Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý GIÁO dục QUỐC PHÒNG AN NINH CHO SINH VIÊN TRƯỜNG đại học sư PHẠM hà nội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 122 trang )

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Cơ sở vật chất
Chủ nghĩa xã hội
Công tác quốc phòng
Cán bộ
Dạy học
Đội ngũ cán bộ
Đại học Sư phạm Hà Nội
Giáo dục Quốc phòng
Giáo dục Quốc phòng và an ninh
Khoa Giáo dục Quốc phòng
Giáo dục và Đào tạo
Lực lượng vũ trang
Phương pháp giảng dạy
Quốc phòng toàn dân
Quốc phòng và an ninh
Xã hội chủ nghĩa
Vũ khí trang bị

Chữ viết tắt
CSVC
CNXH
CTQP
CB
DH
ĐNCB
ĐHSPHN
GDQP
GDQP-AN
KGDQP


GD&ĐT
LLVT
PPGD
QPTD
QP-AN
XHCN
VKTB


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Trang
3

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC QUỐC
PHÒNG VÀ AN CHO SINH VIÊN
1.1. Hoạt động giáo dục quốc phòng và an ninh cho sinh

13

viên
1.2. Nội dung quản lý giáo dục quốc phòng và an ninh

13
33

1.3. Thực trạng và kinh nghiệm quản lý hoạt động giáo dục
quốc phòng và an ninh ở trường Đại học Sư phạm Hà

Nội
Chương 2 YÊU CẦU VÀ NHỮNG BIỆN PHÁP CHỦ

41

YẾU QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
QUỐC PHÒNG VÀ AN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
SƯ PHẠM HÀ NỘI HIỆN NAY
2.1. Những nhân tố tác động và yêu cầu quản lý hoạt động

61

GDQP và AN cho sinh viên ở Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội hiện nay.
2.2. Biện pháp tổ chức quản lý hoạt động giáo dục quốc
phòng và an ninh ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội

61
71

2.3. Khảo nghiệm sự cần thiết và tính khả thi của các biện
pháp quản lý hoạt động giáo dục quốc phòng và an
ninh cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

89
95
98

101


3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục quốc phòng và an ninh là vấn đề chiến lược, nhiệm vụ của
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, trực tiếp góp phần tăng cường tiềm lực
quốc phòng bảo đảm cho đất nước có đủ khả năng bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. GDQP-AN cho học
sinh, sinh viên được Đảng ta xác định là một bộ phận của nền giáo dục quốc
dân, cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện một cách chặt chẽ,
thống nhất từ Trung ương tới cơ sở. Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VII) chỉ
rõ: "Phải tăng cường công tác GDQP cho toàn dân, trước hết là đối với cán bộ
các cấp, các ngành của Đảng và Nhà nước và thế hệ trẻ học sinh, sinh viên".
Thực hiện chủ trương của Đảng, sự chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào
tạo, của Hội đồng GDQP-AN Trung ương, trong những năm qua, Trường
ĐHSPHN đã đưa GDQP-AN cho sinh viên vào chương trình chính khoá,
thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc quán triệt, giáo dục nâng cao
nhận thức trách nhiệm, đổi mới nội dung chương trình và phương pháp đào
tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên GDQP-AN, tăng cường đầu tư cơ
sở vật chất, thao trường, bãi tập… Chính vì vậy, GDQP-AN cho sinh viên của
Trường ĐHSPHN đã thu được những kết quả tốt, đã góp phần tạo sự chuyển
biến thực sự về nhận thức và trách nhiệm của cán bộ, giảng viên và sinh viên
đối với công tác GDQP-AN. Nhiều sinh viên ra trường tham gia hoạt động ở
nhiều lĩnh vực, trên các vùng, miền của Tổ quốc đã có những đóng góp tích
cực vào sự nghiệp củng cố QP-AN, bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, bên cạnh
những thành tựu đã đạt được, GDQP-AN cho sinh viên còn không ít hạn chế,
bất cập. Không ít sinh viên nhận thức chưa đầy đủ về vị trí vai trò của môn

GDQP-AN, thiếu trách nhiệm và ý chí vượt khó, chưa thật sự tích cực, tự giác
trong học tập, rèn luyện. Một số ít giảng viên chưa thật sự quan tâm đầu tư
nghiên cứu, tìm tòi nâng cao chất lượng bài giảng; quản lý tổ chức các hình
thức huấn luyện chưa chặt chẽ, duy trì các chế độ dễ dãi… Chính vì vậy, chất


4

lượng học tập môn GDQP-AN của không ít sinh viên chưa cao, chưa toàn
diện. Hạn chế, bất cập trong GDQP-AN cho sinh viên được bắt nguồn từ
nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan, trong đó có nguyên nhân quan
trọng từ những yếu kém trong quản lý hoạt động GDQP-AN cho sinh viên
của Nhà trường.
Bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực, trong nước có những
diễn biến nhanh chóng, phức tạp và khó lường; tình hình tranh chấp chủ
quyền biển, đảo giữa các quốc gia trong khu vực trên biển Đông; sự chống
phá quyết liệt của các thế lực thù địch trong chiến lược "diễn biến hoà bình",
bạo loạn lật đổ… đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải quan tâm, đầu tư hơn nữa đến
công cuộc củng cố, tăng cường tiềm lực và sức mạnh QP-AN với những chủ
trương, giải pháp đồng bộ, thiết thực, hiệu quả. Cần đặc biệt quan tâm GDQPAN cho toàn dân, trước hết là cho cán bộ, đảng viên và học sinh, sinh viên;
phải đổi mới công tác tổ chức quản lý GDQP-AN cho các đối tượng, trong
các cơ sở giáo dục - đào tạo, nhất là các trường đại học, cao đẳng góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục GDQP-AN đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
thời kỳ mới.
Vì vậy, việc chọn vấn đề "Quản lý giáo dục quốc phòng an ninh cho
sinh viên ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội hiện nay" làm đề tài luận văn
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Giáo dục quốc phòng và an ninh là vấn đề chiến lược, có tầm quan

trọng đặc biệt luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo; đã có
nhiều văn bản, chỉ thị, nghị quyết, quy định, hướng dẫn thực hiện. Đã có
nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu ở
những góc độ khác nhau với những công trình tiêu biểu:
- Lê Minh Vụ (2006), Đổi mới GDQP trong hệ thống giáo dục quốc
gia, Đề tài khoa học cấp Nhà nước, H. Đề tài đã tập trung phân tích làm rõ


5

những vấn đề cơ bản về GDQP, đánh giá những thành tựu, hạn chế, yếu kém
của công tác GDQP cho các đối tượng và trên cơ sở phân tích sâu sắc sự phát
triển của tình hình thế giới, khu vực, trong nước, yêu cầu nhiệm vụ xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc đã đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao chất lượng
GDQP cho cán bộ, đảng viên, học sinh, sinh viên và các tầng lớp nhân dân
đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đã xác định.
- Nguyễn Bá Dương (2009), Tư duy lý luận của Đảng ta về đổi mới
GDQP trong tình hình hiện nay, Nxb CTQG, H. Trong công trình của
mình, tác giả Nguyễn Bá Dương đã đi sâu phân tích sự phát triển của tình
hình nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ xây dựng, củng cố nền QPTD, tăng
cường tiềm lực, sức mạnh QP-AN và thực trạng GDQP cho các đối tượng
cán bộ, đảng viên và nhân dân để từ đó khẳng định sự cần thiết phải đổi
mới công tác GDQP, trước hết là đổi mới tư duy trong lãnh đạo, chỉ đạo
của các cấp uỷ, tổ chức đảng. Đồng thời tác giả đã đề xuất một số chủ
trương, giải pháp đổi mới tư duy trong GDQP từ quan điểm chỉ đạo, nội
dung chương trình, tổ chức quản lý, xây dựng đội ngũ đến công tác đầu tư
cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật…
- Nguyễn Bá Dương (chủ nhiệm đề tài). Phạm Thanh Quý. Đỗ Minh
Châu; Học viện Chính trị Quân sự, (2007). Đổi mới giáo dục quốc phòng
trong hệ thống giáo dục quốc gia - Cơ sở lý luận của việc đổi mới giáo dục

quốc phòng trong hệ thống giáo dục quốc gia.
Các chuyên đề về: vấn đề quốc phòng và giáo dục quốc phòng ở một số
nước; chiến lược quốc phòng, tư duy mới của Đảng về quốc phòng; vị trí, vai
trò và ý nghĩa của đổi mới giáo dục quốc phòng; quan điểm của Đảng, Chính
phủ và Bộ Quốc phòng về chỉ đạo giáo dục quốc phòng; Những vấn đề có
tính quy luật, những căn cứ đánh giá kết quả đổi mới giáo dục quốc phòng
trong hệ thống giáo dục quốc gia


6

- Tác giả: Nguyễn Đức Đăng ( 2011). “ Quản lý công tác giáo dục quốc
phòng – an ninh cho sinh viên hệ chính quy tại trường ĐHKHXH & NV,
ĐHQGHN”. Đề tài của tác giả đã đánh giá thực trạng quản lý công tác GDQP
– AN cho sinh viên hệ chính quy trường ĐHKHXH & NV, ĐHQGHN. Đồng
thời đề xuất các giải pháp quản lý công tác GDQP – AN cho sinh viên hệ
chính quy trường ĐHKHXH & NV, ĐHQGHN góp phần nâng cao hiệu quả
công tác quản lí môn học xong đề tài chưa đưa ra được các giải pháp mang
tính đồng bộ trong quản lý công tác GDQP – AN đối với sinh viên chuyên
nghành [7].
- Tác giả: Nguyễn Văn Huận ( 2003). “ Những giải pháp phát triển đội
ngũ giáo viên GDQP”. Đề tài của tác giả đã tập trung nghiên cứu về thực
trạng chất lượng của đội ngũ cán bộ giảng viên làm công tác GDQP tại các
trung tâm, khoa, bộ môn GDQP - AN, đồng thời đưa ra các giải pháp cụ thể
để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quân đội biệt phái giảng dạy tại các cơ
sở giáo dục nói trên, cũng như việc định hướng trong giáo dục đào tạo đội
ngũ giáo viên làm công tác giảng dạy môn GDQP ở các trường THPT, góp
phần thực hiện nghị định 116 của Thủ tướng Chính phủ về công tác GDQP
đối với HSSV ở các bậc học [15].
- Phạm Xuân Hảo (chủ nhiệm đề tài). Nguyễn Văn Cần. Hoàng Văn

Thanh; Học viện Chính trị Quân sự ( 2007). Đổi mới giáo dục quốc phòng
trong hệ thống giáo dục quốc gia - Thực trạng và kinh nghiệm giáo dục quốc
phòng trong hệ thống giáo dục quốc gia;
Các chuyên đề về: Thực trạng giáo dục quốc phòng trong các trường
trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, cao đẳng, đại học
cán bộ chủ chốt, trường Đảng và trường chính trị hiện nay; bài học kinh
nghiệm về cơ chế tổ chức giáo dục quốc phòng, về đổi mới chương trình, nội
dung giáo dục quốc phòng, về đảm bảo cơ sở vật chất cho giáo dục quốc


7

phòng, về tổ chức quản lý cán bộ, học sinh, sinh viên trong giáo dục quốc
phòng hiện nay.
- Nguyễn Khắc Thắng (2009), Quản lý quá trình giảng dạy GDQP-AN
phù hợp với phương thức đào tạo theo tín chỉ, Luận văn thạc sĩ Quản lý giáo
dục, Trường Đại học Giáo dục, H. Trong công trình của mình, tác giả Nguyễn
Khắc Thắng đã có sự phân tích khá đầy đủ về vị trí vai trò của GDQP-AN và
hoạt động giảng dạy GDQP-AN của đội ngũ giảng viên. Trên cơ sở đánh giá
thực trạng, tác giả đã đề xuất hệ thống biện pháp quản lý hoạt động giảng dạy
của giáo viên trong GDQP-AN đáp ứng với phương thức đào tạo theo tín chỉ
của các trường đại học, cao đẳng.
- Vũ Quang Lộc, (chủ nhiệm đề tài). Nguyễn Văn Thế. Vũ Đức Huấn.
Học viện Chính trị Quân sự ( 2007). Đổi mới giáo dục quốc phòng trong hệ
thống giáo dục quốc gia - Dự báo những nhân tố tác động, xu hướng vận động
của giáo dục quốc phòng và yêu cầu đổi mới giáo dục quốc phòng trong hệ
thống giáo dục quốc gia đến 2020.
Các chuyên đề về: Dự báo sự tác động của tình hình thế giới; những
biến đổi kinh tế-xã hội của nước ta; xu hướng tác động của giáo dục quốc
phòng đến 2020 đối với đổi mới giáo dục quốc phòng cho học sinh, sinh viên,

cán bộ hiện nay và đến 2020; yêu cầu đổi mới nội dung, chương trình giáo
dục quốc phòng; hình thức giảng dạy, lực lượng giảng dạy kiến thức quốc
phòng cho cán bộ, học sinh, sinh viên từ nay đến 2020.
- Lê Minh Vụ, (chủ nhiệm đề tài). Trần Đăng Thanh. Nguyễn Đức
Hạnh: Học viện Chính trị Quân sự (2007).
Tổng hợp các chuyên đề về: xác định và xây dựng khung chương trình
giáo dục quốc phòng cho học sinh trung học phổ thông, học sinh trung học
chuyên nghiệp, sinh viên các trường cao đẳng và đại học; bồi dưỡng kiến thức
quốc phòng cho cán bộ Đảng, nhà nước và cán bộ đoàn thể quần chúng
- Nguyễn Minh Khải. (chủ nhiệm đề tài). Bùi Ngọc Quỵnh. Nguyễn
Trọng Xuân: Học viện Chính trị Quân sự (2007). Đổi mới giáo dục quốc


8

phòng trong hệ thống giáo dục quốc gia - Quan điểm và giải pháp cơ bản đổi
mới giáo dục quốc phòng trong hệ thống giáo dục quốc gia đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Các chuyên đề về giáo dục quốc phòng, gồm: quan điểm và giải pháp
đổi mới, nâng cao, tăng cường chất lượng đội ngũ giáo viên, phương pháp
giảng dạy cho học sinh trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp, sinh
viên cao đẳng, đại học và đội ngũ cán bộ hiện nay.
- Lê Minh Vụ, (chủ nhiệm đề tài). Vũ Quang Lộc. Nguyễn Minh Khải.
Phạm Xuân Hảo; và những người khác: Học viện Chính trị Quân sự (2007).
Đổi mới giáo dục quốc phòng trong hệ thống giáo dục quốc gia.
Trình bày cơ sở lý luận của việc đổi mới giáo dục quốc phòng trong hệ
thống giáo dục quốc gia. Nêu thực trạng và kinh nghiệm giáo dục trong hệ
thống giáo dục quốc gia hiện nay. Đề xuất phương pháp đổi mới giáo dục
quốc phòng.
- Ngoài những công tác trên, đã có rất nhiều bài viết đăng trên các báo,

các tạp chí có uy tín. Tiêu biểu: Phan Ngọc Diễn, GDQP cho thế hệ trẻ trong
các nhà trường - những vấn đề lưu tâm, Tạp chí GDQP số 2/2000; Phùng
Khắc Đăng, Tăng cường hơn nữa công tác GDQP toàn dân trước tình hình
mới, Tạp chí QPTD số 12/2003; Phạm Xuân Hảo (2002), Giáo dục quốc
phòng cho sinh viên đại học hiện nay, Chuyên đề khoa học cấp Viện Khoa
học xã hội và nhân văn; Lê Doãn Thuật, GDQP trong các trường đại học và
cao đẳng - bốn vấn đề bức xúc cần tháo gỡ từ cơ sở; Tạp chí QPTD, số
1/2002; Phạm Xuân Hảo, Đổi mới, nâng cao chất lượng GDQP toàn dân
trong thời kỳ mới, Tạp chí GDLLCTQS, số 1/2006…
Với các góc cạnh tiếp cận khác nhau, các công trình trên đã đi sâu phân
tích làm rõ những vấn đề cơ bản về vị trí, vai trò, nội dung, hình thức GDQPAN cho các đối tượng và đề xuất hệ thống các giải pháp trong tổ chức thực
hiện góp phần nâng cao chất lượng GDQP-AN trong tình hình mới. Hệ thống
các giải pháp được các tác giả đề cập mang tính đồng bộ, khả thi, tập trung


9

vào các giải pháp; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo; nâng cao chất lượng đội
ngũ giảng viên; nâng cao nhận thức trách nhiệm của các cấp, các ngành; đổi
mới nội dung chương trình và hình thức tổ chức huấn luyện; đổi mới, tăng
cường công tác quản lý và giải pháp về đầu tư cơ sở vật chất, công cụ phương
tiện huấn luyện…
Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ
thống việc quản lý hoạt động GDQP-AN cho sinh viên ở Trường ĐHSPHN.
Vì vậy, đề tài "Quản lý hoạt động GDQP-AN cho sinh viên ở Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội hiện nay" là công trình độc lập, không trùng lặp với các
công trình đã được nghiệm thu, công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ cơ sở lí luận, thực tiễn và đề xuất các biện pháp

quản lý hoạt động GDQP-AN cho sinh viên góp phần nâng cao chất lượng
đào tạo của Trường ĐHSPHN.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề cơ bản về GDQP-AN và quản lý hoạt động
GDQP-AN cho sinh viên ở Trường ĐHSPHN.
- Đánh giá thực trạng và rút ra một số kinh nghiệm quản lý hoạt động
GDQP-AN cho sinh viên ở Trường ĐHSPHN.
- Đề xuất các biện pháp cơ bản quản lý hoạt động GDQP-AN cho sinh
viên ở Trường ĐHSPHN đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Hoạt động GDQP-AN cho sinh viên ở Trường ĐHSPHN.
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý hoạt động GDQP-AN cho sinh viên ở Trường ĐHSPHN.
* Phạm vi nghiên cứu


10

Nghiên cứu hoạt động tổ chức dạy và học môn GDQP-AN của giảng
viên, sinh viên Trường ĐHSPHN. Các số liệu có liên quan phục vụ cho luận
văn được giới hạn từ năm 2007 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Giáo dục quốc phòng và an ninh là một môn học trong chương trình
đào tạo đại học. Quản lý hoạt động GDQP-AN cho sinh viên phải được tiến
hành theo chức năng, nhiệm vụ quản lý giáo dục trong nhà trường. Nếu các
chủ thể quản lý xác định đúng mục tiêu, kế hoạch giáo dục, xây dựng khoa,
bộ môn GDQP-AN phù hợp, đủ mạnh; chỉ đạo sát sao việc đổi mới nội dung,
phương pháp dạy và học, phát huy tính tích cực tự giác, chủ động của sinh
viên trong tự học, tự nghiên cứu, kiểm tra đánh giá nghiêm túc kết quả học

tập thì sẽ nâng cao được chất lượng hoạt động GDQP-AN cho sinh viên
trường ĐHSPHN đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
- Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Luật giáo dục, Luật GDQP-AN, Nghị quyết, Chỉ thị hướng dẫn của các cấp
liên quan về GD – ĐT và quản lý GD – ĐT, về xây dựng đội ngũ nhà giáo…
* Phương pháp nghiên cứu
+ Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
Đề tài sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa và
khái quát hóa các tài liệu có liên quan như:
- Một số tác phẩm kinh điển của Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
- Văn kiện, Nghị quyết của Đảng về giáo dục đào tạo;
- Luật Giáo dục 2005, sửa đổi năm 2009;
- Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh 2014;


11

- Chiến lược phát triển giáo dục 2011 – 2020 và những vấn đề có liên
quan đã được công bố và đăng tải trên tạp chí khoa học và báo giáo dục.
+ Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Nghiên cứu các hoạt động chuyên môn, quản lý hoạt động GDQP-AN
ở Trường ĐHSPHN.
- Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động dạy và học từ đó rút ra kết
luận có liên quan đến nội dung nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra: Điều tra bằng câu hỏi đối với cán bộ giảng
dạy, cán bộ quản lí và sinh viên để đánh giá đúng thực trạng, đồng thời chỉ ra
những nguyên nhân, đề xuất một số biện pháp cơ bản quản lí hoạt động

GDQP-AN ở Trường ĐHSPHN hiện nay.
- Phương pháp khảo sát: Khảo sát thực tế về cơ sở vật chất trang thiết
bị dạy học, chất lượng đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý hoạt động
GDQP-AN ở Trường ĐHSPHN.
- Phương pháp trao đổi, tọa đàm: Trao đổi, tọa đàm với giảng viên,
sinh viên về chương trình, chất lượng giảng dạy và học tập môn GDQP-AN,
từ đó rút ra kết luận có tính cơ sở khoa học phục vụ cho nghiên cứu.
- Phương pháp tổng kết thực tiễn: Thông qua kết quả tổng hợp của các
hoạt động GDQP-AN để làm rõ thực trạng và đề ra biện pháp giải quyết
những vấn đề liên quan.
- Phương pháp xin ý kiến chuyên gia: Xin ý kiến các nhà khoa học, nhà
quản lý và đồng nghiệp về một số vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến
quá trình nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng phương pháp toán học
thống kê để tổng hợp kết quả điều tra, xử lí trong quá trình nghiên cứu.
7. Ý nghĩa của luận văn
* Những đóng góp mới về mặt khoa học


12

- Xây dựng quan niệm quản lý

hoạt động GDQP-AN ở Trường

ĐHSPHN.
- Đề xuất biện pháp quản lý hoạt động GDQP-AN của Trường
ĐHSPHN hiện nay.
* Ý nghĩa của luận văn
- Đề tài cung cấp thêm luận cứ khoa học giúp cho Ban Giám hiệu Nhà

trường, Phòng Đào tạo và Khoa GDQP – Trường ĐHSPHN quản lý tốt hoạt
động GDQP-AN cho sinh viên.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo
và phụ lục, luận văn gồm 2 chương (6 tiết).


13

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH CHO SINH VIÊN Ở
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

1.1. Hoạt động giáo dục quốc phòng và an ninh và quản lý hoạt động
giáo dục quốc phòng và an ninh cho sinh viên ở Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội
1.1.1. Quản lý
Thuật ngữ quản lý được định nghĩa là “Tổ chức, điều khiển hoạt động
của một đơn vị, cơ quan”. Ở khía cạnh khác “Quản lý là tổ chức và điều khiển
các hoạt động theo những yêu cầu nhất định” [13, tr. 722].
Theo C.Mác: “Quản lý là lao động điều khiển lao động”. (C.Mác –
Ăngghen Toàn tập, tập 25, phần 2, tr.350). Ông khẳng định “Bất cứ lao động
hay lao động chung nào mà tiến hành trên một quy mô khá lớn, đều yêu cầu
phải có một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân… Một nhạc sĩ
độc tấu thì điều khiển lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì phải có nhạc trưởng”.
F.W.Taylor (1856 - 1915) cho rằng "Quản lý là biết chính xác điều bạn
muốn người khác làm, và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc
một cách tốt nhất và rẻ nhất".
Henry Fayol (1841-1925) đã xuất phát từ nghiên cứu các loại hình

“hoạt động quản lý”. Ông là người đầu tiên phân biệt chúng thành 5 chức
năng cơ bản “kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra”. Faylo đã
nhấn mạnh đến ý nghĩa của cấu trúc (bộ máy) tổ chức, ông đã khẳng định
rằng, khi con người lao động hiệp tác thì quan trọng là họ phải xác định rõ
công việc mà họ phải hoàn thành.
H.Koontz thì lại khẳng định “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó
đảm bảo phối hợp những nỗ lực hoạt động cá nhân nhằm đạt được các mục


14

đích của nhóm (tổ chức). Mục tiêu của quản lý là hình thành một môi trường
mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian,
tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất”.
M.T.Follet (1868 - 1933) cho rằng trong công việc quản lý cần chú
trọng tới những người lao động với toàn bộ đời sống của họ, cả yếu tố kinh tế
lẫn yếu tố tinh thần và tình cảm. Theo Bà "Quản lý là nghệ thuật khiến cho
công việc được thực hiện thông qua người khác".
C.I.Bamard (1886 - 1961) quan tâm đến đối tượng quản lý là các cá
nhân con người đơn nhất và coi tổ chức như một hệ thống mở, ông nhấn
mạnh đến mối liên hệ hữu cơ giữa các bộ phận với hệ thống, giữa hệ thống
với môi trường đặc thù của tổ chức. Ông cho rằng: "Quản lý không phải là
công việc của tổ chức mà là công việc chuyên môn duy trì hoạt động của tổ
chức.
Tác giả Trần Kiểm lại cho rằng: "Quản lý là những tác động có định
hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng bị quản lý trong tổ
chức để vận hành tổ chức, nhằm đạt mục đích nhất định".
Tùy theo cách tiếp cận khác nhau mà có nhiều quan niệm khác nhau về
quản lý. Song điểm chung của các quan niệm này là đều khẳng định chủ thể,
đối tượng quản lý, nội dung, phương thức và mục đích của quá trình quản lý.

Từ các quan niệm của các học giả trên, có thể khái quát: Quản lý là
hoạt động có ý thức của con người nhằm định hướng, tổ chức, sử dụng các
nguồn lực và phối hợp hành động của một nhóm người hay một cộng đồng
người để đạt được các mục tiêu đề ra một cách hiệu quả nhất. Đây là nền tảng
tư tưởng để định hướng hoạt động cho các nhà quản lí, đảm bảo đem lại hiệu
cao nhất trong công tác quản lý.
Trong thực tế, quản lý là một hoạt động vừa khó khăn vừa phức tạp, có
ảnh hưởng to lớn đến sự tồn tại và phát triển của một tổ chức. Vì vậy, đòi hỏi


15

các nhà quản lý phải biết vận dụng một cách sáng tạo và linh hoạt, phù hợp
với tình hình thực tiễn của cơ quan, đơn vị mình. Quản lý vừa có tính khoa
học, vừa có tính nghệ thuật.
1.1.2. Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục đã được các nhà lý luận và quản lý thực tiễn hoạt
động giáo dục đưa ra một số định nghĩa như sau:
Theo Nguyễn Quốc Chí: "Quản lý giáo dục là được hiểu như việc thực
hành đầy đủ các chức năng kế hoạch hoá, tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra trên toàn
bộ các hoạt động giáo dục và tất nhiên cả những phần tài chính và vật chất
của các hoạt động đó nữa".
Tác giả Đặng Quốc Bảo định nghĩa: " Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng
quát là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh
công tác giáo dục thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội".
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang lại cho rằng “Quản lý giáo dục là hệ
thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, phù hợp với quy luật của chủ
thể quản lý nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục
của Đảng, thực hiện các tính chất của nhà trường và xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học – giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ

giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất”.
Ở các cách tiếp cận khác nhau, các tác giả đã cũng đã có những cách
diễn đạt khác nhau về quản lý giáo dục, song các tác giả cũng đều thống nhất
đề cập đến chủ thể, khách thể của quản lý giáo dục, mục tiêu, cách thức và
công cụ quản lý giáo dục. Đây là cơ sở quan trọng để các nhà quản lý nâng
cao được hiệu quả quản lý của mình tại các cơ sở giáo dục trong hệ thống
giáo dục quốc dân.
1.1.3. Hoạt động giáo dục quốc phòng- an ninh


16

Đảng và Nhà nước ta đã xác định “giáo dục và đào tạo cùng với khoa
học và công nghệ là quốc sách hàng đầu” “Đầu tư cho giáo dục cũng là đầu tư
cho phát triển”. Mục tiêu của giáo dục Việt Nam là đào tạo con người Việt
Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mĩ và nghề
nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và CNXH; hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng nhu cầu của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trong hơn 20 năm qua, giáo dục
đại học đã đổi mới toàn diện và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
phát triển cả về quy mô và chất lượng, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đổi
mới, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố QP - AN bảo vệ Tổ quốc. Bước vào
giai đoạn mới, công tác giáo dục - đào tạo có nhiều thời cơ thuận lợi mới.
Trước hết là chúng ta có điều kiện tiếp cận với những nguồn tri thức và thông
tin phong phú, phục vụ cho nâng cao chất lượng giảng dạy, nghiên cứu và học
tập; tiếp thu kinh nghiệm quản lý, phát triển giáo dục đại học của các nước
tiên tiến, từ đó vận dụng phù hợp với điều kiện của nước ta để phát triển hệ
thống giáo dục theo hướng “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”; đồng thời
tăng cường các điều kiện đảm bảo chất lượng, tiếp cận các chuẩn quốc tế,

sớm đưa giáo dục – đào tạo đại học nước ta lên trình độ tiên tiến. Tuy nhiên,
bên cạnh những thuận lợi, thời cơ đó, công tác giáo dục - đào tạo của nước ta
cũng đứng trước nhiều thách thức to lớn. Đó là nền kinh tế, khoa học – công
nghệ của nước ta còn hạn chế, khó cạnh tranh với sự thu hút và thâm nhập của
giáo dục nước ngoài, nhất là giáo dục đại học và sau đại học. Quá trình hội
nhập, chúng ta vừa tiếp thu những tinh hoa, trí tuệ của nhân loại, vừa phải giữ
vững độc lập tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm được các mục
tiêu của nền giáo dục XHCN, công bằng xã hội trong giáo dục, bảo vệ quyền
lợi của người học, lợi ích giáo dục của quốc gia, giữ gìn và phát huy những


17

giá trị và bản sắc văn hoá dân tộc. Cùng với đó, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
XHCN đang đặt ra những nhiệm vụ yêu cầu mới nặng nề hơn mà Đại hội X
của Đảng đã chỉ rõ là “bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN;
bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá và an ninh
xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm
thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bị bất
ngờ” [8, tr.108, 109].
1.1.4. Quá trình hình thành và phát triển môn giáo dục
quốc phòng và an ninh
Ngày 28/4/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh số 11/SL công bố
Luật Nghĩa vụ quân sự. Ngày 28/12/1961, Hội đồng Chính phủ đã kí ban hành
Nghị định số 219/CP về việc huấn luyện quân sự cho quân nhân dự bị và dân
quân tự vệ. Trong đó, Điều 3 quy định: “Trong các trường đại học và các
trường trung cấp chuyên nghiệp việc học tập quân sự phải đặt thành một môn
học chính”.
Khi đất nước chuyển sang thời bình, Đảng và Nhà nước đã chỉ đạo cần

phải điều chỉnh lại nội dung huấn luyện quân sự phổ thông cho phù hợp với
giai đoạn phát triển mới nhằm tăng cường nhận thức của học sinh về nền quốc
phòng toàn dân.
Năm 1991, chương trình giáo dục quốc phòng chính khoá được ban
hành theo Quyết định 2732/QĐ ngày 28/10/1991 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT
đã đánh dấu bước phát triển của môn học với những thay đổi lớn cả về tên
gọi, kết cấu chương trình và nội dung giáo dục. Theo đó, thời lượng của các
phần thực hành kĩ năng được giảm bớt, tăng thời lượng cho giáo dục truyền
thống và nhận thức về nền QPTD cho phù hợp với điều kiện phát triển mới
của đất nước. Cùng với những thay đổi về điều kiện kinh tế - xã hội của đất


18

nước, nội dung chương trình GDQP cho các bậc học ban hành theo Quyết
định 12/2000/QĐ - BGD&ĐT ngày 9/5/2000 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã
có sự thay đổi về chất, đáp ứng sát thực hơn trước yêu cầu phát triển.
Ngày 05/5/2006, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã kí ban hành Quyết định số
16/2006/QĐ-BGDĐT về Chương trình giáo dục phổ thông, trong đó có môn
học GDQP-AN. Như vậy, tên môn học GDQP-AN đã được hình thành.
Điều 2, Nghị định số 116/2007/NĐ - CP ngày 10 tháng 7 năm 2007 của
Chính phủ về GDQP-AN chỉ rõ “GDQP và AN là bộ phận của nền giáo dục
quốc dân, một nội dung cơ bản trong xây dựng nền QPTD, an ninh nhân dân;
là môn học chính khoá trong chương trình giáo dục, đào tạo Trung học phổ
thông đến Đại học và các Trường Chính trị, Hành chính, Đoàn thể”.
Ngày 24/12/2007 Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành Quyết định số
81/2007/QĐ-BGDĐT về chương trình GDQP-AN cho sinh viên các trường
đại học, cao đẳng nhằm cập nhật kiến thức quốc phòng và bổ sung những nội
dung về an ninh.
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định:

“Tăng cường quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của
Đảng, Nhà nước và toàn dân” [18].
Ngày 25 tháng 2 năm 2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
13/2014/NĐ-CP qui định chi tiết và biện pháp thi hành Luật GDQP-AN. Nội
dung của luật đã qui định rõ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ sở
giáo dục, đào tạo về GDQP-AN cho các đối tượng.
Thông qua GDQP-AN, giúp cho mỗi sinh viên xây dựng, củng cố lập
trường tư tưởng, ý thức chính trị, bồi dưỡng lí tưởng sống cao đẹp, phẩm chất
đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, lòng yêu nước và các kĩ năng quân sự
cần thiết. Qua đó, thấy rõ được trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; biết tránh xa những cám dỗ tầm


19

thường, những cạm bẫy của mặt trái cơ chế thị trường và những tiêu cực xã
hội đang diễn ra hiện nay; cảnh giác với những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù,
nhận biết và đấu tranh có hiệu quả với sự lôi kéo của các thế lực thù địch.
Thông qua GDQP-AN còn khơi dậy tinh thần tự tôn dân tộc trong mỗi sinh
viên, nhắc nhở họ không ngừng nỗ lực học tập, trau dồi kiến thức, tiếp thu
khoa học - công nghệ tiên tiến, dâng hiến hết mình cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc để đưa đất nước ta “sánh vai với các cường quốc năm châu”.
GDQP-AN còn giúp cho một bộ phận sinh viên khắc phục lối sống thực dụng,
đề cao tự do cá nhân để biết khép mình vào tổ chức, tôn trọng tập thể, có ý
thức tổ chức kỷ luật, biết sống vì mọi người và có ý chí phấn đấu vượt qua
mọi khó khăn để vươn lên trong học tập, trong cuộc sống và trong sự nghiệp.
* Những vấn đề cơ bản về giáo dục quốc phòng và an ninh
cho sinh viên
- Quan niệm chung về GDQP và AN:
Sinh viên nói chung, sinh viên Trường ĐHSPHN nói riêng là bộ phận

ưu tú của thế hệ trẻ Việt Nam được Đảng, Nhà nước rất quan tâm đào tạo, bồi
dưỡng thành nguồn nhân lực "vừa hồng, vừa chuyên" không chỉ đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội mà còn trở thành những người có ý chí,
bản lĩnh, quyết tâm chiến đấu, có đủ khả năng đóng góp vào sự nghiệp củng
cố, tăng cường tiềm lực QP-AN bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Thực tiễn những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã khẳng định
những đóng góp to lớn của môn huấn luyện quân sự phổ thông cho học sinh,
sinh viên vào thắng lợi vẻ vang của dân tộc.
Bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực, trong nước diễn biến
hết sức mau lẹ, khó lường. Hoà bình, hợp tác vẫn là xu thế lớn, nhưng xung
đột dân tộc, sắc tộc, chạy đua vũ trang, chiến tranh cục bộ, khủng bố vẫn xảy


20

ra ở nhiều nơi, đặc biệt là những diễn biến gần đây trên biển Đông đang đặt ra
yêu cầu mới cao hơn trong xây dựng nền QPTD, xây dựng, củng cố sức mạnh
QP-AN, bảo vệ Tổ quốc, trong đó việc giáo dục làm cho thế hệ trẻ, trước hết
là học sinh, sinh viên hiểu rõ trọng trách nặng nề, nhưng vinh quang trước vận
mệnh dân tộc; thiếu rõ âm mưu thủ đoạn của kẻ thù; nắm vững đường lối,
quan điểm của Đảng và có trình độ, năng lực để góp sức mình vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chính vì vậy, GDQP-AN cho sinh viên là một
yêu cầu không thể thiếu trong chương trình, nội dung đào tạo của các trường
đại học, cao đẳng để hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của con
người Việt Nam mới, kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng mà ông cha ta
đã đổ xương máu xây dựng nên.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ: "Tăng
cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trách nhiệm

và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và kiến thức QP-AN, làm cho
mọi người hiểu rõ những thách thức lớn tác động trực tiếp đến nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc trong điều kiện mới" [18, tr.234] và Nghị định số 13/2014/NĐ-CP
ngày 25/2/2014 của Chính phủ quy định: "GDQP-AN trong trường cao đẳng
nghề, cơ sở giáo dục đại học là môn học chính khoá" [10].
Từ những phân tích trên, có thể quan niệm: GDQP-AN cho sinh viên
ở Trường ĐHSPHN là môn học chính khoá trong chương trình đào tạo bao
gồm tổng thể những nội dung, hình thức, biện pháp của Đảng uỷ, Ban Giám
hiệu, các cơ quan chức năng, đội ngũ giảng viên môn GDQP-AN của nhà
trường tổ chức thực hiện nhằm trang bị, truyền thụ kiến thức, kỹ năng quân
sự, quốc phòng góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm và khả năng của
sinh viên tham gia vào sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam XHCN.


21

- Mục đích GDQP-AN là nâng cao ý thức trách nhiệm cho sinh viên
đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, trang bị những kiến thức về quân sự, quốc
phòng và rèn luyện một số kỹ năng và phẩm chất cần thiết cho hoạt động
quân sự, để họ có thái độ đúng đắn, có khả năng đóng góp vào nhiệm vụ xây
dựng tiềm lực và thế trận của nền QPTD của nước ta hiện nay. Đó cũng là
một yêu cầu không thể thiếu trong mục tiêu đào tạo của Trường ĐHSPHN.
Thông qua GDQP-AN còn góp phần hình thành và phát triển nhân cách con
người Việt Nam mới, có đạo đức, có sức khoẻ; đồng thời hình thành ở họ ý
thức, tri thức về quốc phòng, kỹ năng hoạt động quân sự cần thiết để tham gia
vào sự nghiệp xây dựng, củng cố nền QPTD, sẵn sảng tham gia LLVT bảo vệ
Tổ quốc. GDQP-AN cho sinh viên, trước hết nhằm góp phần củng cố vững
chắc trận địa tư tưởng; nâng cao ý thức trách nhiệm trong học tập, rèn luyện;
xây dựng tinh thần tập thể, nếp sống kỷ luật, văn hoá, lành mạnh, tinh thần

đoàn kết, tương thân, tương ái trong tập thể; hỗ trợ, bổ sung kiến thức tạo điều
kiện hoàn thành các môn học khác và ý thức trong tham gia giữ gìn an ninh
trật tự, an toàn xã hội trong Nhà trường cũng như trên địa bàn. Trên cơ sở kết
quả GDQP-AN đã lĩnh hội, sau này, khi đã ra trường, trên cương vị người
giáo viên, người giảng viên ở các cơ sở đào tạo sẽ có điều kiện làm tốt nhiệm
vụ tuyên truyền, giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc cho thế hệ trẻ và tham gia
tích cực vào nhiệm vụ xây dựng nền QPTD bảo vệ Tổ quốc.
- Chủ thể GDQP-AN cho sinh viên ở Trường ĐHSPHN là đảng uỷ, ban
giám hiệu, các cơ quan chức năng, Khoa GDQP của Nhà trường. Bộ GD&ĐT
mà trực tiếp là Vụ Giáo dục quốc phòng (Vụ I) quản lý, chỉ đạo về chuyên
môn GDQP, đảng uỷ, ban giám hiệu Trường ĐHSPHN trực tiếp quản lý, chỉ
đạo toàn diện các cơ quan chức năng, khoa GDQP trong thực hiện nhiệm vụ
GDQP-AN cho sinh viên.
Theo Quyết định số 81 ngày 24/12/2007 của Bộ GD&ĐT, đảng uỷ, ban
giám hiệu (mà trực tiếp là hiệu trưởng) nhà trường chỉ đạo phòng Đào tạo


22

phối hợp với khoa GDQP để xây dựng kế hoạch chi tiết thực hiện GDQP-AN
cho sinh viên; đồng thời chỉ đạo việc kiểm tra thực hiện kế hoạch giảng dạy
môn học GDQP-AN của đội ngũ giảng viên.
Các cơ quan chức năng, đặc biệt là phòng đào tạo - quản lý sinh viên
theo chỉ đạo của đảng uỷ, ban giám hiệu có trách nhiệm xây dựng kế hoạch
giảng dạy trong năm học và cả khoá học; phối hợp với các cơ quan khác tổ
chức thực hiện kế hoạch giảng dạy; sắp xếp lịch giảng dạy; bố trí phòng học,
thao trường, bãi tập, đồ dùng dạy học; lập kế hoạch đảm bảo cơ sở vật chất,
thiết bị học tập; đôn đốc thực hiện kế hoạch kiểm tra, thi; lưu trữ bài thi và
danh sách cấp phát chứng chỉ GDQP-AN; tham mưu cho ban giám hiệu và tổ
chức các hoạt động thanh tra GDQP-AN.

- Lực lượng trực tiếp GDQP-AN cho sinh viên là đội ngũ giảng viên ở
Khoa GDQP và cán bộ quản lý lớp học. Khoa GDQP có chức năng nghiên
cứu, giảng dạy môn GDQP-AN cho sinh viên theo kế hoạch. Để thực hiện
chức năng, Khoa GDQP xây dựng chương trình chi tiết, điều hành và tổ chức
thực hiện kế hoạch giảng dạy đã được phê duyệt, bố trí giảng viên giảng dạy
phù hợp với khả năng chuyên môn của từng người, thực hiện kế hoạch kiểm
tra, thi và đánh giá kết quả học tập của sinh viên. Tổng hợp kết quả học tập và
rèn luyện của sinh viên báo cáo với cơ quan chức năng. Đội ngũ giảng viên
GDQP-AN cho sinh viên ở Trường ĐHSPHN hiện nay là những sĩ quan quân
đội biệt phái, giảng viên của các học viện, nhà trường quân đội đang công tác
hoặc đã nghỉ hưu giảng dạy theo chế độ hợp đồng, thỉnh giảng. Nhiệm vụ của
họ là chuẩn bị tốt bài giảng được phân công và trực tiếp giảng dạy; chịu trách
nhiệm cá nhân về nội dung giảng dạy. Cán bộ phụ trách lớp, cán bộ quản lý
sinh viên chịu trách nhiệm quản lý, rèn luyện sinh viên ngoài giờ và tổ chức
các hoạt động ngoại khoá trong giai đoạn huấn luyện thực hành.


23

- Nội dung GDQP-AN cho sinh viên: Xuất phát từ vị trí, vai trò và mục
tiêu GDQP-AN cho sinh viên, nội dung GDQP-AN cho sinh viên Trường
ĐHSPHN bao gồm ba khối kiến thức lớn. Đó là những vấn đề chủ yếu về
đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng; những tri thức, tư duy quân sự,
quốc phòng cần thiết và một số kỹ năng hoạt động quân sự cơ bản. Khối kiến
thức đó bao gồm: những nội dung cơ bản về quốc phòng; truyền thống đấu
tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc; trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân
về bảo vệ Tổ quốc; nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; có ý thức
cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; kiến thức cơ bản
về đường lối quốc phòng và công tác quản lý nhà nước về quốc phòng, về lực
lượng vũ trang nhân dân; những kỹ năng quân sự cần thiết để tham gia vào sự

nghiệp xây dựng, củng cố nền QPTD. Để thực hiện được những nội dung đó,
Bộ GD&ĐT quy định cụ thể chương trình môn học GDQP-AN tại Quyết định
81 ngày 24/ 12/ 2007. Theo quyết định đó, sinh viên các trường đại học nói
chung, Trường ĐHSPHN nói riêng sẽ học chương trình 165 tiết với 4 học
phần, 11 học trình. Nội dung học phần 1 là Đường lối quân sự của Đảng, bao
gồm những vấn đề cơ bản học thuyết Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc; các quan điểm của Đảng về chiến
tranh nhân dân, nền QPTD, xây dựng LLVT nhân dân; các quan điểm về kết
hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh. Học
phần 2 là nội dung công tác QP-AN bao gồm vấn đề tăng cường tiềm lực cơ sở
vật chất cho quốc phòng, phòng chống chiến tranh công nghệ cao, chiến lược
“diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch chống phá cách
mạng Việt Nam, xây dựng LLVT quần chúng. Học phần 3 là các nội dung quân
sự chung như: đội ngũ, sử dụng bản đồ quân sự, một số loại vũ khí bộ binh,
phòng chống vũ khí huỷ diệt lớn, cấp cứu ban đầu các vết thương. Học phần 4 là
nội dung kỹ thuật bắn súng tiểu liên AK và chiến thuật cá nhân trong chiến đấu
tấn công, chiến đấu phòng ngự.


24

Theo Thông tư số: 31/2012/TT-BGDĐT ngày 12 tháng 9 năm 2012 của
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, quy định về đối tượng, mục tiêu, số lượng
học phần tín chỉ và đánh giá kết quả học tập môn học giáo dục quốc phòng và an
ninh. Chương trình bao gồm 3 học phần, thời lượng là 8 tín chỉ.
Học phần 1: Đường lối quân sự của Đảng ( 3 tín chỉ); học phần 2: Công
tác quốc phòng, an ninh ( 2 tín chỉ); học phần 3: Quân sự chung và chiến thuật,
kỹ thuật bắn súng tiểu liên AK ( CKC ), ( 3 tín chỉ).
- Hình thức, biện pháp GDQP-AN: Để tổ chức thực hiện các nội dung
GDQP-AN đạt được mục đích, yêu cầu đã xác định đòi hỏi hình thức biện pháp

GDQP-AN phải hết sức đa dạng, phong phú. GDQP-AN cho sinh viên bao
gồm cả lý thuyết và thực hành. Các nội dung lý thuyết được tổ chức với hình
thức học tập trung trên giảng đường như các môn học khác, với phương pháp
thuyết trình có sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin, tranh vẽ là chủ
yếu. Các nội dung thực hành thường tổ chức luyện tập trên thao trường, bãi tập,
phòng tập điện tử. Cùng với những hình thức cơ bản trên, GDQP-AN cho sinh
viên còn được tổ chức bằng các hình thức khác như: thảo luận, toạ đàm, diễn
đàn, hội thao quốc phòng, tự nghiên cứu, nghiên cứu thực tế, thi tìm hiểu lịch
sử, truyền thống, tham quan các di tích lịch sử trên địa bàn, thăm Bảo tàng lịch
sử quân sự, bảo tàng của một số quân, binh chủng, giao lưu với cán bộ, chiến sĩ
các đơn vị quân đội, rèn luyện thông qua các hoạt động quân sự có trong
chương trình, tham gia các câu lạc bộ thể thao mang tính quốc phòng…
GDQP-AN cho sinh viên còn được thực hiện thông qua các môn học khác,
nhất là những môn khoa học xã hội và nhân văn, khoa học kỹ thuật – công
nghệ gần với chuyên môn quân sự và qua các phương tiện thông tin đại chúng
1.1.5. Sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và giáo dục quốc
phòng và an ninh cho sinh viên ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
* Một số nét về Trường Đại học Sư phạm Hà Nội


25

Trường ĐHSPHN được thành lập ngày 11/10/1951 theo Nghị định số
276 của Bộ Quốc gia Giáo dục . Ngày 10 tháng 12 năm 1993 theo Nghị định
số 97/CP của Chính phủ, Trường ĐHSPHN I là một thành viên thuộc Đại học
Quốc gia Hà Nội. Theo Quyết định số 201/QĐTTg ngày 12 tháng 10 năm
1999 của Thủ tướng Chính phủ, Trường ĐHSPHN tách khỏi Đại học Quốc
gia Hà Nội thành trường độc lập, trực thuộc Bộ GD&ĐT.
Hơn 60 năm xây dựng và trưởng thành, Trường ĐHSPHN đã không
ngừng lớn mạnh về mọi mặt. Nhà trường là nơi đào tạo nguồn nhân lực và bồi

dưỡng nhân tài cho cả nước về nghiệp vụ sư phạm, xứng đáng là nhà trường
trọng điểm quốc gia.
+ Tổ chức của nhà trường gồm:
ĐẢNG ỦY

CÔNG ĐOÀN

CÁC ĐƠN VỊ
ĐÀO TẠO

BAN GIÁM HIỆU

PHÒNG BAN
CHỨC NĂNG

ĐOÀN THANH NIÊN

CÁC ĐƠN VỊ
PHỤC VỤ Đ.TẠO

CÁC ĐƠN VỊ
NCKH

+ Trường ĐHSPHN có chức năng, nhiệm vụ
- Đào tạo giáo viên các cấp học từ mầm non đến đại học, các chuyên
gia giáo dục, quản lí giáo dục, các cán bộ nghiên cứu khoa học cơ bản, khoa
học giáo dục có trình độ đại học, sau đại học; bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm
cho các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học; bồi dưỡng
nâng cao trình độ cho giáo viên các cấp; phát huy vai trò của trường trọng
điểm, đầu ngành trong hệ thống các trường đại học, cao đẳng của cả nước



×