì chủ yếu lệ thuộc vào bầu chọn trong các nhiệm kỳ đại hội Đảng
bộ xã.
Ba là, đặc điểm môi trường hoạt động của đội ngũ bí thư đảng ủy xã.
Môi trường hoạt động của đội ngũ bí thư đảng ủy xã đa dạng, phức tạp. Mọi
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước quán triệt, triển khai đến dân đều
qua cấp cơ sở. Vì vậy, mọi hoạt động của bí thư đảng ủy xã trực tiếp tác động
đến mọi mặt hoạt động của địa phương và nhân dân. Họ là những người đầu
tiên đối mặt với những yêu cầu bức xúc của dân chúng với những mâu thuẫn,
thậm chí cả những xung đột nảy sinh trong đời sống dân cư. Đặc biệt các xã ở
nông thôn quan hệ dòng họ, văn hoá làng xã tác động mạnh nhất. Quan hệ
dòng họ, văn hoá làng xã có thể tác động mạnh nhất có ảnh hưởng đáng kể
đến quan hệ nội bộ trong tổ chức và hiệu quả hoạt động của bí thư đảng ủy
xã. Trong quan hệ với dân, bí thư đảng ủy xã có thể bị chi phối, ràng buộc rất
lớn bởi quan hệ họ hàng, thân tộc, bởi các truyền thống, phong tục, tập quán,
lối sống làng xã. Do đó, phải hết sức chú ý khắc phục tư tưởng dòng họ, bè
phái, lợi dụng chức quyền theo kiểu “một người làm quan cả họ được nhờ”
hoặc “chi bộ nhà ta”…
* Các mối quan hệ công tác của bí thư đảng ủy xã
- Đối với đảng ủy xã là mối quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân
phụ trách.

Bí thư đảng ủy là người chịu trách nhiệm cao nhất trong đảng uỷ, ban
thường vụ, thường trực đảng ủy; chịu trách nhiệm trước cấp uỷ cấp trên, trước
đảng bộ và nhân dân về sự lãnh đạo của đảng, chính quyền trên mọi lĩnh vực,
chủ trì công việc của đảng uỷ, ban thường vụ đảng ủy xã.
Bí thư đảng ủy có trách nhiệm nắm vững đường lối, quan điểm của
Đảng, các Nghị quyết, chỉ thị của cấp uỷ cấp trên, chính sách, pháp luật của
Nhà nước để vận dụng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn địa phương,
đề xuất những vấn đề cần thiết thuộc lĩnh vực được phân công, phụ trách để
ban thường vụ, ban chấp hành đảng bộ thảo luận, quyết định.

23


Bí thư đảng ủy phải nắm vững các nhiệm vụ trọng tâm trong từng thời
gian để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, phụ trách công tác tổ chức cán
bộ, công tác bảo vệ chính trị nội bộ, công tác nội chính những vấn đề cơ mật
về quốc phòng, an ninh. Tập trung chỉ đạo và thường xuyên kiểm tra việc
thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, các khâu và công tác khó khăn, phức tạp ở
địa phương. Nắm vững công tác xây dựng Đảng, nhất là công tác chính trị
tư tưởng, tổ chức cán bộ, đảm bảo sinh hoạt của đảng bộ, đảng uỷ, ban
thường vụ, thường trực đảng ủy được thực hiện đúng quy chế, đúng nguyên
tắc của Đảng và pháp luật của Nhà nước, chăm lo giữ gìn đoàn kết trong
nội bộ trong đảng bộ xã.
- Đối với HDND xã là mối quan hệ giữa chỉ đạo và thực hiện.
Bí thư Đảng ủy cùng với đảng uỷ, ban thường vụ lãnh đạo HĐND
thông qua đội ngũ cán bộ là cấp uỷ viên, đảng viên công tác trong HĐND,
trực tiếp là đồng chí Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND. Định hướng cho ý kiến
chỉ đạo việc xác định phương hướng, nhiệm vụ, chủ trương, biện pháp phát
triển kinh tế - xã hội để đưa ra HĐND thảo luận, quyết định. Giới thiệu cán
bộ, đảng viên để HĐND lựa chọn bầu vào các chức danh chủ chốt của

HĐND, UBND. Lãnh đạo việc xác định chủ trương, phương hướng, tiêu
chuẩn, cơ cấu để chuẩn bị và tiến hành bầu cử đại biểu HĐND đúng luật định.
Chủ trì cùng ban thường vụ đảng uỷ xem xét, cho ý kiến về những nội của các
kỳ họp HĐND.
- Đối với UBND xã là mối quan hệ giữa chỉ đạo và thực hiện.
Bí thư đảng ủy cùng với đảng uỷ, ban thường vụ lãnh đạo UBND thông
qua đội ngũ cán bộ là cấp uỷ viên, đảng viên công tác trong UBND, trực tiếp
là đồng chí Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND . Định hướng các chủ trương, biện
pháp lớn và chuẩn bị dự thảo các đề án về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh báo cáo đảng uỷ, ban thường vụ. Cùng với thường trực đảng uỷ nghe đại
diện lãnh đạo UBND báo cáo với tại buổi giao ban hàng tuần về những kết
quả chủ yếu trong tuần, những nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung chỉ đạo trong
24


tuần tiếp theo, những nội dung xin ý kiến chỉ đạo và những kiến nghị, đề xuất
của các tổ chức kinh tế, đoàn thể trong hệ thống chính trị thấy cần thiết xin
chủ trương, ý kiến chỉ đạo của ban thường vụ đảng ủy. Lựa chọn, giới thiệu
cán bộ để các cơ quan có thẩm quyền đào tạo, bầu cử hoặc bổ nhiệm các chức
vụ của UBND theo đúng nguyên tắc, quy định của pháp luật.
- Đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể xã là mối quan hệ giữa chỉ
đạo và thực hiện.
Bí thư đảng ủy cùng với đảng uỷ, ban thường vụ lãnh đạo UB MTTQ,
các ngành, đoàn thể ở địa phương bằng chủ trương, chỉ thị, nghị quyết và
thông qua cấp ủy viên là lãnh đạo UB MTTQ, các ngành, đoàn thể ở xã. Chỉ
đạo việc quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả và thường
xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cho ý kiến lãnh đạo về định hướng
những nội dung hoạt động của MTTQ và các ngành, đoàn thể theo sự hướng
dẫn của cấp trên và tình hình thực hiện ở địa phương. Quản lý, nhận xét, đánh

giá, xếp loại cán bộ theo phân công, phân cấp và theo đúng quy định của cấp
uỷ cấp trên, Điều lệ của các đoàn thể đó.
- Đối với các tổ chứckinh tế là mối quan hệ giữa chỉ đạo và thực hiện.
Bí thư đảng uỷ xã cùng với ban thường vụ đảng uỷ, ban chấp hành đảng
bộ xã lãnh đạo các tổ chức kinh tế bằng chủ trương, chỉ thị, nghị quyết và thông
qua các đảng viên . Chỉ đạo việc quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm túc, có
hiệu quả và thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chỉ thị, nghị
quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Định hướng chủ trương,
mục tiêu, nhiệm vụ về phát triển sản xuất, kinh doanh trên cơ sở quy định của
pháp luật, điều lệ, nội quy của tổ chức kinh tế. Xem xét, cho ý kiến về chủ
trương thực hiện huy động vốn đóng góp của nhân dân và những chủ trương
về sản xuất, kinh doanh có ảnh hưởng lớn, trực tiếp đến đa số người dân.
- Đối với cấp trên là mối quan hệ giữa lãnh đạo, chỉ đạo và phục tùng.
Bí thư đảng ủy xã phải phục tùng sự lãnh đạo của ban thường vụ, thường trực
huyện ủy, thành uỷ và các ban, ngành, đoàn thể ở huyện. Bí thư Đảng uỷ, phải
nghiêm chỉnh chấp hành các Nghị quyết, chỉ thị và chế độ báo cáo với huyện,
25


thành uỷ theo đúng thẩm quyền, nguyên tắc quy định . Khi các Ban của
huyện, thành ủy về làm việc hoặc có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, thì bí thư
đảng ủy có trách nhiệm giải quyết theo chức trách của mình, trường hợp cần
thiết thì báo cáo, xin ý kiến đảng uỷ xem xét giải quyết theo thẩm quyền. Khi
các cơ quan Nhà nước, các ban, ngành, đoàn thể ở huyện, tỉnh về làm việc
hoặc có văn bản ý kiến chỉ đạo thì bí thư đảng ủy chỉ đạo HĐND, UBND, các
khối, ngành, đoàn thể có liên quan ở địa phương có trách nhiệm giải quyết.
Những vấn đề quan trọng và những nội dung có liên quan đến cán bộ thuộc
diện ban thường vụ đảng uỷ quản lý thì bí thư đảng ủy báo cáo xin ý kiến ban
thường vụ, ban chấp hành đảng bộ theo thẩm quyền phân cấp.
* Vai trò của đội ngũ bí thư đảng ủy xã ở tỉnh Cà Mau.

Một là, vị trí, vai trò dứng đầug TCCSĐ của bí thư đảng ủy xã.
Bí thư đảng uỷ xã là người đứng đầu tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn và
là người đại diện cho đảng bộ, có trách nhiệm chỉ đạo, điều hành mọi mặt
công tác của đảng uỷ, đảng bộ và chịu trách nhiệm trước cấp uỷ cấp trên.
Bí thư đảng uỷ xã là cán bộ lãnh đạo chủ chốt, là người đứng đầu
đảng bộ, ban thường vụ và đảng uỷ xã, là linh hồn của cơ quan lãnh đạo xã.
Đó là người đề xướng, chủ trì tổ chức mọi hoạt động của ban thường vụ
đảng uỷ, ban chấp hành đảng bộ xã, từ xây dựng nội bộ Đảng đến lãnh đạo
các lĩnh vực của đời sống xã hội trên địa bàn xã, lãnh đạo các tổ chức trong
hệ thống chính trị, lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức xã hội
trên địa bàn xã.
Hai là, vị trí, vai trò chủ trì công tác xây dựng đảng của bí thư đảng ủy xã.
Bí thư đảng ủy là người trực tiếp chăm lo xây dựng các chi bộ trực
thuộc đảng uỷ xã trong sạch vững mạnh và xây dựng đội ngũ cán bộ xã. Bí
thư đảng uỷ xã có phẩm chất đạo đức tốt, có phong cách làm việc dân chủ
khoa học, gần gũi cán bộ, đảng viên và nhân dân, có năng lực tổ chức thực
hiện tốt thì xã mới mạnh, mọi hoạt động mới đi vào nền nếp theo đúng đường
lối quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Đối với toàn bộ hoạt động của cấp uỷ và đảng bộ xã, người bí thư đảng
26


×