Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ NÂNG CAO NĂNG lực LÃNH đạo, sức CHIẾN đấu của tổ CHỨC cơ sở ĐẢNG THUỘC ĐẢNG bộ HUYỆN đầm dơi, TỈNH cà MAU HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.46 KB, 93 trang )

MỤC LỤC
Trang
3

MỞ ĐẦU

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH
ĐẠO, SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ
ĐẢNG THUỘC ĐẢNG BỘ HUYỆN ĐẦM DƠI
TỈNH CÀ MAU
1.1. Tổ chức cơ sở đảng và những vấn đề cơ bản về nâng cao

11

năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau
1.2. Thực trạng và một số kinh nghiệm nâng cao năng lực

11

lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc
Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau
Chương 2. YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO

35

NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO, SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA
TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG THUỘC ĐẢNG BỘ
HUYỆN ĐẦM DƠI TỈNH CÀ MAU HIỆN NAY
2.1. Tình hình nhiệm vụ và yêu cầu nâng cao năng lực lãnh



52

đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng
bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau hiện nay
2.2. Những giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến

52

đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ huyện Đầm
Dơi tỉnh Cà Mau hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

59
86
88


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu là quy luật tất yếu trong quá
trình tồn tại, trưởng thành, phát triển của Đảng ta, là một nội dung trọng tâm,
then chốt trong công tác xây dựng Đảng hiện nay. Bước sang thời kỳ đổi mới
toàn diện đất nước, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, Đảng ta luôn nhất quán chủ trương lấy “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ
trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”. Bởi vậy, vấn đề nâng cao
NLLĐ, SCĐ của Đảng, bảo đảm cho toàn Đảng và từng tổ chức cơ sở đảng
thực sự trong sạch, vững mạnh, có đủ năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu đáp

ứng yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới càng trở nên có ý nghĩa quan trọng hàng
đầu trong công cuộc đổi mới, chỉnh đốn Đảng hiện nay.
Ý thức sâu sắc được vị trí, vai trò, tầm quan trọng của tổ chức cơ sở
đảng trong hệ thống tổ chức của Đảng. Thời gian qua, Đảng bộ huyện Đầm
Dơi tỉnh Cà Mau luôn đặc biệt quan tâm xây dựng và chỉnh đốn Đảng, không
ngừng nâng cao NLLĐ, SCĐ của các tổ chức cơ sở đảng. Từ đó, đã tạo được
chuyển biến tích cực, các tổ chức cơ sở đảng trong toàn Đảng bộ được xây
dựng có số lượng, cơ cấu, tổ chức hợp lý, chất lượng ngày càng cao, năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng từng bước được nâng lên,
cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, phát huy tốt vai trò tập hợp và lãnh đạo
quần chúng nhân dân, phát huy sức mạnh của toàn dân góp phần thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh
của địa phương.
Tuy nhiên, trước sự phát triển của yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, mục
tiêu, phương châm, phương hướng đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nhất là yêu cầu
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền,
đang còn nhiều vấn đề đặt ra cho công tác xây dựng Đảng nói chung, xây

3


dựng các tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi phải nghiên cứu
giải quyết, cả trên phương diện nhận thức luận cũng như phương diện chỉ đạo,
tổ chức thực tiễn. Mặt khác, trước âm mưu thủ đoạn chống phá bằng “diễn
biến hòa bình” của các thế lực thù địch đang nhằm vào cơ sở, nhất là âm mưu,
thủ đoạn mua chuộc, lôi kéo, kích động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong
nội bộ Đảng, trước hết là ở các tổ chức cơ sở đảng. Bởi vậy, trên thực tế vẫn
còn một bộ phận các tổ chức cơ sở đảng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
còn hạn chế, chưa đáp ứng ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Hiệu
lực, hiệu quả lãnh đạo trong xây dựng Đảng và thực hiện các nhiệm vụ kinh

tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh, ở địa phương còn thấp.
Tình trạng mất đoàn kết nội bộ, nói không đi đôi với làm vẫn còn xảy ra; tự
phê bình và phê bình chưa được duy trì thường xuyên; nguyên tắc tập trung
dân chủ chưa được thực hiện nghiêm túc; một số tổ chức cơ sở đảng tuy đạt
trong sạch vững mạnh nhưng chất lượng lãnh đạo còn yếu; một bộ phận cán
bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, vi
phạm nguyên tắc Đảng, pháp luật Nhà nước bị xử lý kỷ luật tỷ lệ khá cao.
Vì vậy, việc nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn và
đề xuất những giải pháp thiết thực, khả thi để nâng cao NLLĐ, SCĐ của tổ
chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi thực sự là vấn đề vừa cơ
bản, vừa cấp thiết đặt ra cả trên phương diện lý luận và thực tiễn.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà
Mau hiện nay” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành xây dựng Đảng và Chính
quyền Nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Xây dựng tổ chức cơ sở đảng TSVM, không ngừng nâng cao NLLĐ,
SCĐ của các tổ chức cơ sở đảng là vấn đề lớn và có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong công cuộc xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng, bởi vậy nó thu hút
4


sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học, các cán bộ lãnh đạo của Đảng,
Nhà nước, các nhà hoạt động chính trị xã hội. Hiện nay, đã có khá nhiều các
công trình đề tài, luận văn, luận án, nghiên cứu về vấn đề này đã được nghiệm
thu, công bố. Tiêu biểu như:
Đề tài luận án tiến sĩ "Chất lượng các đảng bộ vùng trung du Bắc Bộ
hiện nay", của tác giả Dương Trung Ý (2008). Tác giả tập trung phân tích,
đánh giá thực trạng và nguyên nhân chất lượng các đảng bộ vùng trung du
Bắc Bộ, đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng đảng viên, đổi mới

phương thức lãnh đạo và xác định đúng nhiệm vụ chính trị của các đảng bộ
vùng trung du Bắc Bộ.
Đề tài luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử chuyên ngành xây dựng Đảng
“Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng trong các trường sĩ quan quân đội
đáp ứng yêu cầu bậc đào tạo đại học” của tác giả Nguyễn Trọng Hân (2000).
Tác giả đã tập trung phân tích thực trạng về chất lượng của các tổ chức cơ sở
đảng trong các trường sĩ quan quân đội, từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao
chất lượng tổ chức cơ sở đảng để đáp ứng yêu cầu đào tạo bậc đại học.
Đề tài luận văn thạc sĩ ngành xây dựng Đảng “Nâng cao chất lượng
sinh hoạt các chi bộ khối nghiên cứu, giảng dạy ở học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh” của tác giả Cao Duy Tiến (2001). Đề tài đã tập trung phân tích
thực trạng chất lượng sinh hoạt chi bộ, từ đó đề xuất hệ thống giải pháp nâng
cao chất lượng sinh hoạt chi bộ của khối nghiên cứu giảng dạy ở Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Đề tài luận văn thạc sĩ “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng nông thôn vùng có đông đồng bào công giáo ở tỉnh Nam
Định trong giai đoạn hiện nay - Thực trạng và giải pháp” của tác giả Bùi
Hữu Dược( 2003). Đề tài đã tập trung phân tích thực trạng, nguyên nhân, rút
ra bài học kinh nghiệm, xây dựng tiêu chí đánh giá và đề xuất hệ thống giải
pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng
5


nông thôn vùng có đông đồng bào công giáo ở tỉnh Nam Định.
Đề tài luận văn thạc sĩ “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các
chi bộ ấp ở Huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay - Thực trạng
và giải pháp” của tác giả Huỳnh Ngọc Thành (2005). Tác giả đã tập trung
phân tích thực trạng, nguyên nhân và đề xuất hệ thống giải pháp nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các chi bộ ấp ở Huyện Hóc Môn,
Thành phố Hồ Chí Minh.

Đề tài luận văn thạc sĩ: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của các tổ chức cơ sở đảng ở xã thuộc tỉnh Tây Ninh hiện nay” của tác giả
Phùng Đức Thái (2000). Đề tài đã tập trung phân tích thực trạng, nguyên
nhân, rút ra bài học kinh nghiệm, xây dựng bộ tiêu chí đánh giá và đề xuất hệ
thống giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức
cơ sở đảng ở xã thuộc tỉnh Tây Ninh.
Đề tài luận văn thạc sĩ “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của các tổ chức cơ sở đảng nông thôn tỉnh Long An hiện nay” của tác giả
Nguyễn Văn Dũng (2000). Tác giả đã tập trung phân tích thực trạng, nguyên
nhân và đề xuất hệ thống giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của các tổ chức cơ sở đảng nông thôn tỉnh Long An.
Đề tài luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Đức Ái (2001) “Nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng nông thôn vùng
cao phía Bắc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”. Tác giả đã tập trung làm rõ những cơ sở lý luận và thực trạng năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu; đề xuất hệ thống giải pháp cơ bản nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn vùng cao
phía Bắc.
Đề tài luận văn thạc sĩ “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của các chi bộ phân đội chiến đấu phòng không thuộc quân chủng
Phòng không - Không quân trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Nguyễn
6


Học (2001). Tác giả đã tập trung phân tích thực trạng, nguyên nhân và đề
xuất hệ thống giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
các chi bộ phân đội chiến đấu phòng không thuộc quân chủng Phòng không
- Không quân.
Đề tài luận văn thạc sĩ “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của các đảng bộ xã ở Huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện

nay” của tác giả Dương Trung Ý (2002). Tác giả tập trung phân tích, đánh giá
thực trạng và nguyên nhân, đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các đảng bộ xã ở Huyện Yên Thế, tỉnh
Bắc Giang.
Ngoài ra, còn có các bài viết được đăng tải trên các sách báo, tạp chí
như: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng Bộ
đội biên phòng ” của tác giả Đặng Vũ Liêm, đăng trên Tạp chí Cộng sản số
1/1999. Tác giả đã trình bày những vấn đề cơ bản về năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu, thực trạng các tổ chức cơ sở đảng Bộ đội biên phòng, trên cơ sở đó
đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng Bộ đội biên phòng.
“Tăng cường sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ
sở đảng - Một nhiệm vụ quan trọng của cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn
Đảng - tổ chức cơ sở đảng” của tác giả Vũ Ngọc Lâm đăng trên Tạp chí Cộng
sản số 15/1999. Tác giả đã trình bày quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết TW 6
lần 2 (khóa VIII), phân tích thực trạng và đề xuất các giải pháp tăng cường
sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng, nhằm góp
phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết TW 6 lần 2 ( khóa VIII).
“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng gắn với bảo
vệ an ninh chính trị trong thời kỳ mới” của tác giả Nguyễn Đình Ban, đăng
trên Tạp chí Lịch sử Đảng, 2001, số 9. Trên cơ sở phân tích thực trạng, tác giả
đã đề xuất các giải pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
7


Đảng gắn với bảo vệ an ninh chính trị trong thời kỳ mới.
“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
gắn với xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở” của tác giả Trần Đình
Hoan, đăng trên Tạp chí xây dựng Đảng, số 6, 2004. Tác giả đã luận giải vai
trò của tổ chức cơ sở đảng trong hệ thống chính trị ở cơ sở, nêu lên thực trạng

những ưu điểm, hạn chế về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ
chức cơ sở đảng, đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng gắn với xây dựng, củng cố hệ thống chính
trị cơ sở.
“Nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng
đội ngũ cán bộ, đảng viên ở Học viện Chính trị quân sự” của Tiến sĩ Nguyễn
Tiến Quốc, đăng trên Tạp chí Quốc phòng toàn dân số 10, 2008. Tác giả đã
trình bày các nội dung và giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở Học viện
Chính trị quân sự.
“Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ Quân đội
trong tình hình mới” của Đại tướng Lê Văn Dũng, Bí thư TW Đảng, Chủ
nhiệm Tổng cục chính trị (Tạp chí Quốc phòng toàn dân số 2, 2009). Tác giả
đã đề xuất một số nội dung trọng tâm: tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện
nghiêm túc, có hiệu quả các chủ trương, giải pháp của Hội nghị TW 9 (khoá
X); tiếp tục đổi mới toàn diện công tác cán bộ; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ
đạo của các cấp ủy đối với công tác kiểm tra, giám sát, công tác giáo dục,
quản lý, rèn luyện cán bộ, đảng viên.
“Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng” của tác giả Vũ Văn Phúc (2011), đăng trên Tạp chí Cộng sản
(chuyên đề cơ sở số 55). Từ cơ sở lý luận cũng như phân tích thực trạng của
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, tác giả đã đề xuất
các giải pháp tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức
8


cơ sở đảng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn và đề xuất

những giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau;
Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh
nghiệm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau.
Xác định yêu cầu, đề xuất những giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà
Mau hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc
Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau
hiện nay. Các tư liệu, số liệu điều tra, khảo sát tập trung trên địa bàn các xã, thị
trấn ở Huyện Đầm Dơi Tỉnh Cà Mau; thời gian từ năm 2010 đến năm 2015.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và xây dựng Đảng; các chủ trương,
9


đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và chỉnh đốn Đảng;
về xây dựng và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng.
* Cơ sở thực tiễn

Từ thực tế công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao NLLĐ,
SCĐ của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau; các
báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề của các cấp ủy, cơ quan chức năng; các
tư liệu, số liệu điều tra, khảo sát thực tế về năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
và hoạt động nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau; đồng thời, tham khảo kết
quả nghiên cứu của các công trình đề tài có liên quan đã nghiệm thu, công bố.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận văn sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và
liên ngành; trong đó đặc biệt coi trọng các phương pháp: phân tích - tổng hợp;
logic - lịch sử; điều tra xã hội học; thống kê; so sánh; tổng kết thực tiễn và
phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm cơ sở lý luận,
thực tiễn giúp cho các cấp ủy, tổ chức đảng vận dụng trong lãnh đạo, chỉ đạo
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng
bộ Huyện Đầm Dơi nói riêng và Tỉnh Cà Mau nói chung.
Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy, học tập môn xây dựng Đảng ở Trường chính trị Tỉnh Cà Mau, các Trung
tâm bồi dưỡng chính trị trong tỉnh, làm tài liệu bồi dưỡng cho các cấp ủy cơ
sở và đảng viên.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài
10


liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO, SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ
CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG THUỘC ĐẢNG BỘ HUYỆN ĐẦM DƠI
TỈNH CÀ MAU
1.1. Tổ chức cơ sở đảng và những vấn đề cơ bản về nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ huyện
Đầm Dơi tỉnh Cà Mau
1.1.1. Huyện Đầm Dơi và tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Huyện
Đầm Dơi
* Khái quát Huyện Đầm Dơi Tỉnh Cà Mau
Đầm Dơi là Huyện thuộc vùng kinh tế ven biển của Tỉnh Cà Mau, cách
trung tâm tỉnh lỵ Cà Mau 30 km về hướng Đông Nam; diện tích tự nhiên gần
83.000 ha, địa giới hành chính được phân chia thành 15 xã, 1 thị trấn, với 139
ấp - khóm; có 41.032 hộ, với 183.200 khẩu; Huyện có chiều dài bờ biển trên
25 km, hệ thống sông ngòi chằng chịt, có 4 cửa sông lớn thông ra biển: Gành
Hào, Giá Cao, Giá Lồng Đèn, Hố Gùi...; nhân dân sống chủ yếu là nuôi trồng,
khai thác thủy sản và thương mại, dịch vụ.
Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước,
Đầm Dơi là căn cứ địa cách mạng, nơi nuôi chứa, che chở Xứ ủy Nam Bộ,
Trung ương cục miền Nam..., nơi cung cấp sức người, sức của cho kháng
chiến; cũng là nơi diễn ra các trận chiến đấu ác liệt với kẻ thù; nhân dân nơi
đây có truyền thống yêu nước, kiên cường bám đất, bám làng, dũng cảm chiến
đấu dưới ngọn cờ lý tưởng của Đảng đến ngày toàn thắng. Với những thành
tích đó, Đảng bộ và nhân dân Huyện Đầm Dơi vinh dự được Chủ tịch nước
phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Đảng bộ và nhân dân Đầm Dơi
tiếp tục phát huy truyền thống quê hương anh hùng, tập trung xây dựng quê

11



hương ngày càng giàu đẹp, góp phần xứng đáng vào tiến trình phát triển
chung của đất nước.
Về kinh tế: Thế mạnh kinh tế của Huyện là nuôi trồng và khai thác thủy
sản, với diện tích sản xuất trên 62.000 ha, trong đó có 3.200 ha diện tích nuôi
tôm công nghiệp và trên 30.000 ha diện tích nuôi tôm quảng canh cải tiến, sản
lượng nuôi trồng và khai thác thuỷ sản bình quân hằng năm trên 100.000 tấn;
diện tích đất rừng 7.219 ha. Cơ cấu kinh tế của Huyện: ngư, nông, lâm
nghiệp 54,7%; công nghiệp, xây dựng 21,5%; thương mại, dịch vụ 23,8%.
GDP tăng trưởng bình quân hằng năm trên 10%, thu nhập bình quân đầu
người năm 2015 trên 32 triệu đồng.
Về chính trị: Hệ thống chính trị của Huyện gồm các cơ quan cấp huyện:
Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc,
các cơ quan chuyên môn thuộc Huyện ủy và Ủy ban nhân dân huyện, Hội
Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh, Liên
đoàn Lao động và các tổ chức xã hội khác. Ở 15 xã và 01 thị trấn của Huyện
có các tổ chức tương ứng với cấp Huyện nhưng dưới một cấp hành chính.
Về văn hóa, xã hội: Huyện có Đền thờ Bác Hồ, Khu di tích chiến thắng
Đầm Dơi - Cái Nước - Chà Là, tượng đài anh hùng lực lượng vũ trang nhân
dân Dương Thị Cẩm Vân, Trung tâm văn hoá, thể thao Huyện . Có 2/15 xã có
Trung tâm văn hoá, thể thao; các ấp - khóm đều có trụ sở sinh hoạt văn hoá.
Hiện nay, toàn Huyện có 64,98% hộ gia đình, 35,25% ấp, khóm và 02 xã đạt
chuẩn văn hoá nông thôn mới; có 4 trường Trung học phổ thông, trên 30
trường Trung học cơ sở cùng hệ thống trường tiểu học và trường mẫu giáo
bảo đảm nhu cầu học tập của học sinh; đến cuối năm 2015 có 29/75 trường
đạt chuẩn quốc gia. Huyện có 01 Bệnh viện Đa khoa với 150 giường bệnh, 01
phòng khám đa khoa khu vực và 15 trạm y tế xã, thị trấn. Đội ngũ cán bộ,
thầy thuốc Huyện có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng và có y đức
phục vụ nhân dân. Huyện có trên 4.000 đối tượng chính sách, trong đó có gần
12



1.000 liệt sỹ, 266 Mẹ Việt Nam anh hùng; đến cuối năm 2015, Huyện còn
2.237 hộ nghèo, chiếm 5,13%; 1.193 hộ cận nghèo, chiếm 2,74%.
Về quốc phòng, an ninh:
Những năm qua, tình hình an ninh chính trị- trật tự an toàn xã hội của
Huyện luôn được giữ vững. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc và
giữ gìn trật tự xã hội, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa”, xây dựng mô hình tự quản về an ninh trật tự ở những nơi công cộng
luôn được duy trì thực hiện tốt.
* Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau
Theo lịch sử truyền thống của Đảng bộ Huyện, chi bộ đầu tiên được
thành lập năm 1945, đến nay Đảng bộ Huyện đã trải qua 14 kỳ đại hội. Đảng
bộ có 67 tổ chức cơ sở đảng (gồm các loại hình: 15 đảng uỷ xã; 01 đảng uỷ
thị trấn; 03 đảng uỷ và 30 chi bộ cơ quan; 04 chi bộ doanh nghiệp; 12 chi bộ
sự nghiệp; 02 đảng uỷ lực lượng vũ trang), 288 chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ
sở, với 4.837 đảng viên.
* Tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau
Điều 21, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XII quy định rõ:
"Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của
Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở. Ở xã, phường, thị trấn có từ ba đảng viên
chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở đảng (trực thuộc cấp ủy cấp Huyện). Ở
cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân đội, công
an và các đơn vị khác có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức đảng
(tổ chức cơ sở đảng hoặc chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở); cấp ủy cấp trên
trực tiếp xem xét, quyết định việc tổ chức đảng đó trực thuộc cấp ủy cấp trên
nào cho phù hợp; nếu chưa đủ ba đảng viên chính thức thì cấp ủy cấp trên
trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích hợp".
Quy định trên chỉ rõ, tổ chức cơ sở đảng được gọi chung cho cả chi bộ
cơ sở và đảng bộ cơ sở tùy thuộc vào số lượng đảng viên và yêu cầu nhiệm vụ
cụ thể của từng cơ sở. Theo đó, hình thức tổ chức cơ sở đảng cũng được phân


13


ra nhiều loại khác nhau, nhưng có 3 hình thức cơ bản sau:
Cơ sở có từ 3 đảng viên chính thức đến dưới 30 đảng viên thành lập chi
bộ cơ sở, dưới chi bộ có thể lập các tổ đảng.
Cơ sở có từ 30 đảng viên trở lên thành lập đảng bộ cơ sở và có các chi
bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở.
Đảng bộ có số lượng đảng viên đông, có thể thành lập đảng bộ, bộ phận
trực thuộc đảng ủy cơ sở, dưới đảng bộ, bộ phận có các chi bộ trực thuộc.
Theo đó, mỗi TCCSĐ được xác định là một tế bào cấu thành cơ thể
sống của Đảng, là yếu tố bảo đảm cho sự phát triển bền vững của toàn Đảng;
là hạt nhân chính trị ở cơ sở; trực tiếp đưa đường lối, chủ trương của Đảng
vào quần chúng và tổ chức thực hiện đường lối ấy. TCCSĐ cũng là nơi
thường xuyên sâu sát, gắn bó mật thiết với quần chúng, trực tiếp nắm, giải
quyết tâm tư, nguyện vọng chính đáng của quần chúng; nơi hàng ngày đảng
viên sinh hoạt, học tập, chiến đấu, là trường học giáo dục, rèn luyện đảng
viên, nơi sàng lọc đảng viên và giới thiệu quần chúng ưu tú cho Đảng.
Theo hướng tiếp cận trên có thể quan niệm:
“Tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi là một bộ phận tổ
chức cơ sở của Đảng, bao gồm các chi bộ, đảng bộ cơ sở được thành lập ở
đơn vị hành chính cấp xã, thị trấn, cơ quan, hợp tác xã, doanh nghiệp, đơn vị
sự nghiệp... theo quy định của Điều lệ Đảng, trực thuộc Đảng bộ Huyện, là
nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở; nơi trực tiếp đưa đường lối
của Đảng vào cuộc sống, nơi kiểm nghiệm tính đúng đắn của đường lối chủ
trương, chính sách của Đảng và cung cấp cơ sở thực tiễn để bổ sung, phát
triển, hoàn thiện đường lối; nơi trực tiếp phân công nhiệm vụ, quản lý, giáo
dục, rèn luyện, phát triển và sàng lọc đội ngũ đảng viên, trực tiếp góp phần
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng ở cơ sở.”

* Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ huyện
Đầm Dơi tỉnh Cà Mau
Xác định chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ
14


Huyện Đầm Dơi phải dựa vào Điều lệ Đảng, trực tiếp là Quy định số 95QĐ/TW, ngày 3-3-2004 của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ,
chi bộ cơ sở xã để cụ thể hóa.
Chức năng của TCCSĐ:
Điều 23 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XII xác định:
Tổ chức cơ sở đảng có nhiệm vụ: Chấp hành đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của đảng
bộ, chi bộ và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả. Xây dựng đảng bộ, chi bộ trong
sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc
tập trung dân chủ; nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình
và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng;
thường xuyên giáo dục, rèn luyện và quản lý cán bộ, đảng viên, nâng cao
phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình độ kiến thức, năng lực
công tác; làm công tác phát triển đảng viên. Lãnh đạo xây dựng chính
quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự nghiệp, quốc phòng, an ninh và
các đoàn thể chính trị - xã hội trong sạch, vững mạnh; chấp hành đúng
pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Liên hệ mật thiết với
nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ lợi ích chính đáng
của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng và thực hiện đường
lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Kiểm tra, giám sát
việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của
Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và
đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng.
Theo đó, có thể hiểu các tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Huyện
Đầm Dơi là tế bào nền tảng của Đảng, nơi hàng ngày giữ mối liên hệ mật thiết

giữa Đảng với quần chúng ở cơ sở, có chức năng chủ yếu là lãnh đạo công tác
quần chúng của Đảng ở cơ sở; tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân
thực hiện thắng lợi mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước và nghị quyết của Đảng bộ Huyện; quan tâm chăm lo đời sống
vật chất, tinh thần của nhân dân; động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối
15


với Nhà nước; xây dựng nông thôn mới (làng, xã văn minh, sạch đẹp, trật tự an toàn …).
Thông qua công tác vận động quần chúng và trực tiếp lãnh đạo quần
chúng thực hiện mọi chủ trương, đường lối của Đảng, TCCSĐ giữ vai trò
quan trọng trong việc kiểm nghiệm, khẳng định tính đúng đắn của đường lối,
nghị quyết của Đảng, đồng thời phản ánh với Đảng những ý kiến xác đáng
để sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh đường lối. Chi, đảng bộ cơ sở cũng là nơi
đảng viên hàng ngày sinh hoạt, học tập, tu dưỡng rèn luyện bản thân, là nơi
trực tiếp giáo dục, rèn luyện, sàng lọc và giới thiệu những quần chúng ưu tú
cho Đảng.
Nhiệm vụ của TCCSĐ:
Một là, lãnh đạo chăm lo đời sống nhân dân, giữ gìn an ninh trật tự
khu vực và thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở.
Tuyên truyền, vận động, lãnh đạo mọi tầng lớp nhân dân tập trung phát
triển sản xuất, nhân rộng những mô hình làm ăn có hiệu quả, tận dụng vườn,
bờ bao, vuông tôm trồng rau màu, cây ăn trái theo phương châm đa cây, đa
con để phát triển kinh tế bền vững. Đồng thời lãnh đạo thực hiện tốt các
nhiệm vụ chính trị khác ở địa phương như xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng
nông thôn mới, chính sách an sinh xã hội, xoá đói giảm nghèo, công tác y tế,
giáo dục, quốc phòng, an ninh, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở... góp phần
thực hiện hoàn thành nhiệm vụ chính trị, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
cho nhân dân.
Hai là, làm công tác chính trị tư tưởng.

Trực tiếp vận động, tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Trong giai
đoạn hiện nay, công tác giáo dục tư tưởng chính trị là nhiệm vụ đặc biệt quan
trọng đối với các cấp ủy đảng, là nhiệm vụ hàng đầu, là mặt trận chiến đấu
của Đảng trên lĩnh vực tư tưởng. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, các TCCSĐ
phải coi trọng và thực hiện tốt việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức
16


Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết Đại hội XII và Nghị quyết Trung
ương 4 khoá XI về xây dựng Đảng, để xây dựng TCCSĐ ngày càng TSVM.
Ba là, xác định đúng nhiệm vụ chính trị, kịp thời xây dựng và tổ chức
thực hiện thắng lợi nghị quyết.
Để lãnh đạo và thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn
vị trong từng giai đoạn, yêu cầu đặt ra với các TCCSĐ thuộc Đảng bộ Huyện
Đầm Dơi là phải nắm vững quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật Nhà nước, đồng thời nắm chặt tình hình mọi mặt của địa
phương. Trên cơ sở đó, xây dựng chủ trương, nghị quyết sát với tình hình,
năng động, sáng tạo tổ chức thực hiện hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ đề ra, xây
dựng TCCSĐ vững mạnh về mọi mặt.
Bốn là, làm công tác tổ chức, đảng viên và xây dựng Đảng.
Thường xuyên lãnh đạo chặt chẽ và tiến hành có hiệu quả công tác tổ
chức xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ đảng viên. Trên cơ sở các nguyên
tắc tổ chức, sinh hoạt của Đảng, cụ thể hóa và duy trì nghiêm túc trong tổ
chức, sinh hoạt, hoạt động lãnh đạo của đảng ủy, chi bộ; nhất là nền nếp
chế độ sinh hoạt Đảng, bảo đảm cho mọi sinh hoạt của Đảng được thực
hiện nghiêm túc, đầy đủ, có hiệu lực, hiệu quả. Thường xuyên làm tốt công
tác quản lý, rèn luyện, phân công công tác cho đảng viên; lãnh đạo phát
huy vai trò của MTTQ và các tổ chức đoàn thể tham gia xây dựng Đảng,

bồi dưỡng, rèn luyện, lựa chọn những quần chúng ưu tú giới thiệu cho
Đảng. Thực hiện nghiêm nguyên tắc, phương hướng, mục tiêu công tác
kiểm tra, giám sát của Đảng.
Năm là, lãnh đạo các tổ chức quần chúng.
Lãnh đạo tăng cường công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống
chính trị TSVM, phát huy vai trò của MTTQ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn
Thanh niên, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân... trong tập hợp, vận động
đoàn viên, hội viên thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng, nghị
quyết của cấp ủy các cấp và nghị quyết của đảng ủy, chi bộ trong phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Đồng thời, phát huy có hiệu
17


quả hoạt động của các tổ chức, lực lượng này trong tham gia xây dựng đảng
bộ, chi bộ TSVM, góp phần nâng cao NLLĐ, SCĐ của TCCSĐ.
* Đặc điểm hoạt động của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ huyện
Đầm Dơi tỉnh Cà Mau
Một là, TCCSĐ ở Huyện Đầm Dơi có số lượng khá nhiều so với các
huyện khác trong tỉnh, cơ bản được tổ chức theo đơn vị hành chính cấp xã và
tương đương, xây dựng và hoạt động trong địa hình, địa bàn rộng, chia cắt
bởi hệ thống kênh rạch.
Đầm Dơi là một Huyện có nhiều đơn vị hành chính so với các huyện
khác trong Tỉnh Cà Mau. Nếu như các huyện Phú Tân, Cái Nước thuộc Tỉnh
Cà Mau có khoảng 6 đơn vị hành chính cấp xã thì Huyện Đầm Dơi có tới 16
đơn vị hành chính cấp xã. Các TCCSĐ và số lượng đảng viên của Huyện
Đầm Dơi cũng lớn hơn các đơn vị huyện bạn trong tỉnh (67 TCCSĐ). Đầm
Dơi là Huyện có địa bàn rộng (diện tích trên 80.000 ha), sông ngòi chằng chịt,
kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội thấp, đi lại chủ yếu bằng phương tiện thủy, lại
chịu chế độ bán nhật triều của biển Đông nên đi lại phụ thuộc vào mực nước
thủy triều, khi thủy triều xuống, một số kinh trục bị khô cạn, đi lại rất khó

khăn. Do đó, để xây dựng và quản lý chặt chẽ các TCSCĐ và đội ngũ cán bộ,
đảng viên đòi hỏi Huyện ủy phải có cách thức, biện pháp phù hợp với điều
kiện đặc thù của Huyện. Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Đảng bộ
Huyện quy định mỗi tháng các đồng chí thành viên Ban Thường vụ Huyện
ủy, thành viên Ban Chấp hành Đảng bộ Huyện ít nhất dành thời gian đi cơ sở
2 ngày để giúp các TCCSĐ khắc phục khó khăn, thực hiện hoàn thành nhiệm
vụ chính trị là một giải pháp hữu hiệu nhằm quản lý TCCSĐ thuộc Đảng bộ
Huyện Đầm Dơi chặt chẽ hơn.
Hai là, đội ngũ đảng viên của các TCCSĐ thuộc Đảng bộ Huyện Đầm
Dơi có tỷ lệ tuổi đời cao khá đông và một phần là những người sinh ra và
trưởng thành trong đấu tranh cách mạng, trực tiếp tham gia hoạt động chống
Mỹ cứu nước.
Theo số liệu thống kê thực tế có trên 20% đảng viên các TCCSĐ ở
18


Huyện Đầm Dơi trên 41 tuổi và có một phần là những người đã từng tham gia
họat động kháng chiến chống Mỹ, được tôi luyện trong đấu tranh cách mạng,
trong những hoàn cảnh khó khăn, ác liệt của chiến tranh và trong thực tiễn
công tác nhiều năm, nên có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng tuyệt đối
vào sự lãnh đạo của Đảng, vào mục tiêu con đường xã hội chủ nghĩa, thường
xuyên gần gũi và gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tin cậy, là chỗ
dựa nòng cốt cho hoạt động lãnh đạo của chi bộ, đảng bộ cơ sở. Do đó, đội
ngũ này thường nắm chắc được những bức xúc, tâm tư của nhân dân, kịp thời
phản ánh và đề xuất với các cơ quan lãnh đạo đảng, chính quyền để có chủ
trương, biện pháp giải quyết thỏa đáng, góp phần tạo nên sự đồng thuận trong
xã hội và sự nhất trí cao trong các tầng lớp nhân dân đối với quan điểm, chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời,
họ cũng là lực lượng nòng cốt cho mọi hoạt động xây dựng và lãnh đạo, chỉ
đạo của chi bộ, đảng bộ cơ sở. Đại bộ phận họ đều có có tâm huyết, luôn trăn

trở, mong muốn xây dựng tổ chức đảng TSVM và không ngừng nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ, đảng bộ.
Ba là, chất lượng các TCCSĐ và cơ cấu thành phần, số lượng, chất
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong các TCCSĐ không đồng đều, còn
nhiều mặt chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Theo số liệu thống kê đến tháng 12 năm 2015, tổng số đảng viên của 16
đảng bộ xã, thị trấn có 3.990 đảng viên, chiếm 82,49% so với tổng số đảng
viên của Đảng bộ Huyện. Trong đó 3.167 đảng viên nam, chiếm tỷ lệ 79,37%
so tổng số đảng viên cấp xã; 823 đảng viên nữ, chiếm 20,63% so với đảng
viên cấp xã; đảng viên là cán bộ hưu trí 250 đồng chí, chiếm 6,25% so với
đảng viên cấp xã. Đội ngũ đảng viên ở các TCCSĐ cấp xã thuộc Đảng bộ
Huyện Đầm Dơi được hình thành từ nhiều nguồn: cán bộ, công chức nghỉ
hưu, bộ đội xuất ngũ, chuyển từ địa phương khác đến, nhưng phần đông là
nguồn phát triển tại chỗ, trưởng thành từ các phong trào cách mạng tại địa
phương. Về trình độ học vấn, cấp I: 176 đồng chí, chiếm 4,41%; cấp II: 1.100
đồng chí, chiếm 27,57%; cấp III: 2.714 đồng chí, chiếm 68,02%. Trình độ
19


chuyên môn nghiệp vụ trung cấp 1.153 đồng chí, chiếm 28,90%; cao đẳng,
đại học và trên đại học 67 đồng chí, chiếm 1,68%. Trình độ lý luận chính trị
sơ cấp 1.023 đồng chí, chiếm tỷ lệ 25,64%; trung cấp 414 đồng chí, chiếm tỷ
lệ 10,38%; cao cấp và cử nhân 59 đồng chí, chiếm tỷ lệ 1,48%; số còn lại
chưa qua đào tạo.
Đối với 47 Đảng bộ, chi bộ ngành Huyện có tổng số 847 đảng viên,
trong đó 653 đảng viên nam, chiếm tỷ lệ 77,10%; 194 đảng viên nữ, chiếm
22,90%. Về trình độ học vấn, cấp II 43 đồng chí, chiếm 5,08%; cấp III 804
đồng chí, chiếm 94,92%. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trung cấp 67 đồng
chí, chiếm 7,91%; cao đẳng, đại học và trên đại học 780 đồng chí, chiếm
92,09%. Trình độ lý luận chính trị sơ cấp 142 đồng chí, chiếm tỷ lệ 16,77%;

trung cấp 620 chiếm tỷ lệ 73,20%; cao cấp và cử nhân 85 đồng chí, chiếm tỷ
lệ 10,04%.
Từ số liệu phân tích trên cho thấy, số lượng đảng viên cơ sở tuy
chiếm số đông (82,49% so với tổng số đảng viên trong Đảng bộ Huyện)
nhưng trình độ học vấn, trình độ chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ
lại thấp. Do vậy việc triển khai, quán triệt và vận dụng các chủ trương,
đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước vào điều
kiện cơ sở còn rất hạn chế.
* Vai trò TCCSĐ thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau
Thứ nhất, các TCCSĐ cấu thành nền tảng của Đảng ở cơ sở, trực tiếp
quyết định việc lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, phát huy vai trò, hiệu quả hoạt
động của hệ thống chính trị ở cơ sở.
Trong cơ cấu hệ thống tổ chức của Đảng hiện nay, TCCSĐ là cấp bộ
đảng được tổ chức ở cấp chính quyền địa phương cấp xã và tương đương, đây
là những đơn vị tế bào nhỏ nhất cấu thành hệ thống tổ chức đảng, lập thành
nền tảng của Đảng, các TCCSĐ TSVM là nhân tố trực tiếp quyết định sự bền
vững của Đảng ở cơ sở và toàn Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng
mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”, TCCSĐ không
chỉ giữ vai trò quan trọng trong tạo thành nền tảng vững chắc cho Đảng, mà
20


còn giữ vai trò là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở, trực tiếp lãnh đạo và
phát huy vai trò của các tổ chức trong HTCT ở địa phương trong tuyên
truyền, vận động, tập hợp nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước và xây dựng địa phương vững
mạnh về mọi mặt.
Trên cơ sở tuân thủ các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật Nhà nước, các TCCSĐ thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi phải thể
hiện vai trò hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị ở cơ sở. Đối với các đảng bộ

cấp xã phải lãnh đạo Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức đoàn thể thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình; xây dựng
hệ thống chính trị cơ sở ngày càng trong sạch vững mạnh. Đối với các đảng
bộ, chi bộ ngành Huyện thể hiện tốt vai trò lãnh đạo đối với các đoàn thể của
từng cơ quan, đơn vị như: Công đoàn, Đoàn thanh niên, Phụ nữ, đảm bảo các
đoàn thể này hoạt động đạt chất lượng, hiệu quả, góp phần để các cơ quan
đơn vị này hoàn thành nhiệm vụ chính trị, xây dựng Đảng bộ, chi bộ TSVM.
Hai là, TCCSĐ là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, nơi hàng ngày giữ
vững mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với quần chúng nhân dân ở cơ sở.
Các TCCSĐ thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi, thường xuyên coi trọng
củng cố, tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân, quan tâm chăm lo
quyền lợi của nhân dân; thể hiện sự gần gủi gắn bó với nhân dân. Do đó,
trong hoạt động hằng ngày, các TCCSĐ thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi luôn
gần gũi với nhân dân, liên hệ mật thiết với nhân dân, vì mục tiêu chăm lo cho
lợi ích của nhân dân và phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng quê
hương, đất nước. Các TCCSĐ cũng là nơi hàng ngày trực tiếp nắm tâm tư,
nguyện vọng của nhân dân để phản ánh với Đảng, cung cấp cơ sở thực tiễn để
Đảng bổ sung, phát triển, hoàn thiện đường lối, quan điểm, chủ trương, chính
sách. Mặt khác, nhân dân quan hệ với Đảng chủ yếu, trực tiếp thông qua các
TCCSĐ và đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở. Vì vậy, các TCCSĐ có vai trò
hết sức quan trọng, là nơi trực tiếp giữ gìn, củng cố và tăng cường mối liên hệ
hữu cơ, mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Nếu các TCCSĐ TSVM, thực hiện
21


tốt chức năng, nhiệm vụ sẽ góp phần trực tiếp củng cố tăng cường, giữ vững
mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân.
Ba là, TCCSĐ thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi là nơi quyết định chất
lượng, hiệu quả việc tổ chức, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước; trực tiếp đưa quan điểm đường lối của

Đảng vào đời sống ở cơ sở.
TCCSĐ và cán bộ, đảng viên cơ sở là cầu nối giữa Đảng với nhân dân,
mọi chủ trương, chính sách của Đảng đến được với nhân dân như thế nào phụ
thuộc trực tiếp và quyết định bởi các TCCSĐ ở cơ sở. TCCSĐ là nơi trực tiếp
đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đến với các tầng lớp nhân
dân; đồng thời vận động nhân dân chấp hành nghiêm chỉnh và nỗ lực phấn
đấu thực hiện thắng lợi mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật Nhà nước. Mặt khác, TCCSĐ cũng là nơi trực tiếp cụ thể hóa quan điểm,
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào thực tiễn thông qua các hoạt
động lãnh đạo, chỉ đạo trên tất cả các lĩnh vực, các mặt công tác của các tổ
chức, lực lượng ở địa phương; để làm được điều đó, các TCCSĐ thuộc Đảng
bộ Huyện Đầm Dơi phải nâng cao trí tuệ, năng lực về mọi mặt, nhất là năng
lực cụ thể hoá các chủ trương, nghị quyết của Đảng cấp trên thành chương
trình, kế hoạch thực hiện đảm bảo khả thi, sát với tình hình thực tế, đồng thời
phải có năng lực tổ chức thực hiện đưa các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống; là nơi kiểm nghiệm tính
đúng đắn của đường lối, chính sách, nơi cung cấp cơ sở thực tiễn để Đảng tiếp
tục sửa đổi, bổ sung hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách cho phù
hợp với thực tiễn mọi mặt của đất nước.
Bốn là, TCCSĐ là nơi trực tiếp tiến hành và quyết định chất lượng,
hiệu quả công tác phát triển đảng và xây dựng đội ngũ đảng viên ở cơ sở.
TCCSĐ nói chung, các TCCSĐ thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi nói
riêng là nơi trực tiếp làm công tác phát triển đảng, trực tiếp quản lý, rèn luyện,
giáo dục và phân công nhiệm vụ cho từng đảng viên. Mọi sự tiến bộ trưởng
thành của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng đều bắt nguồn trực tiếp từ sự
22


quản lý, giáo dục, rèn luyện của TCCSĐ. TCCSĐ là nơi trực tiếp nắm, quản
lý trình độ phẩm chất, năng lực, đạo đức của từng đảng viên và của toàn đội

ngũ, trực tiếp tiến hành giáo dục, rèn luyện không ngừng nâng cao phẩm chất
chính trị, đạo đức, kiến thức, năng lực toàn diện cho đội ngũ đảng viên, bảo
đảm đáp ứng ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ. Số
lượng, chất lượng đội ngũ đảng viên và hiệu quả công tác phát triển đảng ở cơ
sở như thế nào phụ thuộc trước hết vào vai trò, trách nhiệm của các TCCSĐ;
đồng thời TCCSĐ cũng là nơi trực tiếp sàng lọc đội ngũ đảng viên, kịp thời
phát hiện những phần tử cơ hội, thoái hóa biến chất, không đủ tư cách đảng
viên để đưa ra khỏi Đảng, bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh.
1.1.2. Những vấn đề cơ bản về năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc
Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau
* Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc
Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau
Quan niệm năng lực lãnh đạo:
Khái niệm năng lực là phạm trù khá phổ biến trong đời sống chính trị
xã hội, nên cho tới nay có nhiều cách tiếp cận xoay quanh khái niệm năng lực,
năng lực lãnh đạo:
Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm ngôn ngữ văn hóa Việt Nam - Bộ
Giáo dục và Đào tạo (1998), quan niệm: Năng lực là một trong những điều
kiện đủ hoặc vốn có để làm một việc gì; là khả năng đủ để thực hiện tốt công
việc. Lãnh đạo là dẫn dắt tổ chức phong trào theo đường lối cụ thể (lãnh đạo
23


cuộc đấu tranh); là cơ quan lãnh đạo, bao gồm những người có khả năng tổ
chức dẫn dắt phong trào.
Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Đà Nẵng (1997) định nghĩa: Năng
lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một
hoạt động nào đó; là phẩm chất tâm lý, sinh lý tạo cho con người hoàn thành
một hoạt động nào đó. Lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức vận

động thực hiện đường lối đó.
Như vậy, có thể hiểu: năng lực lãnh đạo là tổng hợp khả năng của một
tập thể, hay cá nhân có thể huy động để đề ra phương hướng, mục tiêu hành
động, chủ trương, đường lối lãnh đạo, chỉ đạo và khả năng tổ chức, dẫn dắt
tập thể, hay toàn dân thực hiện thắng lợi đường lối đó.
Năng lực lãnh đạo của Đảng là khả năng đề ra được mục tiêu cách
mạng đúng đắn, cơ bản, lâu dài, cũng như từng thời kỳ và bằng những
phương thức, phương pháp đúng đắn tổ chức nhân dân, dân tộc thực hiện có
hiệu quả mục tiêu cách mạng đã xác định. Năng lực lãnh đạo của Đảng là khả
năng hiện thực bao gồm: năng lực đề ra chủ trương, đường lối; năng lực xây
dựng nghị quyết, chỉ thị; năng lực tổ chức thực hiện đường lối; năng lực kiểm
tra phát hiện và xử lý.
Theo hướng tiếp cận trên có thể quan niệm:
Năng lực lãnh đạo của TCCSĐ thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi là biểu
hiện cụ thể của năng lực lãnh đạo của Đảng ở cơ sở, là tổng hợp các khả
năng nghiên cứu, quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng, chỉ thị, nghị
quyết của cấp trên, cụ thể hóa đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo của cấp
24


mình bảo đảm sát với tình hình thực tiễn và nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn
hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương; là khả năng tuyên truyền,
vận động nhân dân thực hiện thắng lợi quan điểm, đường lối của Đảng, chỉ
thị, nghị quyết cấp trên và cấp mình.
Quan niệm sức chiến đấu:
Sức chiến đấu của TCCSĐ được thể hiện ở sự đoàn kết thống nhất ý
chí và hành động; ở chất lượng đội ngũ đảng viên trong đảng bộ; ở việc cụ thể
hoá các nghị quyết của cấp trên thành nhiệm vụ chính trị của đơn vị; ở việc
xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh và ở khả năng lãnh đạo quần
chúng thực hiện nghị quyết của Đảng.

Sức chiến đấu của Đảng ta được biểu hiện, cụ thể ở: Bản lĩnh chính trị,
sự vững vàng của Đảng trước những khó khăn và thách thức trong và ngoài
nước. Trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, quyết tâm thực
hiện thắng lợi đường lối đổi mới. Kiên quyết đấu tranh loại bỏ những phần tử
cơ hội chủ nghĩa, những phần tử thoái hóa biến chất, tham nhũng ra khỏi
Đảng, đấu tranh ngăn chặn sự tác động của những quan điểm, tư tưởng phản
động, bảo vệ sự trong sạch nội bộ. Tính tổ chức kỷ luật, tinh thần đoàn kết nội
bộ, ý thức tập thể trong lãnh đạo và sinh hoạt đảng. Phẩm chất chính trị, đạo
đức cách mạng, trình độ năng lực thực tế và vai trò tiên phong, gương mẫu
của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Lối sống, phương pháp công tác, phong cách
lãnh đạo của cán bộ, đảng viên.
Theo hướng tiếp cận trên có thể quan niệm:
Sức chiến đấu của TCCSĐ thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi là sức
mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng và tổ chức, sự thống nhất về ý chí và
hành động, là khả năng tự bảo vệ nội bộ và khả năng đấu tranh chống lại mọi
tác động làm suy yếu TCCSĐ, là sự gắn kết Đảng với quần chúng để thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, cơ sở.
* Mối quan hệ giữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi
25


Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu là hai yếu tố tạo nên sự lãnh đạo
và sức mạnh của Đảng. Nếu thiếu một trong hai yếu tố đó thì Đảng không giữ
được vai trò lãnh đạo cách mạng và Đảng không thể tồn tại được. Năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng có mối liên hệ hữu cơ chặt chẽ, hai yếu tố
này thâm nhập vào nhau, tác động thúc đẩy nhau, làm tiền đề để tồn tại và
phát triển của nhau. Đó là mối liên hệ nhân quả trong sự lãnh đạo cách mạng
của Đảng. Năng lực lãnh đạo của Đảng càng được nâng lên bao nhiêu thì

sức chiến đấu của Đảng càng được củng cố bấy nhiêu, ngược lại sức chiến
đấu càng được củng cố, nâng cao thì năng lực lãnh đạo của Đảng càng được
nâng lên.
Theo hướng tiếp cận đó có thể quan niệm:
NLLĐ, SCĐ của TCCSĐ thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi là tổng hợp
khả năng, sức mạnh của tập thể cấp ủy, chi bộ, đảng bộ cơ sở và đội ngũ cán
bộ, đảng viên có thể huy động để nghiên cứu, quán triệt quan điểm, đường lối
của Đảng, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên; bám nắm tình
hình địa phương, đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo đúng
đắn sát thực tế; là khả năng phát huy sức mạnh tổng hợp
của hệ thống chính trị, của nhân dân ở địa phương, cơ sở
thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế, chính trị,
văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương, đồng
thời đấu tranh có hiệu quả chống tư tưởng cơ hội, tiêu cực
trong nội bộ và các quan điểm của các thế lực thù địch,
chống cộng để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ và giữ vững niềm tin của
nhân dân.
* Biểu hiện của năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ
sở đảng thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi
Năng lực nghiên cứu, quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng, chỉ
thị, nghị quyết của cấp trên và năng lực nắm bắt tình hình mọi mặt của địa
phương đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo đúng đắn ở cấp mình. Việc
nghiên cứu, nắm vững chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ
26


×