Tải bản đầy đủ (.doc) (141 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý dạy học NGOẠI NGỮ CHO SINH VIÊN ở học VIỆN KHOA học QUÂN sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 141 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trước những biến đổi, xu thế phát triển hiện nay, không chỉ có Việt
Nam mà rất nhiều nước trên thế giới đã thực hiện việc đổi mới nội dung,
chương trình, phương pháp dạy học để nâng cao dạy học nguồn nhân lực,
nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Trong chiến lược
phát triển nguồn nhân lực thì đào tạo ngoại ngữ được coi là vấn đề quan
trọng nhằm tạo ra lực lượng lao động có trình độ chuyên môn, có kỹ năng
lao động, kiến thức ngoại ngữ và thái độ nghề nghiệp phù hợp yêu cầu phát
triển kinh tế, xã hội, đáp ứng sự biến đổi cơ cấu lao động, nhu cầu chuyển
dịch cơ cấu lao động, hội nhập quốc tế. Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của
Đảng nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp
dạy và học ở tất cả các cấp học, bậc học… Mở rộng và nâng cao chất lượng
đào tạo ngoại ngữ” [12, tr.131-132].
Với chức năng đào tạo cán bộ ngoại ngữ cho quân đội và nguồn nhân
lực ngoại ngữ chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Trong những năm qua, Đảng uỷ, Ban Giám đốc Học viện Khoa
học Quân sự rất quan tâm tới việc nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo nói
chung, đào tạo ngoại ngữ cho sinh viên hệ dân sự nói riêng, nhằm mục tiêu
nâng cao tri thức toàn diện cho sinh viên để khi tốt nghiệp ra trường, sinh viên
đảm nhận được công việc biên dịch, phiên dịch hay giáo viên giảng dạy ngoại
ngữ có chất lượng cao.
Tuy nhiên, trong quản lý và thực hiện nhiệm vụ dạy học ngoại ngữ cho
thấy: một số giảng viên chưa nhận thức đầy đủ vai trò, tầm quan trọng của
môn ngoại ngữ đối với hoạt động nghề nghiệp sau này của sinh viên, dẫn đến
trong dạy học ngoại ngữ, chưa tích cực bổ sung, cập nhật kiến thức để nâng
cao chất lượng dạy học, làm cho sản phẩm đào tạo có mặt còn yếu, chưa được

3



xã hội đánh giá cao, chưa tạo nên uy tín lớn trong hệ thống các trường đào tạo
ngoại ngữ của nước nhà. Công tác quản lý dạy học ngoại ngữ của cơ quan
chức năng và một số cán bộ quản lý chưa thật chặt chẽ và khoa học, xác định
nội dung chương trình, mục tiêu đào tạo của toàn khoá học và mục tiêu cụ thể
của từng môn học chưa rõ ràng, tường minh; quản lý quá trình giảng dạy,
kiểm tra đánh giá kết quả học tập của sinh viên có nội dung còn đơn giản.
Bên cạnh đó, chất lượng đầu vào của sinh viên chưa đồng đều, một số
sinh viên trong quá trình học tập chưa thực sự say mê, ít đầu tư thời gian và
công sức trong nghiên cứu, học tập ngoại ngữ, chưa xác định rõ là học để sử
dụng ngoại ngữ cho công việc sau này, dẫn đến việc học có tính đối phó, rèn
luyện các kỹ năng ngoại ngữ chưa thường xuyên, liên tục, biểu hiện tâm lý dè
dặt, e ngại, khi nói và viết luôn có tâm lý sợ lỗi, sợ sai.
Những điểm thiếu sót, hạn chế ấy do nhiều nguyên nhân chủ quan,
khách quan khác nhau, trong đó nguyên nhân từ công tác quản lý dạy học
ngoại ngữ có ảnh hưởng nhất định. Về mặt lý luận, hiện nay chưa có một đề
tài, công trình nghiên cứu khoa học nào đề cập đến nội dung quản lý dạy học
ngoại ngữ cho sinh viên hệ dân sự ở Học viện Khoa học Quân sự. Chính
vì vậy, nghiên cứu tìm ra biện pháp quản lý dạy học ngoại ngữ cho sinh viên
là vấn đề cần thiết, góp phần nâng cao chất lượng học ngoại ngữ của sinh
viên.
Về phương diện lý luận, vấn đề dạy học ngoại ngữ và quản lý dạy học
ngoại ngữ cho sinh viên, học sinh ở các nhà trường trong hệ thống giáo dục
quốc dân nói chung, đã được các nhà khoa học nghiên cứu, luận giải dưới góc
độ, chuyên ngành khác nhau, song vẫn còn thiếu những công trình nghiên cứu
một cách có hệ thống, mang tính toàn diện về dạy học ngoại ngữ, quản lý dạy
học ngoại ngữ cho sinh viên ở Học viện Khoa học Quân sự. Vì vậy, tác giả

4



lựa chọn vấn đề: “Quản lý dạy học ngoại ngữ cho sinh viên ở Học viện Khoa
học Quân sự”, để nghiên cứu, làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Các công trình nghiên cứu về quản lý giáo dục, đào tạo
và quản lý dạy học nói chung
Bàn về vấn đề giáo dục, đào tạo và quản lý giáo dục đào tạo ở các cơ sở
giáo dục nói chung, ở các trường đại học, cao đẳng nói riêng đã được nhiều
nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, với những cách tiếp cận vấn đề khác
nhau. Các nghiên cứu về quản lý không chỉ đề cập đến quản lý nội dung
chương trình, quản lý phương pháp giảng dạy, mà còn phải chú trọng đến
nhiều yếu tố khác, vì chúng có mối liên hệ tương hỗ với nhau.
Tác giả Ngô Quý Ty và Lê Văn Chung, nghiên cứu đề tài: “Một số vấn
đề chung về quản lý giáo dục, đào tạo trong quân đội”. Nội dung của đề tài
nghiên cứu đã tập trung khái quát, làm rõ vị trí, vai trò, bản chất, chức năng,
nguyên tắc, phương pháp và công cụ quản lý giáo dục, đào tạo và quản lý
trường học. Đồng thời tập trung luận giải những vấn đề về quản lý sinh viên
và hệ thống các biện pháp quản lý hoạt động học tập của sinh viên ở một số
học viện, nhà trường trong quân đội và đề ra các giải pháp trong đánh giá hoạt
động học tập của sinh viên. Đây là những nội dung có giá trị giúp tác giả tiếp
cận cách thức quản lý giáo dục, đào tạo, quản lý hoạt động học tập của sinh
viên hệ dân sự đang được đào tạo ở nhà trường quân đội.
Bên cạnh đó, vấn đề quản lý hoạt động dạy học ở các học viện, trường
đại học, cao đẳng, đã có nhiều đề tài, luận văn thạc sỹ chuyên ngành quản lý
giáo dục nghiên cứu, như: Nguyễn Văn Tấn (2008), nghiên cứu đề tài “Các
biện pháp quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên ngành cơ khí chế tạo ở
Trường Cao đẳng Kỹ thuật Lý Tự Trọng, Thành phố Hồ Chí Minh”; Đặng
Thị Phương Lan (2007), với đề tài “Biện pháp quản lý hoạt động giảng dạy

5



của giảng viên tại Khoa Công tác xã hội, Trường Đại học Lao động - Xã hội”;
Nguyện Thị Nhận (2008), với đề tài nghiên cứu “Thực trạng quản lý hoạt
động giảng dạy tại Trường đại học mở, thành phố Hồ Chí Minh”; Nguyễn
Đức Thạch (2012), với đề tài nghiên cứu “Biện pháp quản lý hoạt động dạy
học môn Tiếng Anh tại trường trung cấp Cảnh sát nhân dân 1”; Nguyễn Hữu
Luyến (2012), với đề tài nghiên cứu “Biện pháp quản lý hoạt động giảng dạy
của giảng viên thỉnh giảng tại Trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội”…
Qua nghiên cứu, tìm hiểu các công trình khoa học, đề tài luận văn thạc sĩ
trình bày ở trên, tác giả nhận thấy mặc dù các công trình khoa học, luận văn
khoa học có cách tiếp cận khác nhau về mục đích, nhiệm vụ, nội dung, đối
tượng và phạm vi nghiên cứu nhưng đều tập trung luận giải, làm rõ tầm quan
trọng của quản lý giáo dục, đào tạo, quản lý hoạt động dạy của giảng viên, hoạt
động học của sinh viên theo cách tiếp cận của từng chuyên ngành. Kết quả
nghiên cứu của các công trình đã có những đóng góp nhất định trong luận giải
làm rõ cơ sở lý luận, phân tích, đánh giá thực trạng, xây dựng những giải pháp
quản lý phù hợp với yêu cầu, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng trường, từng
lĩnh vực cụ thể, từ đó nâng cao kết quả giảng dạy của giảng viên, kết quả học
tập của sinh viên, góp phần thúc đẩy nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của
nhà trường.
Tuy nhiên, các đề tài luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu quản lý quá
trình giảng dạy, hoạt động giảng dạy nói chung và ở các trường đại học, cao
đẳng cụ thể, chưa có tác giả nào nghiên cứu, xem xét, giải quyết vấn đề về
quản lý dạy học ngoại ngữ cho sinh viên ở Học viện Khoa học Quân sự.
Cùng với các đề tài, luận văn thạc sĩ, còn nhiều bài báo khoa học viết về
dạy học, quản lý dạy học, đổi mới phương pháp học tập cũng như vai trò của
các tổ chức, lực lượng trong quản lý hoạt động học tập của sinh viên ở nhà
trường quân đội như: tác giả Nguyễn Ngọc Phú (1990), với bài báo “Dân chủ

6



hóa dạy và học các môn khoa học xã hội và nhân văn trong các nhà trường
quân sự”; tác giả Trần Đình Tuấn (2003), với bài báo “Bồi dưỡng năng lực
thực hành cho sinh viên trong dạy học các môn khoa học xã hội và nhân văn ở
nhà trường quân sự; tác giả Phạm Minh Thụ (2013), với bài viết “Tăng cường
đổi mới phương pháp dạy học các môn khoa học xã hội và nhân văn ở các
trường đại học quân sự”. Qua nghiên cứu, luận giải những luận cứ khoa học
của vấn đề nghiên cứu, các tác giả đã đề xuất nhiều biện pháp, đưa ra những
kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy của giảng viên và học tập của
sinh viên, cũng như quản lý dạy học, phát huy vai trò các tổ chức, lực lượng
trong việc quản lý chất lượng học tập của sinh viên ở nhà trường quân đội.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu tuy khác nhau về đối tượng, nhiệm
vụ, phạm vi nghiên cứu, song các tác giả đã tập trung phân tích, làm rõ vị trí,
vai trò tầm quan trọng của hoạt động dạy và hoạt động học tập, nâng cao hiệu
quả hoạt động dạy học, đánh giá thực trạng dạy học, quản lý dạy học; đề xuất
các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học của giảng viên và sinh viên
trong quá trình đào tạo ở nhà trường; trong đó quản lý dạy học được đề cập
đến như là một giải pháp, một khâu quan trọng để nâng cao chất lượng giáo
dục và đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng nói chung, các nhà trường
trong quân đội nói riêng. Kết quả nghiên cứu của các đề tài, công trình trên là
cơ sở trực tiếp để tác giả kế thừa và phát triển vấn đề nghiên cứu quản lý dạy
học ngoại ngữ cho sinh viên dưới góc độ của khoa học quản lý giáo dục.
* Các công trình nghiên cứu về quản lý dạy học ngoại ngữ
Tác giả Trần Hữu Luyến (2008), với đề tài nghiên cứu: “Cơ sở tâm lý
học dạy học ngoại ngữ”, thông qua nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng,
tác giả đã làm rõ bản chất, đặc trưng, cấu trúc tâm lý của hoạt động dạy học
ngoại ngữ, cũng như các điều kiện tâm lý sư phạm nâng cao chất lượng dạy
và học ngoại ngữ.


7


Đỗ Duy Môn (2009) (chủ nhiệm), đề tài “Giải pháp sư phạm - tâm lý
nhằm nâng cao chất lượng học ngoại ngữ của cán bộ, giáo viên ở Học viện
Chính trị hiện nay”. Qua nghiên cứu, các tác giả đã chỉ ra các yếu tố ảnh
hưởng đến chất lượng dạy và học ngoại ngữ, đó là mục tiêu, nội dung của dạy
học ngoại ngữ; người dạy và người học; phương pháp sử dụng; phương pháp
kiểm tra đánh giá; điều kiện và môi trường dạy học ngoại ngữ, từ đó đề xuất
mô hình cũng như giải pháp nhằm nâng cao chất lượng học ngoại ngữ cho cán
bộ, giáo viên ở Học viện Chính trị.
Nghiên cứu về quản lý hoạt động dạy học, tác giả Lê Thị Hải (2003),
với đề tài luận văn thạc sĩ về “Một số biện pháp quản lý hoạt động của hiệu
trưởng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở trường Trung học cơ sở huyện
Đông Sơn, Thanh Hoá”; Hoàng Công Đình (2004), với đề tài luận văn thạc
sĩ “Một số biện pháp quản lý của chủ nhiệm bộ môn đối với hoạt động dạy
học ngoại ngữ ở trường Đại học sư phạm thuộc Đại học Thái Nguyên”; Vũ
Thị Thuý (2005), với đề tài luận văn thạc sĩ “Một số biện pháp quản lý hoạt
động dạy học môn tiếng Anh của bộ môn Ngoại ngữ trường Cao đẳng Kỹ
thuật Y tế I”; Bùi Phi Yến (2006), nghiên cứu làm rõ vấn đề “Một số biện
pháp quản lý hoạt động dạy học ngoại ngữ của chủ nhiệm bộ môn ở trường
Cao đẳng sư phạm Trung ương”; Vũ Hồng Ngọc (2006), với đề tài luận văn
thạc sĩ “Một số biện pháp quản lý nâng cao chất lượng dạy học ngoại ngữ ở
trường Cao đẳng sư phạm Trung ương”; Nguyễn Thị Ngân (2007), với đề tài
luạn văn thạc sĩ “Biện pháp quản lý nâng cao chất lượng dạy học tiếng Anh
cho cán bộ công chức khối hành chính sự nghiệp của thành phố Hải Phòng
trong thời kỳ hội nhập”.
Nhìn chung, các đề tài luận văn thạc sĩ của các tác giả đều hướng vào
nghiên cứu, phân tích làm rõ những nội dung cơ bản của quản lý, quản lý hoạt
động dạy học nói chung và quản lý hoạt động dạy học ngoại ngữ ở các trường


8


trung học phổ thông, cao đẳng nói riêng. Những kết quả nghiên cứu của các
đề tài luận văn có nhiều nội dung gợi mở về lý luận cũng như chỉ ra phương
pháp khảo sát thực trạng và đưa ra cách tiếp cận trong xây dựng biện pháp
quản lý dạy học ngoại ngữ cho sát với đối tượng là sinh viên ở Học viện Khoa
học Quân sự hiện nay.
Cùng với đề tài luận văn, còn có các bài báo khoa học viết về dạy học
ngoại ngữ, quản lý dạy học ngoại ngữ như: tác giả Catherine Cheehy
Skeffington, trong bài viết “Làm thế nào để giúp sinh viên sử dụng tiếng Anh
trong lớp học” đã nêu ra tầm quan trọng của việc giúp sinh viên nói tiếng
Anh. Theo tác giả, những khó khăn về khả năng đọc ngôn ngữ, là vấn đề khó
khăn về đọc chứ không phải khó khăn về ngôn ngữ, từ đó các ông đưa ra
muốn khắc phục khó khăn đó cần phải có giải đồ thích hợp. Từ đó, tác giả đã
chỉ ra nguyên nhân tại sao sinh viên không sử dụng tiếng Anh trong lớp và
nêu ra những biện pháp cụ thể để giúp sinh viên phát huy khả năng nói tiếng
Anh trong lớp học.
Tác giả Trịnh Văn Minh, với bài báo: “Dạy - học ngoại ngữ trong cơ
chế thị trường”, tác giả đã khẳng định ngoại ngữ không chỉ là phương tiện
giao tiếp, mà còn là phương tiện nâng cao dân trí, mở rộng vốn văn hóa
chung, điều kiện cần cho giao lưu và hội nhập quốc tế.
Tác giả Ngô Văn Quyết, với bài báo “Ngoại ngữ - một thành tố của
chiến lược phát triển nền giáo dục quốc gia”, tác giả đã tập trung làm rõ vai
trò của ngoại ngữ đối với sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước. Theo tác giả,
ngoại ngữ phải được xem là một thành tố trong chiến lược phát triển giáo dục
quốc gia, cho nên cần phải hoàn thiện chương trình ngoại ngữ trong các
trường đại học.
Tác giả Nguyễn Quốc Hùng, với bài báo “Phương pháp học tiếng

Anh”, tác giả đã trình bày khái quát những phương pháp học tiếng Anh phổ

9


biến trong nước cũng như trên thế giới. Tác giả có những nhận xét về hiệu
quả của việc sử dụng phương pháp trực tiếp, chỉ ra yếu tố cá nhân như sự kiên
trì, sức sáng tạo và tình yêu ngôn ngữ là yếu tố quyết định trong việc học
ngoại ngữ.
Nguyễn Quốc Hùng, với bài “Xây dựng mô hình dạy tiếng Anh cho
người Việt”, tác giả đã chỉ ra để có được những bộ tài liệu học tiếng Anh cho
người Việt với chất lượng đào tạo cao, giúp cho họ đạt được trình độ giao tiếp
thành công trong thời gian ngắn nhất thì phải tính đến những đặc điểm ngôn
ngữ học của người Việt khác với người Anh, tính đến đặc điểm tâm lý, tính
cách cũng như những nét sinh hoạt, phong tục, tập quán, thói quen…
Tác giả Văn Canh, trong bài viết “Lựa chọn phương pháp giảng dạy
ngoại ngữ theo hướng nào?” đã chỉ rõ người dạy giữ vai trò trung tâm trong
quá trình tìm kiếm những chiến lược dạy hiệu quả,… người dạy vừa là người
nghiên cứu, người đưa ra các giả thuyết, tái hiện có phê phán các giả thuyết
đó trong quá trình giảng dạy thông qua quá trình quan sát và tìm hiểu lớp học.
Thay vì đi tìm một phương pháp tối ưu trong giảng dạy, người dạy cần quan
tâm hơn đến người học và môi trường dạy và học để xây dựng cho mình một
phương pháp dạy ngày càng trở nên thích hợp giúp cho hoạt động dạy trở nên
có hiệu quả hơn.
Qua tổng quan những công trình khoa học, luận văn thạc sĩ, các bài báo
khoa học đã cho thấy những nghiên cứu của các tác giả đã ít nhiều khái quát
hoá và làm rõ những vấn đề lý luận, chỉ ra thực trạng và đề xuất các biện pháp
quản lý dạy học, góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở các nhà trường,
trong đó có dạy học ngoại ngữ. Những kết quả nghiên cứu của các công trình
nêu trên đã góp phần hoàn thiện và làm phong phú thêm lý luận quản lý dạy

học ở Học viện Khoa học Quân sự.
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công trình
khoa học, các đề tài luận văn, tác giả đi sâu nghiên cứu: “Quản lý dạy học
10


ngoại ngữ cho sinh viên ở Học viện Khoa học quân sự”, nhằm nâng cao chất
lượng dạy học ngoại ngữ, góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đồng thời, việc
lựa chọn đề tài nghiên cứu của tác giả không trùng lặp với các luận văn, đề tài
nghiên cứu trước đó.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng, đề xuất biện pháp
quản lý dạy học ngoại ngữ ở Học viện Khoa học Quân sự, góp phần nâng cao
chất lượng đào tạo nguồn nhân lực về ngoại ngữ phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về dạy học ngoại ngữ, quản lý dạy học
ngoại ngữ cho sinh viên ở các trường đại học.
Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng, làm rõ nguyên nhân quản lý
dạy học ngoại ngữ cho sinh viên ở Học viện Khoa học Quân sự
Đề xuất biện pháp quản lý dạy học ngoại ngữ cho sinh viên ở Học viện
Khoa học Quân sự hiện nay, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn
nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quản lý quá trình giáo dục, đào tạo ở Học viện Khoa học Quân sự.
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý dạy học ngoại ngữ cho sinh viên ở Học viện Khoa học Quân sự

* Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn phạm vi nội dung nghiên cứu: đề tài giới hạn trong nghiên cứu
quản lý dạy học ngoại ngữ cho sinh viên hệ dân sự ở Học viện Khoa học

11


Quân sự. Nội dung quản lý dạy học ngoại ngữ được tiếp cận theo hướng quá
trình dạy học.
Giới hạn phạm vi đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu, điều tra cán bộ
quản lý giáo dục của Học viện, giảng viên các khoa ngoại ngữ và sinh viên
đang học ngoại ngữ ở Học viện.
Giới hạn phạm vi thời gian nghiên cứu: nghiên cứu các báo cáo tổng kết,
sản phẩm của quá trình dạy học ngoại ngữ ở Học viện Khoa học Quân sự, từ
năm 2012 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Quản lý dạy học ngoại ngữ cho sinh viên ở Học viện Khoa học Quân sự
đã đạt được những kết quả nhất định, song cũng còn tồn tại những bất cập,
hạn chế trong quản lý dạy học. Do vậy, nếu quá trình quản lý dạy học ngoại
ngữ, các cơ quan chức năng, các khoa giáo viên thực hiện nghiêm việc tổ
chức xây dựng, hoàn thiện mục tiêu đào tạo ngoại ngữ cho sinh viên đáp ứng
nhu cầu của xã hội; chỉ đạo các khoa ngoại ngữ thực hiện dạy học theo đúng
chuyên ngành đào tạo, gắn với nghề nghiệp tương lai và đáp ứng yêu cầu của
xã hội; phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng sư phạm
trong Học viện để quản lý dạy học ngoại ngữ cho sinh viên; phát huy vai trò
tính tích cực, chủ động của sinh viên trong quá trình tự quản lý học ngoại ngữ
và thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết quả dạy và học ngoại ngữ theo mục tiêu,
nội dung chương trình đã xây dựng thì dạy học ngoại ngữ cho sinh viên được
nâng lên, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của Học viện Khoa
học Quân sự.

6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài, tác giả dựa trên nền tảng các quan điểm, tư tưởng
về giáo dục và quản lý giáo dục của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
12


Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục và
quản lý giáo dục.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả quán triệt, vận dụng sâu sắc quan
điểm hệ thống, cấu trúc, logic, lịch sử và quan điểm thực tiễn trong nghiên
cứu khoa học giáo dục, để định hướng cho việc nghiên cứu và luận giải các
nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết: phương pháp phân tích, tổng
hợp, phân loại, hệ thống hóa, khái quát hóa các tài liệu có liên quan để xây
dựng căn cứ lý thuyết cho đề tài.
Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát: quan sát hoạt động dạy học và quản lý dạy học
ngoại ngữ cho sinh viên ở Học viện Khoa học Quân sự ở một số lớp.
Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: điều tra 25 cán bộ quản lý giáo
dục và 85 giảng viên ngoại ngữ, 150 sinh viên đang học năm thứ 2, 3, 4,
nhằm tìm hiểu thực trạng quản lý dạy học ngoại ngữ và các yếu tố ảnh hưởng
đến quản lý dạy học ngoại ngữ cho sinh viên ở Học viện Khoa học Quân sự.
Phương pháp phỏng vấn: tiến hành phỏng vấn một số cán bộ, giảng
viên, sinh viên để bổ sung và làm phong phú thêm kết quả điều tra về thực
trạng dạy học ngoại ngữ và quản lý dạy học ngoại ngữ ở Học viện Khoa học
Quân sự hiện nay.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: nghiên cứu các báo cáo tổng kết
năm học, tổng kết mười năm đào tạo ngoại ngữ hệ dân sự để làm rõ những

vấn đề liên quan đến đề tài.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động: nghiên cứu thông qua
sản phẩm đào tạo để đánh giá thực trạng quản lý dạy học ngoại ngữ cho sinh
viên ở Học viện hiện nay.
Phương pháp hỗ trợ trong nghiên cứu khoa học
13


Phương pháp chuyên gia: xin ý kiến chuyên gia về kết quả nghiên cứu,
đặc biệt về tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp đề xuất.
Sử dụng toán thống kê để xử lý các tài liệu đã thu thập được từ các
phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau, nhằm đảm bảo độ tin cậy của
kết quả điều tra.
7. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài luận văn góp phần hệ thống hoá, khái quát hoá lý luận, đánh giá
đúng thực trạng và đề xuất biện pháp quản lý dạy học ngoại ngữ cho sinh viên
ở Học viện Khoa học Quân sự.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo
cho cán bộ, giảng viên tham gia quản lý dạy học ngoại ngữ nói chung, quản lý
dạy học ngoại ngữ ở Học viện Khoa học Quân sự nói riêng.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung đề tài được cấu trúc thành 3 chương.

14


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ DẠY HỌC NGOẠI NGỮ
CHO SINH VIÊN Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC

1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm dạy học và dạy học ngoại ngữ
* Dạy học
Dạy, là hoạt động của giáo viên nhằm định hướng, tổ chức điều khiển
giúp cho người học tự mình tìm kiếm chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng và hình
thành hoặc biến đổi tình cảm thái độ. Dạy không chỉ truyền thụ, cung cấp kiến
thức, thông tin đơn thuần mà chủ yếu giúp người học tự tìm kiếm, chiếm lĩnh
kiến thức kỹ năng thay đổi tình cảm và hình thành thái độ.
Học, là quá trình tự biến đổi mình và làm phong phú mình bằng cách
chọn nhập và xử lý thông tin lấy từ môi trường xung quanh. Học được hiểu
theo nghĩa rộng, nó bao gồm các yếu tố thông tin môi trường xung quanh, biết
thu thập, xử lý, tự biến đổi bản thân.
Đại từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Dạy học: là dạy học trò theo chương
trình và theo cấp học” [41, tr.231].
Từ điển Giáo dục quân sự, giải thích: Dạy học, bộ phận của quá trình
tổng thể giáo dục nhân cách toàn vẹn; một quá trình có mục đích, có tổ chức,
phối hợp thống nhất giữa hoạt động của người dạy và người học nhằm trang bị
các kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, phát triển khả năng tư duy sáng
tạo, giáo dục những phẩm chất nhân cách cần thiết cho người học [8].
Giáo trình Giáo dục học quân sự: “Dạy học là một bộ phận của quá
trình sư phạm quân sự tổng thể, là sự phối hợp thống nhất giữa hoạt động
người dạy và hoạt động của người học nhằm trang bị kiến thức, kỹ xảo, kỹ
năng, phát triển khả năng sáng tạo, phát triển các phẩm chất nhân cách cần
thiết cho quân nhân” [33, tr.9].

15


Với những khái niệm dạy học ở trên cho thấy: Dạy học là một quá trình
toàn vẹn với đầy đủ các thành tố như mục tiêu dạy học, nội dung dạy học,

người dạy, người học, phương pháp phương tiện và hình thức tổ chức dạy
học, kết quả dạy học, các thành tố đó luôn tương tác với nhau, thâm nhập, tác
động qua lại thúc đẩy nhau cùng phát triển. Trong các thành tố ấy, sự tác động
qua lại giữa dạy và học mang tính chất năng động, sáng tạo quyết định kết
quả của quá trình dạy học, hoạt động dạy của giảng viên giữ vai trò chủ động,
định hướng, hướng dẫn người học thực hiện tốt việc lĩnh hội kiến thức, rèn
luyện kỹ xảo, kỹ năng nghề nghiệp cho người học.
Từ những quan niệm về dạy học được trình bày ở trên, chúng tôi cho
rằng: Dạy học là một bộ phận của quá trình sư phạm, là sự phối hợp thống nhất
giữa hoạt động của người dạy và hoạt động của người học nhằm truyền thụ và
lĩnh hội những tri thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, phát triển khả
năng tư duy sáng tạo, giáo dục những phẩm chất nhân cách cần thiết cho người học.

* Dạy học ngoại ngữ
Ngoại ngữ, theo cách hiểu thông thường là tiếng nước ngoài. Hiện nay,
Việt Nam, không có khái niệm ngôn ngữ thứ hai như ở các nước Pháp, Đức,
Anh. Ở Việt Nam, ngoại ngữ chủ yếu được dạy ở các cấp học, bậc học chủ
yếu là tiếng Anh, Trung Quốc, tiếng Pháp, tiếng Nhật, tiếng Hàn Quốc, tiếng
Tây Ban Nha.
Theo ý 3, điều 7 Luật Giáo dục năm 2005 (sửa đổi bổ sung 2009), quy
định ngôn ngữ dùng trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác; dạy và học
tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số; dạy ngoại ngữ, như sau: “Ngoại ngữ
quy định trong chương trình giáo dục là ngôn ngữ được sử dụng phổ biến
trong giao dịch quốc tế. Việc tổ chức dạy ngoại ngữ trong nhà trường cũng
như các cơ sở giáo dục khác cần bảo đảm để người học được học liên tục và
có hiệu quả” [30, tr.36].

16



Dạy học ngoại ngữ không chỉ nhằm tạo ra công cụ trong giao tiếp mà
đó là sản phẩm cuối cùng phải có ở mỗi cấp học, bậc học, hình thức học,
nhằm đạt được mục tiêu chung là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài và phát triển nhân cách con người hiện đại.
Từ những cách tiếp cận về dạy học, ngoại ngữ, tác giả cho rằng: Dạy
học ngoại ngữ là quá trình tác động qua lại giữa giảng viên
và sinh viên nhằm truyền thụ và lĩnh hội kiến thức ngoại
ngữ, hình thành kỹ xảo, kỹ năng về ngoại ngữ chuyên môn,
để thực hiện nhiệm vụ sau khi tốt nghiệp ra trường.
Qua khái niệm cho thấy, mục đích của dạy học ngoại ngữ, không chỉ
đảm bảo cho sinh viên có một trình độ học vấn nhất định mà còn góp phần
hình thành, phát triển nhân cách cho sinh viên theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo.
Dạy học ngoại ngữ là quá trình truyền thụ, lĩnh hội kiến thức, kỹ năng,
kỹ xảo, phát triển năng lực ngoại ngữ. Dạy học ngoại ngữ thể hiện tính chất
hai mặt của một quá trình do hai chủ thể thực hiện là hoạt động dạy (do giảng
viên tiến hành) và hoạt động học (do sinh viên tiến hành) nhằm thực hiện các
mục đích, nhiệm vụ dạy học ngoại ngữ đề ra.
Với tư cách là một chuyên ngành đào tạo, mục tiêu dạy học ngoại ngữ là
nhằm hoàn thiện và phát triển nhân cách của con người hiện đại, biết tiếp thu
những tinh hoa văn hoá của nhân loại làm giàu kiến thức cho bản thân, có kỹ
năng, kỹ xảo, năng lực giao tiếp bằng ngoại ngữ. Giao tiếp được hiểu như một
hoạt động đặc biệt bao gồm các kỹ năng thu, phát và xử lý thông tin (nghe, nói,
đọc, viết). Ngoại ngữ thực sự được sử dụng như công cụ trong giao tiếp, người
học dựa trên cơ sở đó có thể tự học suốt đời, nâng cao trình độ tư duy.
Nội dung dạy học ngoại ngữ nhằm giáo dục tư tưởng, đạo đức, bồi
dưỡng tri thức văn hoá, rèn luyện kỹ năng giao tiếp bằng ngoại ngữ. Các yếu
tố này liên quan chặt chẽ với nhau hợp thành thể thống nhất và lấy khả năng
17



giao tiếp bằng ngoại ngữ là trung tâm. Đó là đặc trưng cơ bản của môn ngoại
ngữ mà cả người dạy và người học luôn tôn trọng, tâm niệm trong quá trình
chiếm lĩnh đối tượng môn học. Bởi vì, việc hình thành các kỹ năng giao tiếp
đã bao quát cả 2 phần nội dung là tư tưởng, đạo đức và kiến thức văn hoá.
Trong dạy học ngoại ngữ, việc lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp
cần căn cứ vào mục tiêu, nội dung dạy học, điều kiện giảng viên và sinh viên,
phương tiện đảm bảo cho dạy học. Tuy nhiên, phương pháp dạy học ngoại
ngữ hiện nay đang được sử dụng phổ biến là:
Hệ phương pháp dịch: dựa trên hệ thống ngữ pháp và đối chiếu ngôn ngữ,
thực hiện hình thức dịch nghĩa sau đó mới thực hành ngôn ngữ, luyện tập củng
cố kiến thức (phương pháp này sử dụng nhiều tiếng mẹ đẻ trong dạy học).
Hệ phương pháp trực tiếp - tự nhiên: dựa trên nguyên tắc bắt chước tự
nhiên với từng mẫu cụ thể, bằng các cách diễn đạt của giảng viên, các giáo cụ
trực quan sinh viên tư duy và thực hành luyện tập đạt được yêu cầu tự động
hoá các mẫu đã cho (phương pháp này hầu như không dùng tiếng mẹ đẻ).
Hệ phương pháp đường hướng giao tiếp cá thể hoá: là hệ hỗn hợp, nó
tổng hợp những nguyên tắc cơ bản của hai hệ phương pháp ở trên. Hệ phương
pháp này đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới và đạt hiệu quả tốt nhất,
đặc biệt là việc dạy ngôn ngữ nào đó ở nước ngoài và do người nước ngoài
dạy ngôn ngữ ấy. Ở Việt Nam, hệ phương pháp này đang được áp dụng rộng
rãi trong phần lớn các trường đại học, nhằm phát huy cao độ hiệu quả của
việc dạy học ngoại ngữ.
Phối hợp hoạt động của giảng viên, với sự tự giác, tích cực, chủ động,
tự tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức của sinh viên nhằm nắm vững tri
thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo, phát triển năng lực nhận thức, đặc biệt năng
lực tư duy sáng tạo trong học tập ngoại ngữ để qua đó giúp sinh viên hình
thành năng lực hoạt động chuyên môn ngoại ngữ theo chuyên ngành đào tạo

18



và hình thành thế giới quan khoa học, những phẩm chất tốt đẹp của con người
mới, đáp ứng đòi hỏi của xã hội.
1.1.2. Khái niệm quản lý dạy học ngoại ngữ
* Quản lý
Quản lý là một thuộc tính của sự phát triển xã hội, là một yếu tố quan
trọng gắn chặt vào sự vận động và phát triển của xã hội loài người trong 3
yếu tố cơ bản: tri thức, sức lao động và trình độ quản lý.
F.W Taylor cho rằng: Quản lý là biết chính xác điều muốn người khác
làm, sau đó thấy họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất.
Henrry Fayol (1886-1925), quan niệm: quản lý là một tiến trình bao
gồm tất cả các khâu: lập kế hoạch, tổ chức, phân công điều khiển và kiểm soát
các nỗ lực của cá nhân, bộ phận và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vật
chất khác của tổ chức để đạt được mục tiêu đề ra.
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “Quản lý là tác động có mục
đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động (nói
chung là khách thể quản lý) nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến”.
Tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Mỹ Lộc, cho rằng “Quản lý là
quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động
(chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra”.
Kế thừa cách tiếp cận của các nhà khoa học, chúng tôi cho rằng “Quản
lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý để chỉ huy, điều khiển hướng
dẫn các quá trình xã hội, hành vi và hoạt động của con người nhằm đạt tới
mục đích, đúng với ý chí nhà quản lý, phù hợp với quy luật khách quan”.
* Quản lý dạy học
Quản lý dạy học là công việc rất phức tạp liên quan đến nhiều vấn đề và
yếu tố như: mục tiêu, nội dung dạy học, giảng viên, sinh viên, phương pháp,
phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học, kết quả dạy học. Chính vì

19



vậy, muốn quản lý dạy học ngoại ngữ tốt phải tiếp cận trên quan điểm hệ
thống trong mối quan hệ giữa các yếu tố kể trên.
Quản lý dạy học được hiểu là quá trình thiết kế mục tiêu, nội dung, lựa
chọn phương pháp, hình thức tổ chức, xây dựng các tiêu chuẩn và duy trì các cơ
chế đảm bảo cho hoạt động dạy học để đạt được kết quả theo mục tiêu dự kiến.
Quản lý dạy học ngoại ngữ là một loại hình quản lý trong đó chủ thể đề
ra những chủ trương, biện pháp kế hoạch phải thực hiện, lựa chọn nhân sự,
thời gian, huy động và sử dụng nhân lực, vật lực và tài lực (nguồn nhân lực
giáo dục của nhà trường), để tổ chức và điều hành bộ máy hoạt động có hiệu
quả nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã đề ra.
Quản lý dạy học ngoại ngữ hướng vào thực hiện nhiệm vụ trọng tâm
của nhà trường là đào tạo ngoại ngữ có chất lượng cao. Vì vậy, quản lý hoạt
động dạy của giảng viên, hoạt động học tập của sinh viên, diễn ra suốt trong
quá trình dạy học. Do đó, quản lý dạy học ngoại ngữ về thực chất là những tác
động của chủ thể quản lý vào quá trình dạy học (được tiến hành bởi tập thể
giảng viên) nhằm hình thành, phát triển toàn diện năng lực chuyên môn và
nhân cách cho sinh viên theo mục tiêu đào tạo của nhà trường đã xác định.
Từ những quan niệm trên chúng tôi cho rằng: Quản lý dạy học ngoại
ngữ là quá trình tổ chức thực hiện có hệ thống các giải pháp của chủ thể
quản lý đối với toàn bộ quá trình dạy học ngoại ngữ, nhằm nâng cao hiệu
quả dạy học ngoại ngữ, đáp ứng mục tiêu đào tạo đã đề ra.
Quản lý dạy học ngoại ngữ chính là các biện pháp tác động của chủ thể
quản lý đến tập thể giảng viên, sinh viên, nhằm huy động và sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực vốn có, tạo động lực đẩy mạnh quá trình dạy học nhằm
thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường theo yêu cầu trong năm học.
Mục tiêu quản lý dạy học ngoại ngữ cho sinh viên là nhằm thực hiện có
hiệu quả chất lượng giảng dạy của giảng viên, hoạt động học tập của sinh
viên, qua đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của nhà trường.

20


Nội dung quản lý dạy học ngoại ngữ cho sinh viên thực chất là quản lý
việc thực hiện tốt các thành tố của quá trình dạy học, các nhiệm vụ quyết định
đến chất lượng giảng dạy của giảng viên, đó là việc cụ thể hoá mục tiêu đào
tạo, thông qua: Quản lý thực hiện tốt chương trình, nội dung, kế hoạch giảng
dạy của giảng viên; quản lý việc thực hiện giảng dạy của giảng viên theo
đúng quy chế, các qui định giáo dục, đào tạo của nhà trường; quản lý tốt các
điều kiện bảo đảm cho dạy học ngoại ngữ. Đồng thời quản lý tốt việc kiểm
tra, đánh giá kết quả giảng dạy của giảng viên, góp phần nâng cao chất lượng
giảng dạy, đạt được mục đích quản lý của nhà trường.
Chủ thể quản lý dạy học ngoại ngữ là Đảng uỷ, Ban Giám đốc, cơ quan
chức năng (Phòng Đào tạo, Phòng Chính trị, Ban Khảo thí và Kiểm định chất
lượng đào tạo, Hệ quản lý sinh viên), chủ thể trực tiếp quan trọng nhất là các
khoa giáo viên, đội ngũ giảng viên và chính bản thân mỗi sinh viên.
Đối tượng quản lý dạy học ngoại ngữ cho sinh viên là nội dung dạy học,
hoạt động học tập của sinh viên, tập thể sinh viên. Sinh viên vừa là khách thể
tiếp nhận các tác động, sự điều khiển, định hướng theo các quyết định của chủ
thể quản lý; vừa là chủ thể tự quản lý chất lượng học tập của bản thân. Tự
điều khiển, tự tổ chức quản lý của sinh viên giữ vai trò quan trọng đến chất
lượng học tập của mỗi sinh viên.
Phương pháp quản lý dạy học ngoại ngữ cho sinh viên là tổng thể
những cách thức, biện pháp tác động của các chủ thể quản lý trong Học viện
đến toàn bộ quá trình dạy học ngoại ngữ cho sinh viên, nhằm thực hiện có
hiệu quả hoạt động học tập theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo đã xác định. Việc
xác định phương pháp quản lý dạy học ngoại ngữ phải đảm bảo tính khoa
học, thống nhất, khả thi, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của giảng viên,
tăng cường hiệu quả quản lý nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp, trong đó
phương pháp quản lý hành chính, phương pháp giáo dục - tâm lý, phương


21


pháp kích thích là những phương pháp chủ đạo, được sử dụng phổ biến. Hoạt
động dạy học là hoạt động trí tuệ, hết sức căng thẳng, do đó cần lựa chọn và
sử dụng các phương pháp quản lý phù hợp với đối tượng quản lý là con người
mới mang lại tác dụng, hiệu quả cao.
Như vậy, quản lý dạy học ngoại ngữ cho sinh viên ở nhà trường phải
được đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với quản lý các thành tố cấu thành nên
quá trình dạy học. Giải quyết tốt mối quan hệ này sẽ góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục, đào tạo ở các nhà trường hiện nay.
1.2. Nội dung quản lý dạy học ngoại ngữ cho sinh viên ở các trường
đại học
1.2.1. Quản lý mục tiêu, nội dung chương trình dạy
học ngoại ngữ
Mục tiêu dạy học ngoại ngữ là kết quả mong muốn của quá trình dạy
học, định hướng cho toàn bộ quá trình dạy học ngoại ngữ của nhà trường;
đồng thời là một nội dung quản lý cơ bản của các chủ thể quản lý. Mục tiêu
dạy học ngoại ngữ được xây dựng trên cơ sở quy định chuẩn kiến thức mà Bộ
Giáo dục và Đào tạo phê duyệt, đây là pháp lệnh mà các trường có chức năng
đào tạo cử nhân ngoại ngữ phải tiến hành quản lý để sinh viên sau khi tốt
nghiệp đạt mục tiêu đề ra là có kiến thức và kỹ năng sử dụng thành thạo ngoại
ngữ chuyên ngành được đào tạo để tiếp cận và thực hành nghề nghiệp.
Để quản lý tốt mục tiêu dạy học ngoại ngữ cho sinh viên, chủ thể quản
lý phải nghiên cứu nắm vững chỉ thị, mệnh lệnh cấp trên, yêu cầu nhiệm vụ
giáo dục, đào tạo của nhà trường trong thực tiễn để xây dựng mục tiêu chung
và mục tiêu cụ thể cho từng nội dung giảng dạy ở từng giai đoạn, từng học kỳ
năm học và trong cả khoá học. Mặt khác, các chủ thể quản lý phải dựa trên cơ
sở Luật Giáo dục, chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo của nhà nước; mục

tiêu và quy chế giáo dục, đào tạo của nhà trường; phát huy tốt vai trò của hệ

22


thống lãnh đạo, quản lý các cấp trong việc tổ chức thực hiện mục tiêu; quá
trình dạy học ngoại ngữ, chủ thể quản lý phải tổ chức kiểm tra đánh giá khách
quan, chính xác; thường xuyên đối chiếu kết quả đạt được với mục tiêu đề ra
để có biện pháp điều chỉnh kịp thời. Quản lý mục tiêu dạy học ngoại ngữ phải
được chú trọng đến các yếu tố, các kỹ năng về ngữ pháp, khả năng trong học
nghe, nói, đọc viết và dịch.
Nội dung chương trình giảng dạy là văn bản do cơ quan có thẩm quyền
về giáo dục, đào tạo ban hành, được cụ thể thể hóa trong xây dựng, tổ chức
thực hiện ở nhà trường, là khâu trọng yếu quyết định chất lượng giảng dạy
của giảng viên, chất lượng học tập của sinh viên và là tiêu chí để đánh giá
chất lượng giáo dục, đào tạo của nhà trường. Vì vậy, quản lý nội dung chương
trình giảng dạy gồm 2 khâu:
Thứ nhất, quản lý việc xây dựng nội dung chương trình giảng dạy phải
thực hiện tốt phân cấp quản lý, quy trình thực hiện và phê duyệt; việc xây
dựng nội dung chương trình giảng dạy phải bảo đảm cấu trúc nội dung
chương trình theo hướng chuẩn hóa, hệ thống, cơ bản, toàn diện, chuyên sâu,
quy định chuẩn kiến thức các môn học mà giảng viên giảng dạy và sinh viên
lĩnh hội, đáp ứng với mục tiêu đào tạo; nội dung chương trình giảng dạy phải
giải quyết hài hòa về tỷ lệ, cơ cấu giữa các môn học (môn thực hành tiếng,
môn lý thuyết tiếng, môn dịch, môn đất nước học, môn văn học sử), bảo đảm
sự cân đối giữa lý thuyết và thực hành, giữa trang bị kiến thức và rèn luyện kỹ
năng tay nghề cho sinh viên.
Thứ hai, tập trung quản lý, đánh giá, kiểm tra việc tổ chức triển khai,
thực hiện nội dung chương trình giảng dạy từng môn học so với mục tiêu đào
tạo của nhà trường và yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay, là nhiệm vụ của tất

cả các lực lượng quản lý của nhà trường, trực tiếp là các khoa giáo viên và
từng giảng viên, trên cơ sở nội dung chương trình đã xác định, thông qua biểu

23


đồ lôgic từng học kỳ, năm học và cả khóa học, lịch điều hành huấn luyện của
Học viện và kế hoạch giảng dạy của các khoa. Quá trình tổ chức thực hiện,
Phòng Đào tạo và các phòng, ban chức năng cần làm tốt chức năng chỉ đạo,
hướng dẫn và kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện; các khoa giáo viên căn cứ
vào kế hoạch giảng dạy, tổ chức thực hiện chặt chẽ, có hiệu quả ở cấp mình;
phối hợp chặt chẽ với cơ quan chức năng thường xuyên kiểm tra, theo dõi,
phát hiện, giải quyết những vướng mắc, bất cập, điều chỉnh, bổ sung kịp thời,
để tổ chức thực hiện nội dung chương trình giảng dạy đạt hiệu quả.
1.2.2. Quản lý việc xây dựng, thực hiện kế hoạch dạy học ngoại ngữ
Quản lý kế hoạch dạy học nói chung, dạy học ngoại ngữ nói riêng là
việc làm rất quan trọng của nhà quản lý giáo dục ở các nhà trường đại học
nhằm đạt tới các mục tiêu của hoạt động quản lý giáo dục nói chung và quản
lý dạy học nói riêng. Đồng thời, còn là cơ sở cho các cấp, các khoa chuyên
môn kịp thời điều chỉnh thời lượng sau giảng dạy ở từng môn học, bài giảng,
ở từng đối tượng, chống tình trạng quá tải, dồn ép chương trình dẫn đến hiệu
quả giảng dạy không cao.
Quản lý kế hoạch dạy học ngoại ngữ, được thực hiện dựa trên cơ sở
chương trình đào tạo toàn khoá và từng năm học, từng học kỳ. Thông thường
chuyên ngành ngoại ngữ được dạy trong cả 8 kỳ (4 năm), song ở từng học kỳ
lại có sự phân bổ kế hoạch giảng dạy cho hợp lý.
Kế hoạch dạy học ngoại ngữ, bao gồm từ việc xây dựng kế hoạch tổng
thể cho từng đối tượng (kế hoạch khoá học, năm học, từng học kỳ, kế hoạch
giảng dạy từng môn học, khối lớp) đến xác định mục tiêu, chỉ tiêu, nội dung
công tác giảng dạy của mỗi giảng viên; thời gian, hình thức tổ chức, phương

pháp giảng bài, điều kiện phương tiện bảo đảm cho quá trình giảng dạy; kế
hoạch thi, kiểm tra hết môn, các hoạt động thanh tra, kiểm tra giảng dạy...
Quá trình này, chủ thể quản lý cần tính đến các nguồn lực, điều kiện hiện có
24


của nhà trường để lựa chọn, xây dựng và ban hành các loại kế hoạch cho phù
hợp; tổ chức bố trí, sử dụng và phát huy vai trò của các lực lượng sư phạm,
các công cụ quản lý, phương pháp, phương tiện quản lý để đạt được hiệu quả
tối ưu trong tổ chức thực hiện kế hoạch quản lý và dạy học ngoại ngữ của
giảng viên.
Kế hoạch dạy học nói chung, dạy học ngoại ngữ nói riêng là một văn
bản được xây dựng trên cơ sở hoàn cảnh thực tế của nhà trường phù hợp với
mục tiêu chung của ngành giáo dục như chỉ tiêu tuyển sinh, thực trạng đội
ngũ giảng viên, điều kiện cơ sở vật chất... Từ đó, nhà trường sẽ có kế hoạch,
nhiệm vụ cụ thể cho phù hợp từng giai đoạn phát triển.
Trên cơ sở kế hoạch chung của nhà trường, mỗi khoa, bộ môn ngoại
ngữ và mỗi giảng viên phải xây dựng kế hoạch giảng dạy của mình trước khi
bước vào năm học, đó là yêu cầu bắt buộc đối với từng giảng viên. Tuy nhiên,
trong quá trình lập kế hoạch, các khoa, bộ môn, giảng viên cũng cần có sự
theo dõi và điều phối chung để tạo khả năng phối hợp có hiệu quả cao giữa
các cơ quan trong nhà trường.
Trên cơ sở kế hoạch giảng dạy ngoại ngữ, nhà trường phân công nhiệm
vụ cho khoa, phòng, ban chức năng. Căn cứ vào nhiệm vụ, khả năng, trình độ
chuyên môn và định mức của từng giảng viên để trưởng khoa, trưởng bộ môn
phân công nhiệm vụ cho từng giảng viên. Kế hoạch cụ thể của từng giảng
viên phải thể hiện rõ nội dung công việc, thời gian thực hiện và kết quả công
việc đạt được. Kế hoạch này cần phải được thông qua bộ môn, lãnh đạo khoa
để mọi người biết và có sự quan tâm chia sẻ lẫn nhau. Căn cứ vào kế hoạch đã
đăng ký của từng giảng viên để đôn đốc, động viên, tạo điều kiện cho giảng

viên hoàn thành nhiệm vụ và đạt được kết quả. Cuối mỗi kỳ có tổng kết, đánh
giá xếp loại giảng viên theo các tiêu chí quy định, coi việc giảng viên thực

25


hiện tốt kế hoạch giảng dạy ngoại ngữ là quan trọng nhất bảo đảm chất lượng
đào tạo ngoại ngữ của nhà trường.
1.2.3. Quản lý giảng dạy của giảng viên, học tập của sinh viên
* Quản lý giảng dạy của giảng viên
Quản lý giảng dạy của giảng viên một mặt hướng tới nâng cao tinh thần
trách nhiệm trong chuẩn bị nội dung, lựa chọn phương pháp giảng dạy để
truyền thụ tri thức cho sinh viên, mặt khác thông qua quản lý để hướng dẫn,
đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các khâu, các bước theo quy định chức trách,
nhiệm vụ của người giảng viên. Để quản lý tốt giảng dạy của giảng viên, cán
bộ quản lý nói chung, đặc biệt là cán bộ quản lý thuộc cơ quan chức năng cần
chỉ đạo cho các khoa, tổ bộ môn và giảng viên làm tốt việc chuẩn bị bài, lựa
chọn các thiết bị dạy học cần thiết, trong đó cần tập trung vào việc:
Đôn đốc, nhắc nhở giảng viên trong việc soạn bài và chuẩn bị các đồ
dùng, phương tiện dạy học một cách chu đáo, cẩn thận, dự báo được những
tình huống sư phạm có thể xảy ra trong từng tiết học, để có phương án giải
quyết và có phương pháp giảng dạy phù hợp. Đây là công việc hết sức quan
trọng, đem lại thành công cho tiết học, mà người giảng viên phải luôn nâng
cao ý thức trách nhiệm, nâng cao nhận thức, bồi dưỡng chuyên môn, luôn tự
học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp và biết lựa chọn, đổi mới phương pháp
dạy học cho hợp lý với từng giờ giảng.
Theo chức năng nhiệm vụ, các cơ quan chức năng cần làm tốt việc phối
hợp, chỉ đạo cho các khoa, tổ bộ môn và từng giảng viên thực hiện đổi mới
phương pháp giảng dạy một cách triệt để theo hướng giảm bớt giờ diễn giảng
trên lớp để tăng thời gian cho sinh viên tự học và tổ chức thảo luận nhóm theo

chủ đề “nghe, nói”. Giảng viên chủ động biên soạn tài liệu hướng dẫn sinh
viên học tập theo giáo trình, trong đó quy định cụ thể lịch trình giảng dạy,
mục tiêu của từng bài giảng, hướng dẫn tự học từng nội dung và thời điểm tổ

26


chức thảo luận để sinh viên chủ động tham gia vào quá trình dạy học ngoại
ngữ một cách tích cực và có hiệu quả nhất.
Làm tốt việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên là một
khâu quan trọng không thể thiếu được trong quá trình giảng dạy của giảng
viên. Nhà quản lý cần quản lý nghiêm túc công tác kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập ngoại ngữ của sinh viên để có căn cứ đánh giá hiệu quả giảng dạy của
giảng viên, đồng thời đề ra những biện pháp phù hợp với trình độ, năng lực,
tâm sinh lý sinh viên giúp cho việc học tập ngày càng tiến bộ.
Cán bộ quản lý giáo dục nhà trường chỉ đạo chủ nhiệm khoa phải có kế
hoạch cụ thể chỉ đạo trực tiếp giảng viên thực hiện đầy đủ việc kiểm tra, đánh
giá kết quả học tập của sinh viên, nhằm thúc đẩy hoạt động dạy học ngoại ngữ
của nhà trường ngày càng tiến bộ.
* Quản lý học tập của sinh viên
Quản lý việc học tập của sinh viên bao gồm những nội dung như kiến
thức, kỹ năng, kỹ xảo, khả năng tìm tòi, giải quyết vấn đề mới. Thái độ đánh
giá, thái độ ứng xử, thái độ xúc cảm đối với thế giới khách quan, con người.
Cùng với tri thức, kỹ năng, hệ thống kinh nghiệm, tạo điều kiện để hình thành
niềm tin, lý tưởng phẩm chất đạo đức, cách ứng xử đúng đắn, thích hợp của
sinh viên với thế giới và con người.
Nội dung học ngoại ngữ phải được đổi mới theo hướng hiện đại, gắn
liền với thực tiễn cuộc sống, nhu cầu xã hội và năng lực, nguyện vọng của
người học và được biểu hiện ở 4 kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Cụ thể là:
Kỹ năng nghe: nghe hiểu các cuộc hội thoại trực tiếp bằng ngôn ngữ

được đào tạo. Nghe hiểu chính xác các thông tin có liên quan đến các chủ đề
và nội dung ngôn ngữ đã học.
Kỹ năng nói: trao đổi trực tiếp bằng ngôn ngữ nói một cách rõ ràng,
rành mạch ở các tình huống giao tiếp thông qua việc vận dụng các kiến thức

27


×