Tải bản đầy đủ (.doc) (125 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý HOẠT ĐỘNG bồi DƯỠNG NÂNG CAO NĂNG lực sư PHẠM CHO GIÁO VIÊN các TRƯỜNG mầm NON ở QUẬN hà ĐÔNG, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (615.99 KB, 125 trang )

MỤC LỤC

Trang

3

MỞ ĐẦU
Chương 1.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÍ BỒI DƯỠNG NĂNG
LỰC SƯ PHẠM CHO GIÁO VIÊN CÁC TRƯỜNG
MẦM NON

1.1. Các khái niệm cơ bản

12
12

1.2. Nội dung quản lý bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo

viên các trường mầm non
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý bồi dưỡng năng
lực sư phạm cho giáo viên các trường mầm non
Chương 2:

24
30

CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ BỒI DƯỠNG
NĂNG LỰC SƯ PHẠM CHO GIÁO VIÊN CÁC
TRƯỜNG MẦM NON, QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH


PHỐ HÀ NỘI

37

2.1. Khái quát về giáo dục mầm non quận Hà Đông, thành

phố Hà Nội
2.2. Thực trạng bồi dưỡng và quản lí bồi dưỡng năng lực sư
phạm cho giáo viên các trường mầm non quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội

37

40

Chương 3. BIỆN PHÁP VÀ KHẢO NGHIỆM BIỆN PHÁP QUẢN
LÝ BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC SƯ PHẠM CHO GIÁO
VIÊN CÁC TRƯỜNG MẦM NON, QUẬN HÀ ĐÔNG,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1. Biện pháp quản lí bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo
viên các trường mầm non, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
3.2. Khảo nghiệm sự cần thiết và tính khả thi của các biện
pháp đã đề xuất
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

68
68

95
104
107
111


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục một cách
toàn diện là nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu trước mắt và mang tính chiến lược
lâu dài nhằm thực hiện thành công chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn
từ nay đến năm 2020. Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục đào tạo. Họ là người biến các chủ trương, các chương trình cải cách, đổi
mới giáo dục thành hiện thực và sản phẩm lao động của họ là nhân cách
học sinh, một loại sản phẩm đặc biệt có ý nghĩa quyết định đối với tương
lai của dân tộc. Điều 14 của Luật giáo dục ghi: "Nhà giáo giữ vai trò quyết
định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục" [32]. Có đội ngũ giáo viên
đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu và hết lòng vì sự
nghiệp trồng người sẽ là điều kiện đảm bảo thực hiện thắng lợi của sự
nghiệp phát triển giáo dục. Bởi vậy, vấn đề xây dựng và phát triển đội ngũ
giáo viên cần phải được đặc biệt quan tâm.
Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình
cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn
bị cho trẻ vào học lớp một. Muốn đạt được mục tiêu trên, việc đầu tiên cần
phải chăm lo phát triển NLSP cho đội ngũ giáo viên, bởi vì giáo viên là nhân
tố quyết định trực tiếp đến quá trình hình thành phát triển nhân cách trẻ. Để
phát triển giáo dục mầm non một cách bền vững, người giáo viên phải có kiến
thức văn hóa cơ bản, phải được trang bị một hệ thống tri thức khoa học nuôi
dạy trẻ. Phải có lập trường tư tưởng vững vàng, yêu nghề và mến trẻ, quí trẻ
như con, phải nhiệt tình, chu đáo và dễ hòa nhập cùng với trẻ là cơ sở cho việc
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ mầm non.

Như vậy, để có đội ngũ GVMN đạt chuẩn, đáp ứng yêu cầu "đổi mới
giáo dục" thì nhiệm vụ trước mắt là phải làm tốt công tác bồi dưỡng đội ngũ
giáo viên. Có nhiều nội dung bồi dưỡng giáo viên, song theo chúng tôi, bồi

3


dưỡng NLSP cho GVMN là khâu hết sức quan trọng. Bởi lẽ nó quyết định tay
nghề và kỹ năng nghề nghiệp của đội ngũ những người “ dạy người, trồng
người". Ở bậc học này so với các bậc học khác yêu cầu về kiến thức khoa học
không nhiều nhưng yêu cầu về NLSP lại rất cao, nó ảnh hưởng rất lớn đến
việc hình thành nhân cách ban đầu của trẻ.
Thực tế cho thấy ở các trường mầm non trên địa bàn quận Hà Đông, đội
ngũ giáo viên tuy đã được chuẩn hoá về bằng cấp nhưng phương pháp giáo dục
trẻ còn gò bó áp đặt, một số giáo viên tuổi đời cao nên ngại đổi mới, các giáo
viên trẻ còn thiếu kinh nghiệm trong việc chăm sóc giáo dục trẻ dẫn đến chất
lượng chưa đáp ứng được với yêu cầu đổi mới của giáo dục hiện nay. Mặt
khác, công tác bồi dưỡng và quản lí bồi dưỡng NLSP cho GVMN của quận Hà
Đông hàng năm vẫn được thực hiện nhưng hiệu quả còn chưa cao, đặc biệt
trước yêu cầu đổi mới giáo dục thì cong tác lãnh đạo, chỉ đạo bồi dưỡng NLSP
cho GVMN cần phải được chú trọng nhiều hơn nữa...
Trong thời gian vừa qua đã có không ít công trình nghiên cứu về năng
lực sư phạm, bồi dưỡng và quản lí hoạt động bồi dưỡng NLSP cho giáo viên,
tuy nhiên cho tới nay chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách có
hệ thống về cơ sở lí luận và thực tiễn vấn đề quản lí bồi dưỡng NLSP cho
GVMN quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Chính vì vậy, tác giả đã chọn
nghiên cứu đề tài: "Quản lý bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên các
trường mầm non, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội" với hy vọng góp phần
nâng cao chất lượng đội ngũ GVMN trên địa bàn quận Hà Đông hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Qua hơn nửa thế kỉ xây dựng và phát triển, nước ta đã xây dựng được
một hệ thống giáo dục liên thông và hoàn chỉnh từ GDMN đến đại học đáp
ứng nhu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất
nước. Trong suốt quá trình đó, hệ thống giáo dục ở các cấp học, trong đó có

4


GDMN không ngừng phát triển với quan điểm: Chất lượng đội ngũ giáo viên
là nhân tố quan trọng quyết định chất lượng giáo dục.
Trong thời gian qua, ở Việt Nam đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên
cứu về NLSP, bồi dưỡng NLSP, quản lí bồi dưỡng NLSP cho giáo viên ở các
cấp học, bậc học từ tiểu học đến đại học; đồng thời một số tác giả đi sâu
nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đội ngũ GVMN, giáo dục trẻ mầm
non....Tiêu biểu là các tác giả với công trình nghiên cứu như:
Tác giả Nguyễn Thị Hải với đề tài: “Bồi dưỡng năng lực sư phạm cho
giáo viên trung học chuyên nghiệp”.Tác giả đã đi sâu làm rõ vai trò của giáo
dục trung học chuyên nghiệp, vai trò của đội ngũ giáo viên trong quá trình
dạy học và để nâng cao chất lượng dạy học ở các trường trung học chuyên
nghiệp thì các chủ thể quản lí cần phải xây dựng chương trình bồi dưỡng
NLSP cho giáo viên, đồng thời tác giả đã đưa ra một số biện pháp bồi dưỡng
NLSP cho giáo viên trung học chuyên nghiệp.
Tác giả Nguyễn Quốc Nghị trong đề tài luận văn thạc sĩ:“Tổ chức hoạt
động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho đội ngũ giáo viên Trường Quân sự
Quân khu 4”, đã đi sâu làm rõ cơ sở lí luận về tổ chức hoạt động bồi dưỡng
NLSP cho giáo viên; chỉ ra thực trạng và những vấn đề đặt ra cho tổ chức
hoạt động bồi dưỡng NLSP cho giáo viên Trường Quân sự Quân khu 4. Trên
cơ sở đó tác giả đã đề xuất các biện pháp tổ chức hoạt động bồi dưỡng NLSP
cho giáo viên, đó là: Kế hoạch hóa hoạt động bồi dưỡng, tổ chức điều hành
hoạt động bồi dưỡng, kiểm tra, giám sát hoạt động bồi dưỡng và tạo điều kiện

sư phạm thuận lợi cho hoạt động bồi dưỡng NLSP cho giáo viên Trường
Quân sự Quân khu 4.
Tác giả Đỗ Thị Thanh Huyền với đề tài luận văn thạc sĩ: “Tổ chức hoạt
động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên tiểu học quận Ba Đình,
thành phố Hà Nội”. Đề tài đã tập trung làm rõ cơ sở lí luận về tổ chức hoạt
động bồi dưỡng NLSP cho giáo viên tiểu học; đánh giá thực trạng việc tổ
chức hoạt động bồi dưỡng NLSP cho giáo viên tiểu học quận Ba Đình, thành

5


phố Hà Nội và đề xuất được 6 biện pháp tổ chức hoạt động bồi dưỡng NLSP
cho giáo viên tiểu học là: nâng cao nhận thức và phát huy vai trò, trách nhiệm
của các lực lượng giáo dục trong tổ chức hoạt động bồi dưỡng NLSP cho đội
ngũ giáo viên; thực hiện tốt việc kế hoạch hóa hoạt động bồi dưỡng NLSP
cho đội ngũ giáo viên; tổ chức và điều hành tốt các hoạt động bồi dưỡng
NLSP cho đội ngũ giáo viên; thực hiện tốt công tác kiểm tra, đánh giá kết quả
hoạt động bồi dưỡng NLSP cho đội ngũ giáo viên; bảo đảm các điều kiện sư
phạm thuận lợi cho hoạt động bồi dưỡng NLSP cho đội ngũ giáo viên; thường
xuyên phát huy tính tích cực, chủ động của đội ngũ giáo viên tiểu học trong tự
bồi dưỡng NLSP.
Tác giả Lã Hồng Phương với đề tài luận án tiến sỹ:“Quản lí hoạt động
bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở
các trường đại học quân sự”. Tác giả xây dựng bộ khái niệm cơ bản về
NLSP, bồi dưỡng NLSP và quản lí hoạt động bồi dưỡng NLSP cho giảng
viên; đi sâu làm rõ các nội dung quản lí hoạt động bồi dưỡng NLSP cho giảng
viên; tổ chức đánh giá thực trạng quản lí hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
giảng viên KHXH&NV và đề xuất hệ thống các giải pháp quản lí hoạt động
bồi dưỡng NLSP cho giảng viên KHXH&NV ở các trường đại học quân sự
hiện nay.

Tác giả Lê Thị Kim Trinh với đề tài: “Tổ chức bồi dưỡng năng lực sư
phạm cho giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mĩ trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh”, luận văn thạc sĩ QLGD (2013). Đề tài đã luận giải những vấn đề
cơ bản lí luận và thực tiễn về tổ chức hoạt động bồi dưỡng NLSP của giáo
viên dạy nghề trang điểm, trên cơ sở đó đề xuất 4 biện pháp tổ chức hoạt động
bồi dưỡng NLSP cho giảng viên dạy nghề trang điểm là: Xây dựng kế hoạch;
tổ chức thực hiện kế hoạch bồi dưỡng; kiểm tra, đánh giá hoạt động bồi
dưỡng và tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên tự bồi dưỡng NLSP.
Đề tài luận văn thạc sĩ “Quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên mầm
non huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên” của tác giả Cao Xuân Hoàng (2013) đã

6


đi sâu làm rõ các nội dung quản lý hoạt động bồi dưỡng GVMN như: Xây
dựng kế hoạch bồi dưỡng GVMN; quản lí thực hiện bồi dưỡng chuyên môn,
nghiệp vụ cho GVMN; quản lí đội ngũ giáo viên tham gia bồi dưỡng GVMN;
quản lí các điều kiện bảo đảm cho hoạt động bồi dưỡng và kiểm tra, đánh giá
kết quả họa động bồi dưỡng GVMN. Đồng thời, trên cơ sở phân tích thực
trạng hoạt động bồi dưỡng, tác giả đã đề xuất được 5 biện pháp quản lí bồi
dưỡng GDMN Huyện Văn Lâm, Tỉnh Hưng Yên.
Tác giả Nguyễn Thị Hồng Trang với đề tài: Quản lí hoạt động bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên mầm non công lập quận Ba
Đình, thành phố Hà Nội” (2014), đề tài đã đi sâu làm rõ cơ sở lí luận và thực
tiễn về quản lí hoạt động bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ
GVMN công lập, trên cơ sở đó đề xuất được 5 biện pháp quản lí hoạt động
bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ GVMN công lập quận Ba
Đình, thành phố Hà Nội.
Đề tài luận văn thạc sĩ: Quản lí xã hội hóa giáo dục mầm non ngoài công
lập trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội” (2015), của tác giả

Đường Thị Lệ đã tập trung làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn về quản lí xã hội
hóa giáo dục mầm non, từ đó đề xuất các biện pháp quản lí xã hội hóa GDMN
ngoài ngoài công lập trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội hiện nay.
Tác giả Vũ Thị Hồng Loan với đề tài luận văn thạc sĩ: “Hiệu trưởng trong
quản lí chăm sóc - giáo dục trẻ mầm non công lập quận Hà Đông, thành phố Hà
Nội” (2015), đã tập trung làm rõ vai trò của Hiệu trưởng và những nội dung
quản lí chăm sóc - giáo dục trẻ mầm non công lập mà Hiệu trưởng cần tập trung
trong công tác quản lí nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lí chăm sóc giáo dục trẻ mầm non công lập trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội....
Từ việc khái quát các công trình nghiên cứu nêu trên, có thể rút ra một số
nhận xét sau:
- Các công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung làm rõ cơ sở lí luận, thực
tiễn về NLSP, bồi dưỡng NLSP cho đội ngũ giáo viên. Một số đề tài đi sâu

7


vào công tác bồi dưỡng NLSP và quản lí bồi dưỡng NLSP cho giáo viên ở
từng lĩnh vực, bậc học cụ thể, địa bàn cụ thể.
- Vấn đề bồi dưỡng NLSP và quản lí hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
giáo viên được các tác giả luận giải nhiều về cơ sở lí luận. Còn ít các công
trình nghiên cứu tập trung giải quyết những vấn đề thời sự, cấp bách của thực
tiễn từng trường từng lĩnh vực cụ thể trong việc chỉ ra con đường, cách thức
biện pháp để bồi dưỡng và quản lí tốt việc bồi dưỡng NLSP cho giáo viên góp
phần nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên.
- Vấn đề GDMN và quản lí GDMN đã có một số công trình nghiên cứu ở
các khía cạnh khác nhau, nhưng việc đi sâu làm rõ những vấn đề lí luận, thực
tiễn bồi dưỡng NLSP và quản lí bồi dưỡng NLSP cho giáo viên các trường
mầm non, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội đến nay chưa có công trình nào
nghiên cứu.
Do vậy, đề tài:"Quản lý bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên

các trường mầm non, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội" là nội dung mới,
đáp ứng đòi hỏi từ thực tế việc bồi dưỡng và quản lí bồi dưỡng NLSP cho
giáo viên các trường mầm non, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lí luận và thực tiễn về quản lí bồi
dưỡng NLSP cho giáo viên các trường mầm non quận Hà Đông, đề xuất
những biện pháp quản lý bồi dưỡng NLSP cho giáo viên các trường mầm non,
góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ trong các trường mầm
non, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận về quản lí bồi dưỡng NLSP cho giáo viên các
trường mầm non, quận Hà Đông.

8


Khảo sát, đánh giá thực trạng bồi dưỡng NLSP và quản lí bồi dưỡng
NLSP cho giáo viên các trường mầm non, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
hiện nay.
Đề xuất và khảo nghiệm biện pháp quản lý bồi dưỡng NLSP cho giáo
viên các trường mầm non, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quản lí bồi dưỡng giáo viên các trường mầm non, quận Hà Đông, thành
phố Hà Nội.
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý bồi dưỡng NLSP cho giáo viên các trường mầm non, quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu

Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề quản lí bồi dưỡng NLSP cho giáo
viên các trường mầm non, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
Thời gian nghiên cứu, khảo sát và các số liệu thống kê, minh chứng sử
dụng trong đề tài luận văn được tính trong 3 năm (từ năm 2013 - 2016).
5. Giả thuyết khoa học
Hiện tại NLSP của GVMN quận Hà Đông còn chưa đáp ứng được yêu
cầu đổi mới GDMN. Do đó, nếu trong quản lí bồi dưỡng NLSP cho giáo viên
các trường mầm non, các chủ thể quản lí thực hiện đồng bộ những vấn đề
như: Nâng cao nhận thức của các chủ thể trong quản lí bồi dưỡng NLSP cho
GVMN; Kế hoạch hóa hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN; Chỉ đạo đổi
mới nội dung, hình thức, phương pháp bồi dưỡng NLSP cho GVMN; Đầu tư
về tài chính, cơ sở vật chất phục vụ cho bồi dưỡng NLSP của GVMN; Chỉ
đạo hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả dưỡng NLSP cho GVMN thì sẽ
quản lí tốt việc bồi dưỡng NLSP cho GVMN, góp phần nâng cao chất lượng
đội ngũ GVMN ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội hiện nay.

9


6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
GD&ĐT và những vấn đề lý luận về NLSP và quản lí bồi dưỡng NLSP cho
giáo viên. Đồng thời, tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận nghiên cứu
khoa học xã hội nhân văn, các quan điểm hệ thống cấu trúc, quan điểm hoạt
động; tiếp cận lịch sử, tiếp cận quá trình, tiếp cận thực tiễn làm cơ sở cho việc
tiếp cận đối tượng nghiên cứu, luận giải các nhiệm vụ khoa học của đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phối hợp các nhóm phương pháp nghiên cứu sau:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết, bao gồm:

Phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá, khái quát hoá tài liệu có
liên quan đến lý luận về bồi dưỡng và quản lí bồi dưỡng NLSP cho giáo viên các
trường mầm non. Chú trọng nghiên cứu các tài liệu, báo cáo như: kế hoạch phát
triển GDMN của quận Hà Đông, chính sách bồi dưỡng NLSP cho GVMN, kế
hoạch quản lí bồi dưỡng NLSP cho giáo viên các trường mầm non và qui hoạch
phát triển GDMN ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội đến năm 2020.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn, bao gồm:
Phương pháp quan sát sư phạm: Tác giả đã tiến hành quan sát các hoạt
động bồi dưỡng NLSP cho đội ngũ giáo viên của nhà trường và tự tổ chức bồi
dưỡng NLSP của giáo viên trong các năm học.
Trưng cầu ý kiến bằng phiếu hỏi: Sử dụng phiếu trưng cầu ý kiến để khảo sát
120 CBQL và 150 giáo viên ở các trường mầm non trên địa bàn quận Hà Đông.
Nội dung trưng cầu về thực trạng bồi dưỡng NLSP và quản lí bồi dưỡng NLSP
cho giáo viên các trường mầm non quận Hà Đông, thành phố Hà Nội hiện nay.
Phỏng vấn, trao đổi trực tiếp đối với 5 cán bộ quản lý giáo dục ở các cơ
quan như Sở GD&ĐT thành phố, Phòng GD&ĐT quận Hà Đông và 25 giáo

10


viên ở một số trường mầm non của quận Hà Đông về các vấn đề liên quan đến
nội dung nghiên cứu của đề tài.
Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến của một số nhà khoa học, giáo viên,
cán bộ quản lý có bề dày kinh nghiệm về một số vấn đề lý luận và thực tiễn
có liên quan đến việc nghiên cứu đề tài.
Tổng hợp kinh nghiệm thực tiễn, thống kê các số liệu để làm rõ thực
trạng, rút ra nguyên nhân hạn chế, bất cập trong tổ chức hoạt động bồi dưỡng
và quản lí hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN làm cơ sở xác lập các biện
pháp quản lí hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN.
Phương pháp hỗ trợ

Dùng phương pháp xử lí số liệu bằng thống kê toán học để xử lý, phân
tích các thông tin thu thập được trong quá trình nghiên cứu thực trạng và khảo
nghiệm tính cần thiết, tính khả thi của các biện pháp đã đề xuất.
7. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần làm rõ cơ sở lý luận trong
hướng nghiên cứu về bồi dưỡng NLSP và quản lí bồi dưỡng NLSP cho giáo
viên các trường mầm non; cung cấp những luận cứ khoa học, giúp cho CBQL
Phòng, Sở Giáo dục, các Hiệu trưởng trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức bồi
dưỡng NLSP cho GVMN, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ GVMN.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các nhà quản lí để tiến
hành có hiệu quả bồi dưỡng NLSP và quản lí bồi dưỡng NLSP cho giáo viên
các trường mầm non.
8. Kết cấu của đề tài
Luận văn được kết cấu gồm phần mở đầu, 3 chương (7 tiết), kết luận,
kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

11


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ BỒI DƯỠNG
NĂNG LỰC SƯ PHẠM CHO GIÁO VIÊN CÁC TRƯỜNG MẦM NON
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Năng lực sư phạm của giáo viên mầm non
* Giáo viên mầm non
Giáo viên là những người lao động trí óc, thực hiện nhiệm vụ dạy học
trong các nhà trường. Theo Luật Giáo dục (đã được sửa đổi, bổ sung năm
2009) định nghĩa: Nhà giáo giảng dạy ở các cơ sở GDMN, giáo dục phổ thông,
giáo dục nghề nghiệp trình độ sơ cấp nghề, trung cấp nghề, trung cấp chuyên
nghiệp gọi là giáo viên [29, tr.94]. GVMN là người làm nhiệm vụ chăm sóc

giáo dục trẻ trong các trường mầm non gồm: Hiệu trưởng, phó Hiệu trưởng và
giáo viên.
GVMN là người thầy đầu tiên đặt nền móng cho việc đào tạo nhân cách
con người cho xã hội tương lai. Nhân cách con người trong xã hội tương lai
như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào nền móng này.
Trong trường mầm non, người giáo viên giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ
chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ. Theo đó, GVMN cần phải có cả
phẩm chất chính trị, đạo đức, kiến thức và kĩ năng sư phạm. Cụ thể là:
- Yêu cầu về lĩnh vực phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống: Nhận
thức tư tưởng chính trị, thực hiện trách nhiệm của một công dân, một nhà giáo
đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chấp hành pháp luật chính
sách của nhà nước. Chấp hành các quy định của ngành, quy định của nhà
trường kỷ luật lao động. Có đạo đức, nhân cách và lối sống lành mạnh,
trong sáng của nhà giáo, có ý thức phấn đấu vươn lên trong nghề nghiệp.
Trung thực trong công tác, đoàn kết trong quan hệ với đồng nghiệp, tận tình
phục vụ nhân dân và trẻ.

12


- Yêu cầu thuộc về lĩnh vực kiến thức: Kiến thức cơ bản thuộc về giáo
dục mầm non. Kiến thức về chăm sóc sức khỏe trẻ lứa tuổi mầm non. Kiến
thức cơ sở chuyên ngành. Kiến thức về phương pháp về phát triển GDMN.
Kiến thức phổ thông về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội liên quan đến
GDMN.
- Yêu cầu thuộc lĩnh vực kỹ năng sư phạm:
Lập kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ: lập kế hoạch chăm sóc giáo dục
trẻ theo năm học thể hiện mục tiêu và nội dung chăm sóc, giáo dục trẻ của
lớp mình phụ trách; lập kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ theo tháng, tuần;
lập kế hoạch một ngày theo hướng tích hợp, phát huy tính tích cực của trẻ;

lập kế hoạch phối hợp với cha mẹ của trẻ để thực hiện mục tiêu chăm sóc,
giáo dục trẻ.
Kỹ năng tổ chức thực hiện các hoạt động chăm sóc sức khỏe cho trẻ:
biết tổ chức môi trường nhóm, lớp đảm bảo vệ sinh và an toàn cho trẻ; biết tổ
chức giấc ngủ, bữa ăn đảm bảo vệ sinh, an toàn cho trẻ; biết hướng dẫn trẻ rèn
luyện một số kỹ năng tự phục vụ; biết phòng tránh và xử trí ban đầu một số
bệnh, tai nạn, thường gặp đối với trẻ.
Kỹ năng tổ chức hoạt động giáo dục trẻ: biết tổ chức các hoạt động
giáo dục trẻ theo hướng thích hợp, phát huy tính tích cực, sáng tạo của trẻ;
biết tổ chức môi trường giáo dục phù hợp với điều kiện của nhóm, lớp; biết sử
dụng hiệu quả đồ dùng, đồ chơi (kể cả đồ dùng, đồ chơi tự làm) và các
nguyên vật liệu vào việc tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ; biết quan sát,
đánh giá và có phương pháp chăm sóc, giáo dục trẻ phù hợp.
Kỹ năng quản lý lớp học: đảm bảo an toàn cho trẻ; xây dựng và thực
hiện kế hoạch quản lý nhóm, lớp gắn với kế hoạch hoạt động chăm sóc, giáo
dục trẻ; quản lý và sử dụng hiệu quả hồ sơ cá nhân, nhóm, lớp; sắp xếp, bảo
quản đồ dùng, đồ chơi, sản phẩm của trẻ phù hợp với mục đích chăm sóc,
giáo dục.

13


Kỹ năng giao tiếp, ứng xử với trẻ, đồng nghiệp, phụ huynh và cộng
đồng. bao gồm các tiêu chí sau: có kỹ năng giao tiếp, ứng xử với trẻ một cách
gần gũi, tình cảm; có kỹ năng giao tiếp, ứng xử với đồng nghiệp một cách
chân tình, cởi mở, thẳng thắn, gần gũi, tôn trọng và hợp tác trong giao tiếp;
ứng xử với cha mẹ trẻ, giao tiếp, ứng xử với cộng đồng trên tinh thần hợp tác.
Đồng thời, thông qua giao tiếp với trẻ, giáo viên phải biết phát hiện năng
khiếu ban đầu, định hướng cho sự phát triển nhân cách của trẻ, uốn nắn vun
đắp tâm hồn trẻ phát triển lành mạnh..v.v.v.

Trong thực tế cho thấy, không có một bậc học nào mà giữa người dạy
và người học lại có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó mật thiết như bậc học mầm
non. Quan hệ giữa giáo viên và trẻ vừa là quan hệ thầy trò, vừa là quan hệ bạn
bè, vừa là quan hệ “mẹ con trong gia đình”. Trong mối quan hệ ấy, tâm lý nhân cách trẻ được hình thành và phát triển, hình ảnh của GVMN là những
dấu ấn tuổi thơ, sẽ in đậm mãi mãi trong tâm trí của mỗi con người. Để thực
hiện tốt hoạt động sư phạm mầm non, vai trò của GVMN thật không đơn
giản, thực hiện được nó đòi hỏi GVMN phải dựa trên cơ sở những tri thức,
những kĩ năng chăm sóc giáo dục trẻ, nắm vững những thàng tựu khoa học
tâm lý giáo dục hiện đại về trẻ mầm non, đồng thời phải am hiểu đặc điểm và
trình độ phát triển về mọi mặt của trẻ em ở lứa tuổi này. Theo K.Đ.Usinxki:
“Muốn giáo dục con người về mọi phương diện thì trước hết phải hiểu con
người về mọi phương diện”. Như vậy, muốn đạt được hiệu quả dạy dỗ và giáo
dục như mong muốn thì giáo viên phải nghiên cứu và hiểu rất rõ các đặc điểm
phát triển của trẻ, lựa chọn đúng những tác động sư phạm mềm dẻo, phát huy
tối đa tiềm năng của trẻ và vai trò chủ đạo của mình.
GVMN còn có nhiệm vụ thực hiện theo chương trình và kế hoạch nuôi
dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ em theo lứa tuổi; thực hiện đúng quy chế
chuyên môn và chấp hành nội quy của trường; bảo vệ an toàn tuyệt đối tính
mạng của trẻ em; gương mẫu, yêu thương, tôn trọng và đối xử công bằng với

14


trẻ; chủ động phối hợp với gia đình trẻ trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc giáo
dục và tuyên truyền phổ biến kiến thức nuôi dạy trẻ theo khoa học cho các
bậc cha mẹ. Đồng thời, GVMN còn có nhiệm vụ rèn luyện đạo đức, học tập
văn hóa, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao chất lượng và hiệu
quả nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ; thực hiện các quyết định của nhà
trường, chịu sự kiểm tra của nhà trường và của các cấp quản lý giáo dục; thực
hiện các quy định khác của pháp luật..v.v.v.

* Năng lực sư phạm
Năng lực nói chung, NLSP sư phạm nói riêng là một trong những vấn đề
phức tạp, được nhiều nhà khoa học tập trung đi sâu nghiên cứu:
Trong từ điển Tâm lý học (Vũ Dũng)(chủ biên) cho rằng: “Năng lực là
tập hợp tính chất hay phẩm chất của tâm lý cá nhân, đóng vai trò là điều kiện
bên trong, tạo thuận lợi cho việc thực hiện tốt một dạng hoạt động nhất định”
[11; tr.160].
Tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng: “Năng lực chính là một tổ hợp đặc
điểm tâm lý của con người (Còn gọi là tổ hợp thuộc tính tâm lý của một nhân
cách), tổ hợp đặc điểm này vận hành theo một mục đích nhất định tạo ra kết
quả một hoạt động nào đấy” [15; tr.145].
Theo tác giả Đặng Thành Hưng, năng lực (competency) là tổ hợp những
hành động vật chất và tinh thần tương ứng với dạng hoạt động nhất định dựa
vào những thuộc tính cá nhân (sinh học, tâm lí và giá trị xã hội) được thực
hiện tự giác và dẫn đến kết quả phù hợp với trình độ thực tế của hoạt động.
Trên cơ sở các quan niệm đã nêu trên, tác giả cho rằng: “Năng lực là
tổng hợp những đặc điểm tâm lý và sinh lý của cá nhân đáp ứng với những
yêu cầu của hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động ấy nhanh chóng
thành thạo và đạt kết quả cao”.
Về năng lực sư phạm, theo tác giả Hồ Ngọc Đại: “NLSP là khả năng làm
cho người học chỉ có thể và buộc phải sáng tạo lại cái mà loài người đã sáng tạo

15


ra trước đây. Theo đúng mẫu và quy trình công nghệ của nó. Những học sinh chỉ
có thể làm được việc ấy khi có thầy giáo tổ chức, hướng dẫn và tạo điều kiện cần
thiết khác, đó là bản chất của nghề sư phạm” [12, tr.25].
Các tác giả Nguyễn Thạc và Phạm Thành Nghị cho rằng: “NLSP là loại năng
lực chuyên biệt có quan hệ chặt chẽ với năng lực chung, NLSP được thể hiện ở

phẩm chất trí tuệ, ngôn ngữ, nét ý chí và tính cách của giáo viên” [40, tr.145].
NLSP đặt ra yêu cầu đối với giáo viên phải có năng lực phân tích, tổng
hợp, hệ thống hoá kiến thức, khả năng vận dụng các phương pháp dạy học
tích cực và đánh giá đúng tài liệu. Người thầy phải biết “chế biến”, gia công
tài liệu học tập đảm bảo tính lôgíc khoa học, lôgíc sư phạm và phù hợp với
trình độ người học. Điểm nổi bật khác, đối với một giáo viên giỏi nghề cần
phải có óc sáng tạo, tư duy sư phạm phát triển cao trong truyền đạt nội dung
kiến thức, hình thành phương pháp tư duy khoa học, linh hoạt và mềm dẻo
cho người học.
NLSP phân biệt với các loại năng lực khác biểu hiện ở các yếu tố tạo
thành NLSP. Nếu dựa vào chức năng đặc trưng của người thầy giáo là dạy
học và giáo dục để xác định cấu trúc NLSP, để thực hiện có hiệu quả các chức
năng đặc trưng đó, người thầy giáo phải có một hệ thống các năng lực tương
ứng, đó là: nhóm năng lực dạy học, nhóm năng lực giáo dục và nhóm năng
lực tổ chức các hoạt động sư phạm. Theo đó, NLSP đó là sự đan xen, quan hệ
khăng khít giữa trình độ tri thức, kỹ xảo, kỹ năng với khả năng tư duy sư
phạm phát triển, đây là đặc điểm riêng của NLSP. Đồng thời, người thầy giỏi
nghề, tài năng được mọi người kính trọng không thể thiếu những giá trị nghề
nghiệp cốt lõi cũng như những chuẩn mực đạo đức. Người thầy dù có nắm
được nhiều tri thức, kỹ năng dạy học điêu luyện, khả năng ngôn ngữ cuốn hút
vẫn chưa đủ để khẳng định được năng lực sư phạm của mình nếu thiếu tư duy
sư phạm sáng tạo, mê công việc và những giá trị nghề nghiệp, chuẩn mực đạo
đức trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ.

16


NLSP và kỹ năng sư phạm có mối quan hệ chặt chẽ: NLSP là thuộc
tính, là đặc điểm của nhân cách, còn kỹ năng sư phạm là những thao tác riêng
của hoạt động sư phạm trong các dạng hoạt động.

Kế thừa quan điểm của các nhà Tâm lí học và Giáo dục học về NLSP,
đồng thời tiếp cận năng lực thực hiện, tác giả đề tài cho rằng: Năng lực sư
phạm là tổ hợp các kiến thức, kĩ xảo, kĩ năng và tư duy sư phạm của cá nhân
phù hợp với những yêu cầu của hoạt động sư phạm, đảm bảo cho hoạt động
ấy nhanh chóng thành thạo và đạt kết quả cao”.
Trên cơ sở làm rõ các khái niệm GVMN, năng lực, NLSP, tác giả đề tài
quan niệm về NLSP của GVMN như sau:
Năng lực sư phạm của giáo viên mầm non là tổ hợp các kiến thức, kĩ xảo,
kĩ năng và tư duy sư phạm phù hợp với những yêu cầu của hoạt động sư phạm
mầm non nhằm đảm bảo cho hoạt động ấy nhanh chóng thành thạo và đạt hiệu
quả cao, đáp ứng mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục của nhà trường.
NLSP của GVMN được biểu hiện thông qua các nhóm năng lực điển
hình như: Nhóm năng lực dạy học; nhóm năng lực giáo dục và nhóm năng lực
tổ chức các hoạt động sư phạm.
Người GVMN có NLSP biểu hiện trước hết ở khả năng hiểu biết sâu
sắc về trẻ mầm non, về GDMN, đó là năng lực “thâm nhập” vào thế giới
bên trong của trẻ, hiểu biết tường tận về nhân cách của trẻ, có khả năng
quan sát tinh tế những biểu hiện tâm lí của trẻ trong quá trình dạy học, giáo
dục, chăm sóc trẻ. NLSP của người GVMN còn được thể hiện ở trình độ tri
thức và tư duy sư phạm, bao gồm: Kiến thức cơ bản thuộc về GDMN; kiến
thức về chăm sóc sức khỏe trẻ mầm non; kiến thức về phương pháp, về
phát triển GDMN, kiến thức phổ thông về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội
có liên quan đến GDMN....
NLSP của GVMN còn được biểu hiện tập trung ở hệ thống các kĩ năng
sư phạm, như: kĩ năng lập kế hoạch, tổ chức thực hiện các hoạt động chăm

17


sóc, giáo dục trẻ; kĩ năng quản lí lớp học; kĩ năng giao tiếp sư phạm (kĩ năng

định hướng giao tiếp, kĩ năng định vị, kĩ năng điều khiển quá trình giao tiếp
với trẻ, kĩ năng làm chủ cảm xúc của bản thân, kĩ năng sử dụng phương tiện
giao tiếp, kĩ năng ứng xử với trẻ, đồng nghiệp, phụ huynh và cộng đồng....
1.1.2. Bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non
Bồi dưỡng là một thuật ngữ được sử dụng khá rộng rãi trong nhiều
lĩnh vực khác nhau. Thuật ngữ bồi dưỡng còn được gọi là đào tạo lại hoặc
tái đào tạo.
Theo từ điển tiếng Việt: “Bồi dưỡng là làm cho tăng thêm năng lực hoặc
phẩm chất"[49]. Theo tổ chức Unesco "Bồi dưỡng với ý nghĩa nâng cao nghề
nghiệp - quá trình này chỉ diễn ra khi cá nhân và tổ chức có nhu cầu nâng cao
kiến thức hoặc kĩ năng chuyên môn của bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu lao
động nghề nghiệp".
Đề tài khoa học KX07 - 14 của tác giả Nguyễn Minh Đường có định
nghĩa: "Bồi dưỡng có thể coi là quá trình cập nhật hoá kiến thức còn thiếu
hoặc đã lạc hậu, bổ túc nghề nghiệp, đào tạo thêm hoặc củng cố các kĩ năng
nghề nghiệp theo chuyên đề. Các hoạt động này nhằm tạo điều kiện cho người
lao động có cơ hội để củng cố mở mang một cách có hệ thống những tri thức,
kĩ năng, chuyên môn nghiệp vụ sẵn có để lao động nghề nghiệp một cách có
hiệu quả hơn và thường được xác định bằng một chứng chỉ..."[13].
Ở góc độ tiếp cận cụ thể hơn, Từ điển Giáo dục học quan niệm về bồi
dưỡng giáo viên như sau: Bồi dưỡng giáo viên là quá trính đào tạo bổ sung
nhằm mục đích nâng cao và hoàn thiện năng NLSP của giáo viên, bồi dưỡng
giáo viên được coi là hoạt động đào tạo lại, giúp giáo viên cập nhật được
những kiến thức chuyên ngành, những phương pháp mới, tiếp thu các kinh
nghiệm giáo dục tiên tiến để từ đó nâng cao thêm trình độ chuyên môn và
nghiệp vụ sư phạm.

18



Trên cơ sở các quan niệm ở trên, tác giả cho rằng: Bồi dưỡng là quá
trình bổ sung những thiếu hụt về tri thức kĩ năng hoặc để nâng cao trình độ,
mở mang và phát triển những gì đã có, làm tăng thêm lượng vốn hiểu biết
trong lĩnh vực hoạt động chuyên môn nào đó nhằm đáp ứng những yêu cầu
mới của chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao hiệu quả lao động.
Bồi dưỡng NLSP thuộc phạm trù phát triển đội ngũ và phát triển nguồn
nhân lực. Đó là việc hướng đội ngũ giảng viên vào việc hoàn thiện kết quả
đào tạo cơ bản, nâng cao trình độ chuyên môn (bao gồm cả tri thức, kĩ năng
nghiệp vụ sư phạm) nhằm thực hiện tốt công việc chuyên môn hiện có, đang
diễn ra, đồng thời giúp họ hình thành một trình độ tri thức, kĩ năng cao hơn,
đáp ứng tốt hơn cho các công việc được giao. Bồi dưỡng NLSP cho giáo viên
là bổ sung những kiến thức còn thiếu hoặc đã lạc hậu, cập nhật thêm những tri
thức mới về lĩnh vực của khoa học giáo dục nhằm nâng cao trình độ mọi mặt
cho đội ngũ giáo viên để đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của sự phát
triển giáo dục.
Mặt khác, bồi dưỡng NLSP cho giáo viên là việc nâng cao năng lực
chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, tạo điều kiện cho họ luôn đáp ứng đòi hỏi
của xã hội. Bồi dưỡng NLSP cho giáo viên được xem là việc, đổi mới, cập
nhật kiến thức, kĩ năng nghề nghiệp, tức là phải đào tạo liên tục từ trước và
trong khi làm việc. Việc, bồi dưỡng NLSP cho giáo viên là làm tăng thêm
trình độ hiện có của đội ngũ giáo viên bao gồm cả về hệ thống tri thức, hệ
thống kĩ năng, phương pháp…với nhiều hình thức, mức độ khác nhau. Bồi
dưỡng không đòi hỏi chặt chẽ, chính quy như đào tạo ban đầu mà được thực
hiện trong thời gian ngắn.
Từ những vấn đề lí luận nêu trên, tác giả cho rằng: “Bồi dưỡng NLSP cho
GVMN thực chất là quá trình bổ sung tri thức, kĩ năng để nâng cao trình độ
chuyên môn, năng lực giáo dục, chăm sóc trẻ qua hình thức đào tạo nào đó,
nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả trong công tác giáo dục, chăm sóc trẻ.

19



Mục tiêu bồi dưỡng NLSP cho giáo viên các trường mầm non là để
hướng đến chuẩn hóa chất lượng giáo viên ở các trường mầm non, đáp ứng
yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT các trường mầm non.
Chủ thể bồi dưỡng NLSP cho giáo viên các trường mầm non là các
lực lượng sư phạm trong nhà trường như: Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà
trường; các cơ quan chức năng như Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT; trong đó,
các chuyên gia sư phạm, cán bộ quản lí giáo dục, quản lí đào tạo là những
lực lượng giữa vai trò chủ đạo để tiến hành bồi dưỡng. Đồng thời, sự nỗ
lực tự bồi dưỡng của mỗi giáo viên trong nhà trường đóng vai trò quyết
định trực tiếp.
Đối tượng bồi dưỡng, đó là đội ngũ giáo viên ở các trường mầm non.
Nội dung bồi dưỡng NLSP cho giáo viên ở các trường mầm non mang
tính toàn diện, từ kiến thức, kĩ xảo, kĩ năng, phương pháp chăm sóc, giáo dục
trẻ, phương pháp tư duy sư phạm, cách thức tổ chức các hoạt động sư phạm
cho phù hợp với trẻ mầm non, các giá trị nghề nghiệp, chuẩn mực đạo đức
của giáo viên ở các trường mầm non.
Hình thức, phương pháp bồi dưỡng NLSP cho giáo viên ở các trường
mầm non được thực hiện một cách đa dạng. Thông qua việc sử dụng tổng hợp
các phương pháp, hình thức bồi dưỡng; thông qua quá trình dạy học, tổ chức
các hoạt động sư phạm, quá trình giao lưu của giáo viên như: Tổ chức các đợt
tập huấn bồi dưỡng chung, bồi dưỡng riêng; bồi dưỡng thường xuyên, bồi
dưỡng theo định kì (vào các dịp hè và trong năm học); bồi dưỡng tập trung,
bồi dưỡng thông qua hoạt động thực tiễn (Dự giờ, thao giảng, họp tổ chuyên
môn, thông qua các phong trào thi đua....); bồi dưỡng cơ bản và bồi dưỡng
nâng cao. Phối kết hợp chặt chẽ giữa Ban Giám hiệu nhà trường với các tổ
chức Công đoàn, Phụ nữ, Đoàn thanh niên của nhà trường trong việc chỉ đạo
các hoạt động bồi dưỡng, trong đó có bồi dưỡng NLSP cho GVMN.


20


1.1.3. Quản lý bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên các trường
mầm non
Quản lý là một hoạt động đặc biệt bao trùm lên các mặt của đời sống
xã hội, là nhân tố không thể thiếu được trong quá trình phát triển kinh tế xã
hội của đất nước. Quản lý là một hoạt động thiết yếu đảm bảo sự phối hợp
những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Mục tiêu của
các nhà quản lý nhằm hình thành một môi trường mà trong đó con người có
thể đạt tới mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất
mãn cá nhân ít nhất.
Theo Từ điển Đại Bách khoa toàn thư Liên Xô, 1977: Quản lý là chức
năng của hệ thống có tổ chức với bản chất khác nhau (xã hội, sinh vật, kỹ
thuật), nó bảo toàn cấu trúc xác định của chúng, duy trì chế độ hoạt động,
thực hiện những chương trình, mục đích hoạt động.
Trong cuốn "Quản lý nguồn nhân lực”, Paul Hersey và Kent Blanchard
lại coi Quản lý là một quá trình cùng làm việc giữa nhà quản lý và người bị
quản lý nhằm thông qua hoạt động của cá nhân, của nhóm, huy động các
nguồn lực khác để đạt mục tiêu của tổ chức”.
Các tác giả Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng: "Quản lý
là các tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (Người quản
lý) đến khách thể quản lý (Người bị quản lý) - trong một tổ chức nhằm làm
cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức”. [5, tr.9].
Các tác giả Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt coi: "Quản lý là một quá trình
định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống nhằm đạt được
những mục tiêu nhất định” [30].
Các định nghĩa trên tuy khác nhau, nhưng có một số điểm chung trong
nhận thức về quản lý như sau:
Quản lý là hoạt động lao động điều khiển các hoạt động khác nhau của

nhóm hay tập thể.

21


Quản lý là một hệ thống xã hội trên nhiều phương tiện. Quản lý có một
cấu trúc và vận hành trong một môi trường nhất định. Trong cấu trúc đó, ba
thành tố: mục tiêu, chủ thể, khách thể quan hệ chặt chẽ với nhau tạo nên hoạt
động của bộ máy.
Hoạt động quản lý là một dạng hoạt động đặc biệt của người lãnh đạo
mang tính tổng hợp các loại lao động trí óc, liên kết với bộ máy quản lý, hình
thành một chỉnh thể thống nhất điều hòa phối hợp các khâu và các cấp quản
lý, làm sao cho hoạt động nhịp nhàng, đi đến hiệu quả. Như vậy, về bản chất
của hoạt động, quản lý là sự tác động có mục đích của người quản lý (Chủ thể
quản lý) đến người bị quản lý (Khách thể quản lý) nhằm đạt mục đích chung.
Trên cơ sở tìm hiểu một số khái niệm về quản lý, tác giả cho rằng:
"Quản lý là quá trình lập kế hoạch, tổ chức thực hiện lãnh đạo và kiểm tra
công việc của chủ thể quản lý, khách thể quản lý, nội dung quản lý, công cụ,
phương pháp quản lý, mục tiêu quản lý các thành viên thuộc hệ thống đơn vị
và sử dụng các nguồn lực phù hợp để đạt được mục tiêu đã định”.
Trên cơ sở các khái niệm NLSP, bồi dưỡng NLSP cho giáo viên các
trường mầm non và quan niệm về quản lí, tác giả cho rằng:
“Quản lý bồi dưỡng NLSP cho GVMN là tổng thể những tác động có
mục đích, có hệ thống của chủ thể quản lí đến quá trình xây dựng kế hoạch,
tổ chức thực hiện các nhiệm vụ bồi dưỡng, đánh giá kết quả bồi dưỡng nhằm
thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ bồi dưỡng NLSP cho giáo viên các trường
mầm non, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ GVMN và chất lượng giáo
dục, nuôi dạy trẻ của nhà trường mầm non”.
Mục tiêu quản lý bồi dưỡng NLSP cho giáo viên ở các trường mầm non:
thông qua các tác động quản lí để hoạt động bồi dưỡng NLSP cho giáo viên

được tổ chức chặt chẽ, khoa học, có hiệu quả cao, hướng đến chuẩn hóa chất
lượng giáo viên ở các trường mầm non đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn
diện GDMN.

22


Chủ thể quản lý bồi dưỡng NLSP cho giáo viên ở các trường mầm non
gồm: Chủ thể trực tiếp và chủ thể gián tiếp. Chủ thể trực tiếp là Ban Giám
hiệu nhà trường mầm non; tổ trưởng tổ chuyên môn; chuyên viên phụ trách
bậc mầm non; các nhà quản lý thuộc Phòng giáo dục; Sở GD&ĐT. Chủ thể
gián tiếp quản lý bồi dưỡng NLSP cho giáo viên các trường mầm non là các
cấp ủy Đảng; chính quyền địa phương có chức năng và quyền hạn quản lý
giáo dục ở bậc học mầm non. Ngoài ra, bản thân đội ngũ GVMN cũng đồng
thời là chủ thể quản lý bồi dưỡng NLSP.
Đối tượng quản lý bồi dưỡng NLSP cho giáo viên các trường mầm non
chính là hoạt động bồi dưỡng NLSP cho giáo viên các trường mầm non.
Nội dung cơ bản quản lý bồi dưỡng NLSP cho giáo viên các trường mầm
non là tổng thể các nội dung tổ chức, chỉ đạo hoạt động bồi dưỡng nhằm nâng
cao trình độ kiến thức, kĩ năng, chuyên môn nghiệp vụ sư phạm; năng lực tư
duy sư phạm, cách thức tổ chức các hoạt động sư phạm cho GVMN....để đạt
được mục tiêu chuẩn hóa chất lượng giáo viên ở các trường mầm non.
Theo đó, xác định mục tiêu, thiết kế chương trình, nội dung bồi dưỡng
NLSP cho GVMN cần phù hợp với nhu cầu, trình độ khác nhau của giáo viên,
có sự lựa chọn nội dung cơ bản, nội dung nâng cao, cập nhật những phát triển
mới về phương pháp sư phạm. Đồng thời, nghiên cứu, tham khảo các chương
trình bồi dưỡng tiên tiến để xây dựng chương trình, nội dung bồi dưỡng
NLSP cho giáo viên các trường mầm non thích hợp, có tính hiện đại.
Hình thức, phương pháp quản lý bồi dưỡng NLSP cho giáo viên các
trường mầm non: sử dụng tổng hợp các hình thức, phương pháp tổ chức hoạt

động bồi dưỡng.
Có thể nói, quản lý bồi dưỡng NLSP cho giáo viên ở các trường mầm
non là một quá trình diễn ra với nhiều tác động quản lý đan xen, liên tục,
được tiến hành trong quá trình bồi dưỡng GVMN với quy trình tổ chức
chặt chẽ. Để nâng cao hiệu quả bồi dưỡng NLSP cho GVMN đòi hỏi các

23


chủ thể quản lý cần xác định các nội dung, biện pháp một cách khoa học,
khả thi, phù hợp thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của các
trường mầm non.
1.2. Nội dung quản lý bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên các
trường mầm non
1.2.1. Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên
các trường mầm non
Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng GVMN là một nội dung rất quan trọng của
công tác quản lý nói chung và quản lý bồi dưỡng NLSP cho GVMN nói riêng.
Kế hoạch giúp công tác quản lý có cái nhìn tổng thể, toàn diện, định hướng, bố
trí, sắp xếp các hoạt động trong tổ chức công tác bồi dưỡng giáo viên.
Lập kế hoạch bồi dưỡng GVMN nhằm xác định nội dung, chương trình,
hình thức, phương pháp bồi dưỡng giáo viên đem lại kết quả cao với chi phí
thấp. Lập kế hoạch giúp cho các nhà quản lí dễ dàng kiểm tra, điều chỉnh
trong quá trình chi đạo hoạt động bồi dưỡng; xây dựng nền tảng khoa học cho
việc ra quyết định quản lí, nâng cao kết quả hoạt động bồi dưỡng. Đồng thời,
việc lập kế hoạch bồi dưỡng giáo viên cung cấp cho các nhà trường một
khung chung để đánh giá kết quả hoạt động bổi dưỡng giáo viên, lôi cuốn các
cấp quản lí giáo dục vào xây dựng và thực thi kế hoạch bồi dưỡng giáo viên.
Lập kế hoạch để lựa chọn những phương án tối ưu, tiết kiệm nguồn lực, tạo
hiệu quả cho tổ chức bồi dưỡng giáo viên.

Khi lập các kế hoạch, cần định hướng việc xác định mục tiêu đạt được
trong hoạt động bồi dưỡng NLSP cho giáo viên ở các trường mầm non: Mục
tiêu bồi dưỡng GVMN là mô hình kết quả cập nhật tri thức, nâng cao năng
lực chuyên môn nghiệp vụ dự định đạt được. Việc xây dựng mục tiêu bồi
dưỡng là vấn đề đặc biệt quan trọng. Mục tiêu bồi dưỡng là một phần của
mục tiêu xây dựng người GVMN theo chuẩn nghề nghiệp của Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã ban hành. Do vậy, mục tiêu cụ thể cần đạt được trong quản lý bồi

24


dưỡng NLSP cho giáo viên các trường mầm non đó là: Về trình độ nắm vững
chuyên ngành, chuyên môn về chăm sóc, giáo dục trẻ; trình độ sư phạm;
phẩm chất nhân cách nhà giáo,....phù hợp với yêu cầu nâng cao chất lượng
giáo viên các trường mầm non trong những giai đoạn phát triển cụ thể. Việc
định hướng xây dựng mục tiêu cần đúng và phù hợp với nhu cầu thực tiễn của
đội ngũ GVMN, sẽ là yếu tố then chốt chi phối toàn bộ quá trình quản lý bồi
dưỡng NLSP cho giáo viên các trường mầm non.
Một bản kế hoạch bồi dưỡng giáo viên thực sự khoa học phải đảm bảo
được các yếu tố: thiết thực, liên kết được các nguồn lực trong quản lý bồi
dưỡng giáo viên, xác định rõ ràng các phương pháp tiến hành. Kế hoạch bồi
dưỡng NLSP cho GVMN phải cụ thể, chính xác, đồng bộ, thể hiện rõ nội
dung, chương trình, biện pháp, có tính phân cấp, phân rõ trách nhiệm từng tổ
chức, từng cá nhân trong việc thực hiện kế hoạch. Kế hoạch phải mang tính
lượng hóa, khi có kế hoạch cần phải quán triệt, tổ chức thực hiện kế hoạch và
tiến hành đánh giá, kiểm tra thường xuyên.
1.2.2. Quản lý thực hiện nội dung, hình thức, phương pháp bồi dưỡng
năng lực sư phạm cho giáo viên các trường mầm non
Để nâng cao NLSP cho giáo viên ở các trường mầm non, cần thực hiện
tốt các hoạt động bồi dưỡng NLSP cho giáo viên. Bắt đầu từ khâu chuẩn bị;

khâu tổ chức thực hiện và khâu kết thúc tiến trình tổ chức bồi dưỡng NLSP
cho giáo viên ở các trường mầm non. Trong đó, tổ chức thực hiện công tác
bồi dưỡng là khâu then chốt của tiến trình quản lý, do đó nhà quản lý cần tập
trung chỉ đạo, hướng dẫn việc thực hiện mục tiêu, chương trình, nội dung,
phương pháp, hình thức bồi dưỡng cho phù hợp. Trong đó, việc quản lí thực
hiện chương trình, nội dung bồi dưỡng NLSP cho giáo viên ở các trường mầm
non được coi là nội dung cơ bản nhất.
Tổ chức thực hiện chương trình, nội dung bồi dưỡng NLSP cho GVMN
cần có sự kết hợp chặt chẽ việc bổ sung, cập nhật tri thức với nâng cao trình độ

25


kĩ năng, kĩ xảo nghề nghiệp, phong cách và tư duy sư phạm. Bảo đảm sự hài
hòa, cân đối các khối lượng kiến thức chuyên môn và kiến thức nghiệp vụ sư
phạm. Nội dung bồi dưỡng cần tập trung vào những tri thức mới, những kỹ
năng, kỹ xảo, chuyên môn nghiệp vụ của người GVMN. Cần lưu ý những kiến
thức, kỹ năng đặc thù mới từ những yêu cầu, tiêu chí của chuẩn nghề nghiệp
GVMN đặt ra.
Chỉ đạo sử dụng đa dạng hóa các phương pháp bồi dưỡng có kết quả
nhất là bồi dưỡng tại chỗ và giáo viên tự bồi dưỡng dưới sự giúp đỡ của tổ
nhóm chuyên môn, đồng nghiệp, và giảng viên ở trường sư phạm. Phương
pháp bồi dưỡng tập trung vẫn là cần thiết, nhưng phải phát huy tiềm lực về
chủ động nắm vững và vận dụng được tại chỗ bằng phương pháp học viên
cùng tham gia. Coi trọng việc nâng cao tiềm lực sư phạm của giáo viên trong
quá trình bồi dưỡng, nâng cao trình độ.
Chỉ đạo sử dụng, đa dạng hóa các hình thức tổ chức bồi dưỡng NLSP
cho GVMN. Đây là nội dung nhằm đổi mới phương pháp, cách thức tổ chức
nội dung bồi dưỡng, trong đó cần tăng cường hiệu quả các hình thức tổ chức
bồi dưỡng thực hành rèn luyện kĩ năng sư phạm. Trình độ NLSP của giáo

viên sẽ bộc lộ rõ nét trong quá trình giáo viên tham gia tích cực các hoạt động
thực tiễn sư phạm, thông qua hoạt động bồi dưỡng, các hình thức tổ chức thực
hành có tác dụng trực tiếp hoàn thiện các kĩ năng sư phạm cho giáo viên,
đồng thời tạo điều kiện để giáo viên phát triển tư duy sư phạm, óc sáng tạo,
khả năng thích ứng cao với nghề sư phạm ở các trường mầm non hiện nay.
Chỉ đạo cụ thể hóa phương thức tổ chức nội dung bồi dưỡng NLSP cho
giáo viên ở các trường mầm non cũng là một trong các nội dung mang lại hiệu
quả cao trong tổ chức bồi dưỡng NLSP cho giáo viên. Bởi lẽ, phương thức tổ
chức tác động đến cả chủ thể bồi dưỡng và đối tượng được bồi dưỡng. Bởi
vậy, cần chỉ đạo lựa chọn, sử dụng các phương thức tổ chức bồi dưỡng theo
hướng tích cực, hướng vào đối tượng được bồi dưỡng nhằm phát huy tính tích

26


×