Tải bản đầy đủ (.doc) (134 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý đổi mới dạy học môn LỊCH sở ở các TRƯỜNG TRUNG học PHỔ THÔNG, HUYỆN CHƯƠNG mỹ, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (731.47 KB, 134 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ ĐỔI MỚI DẠY HỌC
MÔN LỊCH SỬ BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.2. Nội dung quản lý hoạt động dạy học môn Lịch sử ở trường
trung học phổ thông
1.3. Các yếu tố tác động đến quản lý dạy học môn Lịch sử
trong trường trung học phổ thông
Chương 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN QUẢN LÝ ĐỔI MỚI DẠY
HỌC MÔN LỊCH SỬ Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG HUYỆN CHƯƠNG MỸ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Khái quát tình hình giáo dục trung học phổ thông ở
huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
2.2. Thực trạng đổi mới và thực trạng quản lý đổi mới dạy
học môn Lịch sử ở các trường trung học phổ thông huyện
Chương Mỹ, thành phố Hà Nội
Chương 3. BIỆN PHÁP QUẢN LÝ VÀ KHẢO NGHIỆM BIỆN
PHÁP QUẢN LÝ ĐỔI MỚI DẠY HỌC MÔN LỊCH
SỬ Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Biện pháp
3.2. Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Trang
3


12
12
31
42

46
46

54

87
87
108
112
115
118


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quần lần thứ VIII của Đảng đã khẳng
định: "Cùng với khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo là quốc sách hàng
đầu, nhằm nâng cao dân chí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài". Nghị
quyết hội nghị TW II khóa VIII của Đảng cũng nhấn mạnh việc cần thiết phải
"Tăng cường giáo dục tư tưởng, đạo đức, lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Coi trọng hơn nữa các môn học về khoa học
xã hội, nhân văn, tiếng Việt và lịch sử dân tộc".
Đảng ta đã nhận thức rõ ràng đề thực hiện được các mục tiêu chiến
lược phát triển kinh tế xã hội đã đề ra, cần khai thác và sử dụng nhiều nguồn
lực khác nhau, trong đó nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết

định, đặc biệt trong điều kiện các nguồn tài chính và vật chất còn hạn hẹp như
ở nước ta hiện nay. Nguồn lực đó là người lao động có trí tuệ cao, tay nghề
thành thạo, phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo và bồi dưỡng bởi một nền giáo
dục tiên tiến gắn với một nền khoa học công nghệ hiện đại, đồng thời vẫn biết
tôn trọng và giữ gìn bản sắc dân tộc. Để đạt được mục tiêu này, cần phải đổi
mới nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học.
Để đổi mới dạy học hiệu quả cần nâng cao chất lượng quản lý giáo dục.
Quản lý giáo dục, quản lý nhà trường đóng vai trò định hướng, là một trong
những yếu tố đột phá và quyết định đến chất lượng, hiệu quả giáo dục. Quản
lý đổi mới giáo dục là công việc cần thiết để nâng cao chất lượng giáo dục
trong nhà trường.
Trong hệ thống các môn học ở bậc học phổ thông, bộ môn Lịch sử góp
phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục ở trường phổ thông,
trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản, hiện đại của khoa học lịch sử,
bồi dưỡng các kĩ năng tư duy, thực hành, thực hiện các nhiệm vụ giáo dục thế
hệ trẻ trong nhà trường. Việc dạy học lịch sử có ưu thế đặc biệt trong công tác
3


giáo dục tư tưởng chính trị cho học sinh. Trong giai đoạn hiện nay vấn đề
giáo dục lịch sử càng đặt ra những yêu cầu cấp thiết. Nền kinh tế thị trường
với những mặt tích cực ngày càng được khẳng định trong quá trình đổi mới
toàn diện đất nước, song nó có những ảnh hưởng tiêu cực, cần có biện pháp
khắc phục kịp thời. Những yếu tố hiện đại, những giá trị tiến bộ đích thực cần
được khai thác để làm phong phú thêm đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần
của nhân dân ta, song phải tiếp thu có lựa chọn để gạn lọc những tinh hoa của
nhân loại mà vẫn giữ được những nét bản sắc độc đáo của dân tộc mình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng:
Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam

Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh chứng tỏ tầm quan trọng và sự cần
thiết của việc dạy học lịch sử nói chung và lịch sử dân tộc nói riêng cho thế hệ
trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tình trạng học sinh tỏ ra hờ hững
với các môn khoa học xã hội nói chung, môn Lịch sử nói riêng đang có chiều
hướng gia tăng. Thực tế qua thống kê số hồ sơ thi đại học, cao đẳng vài năm
trở lại đây cho thấy, số thí sinh thi khối C rất ít, chỉ chiếm khoảng 5 - 10%. Số
thí sinh đăng ký dự thi các môn khoa học xã hội ít đồng nghĩa với việc số học
sinh thực sự hứng thú với môn Lịch sử cũng đang “teo tóp” dần. Khi Bộ Giáo
dục & đào tạo thay đổi cách thức tổ chức kỳ thi tốt nghiệp THPT theo hướng
giảm số lượng các môn thi từ 6 môn xuống 4 môn và thí sinh được tự do lựa
chọn 1 môn thi còn lại ngoài 3 môn bắt buộc là Văn, Toán, Ngoại ngữ, không
ít người đã dự đoán: Sẽ không có nhiều học sinh lựa chọn đăng ký dự thi các
môn xã hội nói chung, môn Lịch sử nói riêng. Và thực tế đang diễn ra đúng
như dự đoán nêu trên, môn Lịch sử hầu như không được học sinh lựa chọn
đăng kí thi để xét đỗ tốt nghiệp THPT, có hội đồng thi chỉ có duy nhất một thí
sinh dự thi môn Lịch sử.
4


Vậy tại sao với tầm quan trọng của lịch sử là một bộ phận không thể
tách rời của sự phát triển nhân loại, lại không thu hút được học sinh. Đó là
một câu hỏi lớn đặt ra đối giáo dục Việt Nam nói chung và đối với quản lý
giáo dục Việt Nam nói riêng.
Đã từ lâu hoạt động dạy học nói chung, hoạt động dạy học môn Lịch sử
nói riêng đã bị phê phán, đó là dạy học theo lối truyền thụ một chiều, áp đặt,
tạo cho người học cách học bị động, hạn chế việc phát triển tư duy độc lập,
sáng tạo, khả năng ứng dụng những kiến thức thu nhận được vào thực tiễn.
Hiện nay với sự phát triển của truyền thông và mạng máy tính toàn cầu
(Internet), học sinh được tiếp thu nhiều nguồn thông tin đa dạng, phong phú

từ nhiều nguồn sử liệu khác nhau, do đó trong học tập học sinh không thoả
mãn với vai trò người tiếp thu thụ động. Vì vậy, đổi mới hoạt động dạy học
môn Lịch sử là điều hết sức cần thiết cùng với đổi mới mục tiêu, nội dung
chương trình sách giáo khoa, đổi mới cách kiểm tra đánh giá, đổi mới thiết bị,
phương tiện dạy học.
Để thực sự tạo ra bước chuyển biến trong dạy học môn Lịch sử, tạo ra
sự liên kết giữa người dạy và người học, tạo ra niềm hứng thú say mê cho
người dạy và người học và hơn hết là hiệu quả giáo dục cần đạt đến, cần có sự
tổ chức, chỉ đạo có hiệu quả của nhà quản lý. Tuy nhiên công tác quản lý dạy
học môn Lịch sử ở các trường THPT hiện nay còn nhiều bất cập, hạn chế.
Công tác bồi dưỡng giáo viên, dự giờ thăm lớp, tập huấn sử dụng thiết bị dạy
học, đổi mới phương pháp dạy học lịch sử, đổi mới kiểm tra, đánh giá... chưa
được cán bộ quản lý thực sự quan tâm, cũng như chưa có những biện pháp
phù hợp để nâng cao chất lượng dạy học lịch sử.
Từ những lý do trên, với những trăn trở trong quá trình giảng dạy và
quản lý là làm thế nào nâng cao hiệu quả dạy học môn Lịch sử, đồng thời giúp
các em học sinh có thể học tốt môn Lịch sử tôi chọn đề tài "Quản lý đổi mới
dạy học môn Lịch sử ở các trường trung học phổ thông huyện Chương Mỹ,
thành phố Hà Nội".
5


2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Khi xã hội phát triển thì giáo dục ngày càng được quan tâm về mọi
mặt. Vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và nâng cao chất lượng
dạy học nói riêng trong các nhà trường từ lâu đã trở thành vấn đề quan tâm
của các nước trên thế giới. Ngày nay khi nền kinh tế tri thức đang trở thành
một thành phần quan trọng trong sự phát triển của đất nước thì giáo dục lại
càng được quan tâm hơn bao giờ hết.
Để nâng cao chất lượng giáo dục thì trước tiên phải nâng cao chất

lượng giảng dạy trong nhà trường. Để nâng cao chất lượng giảng dạy, vai trò
của các biện pháp quản lý là hết sức quan trọng. Vì vậy các nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước đã nghiên cứu thực tiễn quản lý nhà trường để tìm ra các
biện pháp quản lý hiệu quả nhất. Đã có nhiều công trình của các nhà nghiên
cứu ở nước ngoài đã được công bố như: M.I.Kônđacốp, Cơ sở lý luận khoa
học quản lý giáo dục, trường cán bộ quản lí giáo dục và viện khoa học giáo
dục 1984; Harld – Kôntz, Những vấn đề cốt yếu về quản lý, nhà xuất bản khoa
học kỹ thuật 1992; Tác phẩm “ Kinh nghiệm lãnh đạo của hiệu trưởng”
Xukhômlinxki ( dịch và xuất bản năm 1981) đã đưa ra nhiều tình huống quản
lý giáo dục và quản lý dạy học trong nhà trường, trong đó tác giả đã bàn nhiều
về phương pháp thực hiện mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học, đặc
biệt là vấn đề phân công trong quản lý dạy học.
Ở nước ta, ngay những ngày đầu của nền giáo dục cách mạng Việt
Nam, trong thư gửi cho học sinh nhân ngày khai trường, Bác Hồ đã viết: “Từ
giờ phút này trở đi, các cháu được hưởng một nền giáo dục hoàn toàn Việt
Nam... làm phát triển hoàn toàn năng lực sẵn có của các cháu.” Nội dung bức
thư như là một định hướng cho sự phát triển của giáo dục Việt Nam. Bằng
việc vận dụng sáng tạo Triết học Mác – Lênin và kế thừa tinh hoa của các tư
tưởng giáo dục tiên tiến, Người đã để lại cho nền giáo dục cách mạng Việt
Nam những tư tưởng có giá trị cao trong quá trình phát triển lý luận giáo dục
và dạy học.
6


Dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, các nhà khoa học Việt Nam đã tiếp cận quản lý giáo dục và quản lý
trường học chủ yếu dựa trên nền tảng lý luận giáo dục học.
Đảng và nhà nước ta đã nhận thức đúng đắn về vai trò của giáo dục
đối với sự phát triển CNH- HĐH đất nước. Hiện nay ngành giáo dục đang
triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương VIII, khoá XI về đổi mới căn

bản, toàn diện giáo dục đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực cho đất nước và hội
nhập quốc tế.
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới dạy học ở nhà trường phổ thông, đã có
nhiều công trình nghiên cứu về bản chất quá trình dạy học, mối quan hệ giữa
hoạt động dạy và hoạt động học, đổi mới nội dung phương pháp dạy học, biện
pháp quản lý hoạt động dạy học...về các chức năng quản lý, tiêu chuẩn và các
chức năng cần có của người quản lý, về vai trò của Hiệu trưởng và đội ngũ
cán bộ quản lý, về sự liên hệ giữa khoa học quản lý và các khoa học khác.
Cũng có những công trình nghiên cứu về chân dung của người cán bộ quản lý
nhà trường. Có thể kể đến các các tác giả tiêu biểu như: Trần Kiểm với “
Khoa học quản lý nhà trường phổ thông”, “ Khoa học quản lý giáo dục một
số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Đặng Quốc Bảo với “ Những vấn đề cơ bản
về quản lý giáo dục”, Nguyễn Phúc Châu với “ Quản lý hoạt động dạy học”
Nguyễn Ngọc Quang với “ Những vấn đề cơ bản về quản lý giáo dục”, Hà
Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt với “ Giáo dục học”,...
Trong các nhà trường phổ thông, hoạt động dạy học là hoạt động trọng
tâm. Chính vì vậy cũng có rất nhiều cán bộ quản lý trường THPT trong cả
nước tập trung nghiên cứu về các biện pháp quản lý nhà trường, trong đó có
quản lý hoạt động dạy học, nhằm nâng cao chất lượng dạy học nói chung,
nâng cao chất lượng dạy học của từng bộ môn nói riêng trong đó có môn Lịch
sử. chẳng hạn như các luận văn thạc sỹ của các tác giả Đinh Thị Tuyết Mai
với đề tài “ các biện pháp quản lý hoạt động dạy học của Hiệu trưởng trường
7


THPT ở tỉnh Thái Nguyên” , tác giả Phạm Hoàng Phương với đề tài “ Một số
biện pháp quản lý hoạt động dạy học của Hiệu trưởng các trường THPT
huyện Ứng Hòa tỉnh Hà Tây”, luận văn thạc sỹ với đề tài “Một số biện pháp
quản lý của hiệu trưởng nhằm đổi mới phương pháp dạy học ở trường THPT
Hai Bà Trưng- thành phố Huế trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Thị

Hoài Thu, luận văn thạc sĩ với đề tài “quản lý hoạt động đổi mới phương
pháp dạy học môn Lịch sử ở các trường THPT huyện Mê Linh- Hà Nội” của
Trần Thị Quý... Luận văn của các tác giả nêu trên đã nêu lên được những biện
pháp quản lý hoạt động dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ở
trường mình học ở địa phương nơi đang công tác. Những công trình đó rất có
giá trị về lý luận và thực tiễn để cho các cán bộ quản lý nhà trường tham
khảo, vận dụng trong công tác quản lý của mình.
Qua quá trình học tập và nghiên cứu các tài liệu, các công trình nghiên
cứu của các tác giả chúng tôi thấy các công trình trên đều tập trung vào một số
nội dung quản lý hoạt động dạy học nhưng chưa quan tâm nhiều đến quản lý đổi
mới dạy học, cũng chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện, có hệ thống và
phù hợp với điều kiện thực tế của huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội về
quản lý đổi mới dạy học lịch sử của hiệu trưởng trường THPT.
Do đó, tác giả lựa chọn đề tài: "Quản lý đổi mới dạy học môn Lịch sử ở
các trường trung học phổ thông huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội" để
nghiên cứu nhằm góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục đề ra.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý đổi mới dạy học môn Lịch
sử và thực trạng quản lý đổi mới dạy học môn Lịch sử ở 4 trường THPT trên
địa bàn huyện Chương Mỹ, luận văn đề xuất những biện pháp quản lý đổi mới
dạy học bộ môn Lịch sử nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn
Lịch sử, đáp ứng được yêu cầu đổi mới dạy học môn Lịch sử ở nhà trường
phổ thông hiện nay.
8


* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về quản lý đổi mới dạy học môn Lịch
sử ở trường THPT.

- Khảo sát và đánh giá thực trạng của việc quản lý đổi mới dạy học
môn Lịch sử ở các trường THPT trên địa bàn huyện Chương Mỹ, Hà Nội
trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất những biện pháp quản lý đổi mới dạy học môn Lịch sử nhằm
nâng cao chất lượng dạy học môn lịch sử.
- Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp quản lý.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quản lý đổi mới dạy học môn Lịch sử ở các trường THPT trên địa bàn
huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý đổi mới dạy học môn Lịch sử ở các trường THPT huyện
Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu, khảo sát tại 4 trường THPT trên địa bàn huyện
Chương Mỹ bao gồm: THPT Xuân Mai, THPT Chương Mỹ A, THPT
Chương Mỹ B, THPT Chúc Động. Thời gian nghiên cứu từ năm 2013 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Công tác quản lý đổi mới dạy học môn Lịch sử ở các trường THPT huyện
Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội đã đạt được một số thành tựu đáng kể. Nhưng
công tác quản lý hoạt động dạy và học môn Lịch sử vẫn còn bộc lộ nhiều bất
cập, hạn chế. Vì vậy chất lượng dạy học môn Lịch sử ở các trường vẫn chưa
được cải thiện, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới của giáo dục phổ thông.
Nếu các chủ thể thực hiện tốt các biện pháp như: Nâng cao nhận thức của cán
bộ quản lý và giáo viên về yêu cầu của đổi mới dạy học lịch sử; đổi mới quản
9


lý nề nếp dạy học lịch sử; bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên đáp
ứng yêu cầu đổi mới dạy học lịch sử; chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học

môn Lịch sử theo yêu cầu đổi mới; đổi mới quản lý việc tự học môn Lịch sử
của học sinh THPT; đổi mới việc sử dụng thiết bị dạy học, chú trọng việc
ứng dụng CNTT trong dạy học lịch sử. Thì có thể nâng cao chất lượng dạy học
môn lịch sử ở các trường THPT huyện Chương Mĩ, thành phố Hà Nội.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin, quán triệt tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục- đào tạo; về
đổi mới dạy học lịch sử đáp ứng yêu cầu của việc xây dựng nguồn nhân lực
chất lượng cao phục vụ cho công cuộc CNH- HĐH đất nước. Đồng thời dựa
trên các quan điểm, phương pháp luận hệ thống- cấu trúc, lịch sử- lôgic, thực
tiễn trong nghiên cứu khoa học, từ đó định hướng cho việc tiếp cận đối tượng
nghiên cứu, luận giải các nhiệm vụ của luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận
Phương pháp này được sử dụng để phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá và
khái quát hoá các vấn đề lý luận từ các tài liệu về khoa học quản lý giáo dục,
quản lý nhà trường, luật giáo dục, các văn bản pháp quy, những quy định của
ngành Giáo dục- Đào tạo, các loại sách báo có liên quan đến quản lý nhà
trường, liên quan đến quản lý đổi mới dạy học môn lịch sử để xây dựng cơ sở
lý luận cho đề tài.
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Xây dựng hệ thống câu hỏi điều
tra với mục đích chủ yếu là thu thập các số liệu nhằm xác định thực trạng các
biện pháp quản lý đổi mới dạy học lịch sử hiện có, phân tích các nguyên nhân
thành công và hạn chế của thực trạng này.
10



Phương pháp phỏng vấn sâu: Tác giả tiến hành trao đổi trực tiếp với
cán bộ quản lý và giáo viên các trường nhằm tìm hiểu kỹ hơn về thực trạng
đổi mới dạy học và quản lý đổi mới dạy học lịch sử trong nhà trường, lý giải
nguyên nhân của vấn đề.
Phương pháp quan sát: Thu thập thông tin qua việc quan sát các hoạt
động giảng dạy của đội ngũ giáo viên bằng việc: Dự giờ giáo viên lịch sử,
cùng Hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn và giáo viên có kinh nghiệm phân
tích giờ dạy, điều tra thông qua hồ sơ, sổ sách ( việc thực hiện qui chế chuyên
môn, chương trình dạy học.....), quan sát các hoạt động quản lý, đặc biệt công
tác quản lý đổi mới dạy học lịch sử của cán bộ quản lý nhà trường.
Phương pháp thử nghiệm: Sau khi đề xuất các biện pháp, tác giả sẽ đưa
vào ứng dụng thực tiễn trong hoạt động quản lý của nhà trường, lấy ý kiến
đánh giá của chuyên gia, các nhà quản lý giáo dục và giáo viên về hiệu quả
của các biện pháp này.
Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến các nhà khoa học, nhà quản lý về
một số vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan tới việc nghiên cứu đề tài.
Phương pháp thống kê: Dùng phương pháp thống kê toán học để xử lý
các số liệu của đề tài.
7. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn hoàn thành với mong muốn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và
thực tiễn quản lý đổi mới dạy học lịch sử ở các trường THPT huyện Chương
Mỹ, thành phố Hà Nội. Đề xuất các biện pháp để quản lý đổi mới, góp phần thiết
thực nâng cao hiệu quả quản lý dạy học môn Lịch sử, nhằm nâng cao chất lượng
dạy và học đáp ứng yêu cầu đổi mới dạy học môn Lịch sử hiện nay. Làm cơ sở
cho các cấp quản lý tham khảo, để tiến hành quản lý đổi mới dạy học lịch sử nói
chung và ở các trường THPT huyện Chương Mỹ nói riêng.
8. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: phần mở đầu, ba chương , phần kết luận và kiến nghị, danh
mục tài liệu tham khảo, phụ lục.
11



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ ĐỔI MỚI DẠY HỌC MÔN LỊCH SỬ
BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Dạy học, hoạt động dạy học
* Dạy học
Dạy học là hoạt động trung tâm, cơ bản, quan trọng nhất trong các nhà
trường. Dạy học là con đường ngắn nhất và có hiệu quả nhất để thực hiện mục
đích giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ và đào tạo nguồn nhân lực có trình độ
cao cho xã hội.
Nhiều nhà khoa học đã tiếp cận khái niệm dạy học từ cơ sở của lý luận
của quá trình giáo dục tổng thể. Mặt khác, xét quan hệ giữa các thành tố cấu
trúc của hoạt động, một số tác giả đã luận giải về nội hàm của khái niệm dạy
học từ những góc độ khoa học khác nhau như: giáo dục học, tâm lý học, điều
khiển học … dưới đây:
- Tiếp cận dạy học từ góc độ giáo dục học: Dạy học một trong các bộ
phận của quá trình tổng thể giáo dục nhân cách toàn vẹn - là quá trình tác
động qua lại giữa giáo viên và học sinh nhằm truyền thụ và lĩnh hội tri thức
khoa học, những kỹ năng và kỹ xảo hoạt động nhận thức và thực tiễn, để trên
cơ sở đó hình thành thế giới quan, phát triển năng lực sáng tạo và xây dựng
phát triển các phẩm chất của nhân cách người học theo mục đích giáo dục
Như vậy, dạy học là khái niệm chỉ quá trình hoạt động chung của người
dạy và người học.
- Tiếp cận dạy học từ góc độ tâm lý học: Dạy học được hiểu là sự biến
đổi hợp lý hoạt động và hành vi của người học trên cơ sở cộng tác hoạt động
và hành vi của người dạy và người học.
- Tiếp cận dạy học từ góc độ điều khiển học: Dạy học là quá trình cộng

tác giữa thầy và trò nhằm điều khiển - truyền đạt và tự điều khiển - lĩnh hội tri
thức nhân loại nhằm thực hiện mục đích giáo dục
12


Dạy và học là một quá trình tác động và phối hợp với nhau, gồm hoạt
động dạy của thầy và hoạt động học của trò, thiếu hai hoạt động đó thì quá
trình dạy học sẽ không diễn ra.
Hoạt động dạy của thầy: Lãnh đạo, tổ chức, điều khiển hoạt động nhận
thức, học tập của học sinh, giúp học sinh tìm tòi khám phá tri thức, qua đó
thực hiện có hiệu quả chức năng của bản thân, giúp học sinh nắm được kiến
thức, hình thành kỹ năng, thái độ. Hoạt động dạy học có chức năng kép là
truyền đạt và điều khiển nội dung dạy học theo chương trình bằng phương
pháp nhà trường
Hoạt động học của học sinh: Là tự giác, tích cực, chủ động, tự tổ chức,
tự điều khiển hoạt động nhận thức, học tập của mình nhằm thu nhận, xử lý và
biến đổi thông tin bên ngoài tri thức của bản thân, qua đó người học thể hiện
mình, biến đổi mình, tự làm phong phú những giá trị của mình.
Hoạt động dạy và học có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tồn tại song
song và phát triển trong cùng một quá trình thống nhất kết quả hoạt động dạy
của thầy và ngược lại.
* Quá trình dạy học
Quá trình dạy học là một hệ toàn vẹn bao gồm hoạt động dạy và hoạt
động học luôn luôn tương tác với nhau, thâm nhập vào nhau, sinh thành ra
nhau (hai cái tồn tại là vì nhau, của nhau, bởi nhau). Sự tương tác giữa dạy
và học mang tính chất cộng tác (cộng đồng và hợp tác) trong đó dạy giữ vai
trò chủ đạo.
Quá trình dạy học bao gồm các thành tố: Mục tiêu dạy học, nội dung
dạy học, phương pháp dạy học (kể cả hình thức dạy học) điều kiện dạy học
(bao gồm phương tiện dạy học), lực lượng dạy học (giáo viên), người học

(vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của quá trình dạy học), kết quả dạy học. Các
thành tố này tồn tại trong mối liên hệ thống nhất với nau và thống nhất với
môi trường (tự nhiên và xã hội).
13


* Bản chất của quá trình dạy học
Bản chất của quá trình dạy học là quá trình nhận thức độc đáo của học
sinh dưới vai trò chủ đạo của giáo viên.
Bản chất của việc dạy là quá trình tổ chức cho học sinh nhận thức,
chiếm lĩnh tri thức, hình thành và phát triển nhân cách.
Bản chất của hoạt động học là quá trình thu nhận tri thức một cách chủ
động, tích cực, sáng tạo dưới sự hướng dẫn của thầy nhằm lĩnh hội tri thức.
* Hoạt động dạy học môn Lịch sử
Hoạt động dạy học môn Lịch sử là hoạt động thống nhất giữa giáo viên
dạy học môn Lịch sử và học sinh. Trong đó dưới tác động chủ đạo của giáo
viên, học sinh tự giác, tích cực, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động học nhằm
thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học môn Lịch sử đặt ra. Dạy học Lịch sử là
cung cấp cho học sinh những kiến thức về Lịch sử của dân tộc và thế giới gắn
liền với nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ.
Đối với giáo viên cần phải: Tăng cường các hoạt động học tập đa dạng
của học sinh trên lớp, phương pháp tìm tòi nghiên cứu, phát hiện và khả năng
giải quyết vấn đề. Người giáo viên cần tìm ra những phương pháp phù hợp
với bộ môn và trình độ nhận thức của học sinh mà mình giảng dạy, để làm sao
các em hứng thú, yêu thích môn học từ đó kết quả học tập sẽ được nâng cao.
Cần đặc biệt kết hợp học tập cá nhân và học tập theo nhóm. Cần phối hợp
kiểm tra giữa trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan, tuỳ theo mục
đích của việc kiểm tra kiến thức của học sinh.
Đối với học sinh cần phải: Có thái độ nghiêm túc, chăm chỉ, hứng thú
trong việc học lịch sử, luôn có ý thức tự học, tự tìm hiểu, biết rút ra những bài

học cho bản thân từ những bài học lịch sử. Cần có tinh thần hợp tác trong học
tập, có ý thức bảo vệ các quan điểm đúng đắn, biết liên hệ những kiến thức
được học với những vấn đề thời sự trong và ngoài nước.
1.1.2. Các khái niệm về quản lý
* Quản lý
Hoạt động quản lý đã có từ xa xưa khi con người biết lao động theo
từng nhóm đòi hỏi có sự tổ chức, điều khiển và phối hợp hành động. Quản lý

14


là một trong những loại hình lao động quan trọng nhất trong các hoạt động
của con người. Quản lý đúng tức là con người đã nhận thức được quy luật,
vận động theo quy luật và sẽ đạt được những thành công to lớn. Quản lý là
đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, mỗi ngành khoa học nghiên
cứu quản lý từ những góc độ riêng của mình và đưa ra những định nghĩa khác
nhau về quản lý.
F. W. Taylo (1856- 1915), người Mỹ, được coi là “ cha đẻ của thuyết
quản lý khoa học”, đã thể hiện tư tưởng cốt lõi của mình trong quản lý là:”
Mỗi loại công việc dù nhỏ nhất đều phải chuyên môn hoá và đều phải quản
lý chặt chẽ” Ông cho rằng: “Quản lý là biết chính xác điều muốn người
khác làm và sau đó thấy rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt
nhất và rẻ nhất”
C. Mác đã viết: “ Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động
chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một
sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức
năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự
vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự
mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần có nhạc trưởng”
Theo PGS. TS Bùi Minh Hiền: “ Quản lý là sự tác động có tổ chức, có

định hướng của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhắm đạt mục tiêu đề ra”
[14, Tr12]
Trong lĩnh vực giáo dục, quản lý có thể hiểu ở những cách tiếp cận riêng
như sau:
+ Quản lý là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật
của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt tới mục tiêu đề ra.
+ Quản lý là các hoạt động được thực hiện nhằm bảo đảm sự hoàn
thành công việc qua những nỗ lực của người khác.
+Quản lý bao giờ cũng là quản lý con người.
15


+ Quản lý là công tác phối hợp có hiệu quả các hoạt động của những
người công sự khác cùng chung một tổ chức.
+ Quản lý là một hoạt động thiết yếu đảm bảo phối hợp những nỗ lực
cá nhân đạt được các mục đích của nhóm.
Những định nghĩa trên tuy khác nhau về cách diễn đạt, về góc độ tiếp
cận nhưng đều có thể hiểu: Quản lý là sự tác động liên tục, có tổ chức, có
định hướng của chủ thể quản lý (người quản lý) lên đối tượng quản lý (những
người bị quản lý) bằng việc sử dụng các phương tiện quản lý nhằm làm cho tổ
chức vận hành đạt tới mục tiêu quản lý.
* Quản lý giáo dục
Giáo dục xuất hiện nhằm thực hiện cơ chế truyền kinh nghiệm lịch sửxã hội của loài người, của thế hệ đi trước cho thế hệ sau, để thế hệ sau có
trách nhiệm kế thừa, phát triển nó một cách sáng tạo, làm cho xã hội và bản
thân con người phát triển không ngừng. Để đạt mục đích đó, quản lý được coi
là nhân tố tổ chức, chỉ đạo việc thực thi cơ chế nêu trên.
Khái niệm quản lý giáo dục hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau:
Theo tác giả M.I. Kônđacốp cho rằng: “Quản lý giáo dục là tập hợp những
biện pháp kế hoạch hoá, nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của cơ
quan trong hệ thống giáo dục để tiếp tục phát triển, mở rộng hệ thống cả về

số lượng cũng như chất lượng” [24, Tr93]
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
VIII đã viết "Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý
tới khách thể quản lý nhằm đưa ra hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục
đạt tới kết quả mong muốn bằng cách hiệu quả nhất"
Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng “Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng
quát là hoạt động điều hành phối hợp của các lực lượng xã hội nhằm thúc
đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu xã hội” [1, Tr31].
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý giáo dục là hệ thống tác động
có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục)
nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng,

16


thực hiện được các tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam, mà tiêu điểm
hội tụ của quá trình dạy học- giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo duc tới
mục tiêu dự kiến lên trạng thái mới về chất” [13, Tr61]
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang thì: "Quản lý giáo dục thực chất là
tác động đến nhà trường, làm cho nó tổ chức tối ưu được quá trình dạy học,
giáo dục thể chất theo đường lối, nguyên lý giáo dục của Đảng, quán triệt
được những tính chất trường THPT xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bằng cách đó
tiến tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái chất lượng mới " [33, Tr55]
Quản lý giáo dục là hoạt động có ý thức của con người nhằm theo đuổi
những mục đích của mình. Mục đích giáo dục cũng chính là mục đích quản lý
(tuy nó không phải là mục đích duy nhất của mục đích quản lý giáo dục). Đây
là mục đích mang tính khách quan. Nhà quản lý, cùng với đội ngũ giáo viên,
học sinh, các lực lượng xã hội…bằng hành động của mình thực hiện hoá mục
đích đó trong hiện thực.
Quản lý giáo dục thực chất là những tác động của chủ thế quản lý vào

quá trình giáo dục (được tiến hành bởi giáo viên và học sinh, với sự hỗ trợ đắc
lực của các lực lượng xã hội) nhằm hình thành và phát triển toàn diện nhân
cách của học sinh theo mục tiêu đào tạo của nhà trường.
Những định nghĩa nêu trên về quản lý giáo dục tuy có những cách diễn
đạt khác nhau nhưng đều thể hiện một quan điểm chung về quản lý giáo dục
đó là quá trình trác động có định hướng của nhà quản lý trong việc vận dụng
nguyên lý, phương pháp chung nhất của kế hoạch nhằm đạt được những mục
tiêu đề ra. Những tác động đó thực chất là những tác động khoa học đến nhà
trường làm cho nhà trường tổ chức một cách khoa học, có kế hoạch quá trình
dạy và học theo mục tiêu đào tạo.
* Chức năng của quản lý giáo dục
Chức năng quản lý là một thể thống nhất những hoạt động tất yếu của
chủ thể quản lý nảy sinh từ sự phân công, chuyên môn hóa trong hoạt động
quản ly nhằm thực hiện mục tiêu.
17


Chức năng quản lý xác định khối lượng các công việc cơ bản và trình
tự các công việc của quá trình quản lý, mỗi chức năng có nhiều nhiệm vụ cụ
thể, là quá trình liên tục của các bước công việc tất yếu phải thực hiện.
Các nhà nghiên cứu cho rằng quản lý có 4 chức năng cơ bản liên quan
mật thiết với nhau, bao gồm: Chức năng kế hoạch, chức năng tổ chức, chức
năng chỉ đạo, chức năng kiểm tra.
Sơ đồ chức năng quản lý
Kế hoạch

Kiểm tra

Tổ chức


Chỉ đạo

Chức năng kế hoạch: là quá trình xác định các mục tiêu phát triển giáo
dục và quyết định những biện pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu đó. Khi tiến
hành các chức năng kế hoạch, người quản lý cần hoàn thành nhiệm vụ là xác
định đúng các mục tiêu cần để phát triển giáo dục và quyết định được các
biện pháp có tính khả thi. Chức năng kế hoạch là chức năng đầu tiên của một
quá trình quản lý, nó có vai trò khởi đầu, định hướng cho toàn bộ các hoạt
động của quá trình quản lý và là cơ sở để huy động tối đa các nguồn lực cho
việc thực hiện các mục tiêu và là căn cứ cho việc kiểm tra đánh giá quá trình
thực hiện mục tiêu nhiệm vụ của tổ chức, đơn vị và từng cá nhân.
Chức năng tổ chức thực hiện: là quá trình phân phối và sắp xếp nguồn
lực theo những cách thức nhất định để đảm bảo thực hiện tốt nhất các mục
tiêu đã đề ra. Chức năng tổ chức là chức năng thứ hai trong quá trình quản lý
nó có vai trò hiện thực hóa các mục tiêu của tổ chức và đặc biệt là chức năng
18


tổ chức có khả năng tạo ra sức mạnh mới của tổ chức, cơ quan đơn vị thậm
chí của cả hệ thống nếu việc phân phối, sắp xếp nguồn nhân lực được khoa
học và hợp lý.
Chức năng chỉ đạo: Là quá trình tác động ảnh hưởng tới hành vi, thái
độ của những người khác nhằm đạt tới các mục tiêu với chất lượng cao. Chức
năng chỉ đạo là chức năng thứ ba trong quá trình quản lý nó có vai trò cùng
với chức năng tổ chức để hiện thực hóa các mục tiêu. Chức năng chỉ đạo được
xác định từ việc điều hành và hướng dẫn các hoạt động nhằm đạt được các
mục tiêu có chất lượng và hiệu quả. Thực chất của chức năng chỉ đạo là quá
trình tác động và ảnh hưởng của chủ thể quản lý tới những người khác nhằm
biến những yêu cầu chung của tổ chức, hệ thống giáo dục và nhà trường thành
nhu cầu của mọi người, trên cơ sở đó mọi người tích cực, tự giác và mang hết

khả năng để làm việc.
Chức năng kiểm tra: là quá trình đánh giá và điều chỉnh nhằm đảm bảo
cho các hoạt động đạt tới các mục tiêu của tổ chức. Chức năng kiểm tra là
chức năng cuối cùng của một quá trình quản lý nó có vai trò giúp cho chủ thể
quản lý biết được mọi người thực hiện các nhiệm vụ ở mức độ tốt, vừa, xấu
như thế nào, đồng thời cũng biết được những quyết định quản lý ban hành có
phù hợp với thực tế không, trên những cơ sở đó điều chỉnh các hoạt động,
giúp đỡ hay thúc đẩy cá nhân, tập thể đạt tới các mục tiêu đã đề ra. Như vậy,
chức năng kiểm tra thể hiện rõ vai trò cung cấp thông tin và trợ giúp các cá
nhân và đơn vị hoàn thành nhiệm vụ theo mục tiêu và kế hoạch đã xác định.
Các chức năng quản lý tạo thành một hệ thống thống nhất với một trình
tự nhất định, chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng qua lại
nhau, làm tiền đề cho nhau, khi thực hiện hoạt động quản lý trong quá trình
quản lý thì yếu tố thông tin luôn có mặt trong tất cả các giai đoạn với vai trò
vừa là điều kiện, vừa là phương tiện để tạo điều kiện cho chủ thể quản lý thực
hiện các chức năng quản lý và đưa ra được các quyết định quản lý.
19


* Quản lý nhà trường
Nhà trường là tổ chức giáo dục cơ sở mang tính nhà nước, xã hội, là
nơi trực tiếp làm công tác đào tạo thế hệ trẻ, là cơ quan giáo dục chuyên biệt,
có đội ngũ các nhà giáo được đào tạo, nội dung chương trình được chọn lọc,
phương pháp giáo dục phù hợp với mọi lứa tuổi, các phương tiện kỹ thuật
phục vụ cho giáo dục, mục đích giáo dục của nhà trường phù hợp với xu thế
phát triển của xã hội và thời đại.
Quản lý nhà trường về bản chất là quản lý con người. Điều đó tạo cho
các chủ thể (người dạy và người học) trong nhà trường một sự liên kết chặt
chẽ không những chỉ bởi cơ chế hoạt động của những tính quy luật của một số
tổ chức xã hội- nhà trường, mà còn bởi hoạt động chủ quan, hoạt động quản

lý của chính bản thân giao viên và học sinh. Trong nhà trường, giáo viên và
học sinh vừa là đối tượng, vừa là chủ thể quản lý. Với tư cách là đối tượng
quản lý, họ là đối tượng tác động của chủ thể quản lý (hiệu trưởng). Với tư
cách là chủ thể quản lý, họ là người tham gia chủ động, tích cực vào hoạt
động quản lý nói chung và biến nhà trường thành hệ tự quản lý.
Có nhiều tác giả quan niệm về quản lý nhà trường khác nhau:
Theo tác giả Phạm Minh Hạc "Quản lý nhà trường là thực hiện đường
lối giáo dục của Đảng trong phạm vị trách nhiệm của mình, từ là đưa nhà
trường vận hành theo nguyên lý giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục,
mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học
sinh" [13, tr.71]
Theo tác giả Trần Hồng Quân "Quản lý nhà trường là quản lý hoạt
động dạy học tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng
thái thái khác để dần dần tiến tới mục tiêu giáo dục" [34, tr.43]
Là một thiết chế đặc biệt của xã hội nên nhà trường cùng với công tác
quản lý trường học là vô cùng quan trọng, bao gồm sự quản lý các tác động
qua lại giữa trường học và xã hội đồng thời quản lý chính nhà trường. Người
20


ta có thể phân tích quá trình giáo dục của nhà trường như một hệ thống gồm
các thành tố. Vai trò của người quản lý là phải làm sao cho hệ thống các thành
tố vận hành liên kết chặt chẽ với nhau đưa đến kết quả mong muốn.
Như vậy, quản lý nhà trường (một cơ sở giáo dục) là những tác động tự
giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống và hợp quy luật) của
chủ thể quản lý nhà trường (hiệu trưởng) đến khách thể quản lý nhà trường
(giáo viên, nhân viên và người học) nhằm đưa các hoạt động giáo dục và dạy
học của nhà trường đạt tới mục tiêu giáo dục.
* Quản lý trường trung học phổ thông
Trường trung học phổ thông: Là cấp cuối cùng của hệ thống giáo dục

phổ thông gồm 3 năm học, trường THPT là cấp học hoàn thiện kiến thức phổ
thông cho học sinh, là cấp học tạo nguồn lực cho các yêu cầu đào tạo của xã
hội, đồng thời chuẩn bị tích cực cho thế hệ trẻ đi vào cuộc sống xã hội và lao
động sản xuất. Do vậy trường THPT có mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo
dục mang tính phổ thông cơ bản, toàn diện với những đặc thù riêng nhằm
thực hiện nhiệm vụ của cấp học. Nhiệm vụ và quyền hạn của trường THPT
được quy định tại Điều 3, Điều lệ trường Trung học (Ban hành kèm theo
Quyết định 07/2007/QĐ-BGD&ĐT ngày 02 tháng 04 năm 2007 của Bộ
trưởng Bộ giáo dục & Đào tạo).
Theo tác giả Trần Hồng Quân: "Quản lý nhà trường phổ thông là quản
lý dạy và học, tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng
thái khác, để dần tiến tới mục tiêu giáo dục" [34, tr.43]
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: "Quản lý trường phổ thông là tập
hợp các tác động tối ưu (công tác tham gia, hỗ trợ, phối hợp, huy động, can
thiệp) của chủ thể quản lý đến tập thể cán bộ, giáo viên và học sinh nhằm tận
dụng nguồn nhân lực dự trữ do nhà nước đầu tư, các lực lượng xã hội đóng
góp và do hoạt động xây dựng vốn tự có hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt
động của nhà trường và tiêu điểm hội tụ là đào tạo thế hệ trẻ, thực hiện có
chất lượng mục tiêu và kế hoạch đào tạo, đưa nhà trường tiến lên một trạng
thái mới" [33, tr.43]
21


e. Quản lý dạy học và quản lý dạy học môn Lịch sử
* Quản lý dạy học
Quản lý dạy học là quản lý quá trình truyền thụ tri thức của đội ngũ giáo
viên và quá trình lĩnh hội kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo của học sinh và quản lý các
điều kiện vật chất, kỹ thuật, phương tiện phục vụ hoạt động dạy học.
Quản lý dạy học là phải quản lý tốt hoạt động dạy học của thầy thể hiện ở
việc như: Thực hiện chương trình, các loại hồ sơ, bài soạn, giảng bài, dự giờ,

thăm lớp, rút kinh nghiệm, đánh giá kết quả dạy học thông qua việc chấm, chữa
bài, cho điểm theo các văn bản hướng dẫn của Bộ giáo dục và đào tạo.
Quản lý hoạt động học của trò là tạo ra ý thức tốt trong học tập để lĩnh hội
kiến thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo trên cơ sở đó xây dựng nền nếp học tập và
phương pháp học tập đúng đắn nhằm đạt chất lượng và hiệu quả cao nhất.
Theo tác giả Đỗ Bích Ngọc Quản lý quá trình dạy học là một bộ phận cấu
thành chủ yếu của toàn bộ hệ thống quản lý quá trình giáo dục và đào tạo trong
trường học. Quá trình thực hiện các chức năng tổng hợp, phát triển nhân cách,
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Bản chất của quá trình dạy học là sự thống nhất biện chứng của dạy và
học được thể hiện bằng sự hợp tác giữa dạy và học theo logic khách quan của
nội dung.
Như vậy quản lý hoạt động dạy học là quản lý hoạt động sư phạm của
người thầy và hoạt động học tập rèn luyện của trò, để hình thành và phát triển
nhân cách học sinh.
* Quản lý dạy học môn Lịch sử
Bộ môn Lịch sử có nhiệm vụ giúp học sinh nắm được bản chất các
sự kiện lịch sử, hình thành các khái niệm lịch sử, phát hiện ra các mối quan
hệ trong các quá trình lịch sử, rút ra các bài học lịch sử giúp cho học sinh
suy nghĩ và hành động đúng. Để thực hiện được nhiệm vụ này giáo viên
phải có đủ phẩm chất và năng lực để tiến hành thiết kế, tổ chức, điều khiển
quá trình hoạt động học tập của học sinh. Điều quan trọng là giáo viên dạy
lịch sử phải biết cách thức hoạt động, có kỹ năng hoạt động sáng tạo đối
với các tài liệu sử học.
22


Các nhà giáo dục lịch sử khẳng định quá trình dạy học lịch sử cũng
là quá trình nhận thức đặc thù. Bởi vì đây là nhận thức cá thể của học sinh,
sự nhận thức trong lĩnh vực giáo dục. Học sinh là người được giáo dục,

chuẩn bị để sau này đảm nhiệm công việc xã hội. Cho nên quá trình nhận
thức của học sinh trong học tập có ba đặc điểm là tính gián tiếp, được
hướng dẫn và được giáo dục.
Quản lý dạy học môn Lịch sử là quản lý hoạt động dạy và hoạt động
học môn Lịch sử nhằm thực hiện chức năng bộ môn, đồng thời góp phần hoàn
thành mục tiêu giáo dục. Quản lý dạy học môn Lịch sử nằm trong toàn bộ quá
trình quản lý dạy và học nói chung. Tuy nhiên do đặc thù của bộ môn nên cần
có cách quản lý riêng cho phù hợp.
g. Quản lý đổi mới dạy học và quản lý đổi mới dạy học môn Lịch sử ở
trường phổ thông
* Khái niệm đổi mới
Theo Từ điển Tiếng Việt, năm 2008: “Đổi mới là thay đổi hoặc làm
cho thay đổi tốt hơn, tiến bộ hơn so với trước, đáp ứng yêu cầu của sự phát
triển” [35, tr.30]. Đổi mới là cải cách cái lỗi thời, cái cũ thay vào đó là thừa kế
cái tốt và thêm cái mới hợp với thời đại mới. Đó là con đường tiến hóa của nền
văn minh. Đổi mới không bao giờ là đủ cả, nó kéo dài theo chiều dài của lịch sử.
Đó là kết luận của chủ nghĩa Mác Lê-nin về tính biện chứng của quá trình phát
triển, về tính tương thích giữa thượng tầng kiến trúc và hạ tầng cơ sở xã hội cũng
như sự đấu tranh thường xuyên giữa chúng để thúc đẩy tiến trình lịch sử đi lên.
Như vậy: Đổi mới là thay đổi, kế thừa cái cũ và tiếp thu những cái mới
một cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh để đáp ứng yêu cầu của
xã hội trong giai đoạn hiện nay
* Đổi mới dạy học ở trường phổ thông
Luật giáo dục ( Luật số 38/2005/QH 11) tại Điều 28 mục 2, qui định:
“Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học,
môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn
luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem
lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. [ 26, Tr6 ]
23



Nghị quyết số 40/2000/QH10, ngày 09 tháng 12 năm 2000 của Quốc hội
khoá X về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đã khẳng định đổi mới
chương trình giáo dục phổ thông là “Đổi mới nội dung chương trình, sách giáo
khoa, phương pháp dạy và học phải được thực hiện đồng bộ với việc nâng cấp
và đổi mới trong thiết bị dạy học, tổ chức đánh giá, thi cử, chuẩn hóa trường sở,
đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và công tác quản lý giáo dục ”
Như vậy, có thể thấy đổi mới dạy học ở trường THPT:
- Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói
quen và khả năng tự học, hướng tới học tập chủ động, chống lại thói quen học
tập thụ động.
- Tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh. Dạy học lấy học sinh làm
trung tâm, phát huy trí lực của người học để họ thực sự là chủ thể của hoạt
động học tập với hai chức năng: tiếp thu và tự chỉ đạo, tự tổ chức, với một
động cơ nhận thức sâu sắc, đúng đắn.
- Dạy học phải chú trọng đến việc rèn luyện các kỹ năng, năng lực cho
học sinh, tăng cường thực hành và gắn nội dung bài học với thực tiễn.
* Đổi mới dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông
Trong dạy học lịch sử ở trường THPT, giữa mục tiêu, nội dung, phương
pháp và kiểm tra đánh giá có mối quan hệ mật thiết với nhau. Không thể điều
chỉnh mục tiêu đào tạo, cải tiến chương trình, nội dung sách giáo khoa mà
không đổi mới phương pháp dạy và học, phương thức kiểm tra, đánh giá trong
dạy học. Vì vậy, để nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử theo tinh thần
đổi mới giáo dục hiện nay, cần đổi mới đồng bộ các khâu trong dạy học lịch sử.
Đổi mới dạy học lịch sử ở trường THPT không phải là lập tức thay đổi
những gì hiện có bằng những thứ hoàn toàn mới lạ. Chúng ta không bằng lòng
với tình trạng chung của dạy học lịch sử hiện nay bởi nó không giúp người
học đạt được các mục tiêu giáo dục trong thời kì mới. Vì vậy cần phải đổi mới
dạy học lịch sử để đạt được hiệu quả giáo dục cao hơn, phù hợp với mục tiêu

đề ra... Do đó cần phải kế thừa những giá trị, những yếu tố hợp lí của dạy học
lịch sử hiện có đồng thời chuyển đổi những gì có thể chuyển đổi được ngay,
24


chuẩn bị và nhanh chóng đưa ra các quan niệm, mô hình dạy học hiện đại, các
phương pháp tiên tiến vào trường phổ thông.
Đổi mới dạy học lịch sử là tạo ra quá trình chuyển từ việc dạy học dựa
vào trí nhớ và bắt trước ( thầy giảng trò nghe, thầy đọc trò chép, học sinh cố
gắng học thuộc lời thầy giảng, học thuộc bài viết của sách giáo khoa...) sang
việc dạy học nhằm phát triển nhân cách toàn diện trong đó điểm được nhấn
mạnh là năng lực sáng tạo trong tư duy và hành động của học sinh. Có thể gọi
tắt như thế này:
- Dạy học cũ: dạy học ghi nhớ, học thuộc kiến thức có sẵn.
- Dạy học mới: phát huy tính tích cực, sáng tạo, bồi dưỡng phương
pháp tự học cho người học.
Như vậy, cốt lõi của đổi mới dạy học lịch sử ở trường THPT là đổi mới
mục tiêu, nội dung chương trình, đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm
tra đánh giá, hướng tới giúp học sinh phát triển năng lực, học tập tích cực, chủ
động, sáng tạo, từ bỏ thói quen học tập thụ động, ghi nhớ máy móc.
* Quản lý đổi mới dạy học môn lịch sử ở trường phổ thông.
Từ năm học 2006- 2007, bậc trung học phổ thông đang đổi mới toàn
diện từ mục tiêu đến nội dung, phương pháp, tổ chức giáo dục theo tinh thần
Nghị quyết số 40/2000/QH10 ngày 12/9/2000 của Quốc hội về “Đổi mới
chương trình giáo dục phổ thông” nhằm làm cho giáo dục phục vụ đắc lực
công cuộc phát triển kinh tế- xã hội đáp ứng được yêu cầu phát triển của bản
thân học sinh.
Đứng trước tình hình đó, việc đổi mới công tác quản lý dạy học nói
chung và dạy học môn lịch sử nói riêng là đòi hỏi tất yếu, khách quan. Quản
lý đổi mới ở đây được hiểu là toàn diện từ nội dung, chương trình, sách giáo

khoa, đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học
tập của học sinh, quản lý đổi mới bồi dưỡng đội ngũ giáo viên.
Trong công tác quản lý đổi mới dạy học môn lịch sử, nhà quản lý cần
thể hiện rõ vai trò quản lý mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp dạy
học, thiết bị giáo dục và đánh giá dạy học một cách đồng bộ và toàn diện.
25


Theo đó trọng tâm hàng đầu của việc đổi mới quản lý dạy học môn lịch sử là
đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường theo các định hướng:
- Đổi mới phương pháp dạy học không phải là ngay lập tức thay đổi
những phương pháp dạy học hiện có bằng những phương pháp hoàn toàn mới
lạ. Mà là cần phải kế thừa những giá trị, những yếu tố hợp lý của các phương
pháp dạy học hiện có kết hợp với những phương pháp mới tiên tiến, hiện đại.
- Chuyển từ dạy học truyền thụ một chiều, học tập thụ động, chủ yếu là
ghi nhớ kiến thức để đối phó với thi cử sang tổ chức học sinh học tập trong
hoạt động và bằng các hoạt động sáng tạo, tính cực, chủ động, chú trọng hình
thành năng lực tự học, từ bỏ thói quen học tập thụ động, ghi nhớ máy móc.
- Đổi mới các hình thức tổ chức dạy học: Đa dạng hoá các hoạt động
của học sinh, làm cho học sinh thật sự hứng thú trong học tập, học sinh được
nghĩ nhiều hơn, hành động nhiều hơn, được rèn kỹ năng làm việc nhóm, được
bày tỏ ý kiến của mình nhiều hơn.
Như vậy, quản lý đổi mới dạy học môn Lịch sử ở trường THPT là quản
lý đổi mới mục tiêu đào tạo, chương trình, nội dung sách giáo khoa, phương
pháp dạy học, thiết bị dạy học, phương thức kiểm tra, đánh giá một cách đồng
bộ, toàn diện trên cơ sở kế thừa cái cũ, tiếp thu cái mới một cách linh hoạt,
phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể để đáp ứng mục tiêu và chất lượng
dạy học.
1.1.3. Biện pháp quản lý
Có nhiều định nghĩa khác nhau về biện pháp, nhưng nói chung biện

pháp được hiểu "Là cách làm, cách thức tiến hành một vấn đề cụ thể nào đó"
[35, tr.78]
Trong giáo dục, người ta thường quan niệm biện pháp là yếu tố hợp
thành của phương pháp, phụ thuộc vào phương pháp. Trong từng tình huống
sư phạm cụ thể, phương pháp và biện pháp giáo dục cụ thể có thể chuyển hóa
lẫn nhau. Điều này có nghĩa là: Một phương pháp nào đó bao giờ cũng có thể
và cần được thực hiện bằng những hành động khác nhau của giáo viên và học
sinh, theo những cách thức khác nhau nhưng đều có chung một chức năng và
một mục đích. Mỗi hành động như vậy là một biện pháp giáo dục. Tùy theo
từng tình huống cụ thể trong từng quá trình giáo dục cụ thể mà việc sử dụng
26


×