Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ NĂNG lực LÃNH đạo của tổ CHỨC ĐẢNG cơ sở ở ĐẢNG bộ KHỐI dân CHÍNH ĐẢNG TỈNH cà MAU HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (875.11 KB, 112 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ) là nền tảng của Đảng; xây dựng TCCSĐ
trong sạch, vững mạnh (TSVM) là nội dung cơ bản, xuyên suốt của công tác
xây dựng Đảng, trong đó vấn đề cốt lõi nhất là nâng cao năng lực lãnh đạo
(NLLĐ) của TCCSĐ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị. NLLĐ của tổ chức
đảng là thước đo sự TSVM của mỗi tổ chức đảng, là kết quả tất yếu, tổng hợp
của toàn bộ công tác xây dựng Đảng, đồng thời là điều kiện để tiến hành có
hiệu quả công tác xây dựng Đảng.
Tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ khối dân chính đảng (ĐBKDCĐ)
tỉnh Cà Mau hiện nay có vị trí, vai trò rất quan trọng; sự lãnh đạo của các
TCCSĐ là nhân tố quyết định đến việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị
của từng cơ quan, đơn vị. NLLĐ là điều kiện quyết định hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của các TCCSĐ.
Những năm qua, quán triệt thực hiện chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của
Đảng về công tác xây dựng đảng, các TCCSĐ thuộc ĐBKDCĐ tỉnh Cà Mau
đã giữ vững và thực sự phát huy vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở; lãnh đạo cơ
quan, đơn vị thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước và sự chỉ đạo của cấp uỷ cấp trên; thực hiện có hiệu
quả nhiệm vụ chính trị, công tác chuyên môn; xây dựng và thực hiện nghiêm
quy chế dân chủ ở cơ sở; công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch cán bộ được
chăm lo; đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở tăng về số lượng, trình độ, kiến
thức, năng lực hoạt động thực tiễn ngày càng được nâng lên.
Tuy nhiên, NLLĐ của TCCSĐ có mặt còn hạn chế, chưa đáp ứng được
yêu cầu, nhiệm vụ: Một số TCCSĐ chưa nhận thức đầy đủ và thực hiện đúng
chức năng, nhiệm vụ theo quy định; công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn
luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, trình độ kiến thức mọi mặt cho cán bộ,

3



đảng viên chưa được quan tâm đúng mức; năng lực vận dụng và cụ thể hóa
thực hiện các chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước vào thực tiễn còn hạn chế. Một số TCCSĐ chưa duy trì chế độ sinh hoạt
theo quy định, nội dung, hình thức chậm đổi mới; chưa chú trọng đổi mới
phương thức lãnh đạo. Việc đánh giá phân tích chất lượng TCCSĐ và đảng
viên hằng năm có nơi còn hình thức, kết quả chưa phản ánh đúng thực chất.
Công tác kiểm tra, giám sát, quản lý đảng viên, phát triển đảng viên có nơi
còn buông lỏng. Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý
chí phấn đấu, vi phạm nguyên tắc của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân
chủ, tự phê bình và phê bình.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên cho thấy, NLLĐ của TCCSĐ thuộc
ĐBKDCĐ tỉnh Cà Mau hiện nay chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng bộ
tỉnh, nhất là những yêu cầu mới đặt ra trong công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng theo Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng hiện nay” và Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XII) “về tăng cường
xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong
nội bộ”. Vì vậy, tác giả chọn vấn đề: “Nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ
chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ khối dân chính đảng tỉnh Cà Mau hiện
nay” làm đề tài nghiên cứu là sự cần thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Năng lực lãnh đạo và nâng cao NLLĐ của TCCSĐ đã được trình bày
trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng qua các nhiệm kỳ, nghị quyết của
các cấp uỷ đảng, các bài nói, bài viết của các đồng chí lãnh đạo và được nhiều
nhà khoa học, cơ quan chức năng, học viện, trường học quan tâm nghiên cứu
dưới nhiều cấp độ, phạm vi khác nhau. Trong đó, có một số công trình nghiên
cứu tiêu biểu liên quan trực tiếp đến đề tài:
4



* Sách tham khảo
Ban Tuyên giáo Trung ương, Tài liệu bồi dưỡng công tác Đảng cho bí
thư chi bộ và cấp uỷ viên cơ sở, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2007. Hội
đồng lý luận Trung ương, những vấn đề lý luận và thực tiễn mới đặt ra trong
tình hình hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội, 2008. Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Giáo trình Công tác Xây dựng Đảng, Nxb CTQG, Hà Nội,
2004. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện
Chính trị - Hành chính khu vực II, Đề cương bài giảng Xây dựng Đảng, Nxb
CTHC, Hà Nội, 2012. Tổng cục Chính trị, Giáo trình Công tác đảng, công
tác chính trị, Nxb QĐND, Hà Nội, 2008. Ban Chấp hành Trung ương, Báo
cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (19862016), Nxb CTQG, Hà Nội, 2015. PGS,TS Đào Duy Quát, PGS,TS Phạm
Văn Linh (chủ biên), Hỏi đáp nghiệp vụ công tác đảng dành cho bí thư chi bộ
và cấp ủy viên cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008. Ban Tổ chức
Tỉnh ủy Cà Mau, Tài liệu tập huấn nghiệp vụ công tác tổ chức xây dựng
Đảng, Cà Mau, 2013. Đảng bộ tỉnh Cà Mau, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng
bộ tỉnh Cà Mau khoá XIV, nhiệm kỳ 2015 - 2020, năm 2015.
Các công trình sách khoa học đã nghiên cứu, luận giải những quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta về xây
dựng Đảng, chính quyền Nhà nước. Nhiều công trình xác định, luận bàn về
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với hệ thống chính trị. Những công trình khoa học này đều cho rằng việc
công tác xây dựng Đảng, củng cố nâng cao chất lượng TCCSĐ, đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động của Đảng phù hợp với tình hình là vấn đề rất
quan trọng hiện nay.
* Đề tài khoa học
Trần Ngọc Sơn (chủ nhiệm đề tài), “Nâng cao NLLĐ và sức chiến đấu
(SCĐ) của các TCCSĐ trong quân đội đảm bảo xây dựng quân đội vững mạnh

5



về chính trị, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trong mọi tình huống”, đề tài
cấp Bộ Quốc phòng, Hà Nội, 1998. Đỗ Đức Tuệ (chủ nhiệm đề tài), “Xây dựng
TCCSĐ TSVM gắn với xây dựng đơn vị cơ sở vững mạnh toàn diện trong giai
đoạn mới”, đề tài cấp Tổng cục Chính trị, Hà Nội, 2000. Nguyễn Tiến Phồn
(chủ nhiệm đề tài), “Dân chủ và tập trung dân chủ, lý luận và thực tiễn”, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001. Lê Văn Dương (chủ nhiệm đề tài), “Nâng cao
NLLĐ và SCĐ của các tổ chức đảng trong quân đội, bảo đảm xây dựng quân
đội vững mạnh về chính trị, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong mọi tình
huống”, đề tài khoa học cấp Bộ Quốc phòng, Hà Nội, 2000.
* Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ:
Phạm Văn Thắng, “Nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng tổ
chức và hoạt động của Đảng bộ Quân đội hiện nay”, Luận án phó tiến sĩ Khoa
học lịch sử, Hà Nội, 1994. Đặng Thế Vinh, “Nâng cao chất lượng thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ của đảng uỷ cơ sở các đơn vị chiến đấu binh
đoàn chủ lực Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai hiện nay”, Luận án tiến
sĩ lịch sử, Hà Nội, 2003. Cao Xuân Thưởng, “Nâng cao NLLĐ và SCĐ của các
TCCSĐ ở các trung đoàn không quân chiến đấu hiện nay”, Luận án tiến sĩ
chuyên ngành xây dựng Đảng, Học viện Chính trị - Quân sự, Hà Nội, 2001.
Vũ Quang Sơn, “Nâng cao chất lượng lãnh đạo của chi bộ khoa giáo
viên ở Học viện Quốc phòng hiện nay”, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành xây
dựng Đảng, Học viện Chính trị, Hà Nội, 2002. Mạc Văn Thuận, “Xây dựng
đảng uỷ trung đoàn bộ binh đủ quân trong sạch vững mạnh ở các binh đoàn
chủ lực hiện nay”, Luận văn thạc sĩ xây dựng Đảng, Hà Nội, 2000. Cấn Văn
Phong, “Nâng cao sức chiến đấu của TCCSĐ đơn vị học viên đào tạo sĩ quan
chỉ huy ở Trường Sĩ quan Lục quân 1 hiện nay”, Luận văn thạc sĩ xây dựng
Đảng, Học viện Chính trị - Quân sự, Hà Nội, 2000. Lê Đình Nhuê, “Nâng cao
NLLĐ của TCCSĐ ở các cơ quan thuộc Đảng bộ Học viện Hậu cần hiện
nay”, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành xây dựng Đảng, Học viện Chính trị 6



Quân sự, Hà Nội, 2000. Hoàng Bằng, “Nâng cao NLLĐ, SCĐ của TCCSĐ ở
các doanh nghiệp thuộc Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng trong giai đoạn
hiện nay”, Luận văn thạc sĩ xây dựng Đảng, Học viện Chính trị - Quân sự, Hà
Nội, 2004. Trần Văn Dũng, “Nâng cao NLLĐ của chi bộ lớp học viên đào tạo
cán bộ chỉ huy tham mưu cấp chiến thuật, chiến dịch ở Đảng bộ Học viện Lục
quân hiện nay”, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành xây dựng Đảng, Học viện
Chính trị, Hà Nội, 2010. Nguyễn Văn Thắng, Đổi mới phong cách lãnh đạo
cấp ủy cơ sở Trường sỹ quan lục quân II hiện nay, Luận văn thạc sỹ, chuyên
ngành xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước, Học viện Chính trị, 2011.
Phạm Minh Sơn, Nâng cao chất lượng hoạt động lãnh đạo của tổ chức đảng
ở các cơ quan thuộc Trường sỹ quan chức cơ sở đảng ở các cơ Chính trị hiện
nay, Luận văn thạc sỹ, chuyên ngành xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà
nước, Học viện Chính trị, 2012. Lại Hà Phương, Nâng cao Năng lực lãnh đạo
của Đảng ủy các phường thuộc Đảng bộ quận Hà Đông – thành phố Hà Nội,
Luận văn thạc sỹ, chuyên ngành xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước,
Học viện Chính trị, 2014.
Các đề tài khoa học, luận án, luận văn nói trên đã đi sâu nghiên cứu
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng ta về công tác xây dựng Đảng, xây dựng TCCSĐ; phân
tích làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của vấn đề nghiên cứu, trong đó đã khái
quát, luận giải làm rõ một số vấn đề về quan niệm, vị trí, vai trò, đặc điểm,
yêu cầu của công tác xây dựng TCCSĐ TSVM trong quân đội nói chung và ở
từng cơ quan, đơn vị nói riêng. Một số đề tài tập trung làm rõ quan niệm,
những yếu tố cấu thành, biểu hiện đặc trưng cơ bản của NLLĐ và CSĐ của
TCCSĐ ở đơn vị cơ sở trong Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam. Trên cơ
sở đánh giá đúng thực trạng, xác định nguyên nhân, làm rõ những yêu cầu đòi
hỏi phải nâng cao NLLĐ và SCĐ ở các đơn vị đó, đề xuất một số giải pháp cơ
bản nhằm nâng cao NLLĐ, CSĐ của TCCSĐ ở các đơn vị cơ sở trong QĐND
Việt Nam hiện nay.

7


* Sách, giáo trình và bài báo khoa học
Lê Văn Dương, “Nâng cao NLLĐ và sức chiến đấu của Đảng trong
thời kỳ mới”, Sách, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2004. Cuốn sách đã đề cập tới
những đặc điểm, kinh nghiệm, những yếu tố tác động đến hoạt động lãnh đạo
của Đảng trong giai đoạn hiện nay, đề xuất một số giải pháp có tính định
hướng nhằm từng bước nâng cao NLLĐ, SCĐ của Đảng trong tình hình mới.
Giáo trình công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân
Việt Nam (dùng cho đối tượng đào tạo cán bộ cấp chiến thuật, chiến dịch),
Nxb QĐND, Hà Nội, 2008. Chương 6 “Đảng và những vấn đề cơ bản về xây
dựng Đảng”, tập trung luận bàn những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng, xây dựng Đảng và các quan điểm, chủ
trương, đường lối, giải pháp xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai
đoạn mới, công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH - HĐH) đất nước. Chương 7
“Đặc điểm, vai trò, nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều
kiện Đảng cầm quyền”, tập trung chủ yếu bàn về vị trí, vai trò, tầm quan trọng
của công tác xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, đồng thời nêu
ra các đặc điểm có tính đặc thù trong giai đoạn cách mạng mới và đề xuất một
số nội dung, phương pháp lãnh đạo cơ bản của Đảng nhằm không ngừng nâng
cao NLLĐ, SCĐ của Đảng nói chung, các TCCSĐ trong toàn Đảng nói riêng.
Trần Duy Hương, “Xây dựng cấp uỷ các cấp TSVM - một yêu cầu cơ
bản của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Quân đội”, Tạp chí Quốc
phòng toàn dân số 2/2000, trang 53; “Nâng cao NLLĐ, SCĐ của TCCSĐ
trong giai đoạn hiện nay”, Thông tin chuyên đề phục vụ nghiên cứu, giảng
dạy, lưu hành nội bộ - Viện Thông tin Khoa học, Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2006. Lê Văn Dũng, “Nâng cao
NLLĐ, SCĐ của TCCSĐ trong quân đội”, Thông tin chuyên đề, Nxb CTQG,
Hà Nội, 2007. Bùi Quang Cường, “Nâng cao NLLĐ SCĐ của TCCSĐ là giải
8



pháp, yêu cầu cấp bách hiện nay nhằm thực hiện có hiệu quả Nghị quyết
Trung ương tư (khoá XI) Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay”, Tạp chí Giáo dục lý luận, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh, tháng 9/2012. Ngô Văn Dụ, Quan điểm xuyên suốt của Đảng ta về
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh, Tạp chí Cộng sản, số 864/2014. Nguyễn Ngọc Hà,
Đẩy mạnh xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo di chúc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Tạp chí Cộng sản, số 864/2014. Nguyễn Thế Trung, Đảng cầm quyền
và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức chính trị - xã hội, Tạp chí Cộng sản, số 869/2015. Lê Thị Thanh,
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế, Tạp chí Cộng sản, số 98/2015. PGS,TS Nguyễn Thị Thanh,
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thời kỳ hội nhập quốc tế, Tạp chí kiểm
tra, số 5/2012.
Các bài báo khoa học đã nghiên cứu làm rõ những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về nâng
cao NLLĐ, SCĐ của TCCSĐ ở cơ quan Trung ương, trong Đảng bộ Quân đội,
trong các loại hình doanh nghiệp, các trường đại học, cao đẳng và ở nông thôn,
qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất một số giải pháp cụ thể
nhằm nâng cao NLLĐ, SCĐ của TCCSĐ trong giai đoạn hiện nay.
Các đề tài công trình khoa học nêu trên đều có khách thể và đối tượng
nghiên cứu riêng. Mặc dù có sự giao thoa về nội dung nghiên cứu, nhưng đến
nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về
NLLĐ của TCCSĐ thuộc ĐBKDCĐ tỉnh Cà Mau. Do đó, đề tài “Nâng cao
năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ khối Dân chính

9



đảng tỉnh Cà Mau hiện nay” là công trình nghiên cứu độc lập, không trùng
lặp với các công trình đã nghiệm thu công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Đề tài có mục đích nghiên cứu lý luận và thực tiễn theo quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về TCCSĐ nói
chung, về tình hình thực tế nâng cao NLLĐ của TCCSĐ thuộc ĐBKDCĐ tỉnh
Cà Mau nói riêng, làm cơ sở đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao
NLLĐ của TCCSĐ thuộc ĐBKDCĐ tỉnh Cà Mau trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích, luận giải làm rõ những cơ sở lý luận về vị trí, vai trò của
TCCSĐ và nâng cao NLLĐ của TCCSĐ thuộc ĐBKDCĐ tỉnh Cà Mau.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh
nghiệm nâng cao NLLĐ của TCCSĐ thuộc ĐBKDCĐ tỉnh Cà Mau.
- Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp nâng cao NLLĐ của
TCCSĐ thuộc ĐBKDCĐ tỉnh Cà Mau hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Nâng cao NLLĐ của TCCSĐ thuộc ĐBKDCĐ tỉnh Cà Mau hiện nay là
đối tượng nghiên cứu của luận văn.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn, yêu cầu,
giải pháp nâng cao NLLĐ của TCCSĐ thuộc ĐBKDCĐ tỉnh Cà Mau. Các
số liệu, tư liệu phục vụ cho đề tài được giới hạn chủ yếu từ 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận

10



Luận văn được nghiên cứu dựa trên hệ thống những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về Đảng và công tác xây dựng Đảng; các nghị quyết, chỉ
thị, quy chế, quy định về công tác xây dựng Đảng, xây dựng TCCSĐ TSVM,
nâng cao NLLĐ và SCĐ của Đảng.
* Cơ sở thực tiễn
Là hoạt động lãnh đạo và công tác xây dựng cấp uỷ, TCCSĐ thuộc
ĐBKDCĐ tỉnh Cà Mau; hướng dẫn của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ và Ban Tổ
chức Tỉnh uỷ Cà Mau về công tác xây dựng Đảng và xây dựng TCCSĐ; các
văn kiện, nghị quyết, báo cáo sơ kết, tổng kết về công tác xây dựng Đảng; các
số liệu, tư liệu tác giả thu thập được trong quá trình công tác tại ĐBKDCĐ
tỉnh Cà Mau; đồng thời kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công
trình, đề tài khoa học có liên quan đã được nghiệm thu, công bố.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học
chính trị, khoa học chuyên ngành và liên ngành, chú trọng các phương pháp
lôgíc, lịch sử, phân tích, tổng hợp; so sánh, điều tra khảo sát, tổng kết thực
tiễn và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu đề tài góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận,
thực tiễn xây dựng TCCSĐ, cung cấp thêm luận cứ cho Đảng uỷ KDCĐ và
các TCCSĐ thuộc ĐBKDCĐ tỉnh Cà Mau xác định chủ trương, biện pháp
nâng cao NLLĐ của TCCSĐ thuộc ĐBKDCĐ, tỉnh Cà Mau hiện nay.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho
nghiên cứu giảng dạy môn Xây dựng Đảng ở Trường Chính trị tỉnh và Trung
tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện tỉnh Cà Mau.

11



7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
THUỘC ĐẢNG BỘ KHỐI DÂN CHÍNH ĐẢNG TỈNH CÀ MAU

1.1. Năng lực lãnh đạo và những vấn đề cơ bản về nâng cao năng
lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ khối dân chính đảng
tỉnh Cà Mau
1.1.1. Đảng bộ khối dân chính đảng và năng lực lãnh đạo của tổ
chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ khối dân chính đảng tỉnh Cà Mau
* Khái quát về tỉnh Cà Mau
Cà Mau là tỉnh cực Nam của Tổ quốc, thuộc Đồng bằng sông Cửu
Long và nằm trọn trên bán đảo Cà Mau. Phía Bắc giáp với tỉnh Kiên Giang,
Bạc Liêu; phía Nam và phía Đông tiếp giáp với Biển Đông; phía Tây giáp với
vịnh Thái Lan. Mũi Cà Mau là địa danh cuối cùng cực Nam của Tổ quốc, có
vị trí quan trọng về kinh tế, chính trị và là vùng đất có ý nghĩa thiêng liêng đối
với nhân dân cả nước.
Cà Mau là tỉnh có diện tích vào loại lớn trong vùng (5.329,5 km 2), chỉ
sau tỉnh Kiên Giang; là vùng đất trẻ, mới được khai phá sử dụng, có độ phì
nhiêu trung bình khá, hàm lượng chất hữu cơ cao. Các tài nguyên đất đai, khí
hậu, nguồn nước… tương đối thuận lợi, là tiềm năng lớn để phát triển kinh tế
ngư - nông - lâm nghiệp, tạo nguồn nguyên liệu để phát triển công nghiệp chế
biến xuất nhập khẩu và du lịch tham quan gắn với du lịch sinh thái, biển đảo.
Cà Mau là tỉnh duy nhất trong vùng và cả nước có 3 mặt giáp biển, trải
dài từ Biển Đông sang Biển Tây, với bờ biển dài 254 km nằm trong vòng


12


cung đường biển của nhiều trung tâm phát triển khu vực Đông Nam Á. Cà
Mau còn có hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt với 33 cửa sông lớn,
nhỏ thông ra biển, tổng chiều dài hơn 18.000 km, rất thuận lợi cho việc phát
triển giao thông đường thủy. Tỉnh có hai khu rừng ngập nước là rừng tràm U
Minh hạ và rừng đước Năm Căn, Ngọc Hiển có giá trị sinh học, kinh tế và
phòng hộ cao. Rừng tràm, rừng đước Cà Mau từng là căn cứ địa cách mạng
của Xứ uỷ Nam Bộ và Khu uỷ khu Tây Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến
chống quân xâm lược. Năm 2009, vùng đất ngập mặn Mũi Cà Mau được
UNESSCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới.
Cà Mau có 09 đơn vị hành chính cấp huyện (thành phố Cà Mau và 8
huyện: Đầm Dơi, Ngọc Hiển, Cái Nước, Trần Văn Thời, U Minh, Thới Bình,
Năm Căn, Phú Tân); có 101 xã, phường, thị trấn, với 949 ấp, khóm. Dân số
trên 1,2 triệu người, với cơ cấu đa dân tộc, trong đó chủ yếu là dân tộc Kinh,
Hoa, Khmer (người Kinh chiếm 97%, còn lại là dân tộc Hoa và dân tộc
Khmer). Cà Mau có nhiều tôn giáo và thờ cúng tín ngưỡng dân gian mang
tính tâm linh đa dạng, mỗi cơ sở thờ tự lưu giữ nét tính ngưỡng riêng, nhưng
vẫn thể hiện tính giao thoa nhất định giữa các tôn giáo. Quá trình tạo dựng
nên tỉnh Cà Mau cho thấy vùng đất và con người nơi đây được hình thành và
phát triển trên cơ sở khẩn hoang lập nghiệp, chung sức, chung lòng vượt mọi
khó khăn, hiệp lực đấu tranh chống mọi kẻ thù, bảo vệ quê hương, đất nước;
đồng thời xây dựng nên đời sống văn hóa của người dân trên vùng đất cực
Nam của Tổ quốc ngày càng thêm phát triển.
* Đảng bộ tỉnh Cà Mau
Đảng bộ tỉnh Cà Mau có 14 đảng bộ trực thuộc (Đảng bộ thành phố Cà
Mau, 8 huyện, 3 đảng bộ lực lượng vũ trang, 1 Đảng bộ khối dân chính đảng
và 1 Đảng bộ khối Doanh nghiệp); có 621 TCCSĐ (221 đảng bộ và 400 chi

bộ cơ sở) và 2.462 đảng bộ, chi bộ bộ phận trực thuộc đảng bộ cơ sở, với
41.8000 đảng viên (đảng viên nữ 10.614, dân tộc 2.446, tôn giáo 31).
13


Những năm qua, Đảng bộ và quân, dân tỉnh Cà Mau đã nỗ lực lãnh đạo,
tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XIV Đảng bộ tỉnh
nhiệm kỳ 2010-2015 đạt được kết quả khá toàn diện trên các lĩnh vực. Kinh tế
duy trì tăng trưởng khá, GDP bình quân đạt 8,3%/năm, bình quân đầu người
năm 2015 đạt 1.700 USD/người. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2015 đạt 01
tỷ USD, là tỉnh đứng đầu cả nước về kim ngạch xuất khẩu mặt hàng tôm. Thu
ngân sách đạt 4.380 tỷ đồng; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều hiện nay còn
7,96%. Văn hoá - xã hội có nhiều tiến bộ, an sinh xã hội và đời sống của nhân
dân tiếp tục cải thiện. Quốc phòng, an ninh được giữ vững. Công tác phòng,
chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm có tiến bộ. Xây dựng Đảng,
xây dựng hệ thống chính trị có nhiều chuyển biến rõ, NLLĐ và SCĐ của
TCCSĐ không ngừng được nâng lên.
Tuy nhiên, kết quả đạt được vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế
của tỉnh. Kinh tế tăng trưởng khá nhưng chưa bền vững; lĩnh vực văn hoá - xã
hội một số mặt phát triển chưa đạt yêu cầu; trật tự an toàn xã hội có lúc diễn
biến phức tạp. NLLĐ, SCĐ của một số cấp uỷ, tổ chức đảng và đảng viên
từng lúc, từng nơi còn hạn chế, yếu kém.
* Đảng bộ KDCĐ tỉnh Cà Mau
Đảng bộ KDCĐ tỉnh Cà Mau được thành lập sau ngày miền Nam giải
phóng, đến nay đã trải qua nhiều lần tách, nhập và đổi tên cùng với việc kiện
toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của các TCCSĐ thuộc ĐBKDCĐ. Tháng
4/1977, ĐBKDCĐ giải thể và các TCCSĐ trực thuộc được “tạm thời giao liên
hệ làm việc với Ban Tổ chức Tỉnh uỷ”. Tháng 7/1985, Tỉnh uỷ Minh Hải
quyết định thành lập ba ĐB trực thuộc ĐB tỉnh gồm: ĐBKDCĐ, ĐB khối cơ
quan quản lý Nhà nước và ĐB khối cơ quan quản lý kinh tế. Tháng 6/1988, ba

ĐB được sáp nhập lại lấy tên gọi là ĐB khối các cơ quan cấp tỉnh.
Ngày 01/01/1997, tỉnh Cà Mau được tái lập, Tỉnh uỷ Cà Mau quyết
định thành lập lại ĐB Khối Doanh nghiệp. Tháng 6/2002, hai ĐB này tiếp tục
14


được sáp nhập và lấy tên gọi là ĐBKDCĐ. Tháng 9/2012, ĐB khối Doanh
nghiệp được tái lập, ĐBKDCĐ tỉnh Cà Mau hoạt động cho đến nay [12, tr.3,4].
Đảng bộ KDCĐ tỉnh Cà Mau là ĐB cấp trên trực tiếp của TCCSĐ được
thành lập và hoạt động ở các cơ quan hành chính (sở, ban, ngành, đoàn thể)
và các đơn vị sự nghiệp cấp tỉnh (gọi chung là các cơ quan, đơn vị) trực thuộc
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. ĐB hiện có 73 TCCSĐ trực thuộc (gồm 39 ĐB
cơ sở và 34 CB cơ sở), 240 CB bộ phận trực thuộc ĐB cơ sở. Phân theo loại
hình hoạt động: có 49 ĐB, CB cơ quan và 24 ĐB, CB đơn vị sự nghiệp. Đảng
bộ có 3.655 đảng viên (đảng viên nữ 1.049, dân tộc 65, tôn giáo 44).
Năm 2015, trên cơ sở đánh giá chất lượng hoạt động của TCCSĐ, Ban
Thường vụ Đảng uỷ KDCĐ tỉnh Cà Mau đã xếp loại TCCSĐ trực thuộc như
sau: TCCSĐ đạt tiêu chuẩn TSVM 41 (chiếm 56,16%), hoàn thành tốt nhiệm
vụ 24 (chiếm 32,87%), hoàn thành nhiệm vụ 08 (10,95%). Đảng viên tham gia
đánh giá năm 2015 có 3.640 đồng chí, trong đó: hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
471 (chiếm 12,93%), hoàn thành tốt nhiệm vụ 2.993 (chiếm 82,2%), hoàn
thành nhiệm vụ 127 (chiếm 3,48%), không hoàn thành nhiệm vụ 16 (chiếm
0,43%) [phụ lục 6].
Cơ quan chuyên trách của Đảng uỷ KDCĐ có 05 phòng, ban (Ban
Tuyên giáo Đảng uỷ, Ban Tổ chức Đảng uỷ, Uỷ ban Kiểm tra Đảng uỷ,Văn
phòng Đảng uỷ và Đoàn TNCS Hồ Chí Minh khối DCĐ), với 28 cán bộ, công
chức chuyên trách. Ban Chấp hành Đảng bộ có 27 đồng chí, Ban Thường vụ
Đảng uỷ 07 đồng chí (trong đó có: 02 nữ, 01 Bí thư, 02 Phó Bí thư).
Tổng số cấp uỷ cơ sở thuộc ĐBKDCĐ có 527 đồng chí, trong đó có 73
đồng chí bí thư, 77 đồng chí phó bí thư và 115 đồng chí uỷ viên ban thường vụ

đảng uỷ. Trình độ chuyên môn: tiến sỹ 07, thạc sỹ 82, đại học 438; trình độ lý
luận chính trị: cử nhân 35, cao cấp 308, trung cấp 171 và sơ cấp 13 [phụ lục 3].
* TCCSĐ thuộc ĐBKDCĐ tỉnh Cà Mau

15


Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Đảng
là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy nguyên tắc tập
trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, trong hệ thống tổ chức của Đảng
TCCSĐ nằm ở cấp cuối cùng nhưng có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá XI) quy định: “Tổ chức cơ sở
đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị
ở cơ sở. Ở xã, phường, thị trấn có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ
chức cơ sở đảng (trực thuộc cấp uỷ cấp huyện). Ở cơ quan, doanh nghiệp, hợp
tác xã, đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân đội, công an và các đơn vị khác có từ ba
đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức đảng (tổ chức cơ sở đảng hoặc chi bộ
trực thuộc đảng uỷ cơ sở); cấp uỷ cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định việc
tổ chức đảng đó trực thuộc cấp uỷ cấp trên nào cho phù hợp [16, tr 35, 36].
Việc lựa chọn mô hình tổ chức nào phụ thuộc vào số lượng đảng viên chính
thức và phải được cấp uỷ cấp trên trực tiếp quyết định.
Căn cứ quy định của Điều lệ Đảng, TCCSĐ thuộc ĐBKDCĐ tỉnh Cà
Mau có số lượng khá nhiều, được thành lập và hoạt động trong các cơ quan,
đơn vị sự nghiệp cấp tỉnh và một số cơ quan Trung ương đóng trên địa bàn
tỉnh [phụ lục 6]. Các TCCSĐ thuộc ĐBKDCĐ tỉnh Cà Mau có chức năng,
nhiệm vụ chung như sau:
- Về chức năng:
+ Là hạt nhân chính trị ở cơ sở: TCCSĐ lãnh đạo các tổ chức trong
hệ thống chính trị ở cơ sở chấp hành thực hiện nghiêm túc đường lối, chủ

trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. TCCSĐ có trách
nhiệm là trung tâm lãnh đạo chính trị, tổ chức quy tụ và phát huy sức mạnh
của các lực lượng toàn cơ quan, đơn vị thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ
chính trị được giao.

16


+ Tiến hành các hoạt động xây dựng nội bộ Đảng: như công tác chính
trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, quản lý đảng viên, kiểm tra, giám sát... theo quy
định của Điều lệ Đảng.
- Về nhiệm vụ:
Một là, chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước; đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của ĐB, CB và lãnh
đạo thực hiện có hiệu quả.
Hai là, xây dựng ĐB, CB TSVM về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thực
hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng,
thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng cường đoàn kết
thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo dục, rèn luyện và quản lý cán bộ,
đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình độ
kiến thức, năng lực công tác; làm công tác phát triển đảng viên.
Ba là, lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính,
sự nghiệp, quốc phòng, an ninh và các đoàn thể chính trị - xã hội VMTD;
chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Bốn là, liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh
thần và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia
xây dựng và thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước.
Năm là, kiểm tra, giám sát việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị
của Đảng và pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm tra,

giám sát tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng [30, tr.39, 40].
Các nhiệm vụ trên có mối liên hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau. Do
vậy, trong hoạt động thực tiễn không xem nhẹ nhiệm vụ nào. Trên cơ sở chức
năng, nhiệm vụ nêu trên, căn cứ vào đặc điểm của các loại hình TCCSĐ, Ban
Bí thư Trung ương Đảng đã quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ của từng
loại hình. Theo đó chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở trong các
17


đơn vị sự nghiệp (trường học, bệnh viện...) và đảng bộ, chi bộ cơ sở cơ quan
được thực hiện theo Quy định số 97- QĐ/TW và Quy định số 98- QĐ/TW
ngày 22-3-2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng.
* Vai trò của TCCSĐ thuộc ĐBKDCĐ tỉnh Cà Mau
Xuất phát từ những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và truyền thống quý báu của Đảng ta về công tác xây dựng Đảng,
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá XI) khẳng định: “Tổ chức cơ sở đảng
(chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ
sở” [16, tr.35].
Vai trò của TCCSĐ thuộc ĐBKDCĐ tỉnh Cà Mau nói chung được thể
hiện ở những nội dung chủ yếu sau: Các TCCSĐ lập thành nên ĐBKDCĐ; là
cầu nối giữa Đảng và các cơ quan lãnh đạo cấp trên của Đảng với cán bộ,
đảng viên và quần chúng ở các quan đơn, đơn vị; là nơi trực tiếp đưa đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào quần chúng và tổ chức thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách vào cuộc sống; là nơi giáo dục, rèn luyện,
kết nạp, quản lý và sàng lọc đội ngũ đảng viên; nơi đào tạo cán bộ, đề cử cơ
quan lãnh đạo các cấp cho ĐBKDCĐ và ĐB tỉnh Cà Mau.
Các TCCSĐ thuộc ĐBKDCĐ tỉnh Cà Mau được thành lập và hoạt
động trong lòng các cơ quan, đơn vị cấp tỉnh. Các TCCSĐ là nơi tập hợp
những đảng viên - là cán bộ lãnh đạo cao nhất của tỉnh, là chuyên viên làm
nhiệm vụ tham mưu lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ phát

triển kinh tế - xã hội; đảm bảo quốc phòng - an ninh và xây dựng hệ thống
chính trị của tỉnh. Do vậy, các TCSSĐ có đủ tiềm năng, tiềm lực và khả năng
thực tiễn đóng vai trò là hạt nhân chính trị lãnh đạo trong các cơ quan, đơn vị.
Các hoạt động của TCCSĐ nơi đây không chỉ đơn thuần phát huy tác dụng
trong các cơ quan, đơn vị, trong hoạt động của ĐBKDCĐ mà còn có sức lan
tỏa rộng lớn đối với mọi hoạt động của tỉnh.

18


Khẳng định vai trò quan trọng của mình, các TCCSĐ thuộc ĐBKDCĐ
phải hết sức chủ động, sáng tạo trong việc tổ chức thực hiện các nghị quyết
của Trung ương, Tỉnh ủy và Đảng ủy KDCĐ vào thực tiễn của từng TCCSĐ;
tìm tòi, suy nghĩ để xác định đúng nhất nội dung, giải pháp xây dựng nâng
cao NLLĐ của TCCSĐ. Mỗi TCCSĐ phải thường xuyên làm tốt công tác
chính trị, tư tưởng; chăm lo giáo dục, rèn luyện và quản lý đảng viên để mỗi
đảng viên có đủ trình độ, bản lĩnh, trí tuệ, năng lực tổ chức thực hiện, từ đó
phát huy cao vai trò tiên phong gương mẫu của mỗi đảng viên, trước hết là
đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo.
* Đặc điểm của TCCSĐ thuộc ĐBKDCĐ tỉnh Cà Mau
Theo quy định của Điều lệ Đảng thì: “Hệ thống tổ chức của Đảng được
thành lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính Nhà nước. Tổ chức cơ
sở đảng được lập tại đơn vị cơ sở hành chính, sự nghiệp, kinh tế hoặc công
tác, đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc
tỉnh” [16, tr.19]. Vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với Nhà nước ta nói
chung, đối với tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp
nói riêng là nhân tố quan trọng quyết định những thành tựu to lớn trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước ta từ ngày thành lập Đảng đến nay.
Phương thức lãnh đạo của Đảng được xác định tại Điều 41, Điều lệ Đảng:
“Đảng lãnh đạo bằng Cương lĩnh chính trị, chiến lược, chính sách, chủ

trương; bằng công tác tư tưởng, tổ chức, cán bộ và kiểm tra, giám sát việc
thực hiện” [16, tr.64]. Là một cấp bộ đảng nằm trong hệ thống tổ chức của
Đảng, trải qua quá trình hình thành và phát triển lâu dài, các TCCSĐ thuộc
ĐKDCĐ tỉnh Cà Mau có một số đặc điểm như sau:
Thứ nhất, các TCCSĐ có bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên
ổn định là điều kiện thuận lợi để nâng cao NLLĐ trong tình hình mới.
Đặc điểm này được tạo nên bởi các cơ quan hành chính, đơn vị sự
nghiệp cả nước nói chung và của tỉnh Cà Mau nói riêng được thành lập theo
quy định của Đảng và Nhà nước về cơ cấu tổ chức bộ máy và số lượng biên
19


chế. Các cơ quan, đơn vị cấp tỉnh ít có sự thay đổi về tổ chức và số lượng cán
bộ, công chức. Mỗi cơ quan, đơn vị tuy có chức năng, nhiệm vụ khác nhau và
số lượng biên chế không bằng nhau, nhưng ở mỗi tổ chức, đội ngũ cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức đều có sự tập trung, ít có sự phân tán lực
lượng làm việc trong giờ hành chính. Bên cạnh đó, hầu hết các cơ quan, đơn
vị cấp tỉnh đều có cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ làm việc khá đầy đủ,
hiện đại; kinh phí hoạt động được Nhà nước cấp theo quy định. Đây là những
điều kiện thuận lợi cơ bản nhất cho các TCCSĐ thuộc ĐBKDCĐ tỉnh Cà Mau
dễ tập hợp lực lượng hoạt động hơn so với các loại hình TCCSĐ khác.
Mặt khác, hoạt động của các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp là
hoạt động quản lý nhà nước và xã hội, nhưng đều dựa trên đường lối, chủ
trương của Đảng trong từng giai đoạn nhất định. Các cơ quan, đơn vị có trách
nhiệm xây dựng văn bản, chương trình, kế hoạch hoạt động để thực hiện chức
năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước - xã hội và bảo đảm thực hiện sự lãnh đạo
của TCCSĐ trong mỗi cơ quan, đơn vị. Sự lãnh đạo của TCCSĐ là sự lãnh
đạo trực tiếp, gắn liền với hoạt động của các cơ quan, đơn vị. TCCSĐ thực
hiện vai trò này thông qua việc ban hành các nghị quyết và kiểm tra, giám sát
việc triển khai các nghị quyết đó. Thông qua sự lãnh đạo và giám sát trực tiếp

của mình, các TCCSĐ có thể chấn chỉnh kịp thời những quan điểm, hành vi
sai trái với đường lối, chủ trương của Đảng.
Thứ hai, vai trò lãnh đạo của TCCSĐ thuộc ĐBKDCĐ có sự khác biệt
tương đối so với các loại hình TCCSĐ khác, đòi hỏi các TCCSĐ phải có sự
phối hợp và linh hoạt, sáng tạo trong hoạt động.
Các cơ quan, đơn vị cấp tỉnh là tổ chức công quyền, thực hiện hoạt
động quản lý nhà nước - xã hội một cách thường xuyên, liên tục, giải quyết
các công việc hàng ngày, hàng giờ phát sinh. Vì vậy, hoạt động của các cơ
quan, đơn vị mang tính linh hoạt và chủ động, thích ứng kịp thời với các yêu
cầu của thực tiễn đặt ra mà các nghị quyết của TCCSĐ khó có thể định ra các
20


biện pháp, giải pháp cụ thể. Trong hoạt động quản lý nhà nước - xã hội không
thể “trông chờ” các cấp ủy đảng quyết định thay mình nhưng cũng không thể
tuỳ tiện “phá rào” thực hiện những hoạt động không dựa trên quan điểm lãnh
đạo nhất quán của Đảng trong điều kiện Đảng ta là Đảng duy nhất cầm quyền.
Mặc khác, vai trò lãnh đạo của TCCSĐ thuộc ĐBKDCĐ có sự khác
biệt tương đối so với các loại hình TCCSĐ khác. Nếu như ở cơ sở xã,
phường, thị trấn..., cấp uỷ đảng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện các mặt hoạt
động (chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh) bằng nghị
quyết, chương trình, kế hoạch thông qua hoạt động chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Thì ở cơ quan hành chính, đơn vị sự
nghiệp cấp tỉnh, sự quản lý và điều hành các mặt công tác hằng ngày do thủ
trưởng cơ quan, đơn vị quyết định theo của kế hoạch của chính quyền địa
phương và cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên. Vì vậy, để sự lãnh đạo của
Đảng phát huy hiệu quả, các TCCSĐ phải hết sức linh hoạt, sáng tạo trong
lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ của cấp uỷ, đồng thời phải có sự phối hợp chặt
chẽ với thủ trưởng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong lãnh đạo, điều hành
thực hiện nhiệm vụ chính trị chung của mỗi tổ chức.

Nhận thức được đặc điểm này, những năm qua, phần lớn các TCCSĐ
thuộc ĐBKDCĐ tỉnh Cà Mau đã thể hiện tốt tính linh hoạt, sáng tạo trong
lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ của cấp uỷ; đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ
với thủ trưởng trong lãnh đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ chính trị chung
trong các cơ quan, đơn vị. Tuy nhiên, một số TCCSĐ chưa xác định được đặt
điểm và chức năng, nhiệm vụ được giao nên trong quá trình lãnh đạo một
mặt công tác còn gập khuôn, máy móc, cứng nhắc theo sự chỉ đạo của cấp
trên; chưa linh hoạt, sáng tạo trong triển khai, thực hiện nhiệm vụ phù hợp với
thực tiễn. Công tác phối hợp của cấp uỷ với thủ trưởng, người đứng đầu cơ
quan, đơn vị nhiều nơi chưa tốt, nhất là trong công tác chính trị tư tưởng,
công tác cán bộ, trong xây dựng chuẩn mực đạo đức, văn hoá công sở, xây
21


dựng TCCSĐ TSVM… Đặc điểm này đặt ra yêu cầu cần có đổi mới sự lãnh
đạo của TCCSĐ thuộc ĐBKDCĐ tỉnh Cà Mau trong thời gian tới.
Thứ ba, trình độ của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở các TCCSĐ thuộc
BĐKDCĐ tỉnh Cà Mau khá cao và đồng đều, là điều kiện thuận lợi để phát
huy để nâng cao NLLĐ của TCCSĐ trong tình hình mới.
Hoạt động của các cơ quan, đơn vị do đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức tiến hành với yêu cầu của hoạt động công vụ là tuân thủ pháp luật, tính
chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa và trách nhiệm thực thi công vụ cao.
Trong điều kiện một đảng cầm quyền ở nước ta, đa số cán bộ, công chức, viên
chức là đảng viên, các TCCSĐ được tổ chức gắn với các cấp chính quyền và
trong từng cơ quan, đơn vị. Đây là yếu tố hết sức thuận lợi trong việc bảo đảm
và phát huy vai trò lãnh đạo của TCCSĐ đối với hoạt động của các cơ quan,
đơn vị; thể hiện ở hoạt động cơ quan, đơn vị được triển khai với sự tham gia
tích cực của đội ngũ đảng viên. Các đảng viên trong cơ quan, đơn vị có nghĩa
vụ gương mẫu thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước phù hợp với cương vị, chức trách, nhiệm vụ được giao. Các đảng viên

ưu tú của Đảng được bổ nhiệm giữ các chức vụ lãnh đạo trong các cơ quan,
đơn vị, hợp thành đội ngũ những người lãnh đạo, các công chức cấp cao,
chuyên gia, chuyên viên... Thông qua đội ngũ này, đường lối, chủ trương của
Đảng được chuyển hóa thành hoạt động cụ thể, sinh động của bộ máy nhà
nước. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là hoạt động quản lý nhà nước của các cơ
quan, đơn vị không thể có sự bao biện làm thay TCCSĐ mà làm thế nào để
phát huy vai trò của đảng viên là cán bộ, công chức, viên chức.
Thực tiễn cho thấy, trình độ của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở các
TCCSĐ thuộc BĐKDCĐ tỉnh Cà Mau khá cao và đồng đều so với các loại
hình TCCSĐ khác trong Đảng bộ tỉnh, nhất là về trình độ chuyên môn và lý
luận chính trị của cấp uỷ cơ sở đảng [phụ lục 3]. Đội ngũ cán bộ, đảng viên
của toàn Đảng bộ đa số là cán bộ lãnh đạo quản lý cấp tỉnh, có trình độ cao,
22


chuyên môn sâu và được công tác ở đa dạng trên nhiều lĩnh vực (chính trị,
kinh tế, văn hoá - xã hội, khoa học - kỹ thuật, văn nghệ sĩ, tri thức…) [phụ
lục 6]. Đây là nguồn nhân lực rất quan trọng, là điều kiện thuận lợi cho
TCCSĐ phát huy sức mạnh để nâng cao NLLĐ trong tình hình mới.
Nhận thức được đặt điểm này, thời gian qua, đa số các TCCSĐ thuộc
ĐBKDCĐ đã khẳng định vai trò lãnh đạo của mình, phát huy được trình độ,
năng lực, trí tuệ của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong mọi hoạt động, đóng vai
trò là hạt nhân chính trị lãnh đạo trong các cơ quan, đơn vị. Tuy nhiên, vẫn
còn có TCCSĐ chưa phát huy hết năng lực, sở trường của cán bộ, đảng viên;
trong công việc được giao, vẫn còn có cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức tinh thần trách nhiệm hạn chế, chưa hoàn hành tốt nhiệm vụ của người
đảng viên.
* Năng lực lãnh đạo của TCCSĐ
Năng lực hiểu theo nghĩa chung nhất là “khả năng, điều kiện chủ quan
hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó” [43, tr.687].

NLLĐ của Đảng là tổng hợp những khả năng, điều kiện chủ quan của
Đảng được tạo nên từ những yếu tố nội sinh, từ sự phấn đấu từ bản thân Đảng
cũng như mỗi tổ chức đảng để thực hiện thắng lợi chức năng, nhiệm vụ lãnh
đạo. Thực chất hoạt động lãnh đạo là hoạt động nghiên cứu, vận dụng lý luận,
quan điểm vào thực tiễn, đề ra chủ trương, đường lối, tuyên truyền vận động,
tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện đường lối. Hoạt động lãnh đạo
của tổ chức đảng diễn ra theo một quy trình thống nhất, chặt chẽ, liên hoàn.
NLLĐ của tổ chức đảng chính là khả năng, điều kiện của tổ chức đảng (trình
độ tri thức, kinh nghiệm, năng lực vận dụng, tổ chức hoạt động thực tiễn...)
trong việc thực hiện các khâu, các bước của quy trình lãnh đạo nhằm đạt được
kết quả cao trong thực tiễn.
Bắt nguồn từ vị trí, vai trò, chức năng của Đảng trong hệ thống chính
trị và sự nghiệp cách mạng, nên “NLLĐ” là một trong những phạm trù cơ bản
23


của khoa học xây dựng Đảng, từ đó vận dụng nghiên cứu NLLĐ của các loại
hình tổ chức đảng ở các cấp, các ngành, trên các lĩnh vực hoạt động, NLLĐ
của cán bộ, đảng viên gắn với cương vị chức trách được giao.
Theo ý kiến của Vũ Hữu Ngoạn thì NLLĐ của Đảng là “Khả năng đề
ra được mục tiêu cách mạng đúng đắn, cơ bản, lâu dài, cũng như từng thời kỳ
và bằng những phương thức, phương pháp đúng đắn tổ chức nhân dân, dân
tộc thực hiện có hiệu quả [43, tr.38].
Xét theo chu trình lãnh đạo của TCCSĐ có thể xem xét NLLĐ gắn với
các khâu, các bước: năng lực quán triệt nghị quyết, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị của cấp uỷ cấp trên, nhiệm
vụ chính trị của đơn vị; năng lực nắm bắt thực tiễn; năng lực hoạch định chủ
trương, biện pháp lãnh đạo; năng lực tổ chức, thực hiện đường lối, chính sách
của Đảng, nghị quyết của cấp trên và của tổ chức đảng cấp mình…Theo từng
nhiệm vụ, từng mặt công tác trong công tác xây dựng Đảng, có thể xem xét

NLLĐ của TCCSĐ trên từng lĩnh vực: năng lực vận dụng, thực hiện các
nguyên tắc, chế độ sinh hoạt đảng; NLLĐ và tiến hành công tác tư tưởng,
công tác tổ chức; lãnh đạo và xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, tổ chức
quần chúng, công tác vận động quần chúng…
Từ cách tiếp cận trên, có thể khẳng định rằng: NLLĐ của TCCSĐ là
sản phẩm trí tuệ của tập thể, được tạo nên nhờ sự phát huy đầy đủ phẩm chất
chính trị, đạo đức, năng lực tổng hợp của mọi cán bộ, đảng viên, trên cơ sở
chấp hành nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo đi đôi
với phân công cá nhân phụ trách, chấp hành các chế độ, nền nếp sinh hoạt
đảng trong hoạt động lãnh đạo và các mặt công tác của TCCSĐ.
* Năng lực lãnh đạo của TCCSĐ thuộc ĐBKDCĐ tỉnh Cà Mau
Theo đó, NLLĐ của TCCSĐ thuộc ĐBKDCĐ tỉnh Cà Mau là tổng hoà
trình độ và khả năng của TCCSĐ có thể huy động để quán triệt, vận dụng lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ
24


trương của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước, nghị quyết, chỉ thị
của cấp trên vào cụ thể hóa xây dựng và tổ chức thực hiện thắng lợi chủ
trương, biện pháp lãnh đạo của TCCSĐ đối với cơ quan, đơn vị; là khả năng
phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng vào xây dựng
TCCSĐ TSVM, xây dựng cơ quan, đơn vị VMTD, hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao.
NLLĐ của TCCSĐ thuộc ĐBKDCĐ tỉnh Cà Mau là tổng hoà trình độ
và khả năng nắm bắt và vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, các nghị quyết chỉ thị
của Tỉnh uỷ, Đảng uỷ KDCĐ về xây dựng TCCSĐ tại cơ quan, đơn vị cấp
tỉnh đạt TSVM; là năng lực đánh giá, phân tích đầy đủ tình hình mọi mặt của
cấp uỷ, tổ chức đảng, trên cơ sở đó xác định đúng các chủ trương, biện pháp
lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan, đơn vị thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu và

yêu cầu nhiệm vụ công tác xây dựng TCCSĐ đạt TSVM, xây dựng cơ quan,
đơn vị vững mạnh về mọi mặt; là khả năng tổ chức, động viên cán bộ, đảng
viên khắc phục mọi khó khăn, xây dựng ý chí quyết tâm hoàn thành thắng lợi
các mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra; là khả năng kiểm tra, giám sát quá trình tổ
chức thực hiện các nhiệm vụ và giải quyết kịp thời những vấn đề mới nảy
sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
* Các yếu tố quy định NLLĐ của TCCĐ thuộc ĐBKDCĐ tỉnh Cà Mau
Thứ nhất, chất lượng của đội ngũ cấp uỷ, bí thư, thủ trưởng các cơ
quan, đơn vị. Chất lượng đội ngũ cấp uỷ, bí thư, bí thư, phó bí thư, thủ trưởng
cơ quan, đơn vị là chất lượng tổng hợp nhiều yếu tố, song tập trung nhất là tri
thức khoa học, phẩm chất đạo đức, lối sống, kinh nghiệm lãnh đạo quản lý
điều hành, khả năng đoàn kết, phong cách, phương pháp công tác... Nếu
TCCSĐ là hạt nhân chính trị, trung tâm đoàn kết, thì đội ngũ cấp uỷ, bí thư,
thủ trưởng là hạt nhân lãnh đạo của cơ quan, đơn vị. Chất lượng của đội ngũ

25


cấp uỷ, bí thư, thủ trưởng là một trong những nhân tố cơ bản, quyết định tạo
thành NLLĐ của TCCSĐ.
Cấp uỷ là bộ phận hữu cơ của TCCSĐ, mọi hoạt động của TCCSĐ đều
do sự lãnh đạo điều hành, quản lý, kiểm tra của cấp uỷ. Cấp uỷ là người trực
tiếp đề ra nghị quyết, quán triệt, tổ chức thực hiện nghị quyết; duy trì chế độ
nền nếp sinh hoạt đảng; xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên...
Cùng với cấp uỷ, thủ trưởng cơ quan, đơn vị là người tổ chức thực hiện mọi
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị
quyết của tổ chức đảng; là người chịu trách nhiệm trước hết về tình hình và
kết quả thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị. Nếu đội ngũ cấp uỷ, bí thư,
thủ trưởng cơ quan, đơn vị thường xuyên được củng cố kiện toàn đảm bảo đủ
số lượng, cơ cấu hợp lý, có phẩm chất, năng lực tốt, có uy tín cao... sẽ là điều

kiện tiên quyết để xây dựng TCCSĐ TSVM, góp phần tạo nên NLLĐ của
TCCSĐ thuộc ĐBKDCĐ tỉnh Cà Mau.
Thứ hai, chất lượng đội ngũ đảng viên. Chất lượng đảng viên được biểu
hiện ở phẩm chất, năng lực, số lượng, cơ cấu đảng viên. Về phẩm chất, năng
lực bao gồm: phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ trí tuệ, kiến thức, kinh
nghiệm, năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn, phong cách, phương pháp công
tác, uy tín và tính tiền phong gương mẫu của đảng viên. Ngoài những tiêu
chuẩn chung nêu trên, đảng viên ở các TCCSĐ thuộc ĐBKDCĐ còn phải có
những phẩm chất, năng lực riêng của người cán bộ lãnh đạo, quản lý, công
chức, viên chức có chuyên môn sâu theo từng lĩnh vực công tác, do phải
thường xuyên tham mưu giúp việc cho lãnh đạo của tỉnh hoạch định chủ
trương, đường lối, chính sách lãnh đạo phát triển của tỉnh; hướng dẫn công tác
chuyên môn, nghiệp vụ trên các lĩnh vực cho các địa phương thực hiện các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Cùng với
nâng cao chất lượng, thì việc đảm bảo số lượng và cơ cấu đảng viên phù hợp có

26


ý nghĩa quan trọng. Do đó, trong quá trình nâng cao NLLĐ của TCCSĐ nhất
thiết phải coi trọng nâng cao chất lượng toàn diện cho đội ngũ đảng viên.
Thứ ba, chấp hành thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt,
kỷ luật đảng. Chấp hành nghiêm túc, duy trì chặt chẽ và nâng cao hiệu quả
thực hiện các nguyên tắc, tổ chức, sinh hoạt đảng sẽ đảm bảo TCCSĐ có sự
đoàn kết, thống nhất, tạo thành sức mạnh to lớn, trở thành pháo đài chiến đấu
của Đảng ở cơ sở; là động lực thúc đẩy cấp uỷ, cán bộ, đảng viên nâng cao ý
thức trách nhiệm, phát huy tốt vai trò trong công tác xây dựng Đảng, đấu
tranh với những hiện tượng buông lỏng hoặc làm trái với các nguyên tắc của
Đảng. Khi các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng được duy trì, thực hiện chặt
chẽ sẽ có góp phần quan trọng nâng cao NLLĐ của TCCSĐ thuộc ĐBKDCĐ

tỉnh Cà Mau.
Thứ tư, sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, kịp thời của cấp uỷ, cơ quan
chuyên môn cấp trên. Sức mạnh của TCCSĐ phụ thuộc chủ yếu vào bản thân
của các tổ chức đó, nhưng sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ cơ quan
chuyên môn cấp trên có vai trò quan trọng đối với việc định hướng nội dung,
hình thức sinh hoạt của TCCSĐ. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề
này. Người luôn nhắc nhở tổ chức đảng cấp trên phải quan tâm xây dựng tổ
chức đảng cấp dưới. Vì thế, cấp uỷ và cơ quan chuyên môn cấp trên phải tin
tưởng và phát huy mạnh mẽ tinh thần chủ động và sáng tạo của TCCSĐ, đồng
thời tăng cường trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động của
TCCSĐ cấp dưới, đặc biệt quan tâm đến các tổ chức đảng trọng điểm và
những nơi còn hạn chế, yếu kém, kịp thời chỉ đạo, giúp đỡ tạo điều kiện cho
TCCSĐ vươn lên đủ sức hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Thứ năm, phát huy tốt sự phối hợp, cơ chế vận hành của các tổ chức,
các lực lượng trong các cơ quan, đơn vị. Tổ chức cơ sở đảng luôn gắn bó trực
tiếp với quần chúng mọi nơi, mọi lúc. Do sự gắn bó đó mà mọi hoạt động của
tổ chức đảng với đảng viên luôn được quần chúng giám sát và phản ánh lại,
27


×