Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý HOẠT ĐỘNG dạy học môn TIẾNG VIỆT ở các TRƯỜNG TIỂU học, HUYỆN KIM THÀNH, TỈNH hải DƯƠNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (684.61 KB, 126 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY
HỌC MÔN TIẾNG VIỆT Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.2. Nội dung quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Việt ở
các trường tiểu học
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động dạy học
môn tiếng Việt ở các trường tiểu học
Chương 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY
HỌC MÔN TIẾNG VIỆT Ở CÁC TRƯỜNG TIỂU
HỌC, HUYỆN KIM THÀNH, TỈNH HẢI DƯƠNG
2.1. Khái quát vài nét về huyện Kim Thành, tỉnh Hải
Dương và giáo dục tiểu học trên địa bàn
2.2. Thực trạng hoạt động dạy học môn tiếng Việt ở các
trường tiểu học, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương
2.3 Thực trạng quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Việt ở
các trường tiểu học huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương
hiện nay
Chương 3. BIỆN PHÁP VÀ KHẢO NGHIỆM BIỆN PHÁP
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC MÔN
TIẾNG VIỆT Ở CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC,
HUYỆN KIM THÀNH, TỈNH HẢI DƯƠNG
3.1. Biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Việt ở
các trường tiểu học huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương
3.3. Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang


3

Chương 1.

PHỤ LỤC

12
12
24
30

37
37
40

48

58
58
88
96
98
103


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xu thế phát triển tri thức ngày nay, giáo dục - đào tạo được xem là
chính sách, biện pháp quan trọng hàng đầu để phát triển ở nhiều quốc gia trên
thế giới và Việt Nam không phải là ngoại lệ. Giáo dục - đào tạo góp phần phần

xây dựng đội ngũ lao động có trình độ cao làm giàu của cải vật chất cho xã hội
đồng thời có bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ sức đề kháng chống lại các cuộc
“xâm lăng văn hóa” trong chính quá trình hội nhập quốc tế và toàn cầu. Giáo
dục - đào tạo nhằm phát huy năng lực nội sinh “đi tắt, đón đầu”, rút ngắn thời
gian công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việt Nam khẳng định giáo dục đào tạo cùng với khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu, là điều kiện
phấn đấu để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp.
Nhận thức rõ vai trò của giáo dục - đào tạo đối với sự phát triển, Nghị
quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ: “Đổi mới căn
bản và toàn diện giáo dục, đào tạo theo hướng mở, hội nhập, xây dựng xã hội
học tập, phát triển toàn diện năng lực, thể chất, nhân cách, đạo đức, lối sống,
ý thức tôn trọng pháp luật và trách nhiệm công dân. Đổi mới khung chương
trình, quan tâm hơn đến yêu cầu tăng cường kỹ năng sống, giảm tải nội dung
trong các bậc học phổ thông” [25, tr.77].
Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập, sự phát triển của xã hội ngày
nay một mặt mang lại cuộc sống vật chất đầy đủ cho con người nhưng mặt
khác nó lại làm nảy sinh tính ích kỉ, chỉ quan tâm đến việc thỏa mãn “cái tôi”.
Những cám dỗ khiến con người đam mê đời sống vật chất mà coi nhẹ đời
sống tinh thần. Người ta có thể thờ ơ trước niềm vui hoặc nỗi buồn của những
người xung quanh hay thản nhiên trước một câu chuyện buồn trong sách báo
hoặc trên phim ảnh,... Đó là thái độ thờ ơ, lạnh nhạt đến tàn nhẫn, rất đáng
phê phán và lên án. Để có “phương thuốc” đặc biệt chữa trị “bệnh vô cảm"
3


ấy, để con người sống một cách nhân văn hơn, hướng thiện hơn, trước hết phụ
thuộc vào chính mỗi cá nhân. Tuy nhiên, không thể không nhắc tới vai trò của
các nhà trường, của những người làm công tác giáo dục. Làm giàu tâm hồn
các em bằng các bài văn, bài thơ, các tác phẩm văn chương nghệ thuật là việc
làm vô cùng ý nghĩa và cần thiết.
Trong trường tiểu học, môn Tiếng Việt có một vai trò to lớn trong việc

hình thành và phát triển nhân cách của học sinh, nó không chỉ là nền tảng để
học sinh học tiếp cận các môn học khác ở cấp học cao hơn, mà còn có vai trò
to lớn trong việc hình thành, phát triển nhân cách của học sinh. Vẻ đẹp thiên
nhiên, truyền thống lịch sử, văn hóa, tài hoa của con người Việt Nam được
ghi lại trong văn học sẽ đi sâu vào đời sống tinh thần, tâm thức của học sinh,
giúp học sinh cảm nhận được tâm hồn Việt Nam: yêu nước, cần cù, sáng tạo,
thanh lịch, tế nhị, hiếu học, trọng lễ nghĩa.
Nhận thức được vai trò của văn học, tiếng Việt trong hình thành và phát
triển nhân cách cho học sinh, thời gian qua các trường tiểu học trong cả nước
nói chung, các trường tiểu học ở huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương nói riêng
đã chú trọng nâng cao chất lượng dạy học nói chung dạy học môn tiếng Việt
nói riêng. Vì vậy, chất lượng giáo dục từng bước được nâng lên, góp phần
hình thành và phát triển nhân cách ban đầu cho học sinh tiểu học.
Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới giáo dục, việc dạy học môn tiếng
Việt ở các trường tiểu học huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương hiện nay còn
khá nhiều hạn chế. Kỹ năng viết văn, cảm thụ văn học của các em còn nhiều
hạn chế. thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó công tác
quản lý hoạt động dạy học môn học này thời gian qua còn nhiều bất cập.
Do đó, việc nghiên cứu để tìm ra biện pháp quản lý hoạt động dạy học
môn tiếng Việt ở các trường tiểu học, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương hiện
nay là vấn đề có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
4


2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trên thế giới, quản lý trong nhà trường phổ thông được đặt ra từ rất
sớm. Các nhà nghiên cứu quản lý Xô viết nhận định rằng: kết quả toàn bộ
hoạt động dạy học của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức đúng
đắn, hợp lý công tác hoạt động của đội ngũ giáo viên.
V.A.Xukhomlinxki, V.P.Xtrezicondin, Jaxapob đã nghiên cứu và đề ra

một số vấn đề quản lý của Hiệu trưởng trường phổ thông như phân công nhiệm
vụ của Hiệu trưởng và phó Hiệu trưởng. Riêng V.A.Xukhomlinxki đặc biệt coi
trọng sự trao đổi giữa Hiệu trưởng và phó Hiệu trưởng để tìm ra cách quản lý
hoạt động dạy học tốt nhất. Tác giả cho rằng những cuộc trao đổi này như đòn
bẩy, nảy sinh ra những dự định mà sau này trong công tác quản lý được phát
triển trong lao động sáng tạo của tập thể sư phạm.
Ở nước ta các nhà nghiên cứu về giáo dục, quản lý giáo dục, khoa học
quản lý giáo dục và quản lý nhà trường như Trần Kiểm, Thái Duy Tuyên,
Trần Văn Kim, Vũ Như Thành, Lê Minh Đức, Bùi Minh Hiền, Vũ Ngọc Hải,
Đặng Quốc Bảo…đã làm sáng tỏ khái niệm về quản lý, quản lý giáo dục,
quản lý nhà trường và các hoạt động có liên quan.
Tác giả Đặng Bá Lãm (chủ biên) cuốn sách “Quản lý nhà nước về
giáo dục - lý luận và thực tiễn” [40], tác giả đã đi sâu phân tích làm rõ khái
niệm và phạm vi quản lý nhà nước về giáo dục, các mô hình quản lý giáo
dục, đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục ở nước ta; các tác giả Đặng Quốc
Bảo, Vũ Quốc Chung trong cuốn sách “Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về
lãnh đạo và quản lí giáo dục trong thời kí đổi mới” [4], đề cập đến những
vấn đề về năng lực và phát triển năng lực đối với cán bộ quản lý giáo dục;
giám sát trong cơ quan quản lí giáo dục nhà trường; quản lý sự thay đổi
trong giáo dục ở bối cảnh mới; quản lý chất lượng giáo dục, quản lí thông tin
trong nhà trường.

5


Tập trung nghiên cứu về công tác quản lý hoạt động dạy học ở các nhà
trường có các công trình khoa học như: Viên Thị Dung (2002), với luận văn
thạc sỹ chuyên ngành quản lý giáo dục về "Biện pháp quản lý hoạt động dạy
học của Hiệu trưởng trường tiểu học tại thành phố Thanh Hoá"[18]; Nguyễn
Tuấn Huy (2005), với luận văn thạc sỹ chuyên ngành Quản lý giáo dục về

“Biện pháp quản lý hoạt động dạy học ở trường Tiểu học của Phòng Giáo
dục huyện Yên Lạc - tỉnh Vĩnh Phúc”[33]; Nguyễn Thanh Tịnh (2006), với
luận văn thạc sỹ chuyên ngành Quản lý giáo dục về “ Biện pháp quản lý hoạt
động dạy học đối với trường Tiểu học của Phòng Giáo dục quận 1- Thành
phố Hồ Chí Minh”[59].
Các đề tài luận văn đã đi sâu đánh giá thực trạng quản lý hoạt động dạy
học ở các trường tiểu học, nêu cách thức khắc phục hạn chế yếu kém trong
quản lý hoạt động dạy học, từ đó chỉ ra biện pháp thực hiện nhằm nâng cao
chất lượng quản lý hoạt động dạy học ở các trường tiểu học cho phù hợp với
tình hình thực tiễn đặt ra.
Bên cạnh các đề tài luận văn còn có các bài viết của các nhà quản lý
giáo dục, các giáo viên tâm huyết với nghề trên báo giáo dục về vấn đề quản
lý hoạt động dạy học như: Thạc sĩ Hồ Đăng Quang(2015) “Biện pháp quản lý
hoạt động dạy học của giám đốc trung tâm ngoại ngữ trên địa bàn thành phố
Huế” [50]. Bài báo đã đi sâu đánh giá thực trạng quản lý hoạt động dạy học
và đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học của giám đốc các
trung tâm ngoại ngữ ở địa bàn thành phố Huế, trong đó tập trung vào ba nhóm
biện pháp cơ bản là quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên, đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ và quản lý quá trình học tập của học viên; Thạc sĩ Lê Ngộ,
trưởng phòng Giáo dục tiểu học Sở Giáo dục và Đào tạo Thừa Thiên Huế
(2012) “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà trường của hiệu
trưởng trường tiểu học”[48]. Bài báo giới thiệu một số biện pháp nâng cao
hiệu quả quản lý nhà trường của hiệu trưởng trường tiểu học như: chú trọng
6


công tác xây dựng kế hoạch; thực hiện nghiêm túc, đúng quy trình đánh giá
giáo viên tiểu học theo Chuẩn nghề nghiệp; tổ chức, quản lý hiệu quả việc tổ
chức dạy học 2 buổi/ngày; phân công giáo viên giảng dạy đi theo lớp trong
một số năm học; hình thành văn hóa dự giờ trong hội đồng nhà trường.

Bàn về quản lý hoạt động dạy học môn Tiếng Việt ở các trường tiểu
học, có các đề tài luận văn như: luận văn Thạc sĩ tiêu biểu như: Ngô Việt Hà
(2014), với luận văn thạc sĩ chuyên ngành khoa học giáo dục về “Quản lý
hoạt động dạy học môn Tiếng Việt ở các trường tiểu học thành phố Uông bí,
tỉnh Quảng Ninh” [26], tác giả đã nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về quản lý
hoạt động dạy học môn Tiếng Việt, đánh giá thực trạng và đề xuất các biện
pháp quản lý hoạt động dạy học môn Tiếng Việt ở các trường tiểu học thành
phố Uông bí, tỉnh Quảng Ninh; Phạm Thị Lan Thanh (2015), với luận văn
thạc sĩ chuyên ngành khoa học giáo dục về “Biện pháp quản lý hoạt động dạy
học Tiếng Việt 1 theo phương án Công nghệ giáo dục ở các trường tiểu học
huyện Lâm Thao, Phú Thọ” [57], đề tài đã nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về
quản lý hoạt động dạy học Tiếng Việt 1 theo phương án công nghệ giáo dục,
đánh giá thực trạng và đề xuất biện pháp quản lý hoạt động dạy học Tiếng
Việt 1 theo phương án công nghệ giáo dục ở các trường tiểu hoc huyện Lâm
Thao, tỉnh Phú Thọ.
Nhìn chung, các đề tài luận văn đã tập trung nghiên cứu làm rõ những
vấn đề lý luận về quản lý hoạt động dạy học, quản lý hoạt động dạy học môn
Tiếng Việt, đi sâu đánh giá thực trạng quản lý hoạt động dạy học ở các trường
tiểu học, nêu cách thức khắc phục hạn chế yếu kém trong quản lý hoạt động
dạy học môn Tiếng Việt, từ đó chỉ ra biện pháp thực hiện nhằm nâng cao chất
lượng quản lý hoạt động dạy học ở các trường tiểu học cho phù hợp với tình
hình thực tiễn đặt ra. Song việc áp dụng kết quả nghiên cứu trên để nâng cao
hiệu quả quản lý hoạt động dạy học môn Tiếng Việt ở các trường tiểu học
huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương không thật sự phù hợp. Hiện nay, chưa có
7


công trình nào nghiên cứu vấn đề quản lý hoạt động dạy học môn Tiếng Việt
ở các trường tiểu học huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương, trong khi yêu cầu
thực tiễn về giáo dục và đào tạo của huyện đang đặt ra những vấn đề mới phải

giải quyết. Vì vậy, tác giả chọn vấn đề “Quản lý hoạt động dạy học môn tiếng
Việt ở các trường tiểu học, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương” làm đề tài
luận văn là phù hợp và không trùng lặp với các công trình đã nghiên cứu
trước đó.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn, đề xuất biện pháp
quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Việt ở các trường tiểu học, huyện Kim
Thành, tỉnh Hải Dương, nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn
tiếng Việt nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung ở các trường tiểu học
huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận về quản lý hoạt động dạy học môn tiếng
Việt ở trường tiểu học.
Làm rõ thực trạng quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Việt ở các
trường tiểu học, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương.
Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Việt ở
các trường tiểu học, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quản lý hoạt động dạy học ở các trường tiểu học, huyện Kim Thành,
tỉnh Hải Dương.
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Việt ở các trường tiểu học, huyện
Kim Thành, tỉnh Hải Dương.
8


* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng và biện pháp quản lý hoạt động dạy

học môn tiếng Việt ở các trường tiểu học, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương.
Phạm vi điều tra khảo sát 24 trường tiểu học ở huyện Kim Thành, tỉnh
Hải Dương.
Các số liệu điều tra, nghiên cứu sử dụng trong đề tài giới hạn từ năm
2011 đến năm 2015.
5. Giả thuyết khoa học
Quản lý hoạt động dạy học nói chung và quản lý hoạt động dạy học môn
tiếng Việt ở các trường tiểu học huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương nói riêng
phụ thuộc vào các yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau. Nếu các chủ thể
quản lý thực hiện tốt các biện pháp như: Tổ chức giáo dục nâng cao nhận thức
cho các lực lượng trong và ngoài nhà trường về vai trò, tầm quan trọng của môn
tiếng Việt ở các trường tiểu học; tổ chức chặt chẽ hoạt động giảng dạy của giáo
viên; theo dõi, giám sát chặt chẽ và tổ chức tốt hoạt động học tập môn tiếng Việt
của học sinh; chỉ đạo đổi mới phương pháp và sử dụng thiết bị dạy học; tăng
cường kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn tiếng Việt; tổ chức tốt hoạt động
đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn của đội ngũ giáo viên dạy môn tiếng Việt ở các
trường tiểu học,... thì chất lượng dạy học môn tiếng Việt ở các trường tiểu học
huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương được nâng lên.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục,
đào tạo; nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của các cấp về giáo dục và đào tạo và
quản lý giáo dục, đào tạo. Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử
dụng các quan điểm tiếp cận hệ thống - cấu trúc; lịch sử - lôgíc và quan điểm
thực tiễn trong nghiên cứu khoa học.
9


* Phương pháp nghiên cứu

Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
Thực hiện việc thu thập, nghiên cứu tài liệu; phân tích, tổng hợp, hệ
thống hoá, khái quát hoá các tài liệu về giáo dục và đào tạo, đặc biệt là những
tài liệu có liên quan đến các văn bản, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà
nước về giáo dục và đào tạo, quản lý hoạt động dạy và học; nghiên cứu các
báo cáo tổng kết của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Kim Thành, Sở Giáo
dục và Đào tạo tỉnh Hải Dương về quản lý hoạt động dạy học nói chung và
dạy học môn tiếng Việt nói riêng.
Phương pháp nghiên cứu từ các sản phẩm, công cụ quản lý như nội
dung chương trình, sách giáo khoa, kế hoạch dạy học, đề kiểm tra, kết quả
khảo sát.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
Phương pháp quan sát: quan sát hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý
của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục trong công tác quản lý hoạt động dạy học
môn Tiếng Việt ở các trường tiểu học; hoạt động giảng dạy của giáo viên và
học tập của học sinh để rút ra những kết luận về nội dung nghiên cứu.
Phương pháp điều tra: điều tra xã hội học bằng phiếu hỏi đối với 60
người (cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh); 15 chuyên viên ở phòng Giáo
dục và Đào tạo huyện Kim Thành, 36 giáo viên ở các trường tiểu học trong
huyện Kim Thành.
Phương pháp toạ đàm, trao đổi: tọa đàm, trao đổi với một số cán bộ,
giáo viên ở các trường về thực trạng công tác quản lý hoạt động dạy học môn
tiếng Việt trong những năm qua và phương hướng quản lý hoạt động dạy học
môn tiếng Việt ở các trường tiểu học, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương
trong những năm tiếp theo.
Phương pháp tổng kết thực tiễn: nghiên cứu báo cáo tổng kết năm học,
đánh giá kết quả quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Việt ở các trường, báo
10



cáo của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Kim Thành,... nhằm tìm hiểu kinh
nghiệm về quản lý hoạt động dạy học nói chung và dạy học môn tiếng Việt
nói riêng.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm: tài liệu giảng dạy, chuyên môn của
giáo viên và các sản phẩm học tập môn tiếng Việt của học sinh.
Phương pháp chuyên gia: xin ý kiến của các nhà khoa học giáo dục về
một số vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan tới việc nghiên cứu của đề tài.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp thống kê toán học để phân
tích, xử lý các kết quả nghiên cứu.
7. Ý nghĩa của đề tài
Hệ thống hóa và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về quản lý hoạt
động dạy học môn tiếng Việt ở các trường tiểu học. Luận văn góp phần làm
rõ được thực trạng và đề xuất được một số biện pháp quản lý hoạt động dạy
học môn tiếng Việt ở các trường tiểu học, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương.
Kết quả nghiên cứu luận văn là tài liệu tham khảo cho đội ngũ cán
bộ quản lý và cho giáo viên các trường tiểu học quan tâm, nghiên cứu vấn
đề này.
8. Kết cấu của đề tài
Đề tài được cấu trúc gồm phần mở đầu, 3 chương, kết luận và kiến
nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

11


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
MÔN TIẾNG VIỆT Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC

1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Hoạt động dạy học môn tiếng Việt ở trường tiểu học

Theo tác giả Nguyễn Văn Hộ thì “dạy học là con đường tối ưu nhất
giúp cho người học tiếp cận; nắm vững kinh nghiệm xã hội được phản ánh
trong các khái niệm khoa học do loài người tích luỹ với sự tham gia điều
chỉnh hợp lý về mặt tổ chức trong những khoản thời gian xác định họ đạt với
mục đích do nhu cầu xã hội đặt ra với từng trình độ nhận thức tương ứng”.
Hoặc “Dạy học là phương tiện đem lại hiệu quả lớn lao trong việc phát triển
hệ thống năng lực hoạt động trí tuệ của người học”.
Như vây, dạy học là hoạt động nhận thức của học sinh dưới sự tổ
chức, điều khiển của giáo viên nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Trong lịch sử phát triển của giáo dục và nhà trường, dạy học tồn tại như
một hoạt động xã hội, nó gắn liền với hoạt động của con người. Để thực hiện
các nhiệm vụ giáo dục: giáo dục trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thể chất,
giáo dục thẩm mỹ và giáo dục lao động, nhà trường phải dựa vào nhiều con
đường có mối quan hệ biện chứng với nhau là dạy học, lao động sản xuất,
trong đó dạy học là phương tiện quan trọng nhất. Như vậy, dạy học là con
đường cơ bản nhằm phát triển trí tuệ nói riêng và hình thành phát triển nhân
cách cho thế hệ trẻ nói chung. Dạy học là hoạt động được tiến hành một cách
có tổ chức, có kế hoạch có nội dung và phương pháp sư phạm của người giáo
viên phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý và đặc điểm nhận thức của người học.
Hoạt động dạy học là một hệ toàn vẹn gồm hoạt động dạy và hoạt động
học luôn tương tác với nhau, thâm nhập vào nhau, sinh thành ra nhau. Sự
tương tác giữa dạy và học mang tính chất cộng tác, trong đó giảng dạy giữ vai
trò chủ động, định hướng, hướng dẫn người học thực hiện tốt việc lĩnh hội
kiến thức, rèn luyện kỹ xảo, kỹ năng nghề nghiệp.
12


Dạy học là hoạt động kép bao gồm dạy (do thầy đảm nhận) và học (do
trò đảm nhận). Dạy và học có liên hệ tác động lẫn nhau không thể thiếu nhau,
thầy giữ vai trò lãnh đạo, tổ chức điều khiển hoạt động của học sinh. Học sinh

giữ vai trò tự giác, tích cực, chủ động, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động học
của bản thân.
Hoạt động dạy và học đều có những nét chung mang thuộc tính bản
chất và đều có các yếu tố cấu trúc của mọi hoạt động. Tuy nhiên, hai hoạt
động đó lại có những điểm khác biệt về chủ thể, đối tượng, mục đích, phương
tiện và kết quả hoạt động như:
Chủ thể của hoạt động dạy là thầy và tập thể sư phạm; chủ thể của hoạt
động học là trò, là tập thể những người được giáo dục.
Đối tượng của hoạt động dạy là hoạt động của học sinh, là các quan hệ
giao lưu giữa chúng; đối tượng của hoạt động học là hoạt động của loài người
trong việc nhận thức và cải tạo hiện thực khách quan, trong các quan hệ xã
hội đa dạng.
Mục đích của hoạt động dạy là cải biến và hoàn thiện hoạt động nhận
thức, kỹ năng thực hành của học sinh, là hình thành và phát triển nhân cách
của người học phù hợp với nhu cầu đòi hỏi của xã hội; mục đích của hoạt
động học là nhằm chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội giá trị văn hóa của loài
người để lại, trên cơ sở đó mà hình thành năng lực sáng tạo trong việc cải
tạo tự nhiên và xã hội, biết chung sống với những gì quy định sự tồn tại của
học sinh.
Phương tiện của hoạt động dạy bao gồm những công cụ vật chất,
phương pháp, hình thức tổ chức tác động sư phạm, tổ chức quản lý, trong đó
phải kể tới cả những phẩm chất nhân cách và năng lực sư phạm của giáo viên;
phương tiện của hoạt động học bao gồm những công cụ vật chất, những
phương pháp và hình thức tổ chức các loại hoạt động nhận thức, khoa học

13


định hướng giá trị, hoạt động sản xuất, chính trị xã hội, văn hóa - thẩm mỹ,
thể dục thể thao mà học sinh được tổ chức tham gia.

Kết quả hoạt động của dạy là chất lượng và trình độ mới của hoạt động
và giao lưu của học sinh đã được hình thành, kể cả chất lượng và trình độ mới
về sự phát triển nhân cách của học sinh. Kết quả của hoạt động dạy còn thể
hiện ở sự hoàn thiện trình độ tri thức và kỹ năng giáo dục, sự thỏa mãn những
nhu cầu chính trị, đạo đức, nghiệp vụ của giáo viên; Kết quả của hoạt động
học là những khả năng mới của học sinh trong việc nhận thức, cải biến hiện
thực, là sự phát triển những thuộc tính của nhân cách học sinh phù hợp với
nhu cầu xã hội. Hai hoạt động dạy và học tồn tại, thống nhất với nhau trong
sự khác biệt về chức năng hoạt động, vì thế nó là một hoạt động đặc biệt,
song sự tích hợp những kết quả của mỗi hoạt động do các chủ thể mang lại
sẽ tạo nên kết quả của sự phát triển nhân cách của học sinh.
Từ phân tích ở trên, có thể khái quát: Dạy học là hoạt động dưới sự tổ
chức, điều khiển, lãnh đạo của người giáo viên làm cho học sinh tự giác, tích
cực, chủ động tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức học tập của mình
nhằm thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ dạy học.
Hoạt động dạy học là hoạt động trung tâm chi phối tất cả các hoạt động
khác trong nhà trường. Hoạt động dạy học thực hiện các nhiệm vụ: làm cho
học sinh nắm vững tri thức khoa học một cách có hệ thống cơ bản, có những
kỹ năng, kỹ xảo cần thiết trong học tập, lao động và đời sống. Hoạt động này
làm phát triển tư duy độc lập sáng tạo, hình thành những năng lực cơ bản về
nhận thức và hành động của học sinh, hình thành ở học sinh thế giới quan
khoa học, lòng yêu tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, đó chính là động cơ học tập
trong nhà trường và định hướng hoạt động của học sinh.
Hoạt động dạy học môn tiếng Việt ở các trường tiểu học là những tác
động của giáo viên và học sinh trong việc truyền thụ và lĩnh hội những kiến
thức của môn tiếng Việt, trên cơ sở đó củng cố nhận thức, góp phần hoàn
14


thiện nhân cách cho học sinh. Nói cách khác, đây là hoạt động nhận thức của

học sinh dưới sự tổ chức, điều khiển của giáo viên dạy môn toán nhằm đạt
được mục tiêu đề ra.
Tiếng Việt là một môn học có đặc thù riêng, là bộ môn quan trọng
trong nhà trường phổ thông nói chung, bậc tiểu học nói riêng. Nó là sự kết
hợp hài hòa giữa tính khoa học và nghệ thuật. Bằng những hình tượng và
ngôn từ phong phú sinh động của mình, môn học cung cấp cho người học
những kiến thức về cuộc sống cũng như những điều bí ẩn trong tâm hồn con
người, trong mỗi sự vật, hiện tượng. Từ đó, nó tác động tới tâm tư, tình cảm
và góp phần quan trọng để hình thành và phát triển nhân cách, tâm hồn cho
thế hệ trẻ. Hơn nữa, tuổi trẻ là lứa tuổi giàu cảm xúc, dễ rung động trước cái
đẹp, môn tiếng Việt sẽ góp phần hướng tư duy học sinh đến Chân - Thiện Mỹ, hình thành phẩm chất trong sáng của mỗi học sinh.
Văn học nói chung, tiếng Việt nói riêng là một hình thái ý thức xã hội
đặc thù, là cội nguồn đời sống và sự phản ánh chân thực chính nghệ thuật
đời sống ấy, đồng thời là một hình thái quan niệm nhân sinh về xã hội. Tính
đặc thù của văn học chính là ở chỗ nó là một hình thái phản ánh thẩm mỹ và
bao giờ cũng cần tưởng tượng. Tính chất tưởng tượng hư cấu đem lại cho
văn học những khả năng to lớn.
Văn học, tiếng Việt được coi là “trò diễn bằng ngôn từ” bởi nó mang
tính hình tượng, tính biểu cảm sinh động, tính hàm súc đa nghĩa, tính cá thể
hóa cao trong giảng dạy và tiếp nhận mà không một môn học nào có được.
Tác phẩm văn học trở thành tín hiệu thẩm mỹ không chỉ mang đến thông
tin mà còn bao hàm trong nó nhiều tầng nghĩa: tầng nghĩa trực tiếp, tầng
nghĩa do hình dung tưởng tượng và tầng ý được tạo ra từ hai tầng nghĩa
trên kết hợp với vốn sống riêng của mỗi cá nhân. Do đó, người học được
coi là người đồng sáng tạo lên tác phẩm, thiếu người đọc thì hoạt động văn
học chẳng khác gì một tiếng kêu vô vọng vang lên giữa cánh đồng hoang
15


và mọc đầy cỏ dại. Mối quan hệ nhà văn - tác phẩm - thầy trò trong dạy học

văn là mối quan hệ biện chứng. Người thầy văn học, tiếng Việt không chỉ
được nói đến bên cạnh góc độ nghề nghiệp như các môn học khác, mà còn là
một nhà phê bình văn học, mà cái khó ở đây là người thầy phải tìm được ý
tưởng sâu xa, trừu tượng, tiềm ẩn mà tác giả gửi gắm để truyền cảm trong văn
học nghệ thuật, kích thích tính sáng tạo trong tư duy, tâm hồn học sinh ở mỗi
thời đại, theo xu hướng, mục đích giáo dục.
Hoạt động dạy học môn Tiếng Việt ở trường tiểu học bao gồm hoạt
động dạy môn tiếng Việt của giáo viên và hoạt động học môn tiếng Việt của
học sinh.
Hoạt động dạy môn tiếng Việt của giáo viên: đó là việc chuẩn bị lên kế
hoạch giảng dạy môn tiếng Việt của giáo viên. Giáo viên cần lên kế hoạch
giảng dạy cho cả năm học, theo học kỳ và linh hoạt theo từng tuần. Giáo viên
cần căn cứ yêu cầu cần đạt về chuẩn kiến thức kĩ năng của môn Tiếng Việt ở
từng tiết dạy, tiến hành tổ chức các hoạt động kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài
mới, hình thành kiến thức, luyện tập thực hành, củng cố. Để đạt được mục
tiêu đề ra, giáo viên cần phối hợp các phương pháp, sử dụng phương tiện và
quỹ thời gian một cách có hiệu quả.
Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn tiếng Việt của học sinh. Hiện
nay, có các cách đánh giá như sau: đánh giá thường xuyên bằng nhận xét; đánh
giá thông qua kiểm tra định kỳ cuối học kỳ và cuối năm học bằng các hình thức
tự luận, trắc nghiệm khách quan; kết hợp với đánh giá của người dạy, cha mẹ
học sinh với việc tự đánh giá của người học. Khi kiểm tra, đánh giá cần chú
trọng cả kiến thức lý thuyết và thực hành đặc biệt là vận dụng vào những tình
huống gắn với đời sống, phát triển bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết.
Hoạt động học tập môn tiếng Việt của học sinh: là để tìm hiểu kiến
thức hay luyện tập thực hành, học sinh có thể tham gia hoạt động nhóm, hoạt
động cá nhân theo sự dẫn dắt, định hướng của giáo viên và hoạt động tự học
16



môn tiếng Việt của học sinh thông qua xây dựng kế hoạch tự học, nội dung,
thời gian và nề nếp tự học; công tác tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập của
bản thân.
1.1.2. Quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Việt ở các trường tiểu học
Quản lý là một hiện tượng xã hội, có vai trò quan trọng trong sự ổn
định và phát triển của xã hội. Nhiều nhà nghiên cứu đã tìm hiểu khái niệm về
quản lý dưới góc độ khác nhau.
Quản lý là nhân tố không thể thiếu được trong đời sống và sự phát
triển của xã hội. Xã hội loài người đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển với
nhiều hình thái xã hội khác nhau và đồng thời cũng trải qua nhiều hình thức
quản lý khác nhau. Các triết gia, các nhà chính trị từ thời cổ đại đến nay
đều rất coi trọng vai trò của quản lý trong sự ổn định và phát triển của xã
hội. Nó là một phạm trù tồn tại khách quan và là một tất yếu lịch sử. Ở mỗi
góc độ tiếp cận và hoạt động, người ta có thể đưa ra một quan niệm về
quản lý khác nhau.
Theo C.Mác: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung
nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ
đạo... Một con người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, còn một dàn
nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng” [39, tr 480]
Theo Từ điển Tiếng Việt, quản lý mang ý nghĩa của động từ: Quản là
trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định. Lý là tổ chức và điều
khiển các hoạt động theo yêu cầu nhất định
Theo các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc, quản lý là:
“Tác động có định hướng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong
một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ
chức” [43].
Theo quan điểm kinh tế học, nhà kinh tế học người Mỹ - Frederic
Wiliam Taylor (1856-1915) cho rằng quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng,
17



chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất
và rẻ tiền nhất.
Với nhà lý luận quản lý kinh tế Pháp A. Fayon (1841-1925) thì quản lý
là đưa xí nghiệp tới đích, cố gắng sử dụng các nguồn lực (nhân, tài, vật, lực)
của nó.
Nhà toán học A.N. Kolmogorov cho rằng quản lý là quá trình gia công
thông tin thành tín hiệu điều chỉnh hoạt động của máy móc hay cơ thể sống.
Khi nói về vai trò của quản lý trong xã hội, hai tác giả Paul Hersey và
Ken Blanc Heard trong cuốn “Quản lý nguồn nhân lực” cho rằng: “Quản lý là
một quá trình cùng làm việc giữa nhà quản lý với người bị quản lý, nhằm
thông qua hoạt động của cá nhân, của nhóm, huy động các nguồn lực khác để
đạt mục tiêu của tổ chức”.
Theo tác giả Nguyễn Minh Đạo: “Quản lý là quá trình tác động liên tục
có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý (S - O)
về các mặt chính trị, xã hội, kinh tế, văn hoá bằng một hệ thống các nguyên
tắc pháp luật, chính sách, phương pháp và giải pháp quản lý tạo ra những điều
kiện cho sự phát triển của khách thể và tạo ra uy tín.
Còn tác giả Nguyễn Đức Trí cho rằng: Quản lý là một quá trình tác
động có định hướng (có chủ đích), có tổ chức, có lựa chọn trong số các
tác động có thể có, dựa trên các thông tin về tình trạng và môi trường,
nhằm giữ cho sự vận hành của đối tượng được ổn định và làm cho nó phát
triển tới mục tiêu đã định. Theo GS Hà Thế Ngữ và GS Đặng Vũ Hoạt thì:
"Quản lý là một quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý là
một hệ thống, là quá trình tác động đến hệ thống nhằm đạt được mục tiêu
nhất định".
Trong giáo dục học, Giáo sư Hà Thế Ngữ đã viết: “Thành công của cải
cách giáo dục ở nước ta sẽ tuỳ thuộc phần lớn vào những cố gắng củng cố tổ
chức và cải tiến quản lý trong hệ thống giáo dục quốc dân”. Để đơn giản hoá
18



người ta hiểu quản lý là cai trị một bộ máy bằng cách vạch ra mục tiêu cho bộ
máy và đồng thời tìm kiếm biện pháp tác động vào bộ máy để đạt tới mục
tiêu. Bản chất của quản lý là cai trị, bên cạnh thuyết phục là cưỡng chế.
Theo Đỗ Hoàng Toàn: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định
hướng của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả
nhất các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để đạt mục tiêu đề ra trong điều
kiện biến động của môi trường.
Theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin: “Quản lý xã hội một cách
khoa học là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đối với toàn bộ hay
những hệ thống khác nhau của hệ thống xã hội, trên cơ sở vận dụng đúng đắn
những quy luật và xu hướng khách quan vốn có của nó nhằm bảo đảm cho
hoạt động và phát triển tối ưu theo mục đích đặt ra.
Hoạt động quản lý bao giờ cũng gắn với hoạt động có ý thức của
con người và toàn xã hội dưới tác động của hoàn cảnh nhằm định hướng
sự vận động và phát triển của đối tượng cần quản lý theo một mục đích
nhất định. Khái niệm đó phải bao quát được tất cả mọi hoạt động của con
người. Đồng thời khái niệm “quản lý” cũng như bất kỳ một khái niệm nào
khác cũng phải xây dựng theo những quy tắc khái niệm. Trong các quan
điểm về quản lý đã nêu trên ta nhận thấy hầu như các quan điểm đó ch ưa
bao quát được mọi hoạt động của con người. Có định nghĩa chưa nêu
được khuynh hướng vận động của đối tượng quản lý theo mục đích hoạt
động của con người.
Các cách lý giải quan điểm về quản lý tuy có những khía cạnh khác
nhau, nhưng về bản chất và nội dung đều thống nhất: Quản lý là lao động điều
khiển lao động, về bản chất nó là quá trình điều chỉnh mọi quá trình xã hội về
tư tưởng văn hoá, kinh tế chính trị, giáo dục, pháp luật…, quản lý giữ vai trò
quan trọng trong sự tiến bộ xã hội. Chúng ta có thể hiểu khái niệm quản lý
theo nghĩa chung nhất: Quản lý là sự tác động có định hướng, có mục đích, có

19


kế hoạch của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý một cách hợp quy luật
nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong điều kiện biến động của môi trường.
Quá trình quản lý bao gồm các khâu: dự báo, lập kế hoạch, thực hiện, điều
phối, chỉ đạo điều hành và kiểm tra đánh giá. Trong quá trình quản lý thì chủ thể
quản lý là tác nhân tạo ra các tác động quản lý nhằm dẫn dắt đối tượng quản lý
đi đến mục tiêu. Chủ thể có thể là một người, một bộ máy quản lý gồm nhiều
người. Đối tượng quản lý tiếp nhận các tác động của chủ thể quản lý.
Chức năng quản lý là một dạng hoạt động quản lý đặc biệt thông qua
đó chủ thể quản lý tác động vào khách thể quản lý nhằm đạt được một mục
tiêu nhất định. Có bốn chức năng: Chức năng kế hoạch hoá: chức năng tổ
chức; chức năng chỉ đạo; chức năng kiểm tra.
Từ các quan niệm trên, ta thấy: quản lý là một quá trình tác động có ý
thức, có định hướng và có tổ chức của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý
nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra một cách hiệu quả nhất trong điều kiện biến
động của môi trường. Quá trình quản lý mang tính tổng hợp, không tuân theo
những quy định cứng nhắc mà phải mềm dẻo linh hoạt.
Hoạt động dạy học nói chung, hoạt động dạy học môn tiếng Việt nói
riêng là hoạt động mang tính đặc trưng của tất cả các loại hình nhà trường
bậc tiểu học. Theo đó, mọi hoạt động khác của trường tiểu học đều phải hỗ
trợ đắc lực cho hoạt động dạy học nói chung và hoạt động dạy học môn
tiếng Việt nói riêng. Quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Việt ở các
trường tiểu học là quản lý trực tiếp các hoạt động dạy học - giáo dục diễn
ra ở nhà trường nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục.
Hoạt động dạy học chiếm hầu hết thời gian trong các hoạt động giáo
dục, đồng thời chi phối các hoạt động khác trong nhà trường. Bởi thế, quản lý
hoạt động dạy học là sự tác động có quy luật của nhà quản lý đến giáo viên và
học sinh bằng các giải pháp quản lý nhằm đạt được mục đích dạy học - giáo

dục của nhà trường.
20


Quản lý hoạt động dạy học nói chung, hoạt động dạy học môn tiếng
Việt nói riêng là nội dung vô cùng quan trọng trong quản lý ở trường trung
học cơ sở hiện nay, vì giáo dục thực hiện cả chức năng giáo dục và chức năng
phát triển. Giáo viên môn tiếng Việt cùng với giáo viên các bộ môn khác
không chỉ là chủ thể của mọi hoạt động dạy học mà còn là người điều khiển
quá trình học tập của học sinh. Nhiệm vụ chính của giáo viên là hoạt động
giảng dạy, đó là việc truyền đạt kiến thức về ngôn ngữ, tiếng Việt và văn học
và những giá trị về tư tưởng, văn hoá, đạo đức, phẩm chất cần trang bị cho
học sinh. Đồng thời, giáo viên có nhiệm vụ phải thường xuyên học tập, rèn
luyện, bồi dưỡng, tu dưỡng để nâng cao trình độ về mọi mặt nhằm nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động giảng dạy của mình.
Quản lý hoạt động dạy học thực chất là những tác động của chủ thể
quản lý vào quá trình dạy học (được tiến hành bởi tập thể giáo viên và học
sinh, với sự hỗ trợ đắc lực của các lực lượng xã hội) nhằm góp phần hình
thành và phát triển toàn diện nhân cách học sinh theo mục tiêu đào tạo của
nhà trường. Quản lý hoạt động dạy học tập trung vào những nội dung sau:
Quản lý hoạt động dạy của giáo viên: giáo viên vừa là đối tượng quản
lý trong mối quan hệ các cấp quản lý bên trong nhà trường (Ban giám hiệu, tổ
trưởng chuyên môn ), vừa là chủ thể quản lý (trong mối quan hệ với học
sinh). Quản lý hoạt động dạy của giáo viên bao gồm các nội dung như: Quản
lý việc xây dựng, thực hiện kế hoạch và chương trình giảng dạy; quản lý việc
soạn bài và chuẩn bị bài trên lớp; quản lý việc cản tiến nội dung chương trình,
phương pháp, hình thức tổ chức dạy học; quản lý việc kiểm tra, đánh giá kết
quả học tập của học sinh; quản lý việc thực hiện hồ sơ chuyên môn; quản lý
việc khai thác sử dụng cơ sở vật chất và thiết bị dạy học.
Quản lý hoạt động học của học sinh: Học sinh vừa là đối tượng vừa là

chủ thể tự quản lý quá trình học tập của mình. Nội dung quản lý hoạt động
học của học sinh bao gồm: Giáo dục động cơ, ý thức, thái độ học tập của học
21


sinh; hướng dẫn phương pháp học tích cực cho học sinh; xây dựng những quy
định cụ thể về nề nếp học tập trên lớp, ở nhà; phối hợp giữa nhà trường và gia
đình trong giáo dục học sinh; khen thưởng và kỷ luật học sinh; tổ chức kiểm
tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Như vậy, quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Việt ở các trường tiểu
học là sự tác động có mục đích, có kế hoạch của các chủ thể quản lý đến quá
trình tổ chức thực hiện các hoạt động giảng dạy môn học của giáo viên và
học tập của học sinh, nhằm bảo đảm cho hoạt động dạy học môn học đạt
được mục đích đã xác định.
Quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Việt là một bộ phận hữu cơ trong
hệ thống quản lý giáo dục của các trường tiểu học, có sự tham gia của các
nhân tố:
Một là: chủ thể quản lý trực tiếp hoạt động dạy học môn tiếng Việt ở
các trường tiểu học là: hiệu trưởng, ban giám hiệu nhà trường, tổ tiếng
Việt,... và chính bản thân đội ngũ giáo viên. Trong các lực lượng quản lý
hoạt động dạy học môn tiếng Việt ở các trường tiểu học thì hiệu trưởng là
chủ thể quản lý chính. Hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm cao nhất
trước cấp ủy, ban giám hiệu, chính quyền địa phương, ngành giáo dục,
trước nhân dân,... về chất lượng giáo dục nói chung, chất lượng dạy và học
môn học này nói riêng.
Hai là, đối tượng quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Việt ở các
trường tiểu học là nội dung môn tiếng Việt được quy định trong chương trình
khung do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định; là đội ngũ giáo viên tiếng Việt, các
tổ chuyên môn và học sinh tiểu học theo học môn học này. Nội dung môn học và
các lực lượng trực tiếp dạy và học môn tiếng Việt ở các trường tiểu học chịu

sự tác động, điều khiển của chủ thể quản lý. Như vậy, giáo viên dạy môn tiếng
Việt vừa là chủ thể vừa là khách thể trong hệ thống quản lý.

22


Ba là, mục đích quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Việt ở các trường
tiểu học là nhằm bảo đảm cho hoạt động dạy và học môn học của giáo viên và
học sinh đạt kết quả ngày càng cao, góp phần thực hiện tốt mục tiêu quản lý
và nhiệm vụ giáo dục của nhà trường.
Bốn là, nội dung quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Việt ở các
trường tiểu học thực chất là quản lý việc thực hiện tốt các thành tố của quá
trình dạy học, các nhiệm vụ quyết định đến chất lượng dạy và học của giáo
viên và học sinh trong nhà trường; đó là việc cụ thể hoá mục tiêu giáo dục,
thông qua: quản lý thực hiện tốt chương trình, nội dung, kế hoạch giảng
dạy môn học của giáo viên; quản lý các hoạt động giảng dạy môn tiếng
Việt của giáo viên theo đúng quy chế, các quy định giáo dục của nhà
trường; công tác quản lý phát triển đội ngũ giáo viên; hoạt động học tập
của học sinh. Đồng thời quản lý tốt hoạt động kiểm tra, đánh kết quả hoạt
động giảng dạy môn tiếng Việt của giáo viên, hoạt động học tập của học
sinh. Quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt động dạy học... góp
phần nâng cao chất lượng dạy và học môn tiếng Việt, đạt được mục đích
quản lý của nhà trường.
Năm là, phương pháp quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Việt ở
các trường tiểu học rất phong phú, đa dạng, bao gồm toàn bộ những cách
thức, biện pháp tác động, điều khiển của chủ thể quản lý đến đối tượng
quản lý bằng hệ thống công cụ, phương tiện nhằm đạt được mục tiêu quản
lý đã xác định. Việc xác định phương pháp quản lý hoạt động dạy học môn
tiếng Việt ở các trường tiểu học phải bảo đảm tính khoa học, thống nhất,
khả thi, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của giáo viên, tăng cường hiệu

quả quản lý nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp, trong đó phương pháp quản lý
hành chính, phương pháp giáo dục - tâm lý, phương pháp kích thích là
những phương pháp chủ đạo, được sử dụng phổ biến. Hoạt động dạy học là
hoạt động trí tuệ, hết sức căng thẳng, do đó cần lựa chọn và sử dụng các
23


phương pháp quản lý phù hợp với đối tượng quản lý là con người mới mang
lại tác dụng, hiệu quả cao.
1.2. Nội dung quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Việt ở các
trường tiểu học
Quản lý hoạt động dạy học dạy học môn tiếng Việt ở các trường tiểu
học thực chất là quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ giảng dạy của giáo viên
và hoạt động học tập của học sinh. Trong quản lý hoạt động dạy học dạy học
môn tiếng Việt ở các trường tiểu học, các chủ thể quản lý cần thực hiện các
nội dung:
1.2.1. Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch dạy học dạy học môn
tiếng Việt ở các trường tiểu học
Kế hoạch là khâu đầu tiên của chu trình quản lý. Nội dung chủ yếu là:
Xác định và hình thành mục tiêu đối với hoạt động giảng dạy của giáo viên,
học tập của học sinh, lựa chọn các phương án, biện pháp tốt nhất phù hợp với
điều kiện thực tế để tiến hành hoạt động dạy học môn tiếng Việt ở các trường
tiểu học đạt kết quả tốt.
Kế hoạch dạy học là việc làm rất quan trọng của nhà quản lý giáo dục ở
các trường tiểu học nhằm đạt tới các mục tiêu của hoạt động quản lý giáo dục
nói chung và quản lý hoạt động dạy học môn học nói riêng. Đồng thời, còn là
cơ sở cho các cấp, tổ bộ môn kịp thời điều chỉnh thời lượng sau giảng dạy
môn học, bài giảng tiếng Việt cho học sinh, chống tình trạng quá tải, dồn ép
chương trình dẫn đến hiệu quả dạy học không cao.
Việc quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên dựa theo kế hoạch

giảng dạy và quản lý hoạt động học tập môn tiếng Việt của học sinh là thể
hiện sự đề cao, tôn trọng tính chủ động của giáo viên và học sinh, thể hiện sự
quản lý nghiêm túc của cán bộ quản lý. Tuy nhiên, trong bản kế hoạch cũng
cần có sự điều chỉnh linh hoạt khi hoàn cảnh thực tế thay đổi ảnh hưởng đến
việc hoàn thành kế hoạch.
24


Trên cơ sở yêu cầu chung công tác giáo dục và yêu cầu riêng của bộ
môn tiếng Việt, căn cứ vào hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học của các
cấp quản lý và tình hình cụ thể của nhà trường, của tổ tiếng Việt, của từng
cá nhân để đề ra kế hoạch phù hợp. Hiệu trưởng phải là người hướng dẫn
giáo viên quy trình xây dựng kế hoạch, giúp họ biết xác định mục tiêu đúng
đắn và biết tìm ra các biện pháp để thực hiện các mục tiêu đó.
Quản lý việc xây dựng kế hoạch của các bộ phận cũng như của mỗi
giáo viên trong trường là việc làm đòi hỏi sự sâu sát của người Hiệu trưởng.
Hiệu trưởng là người hướng dẫn giáo viên quy trình kế hoạch, giúp họ biết
xác định mục tiêu đúng đắn và biết tìm ra các biện pháp để thực hiện các
mục tiêu đó.
1.2.2. Quản lý nội dung, chương trình dạy học môn tiếng Việt ở các
trường tiểu học
Nội dung, chương trình dạy học là văn bản do Bộ Giáo dục và Đào
tạo ban hành, được triển khai thực hiện cụ thể đối với các nhà trường; đồng
thời quy định cụ thể cụ thể mục đích, mục tiêu của môn học, phạm vi và hệ
thống nội dung môn học, số tiết dành cho môn học nói chung và dành cho
từng phần, chương của môn học; là căn cứ để cấp trên chỉ đạo, thanh tra,
kiểm tra các hoạt động giảng dạy, nhà trường và mỗi giáo viên triển khai
hoạt động giảng dạy và học sinh học tập; chi phối trực tiếp, là khâu trọng
yếu quyết định chất lượng giảng dạy của giáo viên, chất lượng giáo về mặt
chuyên môn của nhà trường. Quản lý, thực hiện chương trình, nội dung

giảng dạy môn tiếng Việt ở các trường tiểu học là nhiệm vụ của tất cả các
cán bộ quản lý nhà trường, của giáo viên và học sinh.
1.2.3. Quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên và học tập môn tiếng
Việt của học sinh ở các trường tiểu học
Quản lý hoạt động giảng dạy giữ vai trò rất quan trọng trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục của giáo viên ở các trường tiểu học. Đội ngũ
25


cán bộ quản lý tham gia quản lý giáo viên với hoạt động giảng dạy môn tiếng Việt
ở các trường tiểu học bao gồm: hiệu trưởng, ban giám hiệu, tổ bộ môn và chính
bản thân giáo viên. Cùng với việc quản lý, bồi dưỡng phát triển tốt đội ngũ giáo
viên, quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên là điều kiện tiên quyết có ảnh
hưởng lớn đến chất lượng giảng dạy môn tiếng Việt ở các trường tiểu học. Nội
dung quản lý đội ngũ giáo viên với hoạt động giảng dạy môn tiếng Việt ở các
trường tiểu học được đề cập ở đây là quản lý về mặt chuyên môn, nghiệp vụ giảng
dạy, quản lý việc thực hiện chương trình, nội dung giảng dạy; quản lý các khâu,
các bước quá trình giảng dạy môn ngữ văn (quản lý công tác chuẩn bị giảng dạy;
quản lý phân công giảng dạy; quản lý việc thực hiện các hoạt động giảng dạy;
quản lý việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của giáo viên đối với học sinh...)
* Quản lý việc thực hiện chương trình nội dung dạy học của giáo viên
Thực hiện chương trình dạy học là thực hiện kế hoạch giáo dục theo
mục tiêu của nhà trường, nó là pháp lệnh của Nhà nước do Bộ giáo dục và
Đào tạo ban hành. Yêu cầu đối với giáo viên nói chung, giáo viên dạy môn
tiếng Việt ở các trường tiểu học nói riêng là phải nắm vững chương trình,
tổ chức thực hiện đúng chương trình dạy học quy định. Theo đó, từng giáo
viên môn tiếng Việt ở các trường tiểu học phải nắm chắc nội dung và phạm
vi kiến thức dạy học của môn học mà mình đảm nhiệm giảng dạy cho các
đối tượng (học sinh các lớp); sử dụng phương pháp dạy học hiệu quả.
Trong quá trình dạy học, giáo viên cần vận dụng các hình thức tổ chức dạy

học đa dạng, phong phú, kết hợp giữa các hình thức dạy học trên lớp, ngoài
lớp,... một cách khoa học, hợp lý; tránh việc cắt xén chương trình, dồn ép
bài học, thêm bớt tiết học. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần mở
rộng phạm vi kiến thức cập nhật, hiện đại nhằm trang bị cho người học
phông kiến thức rộng hơn, rõ hơn, sâu hơn, thuận lợi trong lĩnh hội và học
tập, nghiên cứu.

26


×