Tải bản đầy đủ (.doc) (139 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý HOẠT ĐỘNG dạy học ở các TRƯỜNG TIỂU học, THÀNH PHỐ hải DƯƠNG, TỈNH hải DƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (745.64 KB, 139 trang )

MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

3

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT
ĐỘNG DẠY HỌC Ở CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC

1.1.
1.2.
1.3.

Các khái niệm liên quan của luận văn
Nội dung quản lý hoạt động dạy học ở các trường
tiểu học
Những yếu tố tác động đến quản lý hoạt động dạy học ở
các trường tiểu học thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương

14
14
21
32

Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ HOẠT
ĐỘNG DẠY HỌC Ở CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC
THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

2.1.
2.2.


2.3.

Khái quát về giáo dục tiểu học ở thành phổ Hải Dương,
tỉnh Hải Dương và tổ chức nghiên cứu thực trạng
Thực trạng hoạt động dạy học ở các trường tiểu học
thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương
Thực trạng quản lý hoạt động dạy học ở các trường tiểu
học thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương

40
40
44
50

Chương 3: YÊU CẦU VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
DẠY HỌC Ở CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC THÀNH
PHỐ HẢI DƯƠNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

3.1.
3.2.
3.3

Yêu cầu quản lý hoạt động dạy học ở các trường tiểu
học thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương
Biện pháp quản lý hoạt động dạy học ở các trường tiểu
học thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương
Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các
biện pháp

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

68
68
72
93
101
104
108


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục tiểu học (Primary education, elementary education) là giai
đoạn thứ nhất của giáo dục bắt buộc, là cấp học nền tảng của giáo dục phổ
thông. Đây là bậc giáo dục cho trẻ em từ lớp một (5 hoặc 6 tuổi) tới hết lớp
năm. Giáo dục tiểu học có vai trò quan trọng đối với sự hình thành, phát triển
nhân cách và năng lực (trí tuệ và thể chất) của trẻ em. Giáo dục tiểu học ổn
định và đảm bảo chất lượng sẽ tạo điều kiện cho các bậc giáo dục tiếp ổn định,
tạo cơ sở cho xã hội phát triển bền vững, ổn định. Chất lượng của giáo dục tiểu
học chịu tác động cơ bản, toàn diện từ HĐDH của giáo viên. Do đó, nâng cao
chất lượng, hiệu quả HĐDH ở các trường tiểu học là đòi hỏi khách quan trong
đổi mới “căn bản, toàn diện” giáo dục ở nước ta hiện nay. Nâng cao chất
lượng, hiệu quả HĐDH trong các trường tiểu học liên quan đến nhiều vấn đề,
trong đó quản lý HĐDH giữ vị trí hết sức quan trọng, mang tính then chốt và
cần thiết để định hướng, chỉ đạo, điều hành, kiểm tra mọi hoạt động giáo dục
bậc tiểu học. Về vấn đề này, Nghị quyết số 29-NQ/TW Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương 8 khóa XI chỉ rõ, đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục,

đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã
hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng là khâu đột
phá để nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng chỉ ra
định hướng: “Đổi mới chương trình, nội dung giáo dục theo hướng tinh giản,
hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề. Đa dạng hóa
nội dung, tài liệu học tập, đáp ứng yêu cầu của các bậc học, các chương trình
giáo dục, đào tạo và nhu cầu học tập suốt đời của mọi người”[20, tr.115].
Thời gian qua, cùng với cả nước, thành phố Hải Dương đã thường
xuyên quan tâm nâng cao chất lượng giáo dục ở các bậc học, trong đó có giáo
3


dục tiểu học. Các trường tiểu học trên địa bàn Thành phố đã có nhiều cố gắng
trong chỉ đạo giảng dạy, học tập; giành được những thành quả đáng khích lệ;
nhiều học sinh có thành tích học tập xuất sắc; đội ngũ giáo viên được bảo đảm
đầy đủ về số lượng, chất lượng từng bước được chuẩn hóa... Đặc biệt, quản lý
HĐDH ở các trường tiểu học của thành phố có sự chuyển biến rõ nét, đi vào
nền nếp, hiệu quả, vững chắc. Tuy nhiên, trong xu thế đổi mới toàn diện giáo
dục hiện nay ở nước ta, quản lý HĐDH ở các trường tiểu học của thành phố
Hải Dương còn bộc lộ những hạn chế và bất cập như: quản lý chưa thực sự
khoa học, thiếu đồng bộ; chất lượng CBQL ở một số trường còn hạn chế;
trang thiết bị phục vụ quản lý còn thiếu; công tác quản lý HĐDH của một số
trường thiếu chiều sâu, mới chỉ dừng lại ở việc “giải quyết tình thế”...
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa, hội
nhập, nhất quán quan điểm “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo
dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”
[20, tr.114]; Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định, phải:
“Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống

nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo;
coi trọng quản lý chất lượng. Giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các
cơ sở giáo dục, đào tạo; thực hiện giám sát của các chủ thể trong nhà trường
và xã hội, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản lý các
cấp, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch” [20, tr.116].
Thực trạng và yêu cầu trên đòi hỏi, phải có những nghiên cứu hệ thống,
toàn diện, đưa ra những luận giải khoa học, đề xuất những giải pháp phù hợp,
nâng cao chất lượng công tác quản lý HĐDH ở các trường tiểu học thành phố
Hải Dương, nhằm đáp ứng tốt yêu cầu đổi mới GD&ĐT hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Quản lý hoạt
động dạy học ở các trường tiểu học, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương”
làm luận văn tốt nghiệp cao học, chuyên ngành quản lý giáo dục.

4


2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề quản lý HĐDH trong các nhà trường là tiền đề nâng cao chất
lượng dạy học, hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo của
mỗi quốc gia. Vì vậy, đây là vấn đề được các nhà khoa học, nhà quản lý trong
và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều công trình nghiên cứu được
công bố, tiếp cận quản lý HĐDH dưới nhiều góc độ khác nhau. Liên quan
trực tiếp đến đề tài, có thể kể đến các công trình sau:
* Những nghiên cứu về hoạt động dạy học
Từ xa xưa vấn đề dạy học đã được nhiều nhà triết học đồng thời là nhà
giáo dục ở cả phương Đông và phương Tây đề cập đến. Có thể kể đến các tư
tưởng và công trình chủ yếu dưới đây:
Ở phương Đông, Khổng Tử (551 - 479 trước CN) - một triết gia, nhà giáo
dục lừng danh của Trung Quốc từng cho rằng: “Đất nước phồn vinh, yên bình
thì người lãnh đạo đất nước cần chú trọng tới 3 yếu tố: Thứ (làm cho dân đông

lên), Phú (làm cho dân giàu), Giáo (dân được giáo dục). Ông đã từng nói rằng
giáo dục là cần thiết cho mọi người “hữu giáo vô loại” (việc giáo dục không
phân biệt đẳng cấp). Quan niệm về PPDH của ông là dùng cách gợi mở, đi từ
gần đến xa, từ đơn giản đến phức tạp, nhưng vẫn đòi hỏi người học phải tích cực
suy nghĩ, phải hình thành nề nếp, thói quen trong học tập. Triết gia này rất coi
trọng việc tự học, tự rèn, tu thân phát huy mặt tích cực, học kết hợp với hành,
trong dạy thì phải sát đối tượng, phát triển ý chí của người học. Những phương
pháp giáo dục nói trên cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị và là bài học lớn trong
quản lý nhà trường nói chung và quản lý dạy học nói riêng [45].
Ở phương Tây, Xôcrat (469 - 339 trước CN). Ông cho rằng để nâng cao
hiệu quả dạy học cần có phương pháp giúp thế hệ trẻ từng bước tự khẳng
định, tự phát hiện tri thức mới mẻ, phù hợp với chân lý [45].
J.A. Cômenxki(1592 - 1670) - nhà giáo dục vĩ đại của dân tộc Séc và
của thế giới đã đưa ra các nguyên tắc dạy học như: nguyên tắc trực quan,
5


nguyên tắc nhất quán, nguyên tắc đảm bảo tính khoa học và tính hệ thống;
đồng thời đã khẳng định hiệu quả dạy học có liên quan đến chất lượng người
dạy, thông qua việc vận dụng có hiệu quả các nguyên tắc dạy học [45].
Các nhà nghiên cứu giáo dục Xô Viết khẳng định: Kết quả toàn bộ hoạt
động quản lý của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức đúng đắn
và hợp lý hoạt động giảng dạy của đội ngũ giáo viên.
Đối với giáo dục ở Việt Nam, những năm gần đây, để đáp ứng yêu cầu
đổi mới nền giáo dục nước nhà, thời gian qua, đã có nhiều nhà sư phạm, nhà
khoa học đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện nhằm tìm ra các biện pháp
nâng cao chất lượng dạy học, tiêu biểu là các tác giả: Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ
Hoạt, Đặng Quốc Bảo, Trần Kiểm, Hồ Ngọc Đại, Nguyễn Cảnh Toàn,...
Trong sách “Lý luận dạy học đại học” của tác giả Lưu Xuân Mới
(2014), đã đưa ra quan điểm về xu hướng tích cực hoá nhận thức của người

học, xây dựng con người phát triển toàn diện. Tác giả cho rằng dạy học lấy
người học làm trung tâm là một xu hướng tiến bộ song do sự chi phối của ý
thức hệ tư sản, sức mạnh của chủ nghĩa cá nhân, do vậy khi đi sâu nghiên cứu
hứng thú, nhu cầu, hành vi biệt lập của cá nhân, làm cho lý thuyết này trở nên
cực đoan, máy móc và biệt lập; đây là vấn đề trong sự phát triển của lý luận
dạy học hiện đại cần nghiên cứu đầy đủ, có hệ thống hơn.
Trong cuốn tài liệu “Lý luận dạy học hiện đại”, tác giả Nguyễn Văn
Cường, đã đưa ra cơ sở lý luận và thực tiễn về đổi mới mục tiêu, nội dung và
PPDH. Tác giả khẳng định lý luận dạy học với tư cách một bộ phận của khoa
học giáo dục và đưa ra các lý thuyết học tập, chiến lược học tập, các mô hình
dạy học. Đồng thời, tác giả cũng khẳng định phát triển năng lực và mục tiêu
dạy học, nội dung dạy học, PPDH, bài tập định hướng năng lực, phương tiện
dạy học, kiểm tra và đánh giá là cách tiếp cận mới của dạy học hiện đại.
Có những nghiên cứu tập trung vào đối tượng cụ thể như, tác giả
Nguyễn Ngọc Bảo - Hà Thị Đức “Nghiên cứu về hoạt động dạy và học ở
6


trường trung học cơ sở”; tác giả Nguyễn Văn Đản có đề cập tới “Mối quan hệ
giữa hoạt động dạy với hoạt động học trong quá trình dạy học”. Trong cuốn
tài liệu “Tổ chức hoạt động dạy học ở trường trung học”, (2002) của tác giả
Hoàng Thị Sâm đã làm rõ những vấn đề về tổ chức HĐDH ở các trường trung
học. Tác giả đã đề cập đến các vấn đề như: quá trình dạy học ở trường trung
học; nội dung và chương trình dạy học; PPDH; hình thức tổ chức dạy học.
* Những nghiên cứu về quản lý hoạt động dạy học
Nhóm các nhà khoa học V.A.Xukhomlinxki, V.P.Xtrezicondin,
Jaxapob đã nghiên cứu và đề ra một số vấn đề quản lý của Hiệu trưởng trường
phổ thông như: phân công nhiệm vụ của Hiệu trưởng và Phó hiệu trưởng, còn
V.A.Xukhomlinxki đặc biệt coi trọng sự trao đổi giữa Hiệu trưởng và phó
hiệu trưởng để tìm ra cách quản lý tốt nhất. Các tác giả cho rằng: “Trong

những cuộc trao đổi này như đòn bẩy, đã nảy sinh ra những dự định mà sau
này trong công tác quản lý được phát triển trong lao động sáng tạo của tập thể
sư phạm”. Tác giả V.A.Xukhomlinxki còn chỉ rõ tầm quan trọng của việc tổ
chức dự giờ và phân tích sư phạm bài dạy. Ông đã chỉ ra thực trạng yếu kém
của việc phân tích sư phạm bài dạy cho dù hoạt động dự giờ và góp ý với giáo
viên sau giờ dự của nhà quản lý diễn ra thường xuyên. Từ đó ông đã đưa ra
nhiều cách phân tích sư phạm bài dạy cho giáo viên [52].
Vào nửa đầu thế kỷ XX, tác giả T.Makiguchi (Nhật Bản) đã nêu lên
quá trình phát triển của giáo dục tương ứng với nó là sự thay đổi vai trò của
người thầy trong quá trình giáo dục, dạy học. Dạy học phải hướng vào người
học, dạy học tích cực, biến quá trình dạy học thành quá trình tự học. Xu thế
dạy học hiện nay hoàn toàn phù hợp với tư tưởng này.
Ủy ban quốc tế về giáo dục thế kỷ XXI của UNESCO (1996) đã khẳng
định: “Thầy giáo là yếu tố quyết định hàng đầu đối với chất lượng giáo dục.
Do đó, muốn phát triển giáo dục thì trước hết và trên hết phải phát triển đội
ngũ giáo viên về cả số lượng và chất lượng” [24].
7


Ở Việt Nam, bước vào thời kỳ đổi mới đất nước, trước yêu cầu, nhiệm
vụ đổi mới giáo dục - đào tạo nói chung và đổi mới nội dung, PPDH nói
riêng, nhiều nhà giáo dục học, tâm lý học, nhà quản lý đã đi sâu nghiên cứu
về nâng cao chất lượng quản lý HĐDH trong các nhà trường.
Một số giáo trình, tài liệu của các tác giả như: Trần Kiểm - Khoa học
quản lý giáo dục, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội 2004; Phạm Minh Hạc Một số vấn đề về Quản lý giáo dục và Khoa học giáo dục, Nhà xuất bản Giáo
dục, Hà Nội, 1986; M.I. Kônđakôp - Cơ sở lý luận của Khoa học quản lý giáo
dục, Trường Cán bộ quản lý và Viện Khoa học giáo dục, Hà Nội, 1984;
Nguyễn Ngọc Quang - Những khái niệm cơ bản về lý luận quản lý giáo dục,
Trường Cán bộ quản lý Trung ương I, Hà Nội, 1989; Trần Kiểm, Bùi Minh
Hiền - Quản lý và Lãnh đạo nhà trường, Trường Đại học sư phạm, Hà Nội,

2006; Bùi Minh Hiền, Đặng Quốc Bảo, Vũ Ngọc Hải - Quản lý giáo dục, Nhà
xuất bản Đại học sư phạm, Hà Nội, 2006... đã được ứng dụng rộng rãi và
mang lại một số hiệu quả nhất định trong quản lý nói chung, quản lý giáo dục,
quản lý trường học nói riêng.
Trong cuốn sách Quản lý giáo dục và trường học, tác giả Trần Kiểm đã
xác định: Quản lý HĐDH là quản lý quá trình dạy học của giáo viên và quá
trình học của học sinh; đây là hai quá trình thống nhất hữu cơ [29, tr.16].
Tác giả Nguyễn Phúc Châu, trong cuốn sách Quản lý nhà trường, đã
dành một chương viết về quản lý HĐDH. Tác giả đã làm rõ những kiến thức
chung về HĐDH và những vấn đề về quản lý HĐDH. Khi đề cập về quản lý
HĐDH tác giả đã làm rõ khái niệm quản lý HĐDH; bản chất của việc triển
khai quản lý HĐDH; những nội dung cơ bản của quản lý HĐDH; mối quan hệ
giữa dạy học và quản lý HĐDH. Đây là một công trình nghiên cứu đề cập đến
những vấn đề cơ bản trong quản lý HĐDH ở các nhà trường [16].
Các nhà khoa học: Nguyễn Cảnh Toàn, Trần Kiểm, Hồ Ngọc Đại, Hà
Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt, Đặng Quốc Bảo, Bùi Minh Hiền, Nguyễn Ngọc
8


Bảo, Phạm Viết Vượng, Đặng Thành Hưng... trong các nghiên cứu của mình,
đã ít nhiều đề cập đến HĐDH và quản lý HĐDH.
Cùng với những nghiên cứu cơ bản trên, quản lý HĐDH trong các nhà
trường đã trở thành đề tài nghiên cứu của các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ;
có thể kể đến các công trình như:
Các tác giả Nguyễn Ngọc Hợi, Phạm Minh Hùng, Thái Văn Thành khi
nghiên cứu về “Một số biện pháp quản lý hoạt động chuyên môn nghiệp vụ
của giáo viên”, đã khẳng định: “Tùy theo các bậc học, trong từng nội dung
hoạt động chuyên môn của giáo viên có thể có những yêu cầu biện pháp khác
nhau nhằm góp phần xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo cán
bộ quản lý giáo dục giáo dục” [28, tr.10].

Nghiên cứu về quản lý HĐDH ở các trường tiểu học, có đề tài luận văn
của tác giả Huỳnh Thị Kim Trang, “Thực trạng về công tác quản lý việc dạy
và học ở trường tiểu học của một số Phòng GD&ĐT quận (huyện) tại thành
phố Hồ Chí Minh” (2011). Công trình đã làm rõ cơ sở lý luận quản lý HĐDH
ở trường tiểu học; đánh giá thực trạng công tác quản lý HĐDH ở các trường
tiểu học và đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở các
truờng tiểu học của một số Phòng GD&ĐT quận (huyện) tại thành phố Hồ
Chí Minh [46].
Với đối tượng nghiên cứu đặc thù, đề tài luận văn của tác giả Dương
Trọng Chinh về “Biện pháp quản lý hoạt động dạy học ở các trường THPT
có học sinh dân tộc thiểu số tại huyện CưM’gar, tỉnh Dăk Lăk” (2011) đã
luận giải những vấn đề lý luận và thực trạng quản lý HĐDH ở các trường
THPT có nhiều học sinh dân tộc thiểu số tại huyện Cư M’gar tỉnh Dăk Lăk,
luận văn đề xuất các biện pháp quản lý HĐDH học của hiệu trưởng các
trường THPT này nhằm giúp các học sinh dân tộc thiểu số hoàn thành chương
trình dạy học THPT theo chuẩn mực chung, nâng cao chất lượng dạy học của
các trường THPT có nhiều học sinh dân tộc thiểu số ở tỉnh Đăk Lăk [18].
Để tìm hiểu sâu hơn về vai trò của hiệu trưởng trong quản lý HĐDH,
tác giả Nguyễn Hữu Dũng nghiên cứu “Những biện pháp quản lý của hiệu
9


trưởng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động dạy học ở các trường tiểu tại
thành phố Đà Nẵng” (2012); tác giả Đỗ Thị Minh Yến nghiên cứu “Quản lý
của Hiệu trưởng đối với hoạt động dạy học ở các trường tiểu học quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội” (2013); tác giả Tạ Thị Xuân Ý nghiên cứu về
“Biện pháp quản lý của hiệu trưởng đối với hoạt động dạy học ở các trường
tiểu học quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh” (2014). Cùng với hướng
nghiên cứu trên đây, tác giả Hoàng Thị Lan đã lựa chọn vấn đề “Quản lý hoạt
động giảng dạy của giáo viên các trường tiểu học quận Nam Từ Liêm, thành

phố Hà Nội” (2015) để nghiên cứu.
Các nghiên cứu trên đây đã làm rõ cơ cơ sở lý luận về HĐDH, tiến hành
điều tra, khảo sát thực trạng HĐDH ở các phạm vi địa bàn nghiên cứu và rút ra
những kết luận, nguyên nhân của thực trạng; đồng thời đề xuất các biện pháp
quản lý về nhận thức, về quản lý mục tiêu, kế hoạch, quản lý nội dung, chương
trình, quản lý kết quả, chất lượng dạy học, giảng dạy và các điều kiện, môi
trường dạy học học tập, giảng dạy ở mỗi trường được nghiên cứu.
Tóm lại, HĐDH là đối tượng nghiên cứu của nhiều tác giả với các công
trình nghiên cứu khác nhau, từ nghiên cứu cơ bản đến nghiên cứu ứng dụng
trên các bình diện khác nhau.
Kết quả tổng quan cho thấy, một số công trình nghiên cứu đã khẳng
định vai trò quan trọng của HĐDH, đi sâu phân tích các yếu tố cấu thành, sự
tác động, biện pháp tổ chức HĐDH trong các nhà trường ở các phạm vi và đối
tượng nghiên cứu khác nhau.
Một số công trình nghiên cứu đã tiếp cận quản lý HĐDH trong các nhà
trường nói chung, trường tiểu học nói riêng dưới nhiều góc độ, ở các vùng
miền. Đây là nguồn tài liệu phong phú, quý giá, được tác giả kế thừa trong
quá trình hoàn thiện đề tài luận văn.
Tuy nhiên, vấn đề quản lý HĐDH ở các trường tiểu học thành phố Hải
Dương chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách trực tiếp, có hệ
thống; do đó, vấn đề tác giả lựa chọn nghiên cứu không trùng lặp với các
công trình đã công bố.
10


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn, đề xuất biện
pháp quản lý HĐDH ở các trường thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương
nhằm nâng cao chất lượng dạy học, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục bậc

tiểu học theo quan điểm của Đảng.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về HĐDH, quản lý HĐDH ở các
trường tiểu học.
Khảo sát, đánh giá thực trạng HĐDH, quản lý HĐDH ở các trường tiểu
học thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
Đề xuất các biện pháp quản lý HĐDH ở các trường tiểu học thành phố
Hải Dương, tỉnh Hải Dương phù hợp với yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.
Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp đề xuất.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quản lý HĐDH, giáo dục học sinh ở các trường tiểu học thành phố Hải
Dương, tỉnh Hải Dương.
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý HĐDH ở các trường tiểu học thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
* Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu quản lý HĐDH ở
các trường tiểu học công lập trên địa bàn thành phố Hải Dương.
Phạm vi khảo sát: Đội ngũ giáo viên, CBQL các trường tiểu học,
CBQL và chuyên viên phòng GD&ĐT thành phố Hải Dương.
Phạm vi về thời gian: Các số liệu sử dụng để nghiên cứu từ năm 2012
đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Chất lượng dạy học ở các trường tiểu học thành phố Hải Dương phụ
thuộc vào nhiều yếu tố; trong đó, nếu các chủ thể quản lý có những tác động
11


phù hợp như: Tổ chức nâng cao nhận thức và trách nhiệm cho các lực lượng
liên quan; thực hiện tốt các khâu kế hoạch hóa HĐDH ở các nhà trường; quan

tâm quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên, hoạt động học tập của học
sinh; chỉ đạo, định hướng đổi mới PPDH; bảo đảm các điều kiện và thực hiện
tốt các khâu kiểm tra, đánh giá kết quả thì HĐDH ở các trường tiểu học sẽ đi
vào nền nếp, kết quả học tập của học sinh sẽ có những chuyển biến tích cực,
vững chắc; góp phần trực tiếp chất lượng dạy học và giáo dục toàn diện học
sinh ở các trường tiểu học trên địa bàn Thành phố.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; quán triệt và cụ thể
hóa chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam GD&ĐT, quản lý
giáo dục. Đồng thời, dựa trên các quan điểm tiếp hệ thống - cấu trúc, lịch sử lôgic và quan điểm thực tiễn trong nghiên cứu khoa học.
* Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết bao gồm:
Hệ thống hoá các quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển
GD&ĐT. Phân tích, tổng hợp tài liệu, các công trình nghiên cứu liên quan,
nhằm xây dựng cơ sở lý luận về quản lý HĐDH của giáo viên các trường tiểu
học thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Sử dụng phiếu trưng cầu ý kiến
để khảo sát 149 khách thể, bao gồm: Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng, TTCM,
giáo viên các trường tiểu học trên địa bàn Thành phố nhằm thu thập thông tin,
đánh giá thực trạng HĐDH và quản lý HĐDH ở các trường tiếu học thành
phố Hải Dương; đồng thời, tham khảo ý kiến về các biện pháp quản lý HĐDH
ở các trường tiếu học thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.

12


Phương pháp tọa đàm: Tổ chức trao đổi trực tiếp với CBQL các cấp, Ban

Giám hiệu một số trường tiểu học để thu thập các thông tin cần thiết cho việc
nghiên cứu thực trạng.
Phỏng vấn và tọa đàm với giáo viên chủ nhiệm, CBQL, Tổng phụ trách
và đại diện Ban Giám hiệu của một số trường tiểu học.
Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động giảng dạy của giáo viên,
hoạt động học tập của học sinh và việc chỉ đạo HĐDH để có cơ sở nghiên cứu
kỹ hơn về thực trạng HĐDH, quản lý HĐDH ở các trường tiểu học của
Thành phố.
Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến chuyên gia của các nhà giáo, nhà
khoa học, nhà quản lý có kinh nghiêm về lĩnh vực nghiên cứu.
- Phương pháp hỗ trợ: Sử dụng toán học thống kê để xử lý kết quả điều
tra xã hội học, xếp thứ bậc các nội dung khảo sát và sử dụng công thức
Spearman để tìm hệ số tương quan giữa ý kiến đánh giá của các khách thể về
các nội dung nghiên cứu.
7. Ý nghĩa của đề tài
Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần hệ thống hóa, phát triển lý luận về
quản lý HĐDH ở các trường tiểu học; đưa ra quan niệm quản lý HĐDH, phân
tích sâu sắc nội dung, các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình quản lý HĐDH
trong các trường tiểu học ở thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần cung
cấp thêm các căn cứ khoa học cho cấp ủy, chính quyền, CBQL các cấp vận
dụng vào quản lý HĐDH trong các trường tiểu học ở thành phố Hải Dương,
tỉnh Hải Dương. Đồng thời, có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo để quản lý
HĐDH ở các trường tiểu học có những điều kiện tương đồng.
8. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: phần mở đầu, 3 chương (9 tiết), kết luận và kiến nghị,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

13



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ
HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC Ở CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC

1.1. Các khái niệm liên quan của luận văn
1.1.1. Hoạt động dạy học ở trường tiểu học
* Trường tiểu học trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam
Theo Điều lệ hiện hành: “Trường tiểu học là cơ sở giáo dục phổ thông
của hệ thống giáo dục quốc dân, có tư cách pháp nhân, có tài khoản và con
dấu riêng” [7, tr.1]. Trường tiểu học được tổ chức theo đơn vị hành chính,
gắn với xã, phường, thị trấn... Có hai loại hình tổ chức trường tiểu học là:
công lập và tư thục. Bên cạnh đó, còn có lớp tiểu học trong trường phổ thông
có nhiều cấp học, trường chuyên biệt, gồm: Lớp tiểu học trong trường phổ
thông có nhiều cấp học; lớp tiểu học trong trường phổ thông dân tộc bán trú;
lớp tiểu học trong trường dành cho trẻ em khuyết tật; lớp tiểu học trong trường
giáo dưỡng, trung tâm học tập cộng đồng và lớp tiểu học trong trường thực
hành sư phạm.
Nhiệm vụ và quyền hạn của trường tiểu học
Điều lệ trường tiểu học quy định nhiệm vụ và quyền hạn được thể hiện
thông qua các nội dung cơ bản, đó là:
Tổ chức giảng dạy, học tập và hoạt động giáo dục đạt chất lượng theo
mục tiêu, chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học do Bộ trưởng Bộ
GD&ĐT ban hành.
Huy động trẻ em đi học đúng độ tuổi, vận động trẻ em khuyết tật, trẻ
em đã bỏ học đến trường, thực hiện phổ cập giáo dục và chống mù chữ trong
cộng đồng. Nhận bảo trợ và giúp các cơ quan có thẩm quyền quản lý các hoạt
động giáo dục của các cơ sở giáo dục khác thực hiện chương trình giáo dục
tiểu học theo sự phân công của cấp có thẩm quyền. Tổ chức kiểm tra và công
nhận hoàn thành chương trình tiểu học cho học sinh trong nhà trường và trẻ

14


em trong địa bàn trường được phân công phụ trách.
Xây dựng, phát triển nhà trường theo các quy định của Bộ GD&ĐT và
nhiệm vụ phát triển giáo dục của địa phương.
Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục.
Quản lý cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh.
Quản lý, sử dụng đất đai, cơ sở vật chất, trang thiết bị và tài chính theo
quy định của pháp luật.
Phối hợp với gia đình, các tổ chức và cá nhân trong cộng đồng thực
hiện hoạt động giáo dục.
Tổ chức cho CBQL, giáo viên, nhân viên và học sinh tham gia các hoạt
động xã hội trong cộng đồng.
Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật [8].
* Khái niệm hoạt động dạy học ở trường tiểu học
HĐDH là hoạt động trung tâm của các nhà trường, trong đó có trường
tiểu học. Có nhiều cách tiếp cận khái niệm dạy học từ các nhà nghiên cứu
giáo dục, từ cơ sở lý luận của khoa học giáo dục hoặc từ những góc độ khoa
học khác nhau như: Tâm lý học, Điều khiển học…
Dưới góc độ tâm lý học: Dạy học được hiểu là sự biến đổi hợp lý hoạt
động và hành vi của người học trên cơ sở cộng tác hoạt động và hành vi của
người dạy và người học.
Dưới góc độ Giáo dục học: Dạy học là một trong các bộ phận của quá
trình sư phạm tổng thể giáo dục nhân cách toàn vẹn; là quá trình tác động qua lại
giữa giáo viên và học sinh nhằm truyền thụ và lĩnh hội tri thức khoa học, những
kỹ năng, kỹ xảo hoạt động nhận thức và thực tiễn để trên cơ sở đó hình thành thế
giới quan, phát triển năng lực sáng tạo và xây dựng phát triển phẩm chất của
nhân cách người học theo mục đích giáo dục. Theo quan niệm này thì dạy học là
khái niệm chỉ quá trình hoạt động chung của người dạy và người học.


15


Tuy còn nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng đa số các nhà khoa học
đều cho rằng Dạy học là tổng thể các hoạt động, trong đó dưới tác động chủ
đạo (tổ chức, điều khiển, lãnh đạo) của thầy, học sinh tự giác, tích cực, tự tổ
chức, tự điều khiển quá trình nhận thức, nhằm đạt được mục tiêu học tập.
Như vậy, dạy học là những hoạt động chung của người dạy và người
học. Hai mặt hoạt động này luôn thống nhất biện chứng với nhau trong một
quá trình thống nhất. Các chủ thể của HĐDH tiến hành các hoạt động khác
nhau, nhưng không đối lập nhau mà song song tồn tại và phát triển trong một
quá trình thống nhất, cùng hướng đến mục tiêu chung, đó là sự biến đổi của
người học về nhận thức, kỹ năng và thái độ. Trong đó, người dạy giữ vai trò
chủ đạo trong định hướng, tổ chức, điều khiển quá trình dạy học. Người học
vừa là khách thể, vừa là chủ thể quá trình dạy học có vai trò tự giác, tích cực,
độc lập và sáng tạo trong lĩnh hội kiến thức và kỹ xảo, kỹ năng và hướng vào
phát triển bản thân.
Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu HĐDH ở các trường tiểu học
là tổng thể những tác động có mục đích, có tổ chức; phối hợp thống nhất
giữa hoạt động của giáo viên và hoạt động học tập của học sinh nhằm thực
hiện mục tiêu, nhiệm vụ dạy học ở tiểu học.
* Đặc điểm hoạt động dạy học ở trường tiểu học
HĐDH ở trường tiểu học được tổ chức có mục đích, có sự phối hợp
thống nhất giữa hoạt động dạy và hoạt động học nhằm thực hiện mục đích và
nhiệm vụ dạy học đã xác định. Dạy học ở bậc học nào, môn học nào cũng
mang đầy đủ các đặc điểm nói trên. Điểm khác biệt lớn nhất giữa dạy học ở
các bậc học, là việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ dạy học khác nhau.
Mục tiêu của giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những
cơ sở ban đầu, cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể

chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở.
Đây là đặc điểm đặc trưng thể hiện sự khác biệt với HĐDH ở trường trung
16


học cơ sở và trung học phổ thông, có vai trò chi phối các nhân tốc khác của
HĐDH ở trường tiểu học.
Chương trình giáo dục tiểu học do Bộ GD&ĐT quy định; thực hiện kế
hoạch thời gian năm học theo hướng dẫn của Bộ và phù hợp với điều kiện cụ
thể của từng địa phương. Căn cứ vào chương trình và kế hoạch thời gian năm
học, nhà trường tự chủ và chịu trách nhiệm xây dựng và thực hiện kế
hoạch giáo dục phù hợp với tâm lý, sinh lý lứa tuổi học sinh và điều kiện của
địa phương, của nhà trường; bao gồm nội dung dạy học và nội dung các hoạt
động ngoài giờ lên lớp.
Ngoài ra, đối với các trường, lớp đã chuẩn bị đầy đủ các điều kiện về
giáo viên và được sự thỏa thuận của gia đình học sinh có thể tổ chức dạy học
tiếng nước ngoài và tin học, tổ chức bồi dưỡng năng lực học tập và hoạt động
giáo dục theo chương trình dạy học tự chọn (không bắt buộc) do BGD&ĐT
quy định.
Nội dung dạy học trong trường tiểu học là sự cụ thể hóa nội dung giáo
dục tiểu học, theo quy định của Nhà nước với yêu c ầu: “N ội dung giáo d ục ti ểu h ọc
phải bảo đảm cho học sinh có hiểu biết đơn giản, c ần thiết v ề t ự nhiên, xã h ội v à con
người; có kỹ năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết và tính toán; có thói quen rèn luy ện
thân thể, giữ gìn vệ sinh; có hiểu biết ban đầu về hát, múa, âm nhạc, m ỹ thu ật” [41,
tr.63]. Nội dung dạy học ở trường tiểu học được thể hiện ở các môn Toán, Tiếng Việt,
Âm nhạc, ngoại ngữ,… trong đó môn Toán và Tiếng Việt giữ vai trò chủ đạo.

Hoạt động giảng dạy của giáo viên tiểu học là loại hình hoạt động đặc
trưng, có định hướng và tuân theo quy luật nhận thức và phù hợp với hoạt
động học tập của học sinh tiểu học. Hoạt động giảng dạy của giáo viên có đối

tượng nằm ở học sinh, là hoạt động lĩnh hội đối tượng học và hành động ứng
xử của học sinh. Vì vậy, giáo viên tiểu học cần có vai trò chủ đạo, có vị trí
then chốt trong trường tiểu học.
Hoạt động học tập của học sinh tiểu học là hoạt động chủ đạo; thông
qua học tập, tạo ra sự phát triển tâm lý, trí tuệ và nhân cách của trẻ. Hoạt động
17


học của học sinh tiểu học có đối tượng chuyên biệt, được cụ thể hóa ở nội
dung học tập... Học sinh là chủ thể của hoạt động học, các em có nhiệm vụ
thực hiện đầy đủ và có kết quả hoạt động học tập; chấp hành nội quy nhà
trường; đi học đều và đúng giờ; giữ gìn sách vở và đồ dùng học tập. Hiếu thảo
với cha mẹ, ông bà; kính trọng, lễ phép với thầy giáo, cô giáo, nhân viên và
người lớn tuổi; đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ bạn bè, người khuyết tật và
người có hoàn cảnh khó khăn…
HĐDH ở trường tiểu học được tiến hành thông qua tổ chức dạy các
môn học bắt buộc và tự chọn trong chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu
học do Bộ GD&ĐT quy định, với các hình thức, PPDH chủ yếu đó là:
Thứ nhất, tổ chức dạy kiến thức, điều khiển hoạt động nhận thức để học
sinh nắm vững hệ thống tri thức khoa học phổ thông, cơ bản, hiện đại; đồng
thời rèn luyện cho các em hệ thống kỹ năng, kỹ xảo tương ứng theo chương
trình giáo dục tiểu học.
Thứ hai, dạy học ở các trường tiểu học góp phần hình thành, phát triển
những phẩm chất nhân cách, đạo đức cho học sinh phù hợp với lứa tuổi tiểu
học, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Thứ ba, HĐDH ở trường tiểu học hướng vào hình thành phát triển năng
lực của học sinh đặc biệt là khả năng tư duy sáng tạo.
Các hình thức dạy học ở trường tiểu học có quan hệ mật thiết với nhau,
tác động hỗ trợ lẫn nhau để thực hiện mục đích dạy học đạt kết quả cao. Trên
cơ sở trang bị kiến thức, kỹ năng, hướng tới phát triển trí tuệ và hình thành,

phát triển bản chất nhân cách cho học sinh. Phát triển trí tuệ vừa là kết quả,
vừa là điều kiện của việc nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và là cơ sở để
hình thành thế giới quan khoa học và những phẩm chất nhân cách theo mục
tiêu giáo dục đã xác định. Mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục ở tiểu học là đặc điểm
quan trong nhất phản ánh đặc thù dạy học ở các trường tiểu học và phân biệt
dạy học ở các bậc học khác.

18


1.1.2. Quản lý hoạt động dạy học ở trường tiểu học
Quản lý là một chức năng lao động - xã hội bắt nguồn từ tính chất xã
hội của lao động. Ngay từ khi con người bắt đầu hình thành nhóm, đã biết phối
hợp các nỗ lực cá nhân để thực hiện mục tiêu duy trì sự sống. Từ khi xuất hiện
nền sản xuất xã hội, nhu cầu phối hợp các hoạt động riêng lẻ càng tăng lên. Bất
cứ một tổ chức, một lĩnh vực nào, từ sự hoạt động của nền kinh tế quốc dân,
của một doanh nghiệp, một đơn vị hành chính sự nghiệp… đến một tập thể nhỏ
như tổ chuyên môn, tổ sản xuất, bao giờ cũng có hai phân hệ: người quản lý và
đối tượng quản lý. Quản lý trở thành một hoạt động phổ biến, diễn ra ở mọi
nơi, mọi lúc, mọi lĩnh vực, mọi cấp độ và có liên quan đến mọi người. Đó là
một hoạt động xã hội bắt nguồn từ tính chất cộng đồng dựa trên sự phân công
hợp tác để làm một công việc nhằm đạt một mục tiêu chung.
Quản lý là một khái niệm rộng bao gồm nhiều lĩnh vực, vì vậy có nhiều
định nghĩa khác nhau về khoa học quản lý, tùy thuộc theo quan điểm tiếp cận.
Tuy nhiên, có thể hiểu một cách chung nhất: Quản lý là hoạt động có tổ chức,
kế hoạch, định hướng, mục đích, phù hợp với quy luật khách quan của chủ
thể quản lý, tác động đến đối tượng quản lý, nhằm đưa hoạt động của toàn hệ
thống đạt tới mục tiêu đã định.
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, giáo dục lúc đầu xuất hiện
như một hiện tượng tự phát, sau dần trở thành một hoạt động có ý thức. Ngày

nay giáo dục đã trở thành một hoạt động được tổ chức đặc biệt, đạt tới trình
độ cao, có chương trình, kế hoạch, có nội dung, phương pháp hiện đại và trở
thành động lực thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của xã hội loài người. Để
hoạt động này diễn ra theo đúng mục đích, cần có công tác quản lý giáo dục.
Quản lý giáo dục là một bộ phận của quản lý xã hội nói chung, nằm
trong một lĩnh vực đặc thù của xã hội - lĩnh vực giáo dục. Quản lý giáo dục là
sự tác động có thức của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đưa hoạt
động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết quả mong muốn.
19


Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là hoạt động điều hành, phối hợp
các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu
phát triển xã hội. Quản lý giáo dục chứa đựng những nhân tố đặc trưng bản
chất sau: Chủ thể quản lý giáo dục, ở tầm vĩ mô là quản lý nhà nước mà cơ
quan trực tiếp là Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT. Ở tầm vi mô, là
quản lý của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng của các trường. Quản lý giáo dục có
tính xã hội cao, bởi vậy cần tập trung giải quyết tốt các vấn đề kinh tế, xã hội,
chính trị, văn hóa,… phục vụ tốt công tác giáo dục. Nhà trường, trong đó có
các trường tiểu học là đối tượng cơ bản nhất của quản lý giáo dục.
Trường học là một tổ chức, ở đó tiến hành quá trình dạy học. Hoạt
động đặc trưng của trường học là HĐDH. Quản lý nhà trường, xét đến cùng
và cơ bản là quản lý HĐDH. Quản lý HĐDH tạo ra điều kiện thuận lợi cho
các hoạt động của nhà trường được vận hành theo đúng mục tiêu. Vì vậy, để
nhà trường vận hành và phát triển thì cần nhất thiết phải quản lý tốt HĐDH.
Từ cách tiếp cận trên, Quản lý hoạt động dạy học ở trường tiểu học là
hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch và tổ chức của chủ thể
quản lý đến toàn bộ hoạt động dạy học ở nhà trường, nhằm thực hiện có hiệu
quả mục tiêu, nhiệm vụ dạy học bậc tiểu học
Mục đích quản lý HĐDH ở trường tiểu học là nhằm huy động tối đa

mọi nguồn lực: nhân lực, tài lực, vật lực, để thực hiện có hiệu quả mục tiêu,
nhiệm vụ giáo dục ở các nhà trường. Đó là thực hiện có hiệu quả việc trang bị
kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng, phát triển trí tuệ, giáo dục các phẩm chất nhân
cách cho học sinh theo chương trình và phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi
học sinh tiểu học.
Chủ thể quản lý HĐDH ở trường tiểu học bao gồm: Cấp ủy đảng, Hiệu
trưởng, Phó hiệu trưởng, tổ trưởng tổ chuyên môn, giáo viên chủ nhiệm, giáo
viên dạy các mon chuyên biệt và học sinh. Trong đó hiệu trưởng là người
quản lý cao nhất đối với HĐDH trong nhà trường.

20


Đối tượng quản lý HĐDH ở trường tiểu học bao gồm hoạt động dạy
của giáo viên và hoạt động học của học sinh.
Nội dung quản lý HĐDH ở trường tiểu học bao gồm: Quản lý mục tiêu
dạy học; quản lý xây dựng và thực hiện kế hoạch chương trình, nội dung dạy
học; quản lý sử dụng và đổi mới PPDH; quản lý hình thức tổ chức dạy học;
quản lý cơ sở vật chất và thiết bị trường học; quản lý kết quả dạy học; quản lý
hoạt động của giáo viên; quản lý hoạt động của học sinh.
Phương pháp, hình thức, phương tiện quản lý hoạt động giảng dạy:
thông qua hoạt động kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra; thông qua các
chế định giáo dục; bộ máy tổ chức trong nhà trường; các nguồn tài lực, vật
lực và phương tiện thông tin trong quản lý.
1.2. Nội dung quản lý hoạt động dạy học ở các trường tiểu học
1.2.1. Quản lý thực hiện mục tiêu, chương trình dạy học tiểu học
Quản lý thực hiện mục tiêu, nội dung chương trình dạy học là hoạt động
hàng đầu và được thực hiện một cách thường xuyên của các chủ thể quản lý. Nội
dung này có ảnh hưởng rất lớn đến việc quản lý các nội dung khác của quá trình
dạy học, cũng như chất lượng dạy học trong các trường tiểu học.

Về mục tiêu “Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ
sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở”[41,
tr.6]. Theo đó, quản lý mục tiêu giáo dục tiểu học được cụ thể hóa thành quản lý các
mục tiêu của các môn học và các hoạt động giáo dục khác trong chương trình tiểu học.
Đặc biệt, được cụ thể hóa bằng việc quản lý thực hiện các yêu cầu cơ bản cần đạt của học
sinh tiểu học, bao gồm các yêu cầu cơ bản về kiến thức, kỹ năng, thói quen, niềm tin, thái
độ, hành vi, định hướng...,

Quản lý mục tiêu giáo dục là quản lý việc thực hiện các yêu cầu về nội
dung giáo dục tiểu học. Đó là “Giáo dục tiểu học phải đảm bảo cho học sinh có hiểu
biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có kỹ năng cơ bản về nghe,

21


nói, đọc, viết và tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh; có hiểu biết
ban đầu về hát múa, âm nhạc, mỹ thuật”[27].

Song song với quản lý mục tiêu dạy học, phải quản lý việc thực hiện
chương trình dạy học của nhà trường. Thực chất quản lý chương trình dạy học ở nhà
trường là quản lý việc tổ chức giảng dạy, học tập và hoạt động giáo dục đạt chất lượng
theo mục tiêu, chương trình giáo dục tiểu học đã được quy định.

Chương trình giáo dục tiểu học được Bộ GD&ĐT quy định; đó là chương trình
khung để đảm bảo sự thống nhất về dạy học và giáo dục trong phạm vi cả nước, được
vận dụng linh hoạt theo đặc điểm từng vùng, từng địa phương, từng đối tượng học sinh.

Quản lý thực hiện chương trình dạy học là quản lý xây dựng và thực hiện kế
hoạch giảng dạy theo mục tiêu giáo dục tiểu học. Về nguyên tắc, chương trình dạy


học ở trường tiểu học là chương trình thống nhất toàn quốc do Bộ GD&ĐT
ban hành. Vì vậy, trách nhiệm rất quan trọng của các chủ thể quản lý (Hiệu
trường, các Phó hiệu trưởng, các TTCM) thực hiện chức năng quản lý, phải
phân phối chương trình của các lớp học phù hợp, không được làm tùy tiện
thay đổi, thêm bớt hoặc làm sai lệch nội dung, chương trình dạy học ở các
trường tiểu học.
1.2.2. Quản lý việc xây dựng, thực hiện kế hoạch dạy học
Kế hoạch dạy học là một bộ phận trong hệ thống kế hoạch chung của
nhà trường. Căn cứ vào kế hoạch của cấp trên và kế hoạch của nhà trường,
CBQL lập kế hoạch dạy học cho năm học, học kỳ, tuần, tháng và từng ngày
cụ thể. Việc xây dựng kế hoạch dạy học phải được thực hiện đồng bộ các
bước: Điều tra cơ bản để xác định tình hình đầu năm học; phân tích tình hình
và xác định mục tiêu cho năm học mới; phân công viết dự thảo kế hoạch; tổ
chức hội thảo góp ý dự thảo kế hoạch; hoàn chỉnh kế hoạch; trình cấp trên
(Phòng GD&ĐT) thông qua, duyệt và công bố kế hoạch.
Trên cơ sở kế hoạch dạy học của trường, các tổ chuyên môn trong nhà
trường xây dựng kế hoạch của tổ mình trong năm học. Kế hoạch của các tổ

22


chuyên môn phải cụ thể hóa nhiệm vụ của năm học và kế hoạch dạy học của
nhà trường; phải nêu rõ định mức, số lượng hóa các nhiệm vụ được giao, các
nhiệm vụ đột xuất. Đồng thời, xác định được các biện pháp thực hiện cụ thể,
với từng giáo viên, từng khối lớp.
Căn cứ vào kế hoạch chung của nhà trường, của tổ chuyên môn và
nhiệm vụ đảm nhận, giáo viên phân tích hình hình học tập của học sinh, yêu
cầu của nội dung, chương trình dạy học, điều kiện của nhà trường để xác định
kế hoạch giảng dạy của mình. Kế hoạch giảng dạy của giáo viên các trường

tiểu học phải được thông qua tổ chuyên môn và CBQL có thẩm quyền của
nhà trường trực tiếp phê duyệt.
Trong quá trình thực hiện kế hoạch giảng dạy, cần tiến hành tốt công
tác kiểm tra. Việc kiểm tra kế hoạch giảng dạy của giáo viên được thực hiện
thường xuyên, với nhiều hình thức, biện pháp. Thông qua kiểm tra thực tế
giúp cho CBQL các cấp nắm được hoạt động giảng dạy của giáo viên, tiến độ
thực hiện công việc, những khó khăn trong quá trình giảng dạy của giáo viên,
những khó khăn trong triển khai nhiệm vụ của tổ chuyên môn. Từ đó, Ban
Giám hiệu nhà trường đưa ra những biện pháp hỗ trợ để tháo gỡ những khó
khăn, vướng mắc. Có thể sử dụng nhiều hình thức kiểm tra như: Kiểm tra
thường xuyên, kiểm tra đột xuất. Nội dung kiểm tra bao gồm: kiểm tra hồ sơ
giảng dạy, hồ sơ sinh hoạt chuyên môn của các tổ, trực tiếp dự giờ thăm lớp,
kiểm tra tiến độ thực hiện kế hoạch dạy học của giáo viên...
1.2.3. Quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên
Quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học là nội
dung quan trọng, nội dung quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên rất
phong phú, bao gồm:
Quản lý phân công giảng dạy cho giáo viên
Trong quản lý HĐDH, phân công giờ dạy cho giáo viên là điều bắt
buộc, là trách nhiệm của CBQL cũng như tổ chuyên môn. Phân công giảng
dạy cho giáo viên là công việc rất quan trọng, phân công hợp lý sẽ trực tiếp
23


nâng cao chất lượng dạy học. Việc phân công giảng dạy phải căn cứ vào năng
lực của giáo viên, điều kiện cụ thể của nhà trường, đặc điểm yêu cầu của đối
tượng học sinh theo từng lớp, có tham khảo nguyện vọng của giáo viên và phải mang
tính ổn định.
Việc phân công giáo viên được thực hiện trên cơ sở thống kê trình độ, năng lực
và tình hình thực tế của từng giáo viên, Hiệu trưởng dự kiến phân công; tham khảo ý

kiến của phó Hiệu trưởng, TTCM; thảo luận tại phiên họp liên tịch; ra quyết định phân
công.

Phân công giáo viên đúng với khả năng sẽ đem lại hiệu dạy học quả tốt.
Ngược lại, nếu phân công không đúng nguyên tắc, nặng về cảm tính, tình cảm cá nhân,
sẽ dẫn tác động xấu đối với công tác quản lý giảng dạy, đến chất lượng dạy học. Do đó,
Hiệu trưởng, tổ trưởng tổ chuyên môn phải lựa chọn và cân nhắc kỹ lưỡng trước khi
phân công để phát huy tối đa năng lực của đội ngũ giáo viên.

Quản lý việc soạn bài và chuẩn bị lên lớp của giáo viên
Soạn bài là khâu chuẩn bị quan trọng nhất của giáo viên cho giờ lên lớp, là
lao động sáng tạo của giáo viên. Nó thể hiện sự đầu tư suy nghĩ, lựa chọn của giáo viên
về nội dung, phương pháp, hình thức, quy trình lên lớp, phù hợp với đối tượng học sinh
và chương trình dạy học. Việc soạn bài còn là sự chuẩn bị các thiết bị dạy học cần
thiết trước giờ lên lớp của giáo viên. Để việc soạn bài, chuẩn bị lên lớp của giáo viên
được thực hiện theo một kế hoạch đồng bộ và có hiệu quả, CBQL các cấp cần hướng
dẫn giáo viên lập kế hoạch bài dạy, chỉ đạo tổ chuyên môn trao đổi phương pháp giảng
dạy từng bài. Đặc biệt, đối với những bài khó, cần xác định và bổ sung tư liệu cho bài
giảng, điều kiện vật chất, trang thiết bị, phương tiện dạy học, đảm bảo cho giờ dạy đạt
kết quả cao.

Quản lý việc soạn bài và chuẩn bị giờ lên lớp, CBQL các cấp phải chú
ý tới một số công việc cụ thể như sau:
Hướng dẫn giáo viên lập kế hoạch soạn bài. Kế hoạch này căn cứ vào phân phối
chương trình, bảo đảm sự thống nhất chung trong toàn trường.
Hướng dẫn giáo viên sử dụng sách giáo khoa, sách giáo viên, tập bài soạn mẫu
(nếu có) trong soạn bài.

24



Hướng dẫn giáo viên thống nhất nội dung và hình thức soạn bài. Đưa việc lập
kế hoạch bài dạy, chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên vào nề nếp, nghiêm túc và đảm
bảo chất lượng; khuyến khích tính sáng tạo của giáo viên.
Phân công trách nhiệm cụ thể cho TTCM, cho khối trưởng trong việc kiểm tra
theo dõi, nắm tình hình soạn bài của giáo viên.

Đảm bảo đủ các điều kiện vật chất, kỹ thuật cho giờ lên lớp.
Quản lý giờ lên lớp của giáo viên
Giờ lên lớp là hình thức tổ chức cơ bản, chủ yếu nhất của quá trình dạy
học, đóng vai trò quan trọng, quyết định chất lượng dạy học trong nhà trường. Trong
giờ lên lớp, giáo viên giữ vai trò là người điều khiển, truyền thụ kiến thức, rèn luyện
khả năng sáng tạo, ý thức kỷ luật cho học sinh; do đó, trực tiếp quyết định chất lượng
giờ lên lớp.

Hiệu trưởng, TTCM không giữ vai trò trực tiếp quyết định chất lượng
giờ lên lớp, nhưng trên cương vị quản lý, họ tác động gián tiếp tới chất lượng,
hiệu quả giờ lên lớp. Để quản lý tốt giờ lên lớp của giáo viên, CBQL các cấp tiến
hành xây dựng tiêu chuẩn đánh giá giờ dạy trên lớp, dựa trên những quy định chung
của ngành và điều kiện của nhà trường. Do hình thức tổ chức lên lớp khác nhau tùy
thuộc vào từng loại bài, môn học, đối tượng nên đòi hỏi hệ thống tiêu chuẩn đánh giá
giờ lên lớp phải linh hoạt và phù hợp với tình hình cụ thể của mỗi giờ lên lớp. CBQL
sử dụng tiêu chuẩn đánh giá giờ lên lớp làm cơ sở kiểm tra, đánh giá và từng bước
nâng cao chất lượng giờ lên lớp.

Quản lý việc đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên
Hiện nay, việc đổi mới PPDH là vấn đề trọng tâm, trong công cuộc đổi
mới giáo dục ở các nhà trường nói chung, trường tiểu học nói riêng. Việc đổi
mới PPDH phải được diễn ra một cách đồng thời với đổi mới các nhân tố
khác của quá trình dạy học như: đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình dạy

học; hình thức tổ chức, phương tiện và đánh giá kết quả dạy học. Quan trọng
hơn là phải đổi mới tư duy, cách nghĩ, cách làm của giáo viên khi tiến hành
lựa chọn, sử dụng PPDH. Đổi mới PPDH là công việc bắt buộc, thường xuyên
trong HĐDH của giáo viên. Để quản lý thực hiện tốt nội dung này, các chủ

25


thể quản lý cần quan tâm các vấn đề sau:
Tổ chức cho đội ngũ giáo viên học tập nghiên cứu, nắm vững định
hướng đổi mới PPDH, từ đó nâng cao nhận thức, thống nhất tư tưởng và hành
động, xác định: đổi mới PPDH là yêu cầu cốt lõi, quan trọng của đổi mới giáo
dục; là điều kiện trực tiếp để nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
Công tác tổ chức, chỉ đạo các hoạt động đổi mới PPDH phải được thực
hiện một cách thường xuyên, liên tục và được thể hiện trong kế hoạch chuyên
môn theo tuần, tháng, từng học kỳ và trong năm học. Nội dung các hoạt động
được xác định dựa trên chương trình cụ thể của các môn học, thông thường
các hoạt động đổi mới được thể hiện thông qua hình thức: thao giảng, thi giáo
viên dạy giỏi, dự giờ lẫn nhau trong đội ngũ giáo viên,...
Các chủ thể quản lý cần thực hiện tốt các khâu kiểm tra, đánh giá và rút
kinh nghiệm kịp thời, các hoạt động đổi mới PPDH của giáo viên cũng như
của các tổ chuyên môn, nhằm mục đích đưa hoạt động này đi vào nề nếp, có
chiều sâu và mang tính hiệu quả thiết thực.
Quản lý sinh hoạt tổ chuyên môn, dự giờ và rút kinh nghiệm sư phạm
Đây là cách thức quản lý gián tiếp của hiệu trưởng đối với hoạt động
giảng dạy của giáo viên, mang lại hiệu quả cao, thực hiện phân cấp trong
quản lý HĐDH. Ở trường tiểu học, tổ chuyên môn là tổ chức cơ sở của bộ máy hành
chính nhà trường, trực tiếp quản lý giáo viên về chuyên môn nghiệp vụ. Điều 16, Điều

lệ trường tiểu học 2010, quy định: “Giáo viên trường tiểu học được tổ chức

thành tổ chuyên môn theo khối lớp hoặc liên khối lớp. Tổ chuyên môn có tổ
trưởng và từ một đến hai tổ phó do hiệu trưởng cử” [7].

Tổ chuyên môn là nơi tiếp nhận, xử lý thông tin, đồng thời cũng là nơi
truyền phát thông tin quản lý. Yêu cầu chung đối với việc quản lý tổ chuyên
môn là phải tạo ra được điều kiện giúp cho mọi giáo viên nhận thức rõ về vai
trò công việc của mình, tích cực tham gia vào các hoạt động của tập thể sư
phạm, nhằm hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn. Nếu được tổ chức tốt, hoạt
động sinh hoạt tổ chuyên môn sẽ tạo ra điều kiện thuận lợi giúp mỗi giáo viên
26


×