Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Thực hiện chính sách công tác xã hội đối với người khuyết tật từ thực tiễn tỉnh bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (718.12 KB, 100 trang )

NGUYỄN THỊ THẾ VY

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

CÔNG TÁC XÃ HỘI (CHƯƠNG TRÌNH LIÊN KẾT VỚI PHI-LÍP-PIN)

NGUYỄN THỊ THẾ VY

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN
TỈNH BÌNH ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

KHÓA II (2015-2017)

HÀ NỘI, 2017

1


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THẾ VY

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN


TỈNH BÌNH ĐỊNH

Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60. 90. 01. 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN NGỌC TOẢN

HÀ NỘI, 2017
2


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các tài
liệu, trích dẫn, số liệu ghi trong luận văn đều có nguồn gốc rõ ràng và trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về sự cam kết này.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thế Vy

3


LỜI CẢM ƠN


Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp, bản thân tôi
đã gặp một số khó khăn nhất định về thời gian, thu thập, xử lý và phân tích tài liệu
nghiên cứu,... Tuy nhiên, tôi đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình, cũng như
sự khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi của thầy cô, gia đình, bạn bè và đồng
nghiệp trong suốt quá trình nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn đến Ban Giám đốc, các khoa, phòng và
quý thầy, cô trong Học viện Khoa học Xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội
Việt Nam, Học viện Châu Á (Philippin) đã tận tình truyền đạt kiến thức và tạo điều
kiện giúp đỡ cho tôi trong quá trình học tập. Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng biết
ơn chân thành và sâu sắc nhất tới người hướng dẫn khoa học TS. Nguyễn Ngọc
Toản, người đã luôn tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu
và hoàn thành luận văn.
Xin gửi lời cảm ơn tới Ban Lãnh đạo, đồng nghiệp ngành Lao động –
Thương binh và Xã hội tỉnh Bình Định đã tạo điều kiện hợp tác, giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình nghiên cứu. Dù đã có nhiều cố gắng, song chắc chắn không thể tránh
khỏi thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy, cô
giáo, bạn bè và đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 03 năm 2017
Tác giả

Nguyễn Thị Thế Vy

4


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 10

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CÔNG TÁC XÃ
HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT ....................................................................20
1.1. Khái quát về người khuyết tật và những đặc trưng của người khuyết tật.......... 20
1.2. Một số lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu......................................................23
1.3. Công tác xã hội và thực hiện chính sách CTXH đối với người khuyết tật.........28
1.4. Nhân tố tác động thực hiện chính sách CTXH đối với người khuyết tật...........34
1.5. Hệ thống luật pháp, chính sách về công tác xã hội đối với người khuyết tật.....36
Tiểu kết chương 1........................................................................................................40
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT TẠI TỈNH BÌNH ĐỊNH....................................41
2.1. Đặc điểm, địa bàn nghiên cứu.............................................................................41
2.2. Thực trạng NKT tại tỉnh Bình Định....................................................................43
2.3. Kết quả thực hiện chính sách CTXH đối với NKT tại tỉnh Bình Định..............47
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................................74
Chương 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CÔNG TÁC
XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT TẠI TỈNH BÌNH ĐỊNH.................... 76
3.1. Quan điểm, mục tiêu tăng cường chính sách công tác xã hội đối với người
khuyết tật ....................................................................................................................76
3.2. Giải pháp tăng cường thực hiện chính sách CTXH đối với NKT.......................77
3.3. Một số kiến nghị nhằm đảm bảo giải pháp có tính khả thi cao..........................91
Tiểu kết chương 3........................................................................................................94
KẾT LUẬN ................................................................................................................95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
5


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BTXH


Bảo trợ xã hội

CSXH

Chính sách xã hội

CTXH

Công tác xã hội

DVCTXH

Dịch vụ công tác xã hội

DVXH

Dịch vụ xã hội

LĐTBXH

Lao động - Thương binh và Xã hội

NKT

Người khuyết tật

Nxb

Nhà xuất bản


UBND

Ủy ban nhân dân

DANH MỤC CÁC BẢNG

6


Bảng 2.1. Tổng số NKT tỉnh Bình Định năm 2015 chia theo nhóm tuổi................. 43
Bảng 2.2. Tổng số NKT tỉnh Bình Định bị khuyết tật tâm thần có hành vi nguy
hiểm ........................................................................................................................... 45
Bảng 3.1. Tổng nhu cầu nguồn nhân lực CTXH tỉnh Bình Định............................. 79

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

7


Biểu đồ 2.1. Tổng số NKT tỉnh Bình Định năm 2015 chia theo nhóm tuổi............. 43
Biểu đồ 2.2 . Tỷ lệ dạng tật của NKT tỉnh Bình Định năm 2015..............................44
Biểu đồ 2.3 . NKT tỉnh Bình Định chia theo mức độ khuyết tật...............................46

DANH MỤC CÁC HỘP

8


Hộp 2.1. Thảo luận nhóm của cán bộ về hoạt động truyền thông CTXH trên địa bàn
tỉnh Bình Định ........................................................................................................... 48

Hộp 2.2. Kết quả thảo luận nhóm cán bộ về hạn chế truyền thông về CTXH trên địa
bàn Bình Định............................................................................................................ 49
Hộp 2.3. Tổng hợp kết quả thảo luận nhóm cán bộ về chính sách phát triển nguồn
nhân lực làm CTXH của tỉnh Bình Định................................................................... 68
Hộp 2.4. Kết quả thảo luận nhóm cán bộ về chính sách phát triển hệ thống cung cấp
dịch vụ CTXH đối với NKT trên địa bàn Bình Định................................................ 71
Hộp 2.5. Tổng hợp kết quả thảo luận nhóm về huy động nguồn lực thực hiện chính
sách CTXH đối với NKT............................................................................................73

MỞ ĐẦU

9


1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay Việt Nam có khoảng 7 triệu người khuyết tật (NKT), chiếm 7,8%
dân số. Trong đó, có khoảng 28,9% NKT đặc biệt nặng và nặng, 58% NKT là nữ,
28,3% NKT là trẻ em, 10,2% NKT là người cao tuổi, 61,5% NKT trong độ tuổi lao
động và khoảng 10% NKT thuộc hộ nghèo [2]. Đây là bộ phận dân cư luôn gặp khó
khăn, cần sự trợ giúp về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, hòa nhập cộng
đồng. Luật Người khuyết tật và hệ thống luật pháp chính sách quy định về quyền
của người khuyết tật và trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan tổ chức và gia đình
trong việc bảo đảm quyền của người khuyết tật. Cụ thể hóa luật pháp, Chính phủ đã
ban hành và thực hiện hệ thống chính sách chăm sóc, trợ giúp người khuyết tật trên
các lĩnh vực giáo dục, chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, việc làm, văn hóa
thể thao, đời sống và hỗ trợ hòa nhập. Song song cùng với luật pháp, Chính phủ đã
phê duyệt và thực hiện Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012-2020, Việt
Nam đã ký tham gia Công ước của Liên hiệp quốc về quyền của NKT vào tháng
10/2007 và Quốc hội phê chuẩn Công ước vào tháng 11/2014. Việt Nam cam kết
tham gia Chiến lược Incheon nhằm hiện thực hóa quyền cho NKT giai đoạn 20132022 được Liên Chính phủ cùng các tổ chức NKT các nước Châu Á – Thái Bình

Dương thông qua ngày 01/11/2012 tại Incheon, Hàn Quốc. Gần đây nhất, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1717/QĐ-TTg ngày 06/10/2015 về
việc thành lập Ủy ban Quốc gia về NKT Việt Nam.
Việc thực hiện chính sách CTXH đối với người khuyết tật đã tạo ra những
chuyển biến tích cực đối với cuộc sống của NKT, hoạt động trợ giúp NKT đã thu
hút sự quan tâm và phát huy trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức, cá
nhân, cộng đồng dân cư, từng bước giảm dần những rào cản, tạo động lực để NKT
phát huy năng lực của mình, vươn lên hòa nhập cộng đồng, đến nay có trên 1 triệu
người khuyết tật được hưởng trợ cấp xã hội, hơn 60 ngàn người khuyết tật đang
được chăm sóc và phục hồi chức năng tại 250 cơ sở bảo trợ xã hội (BTXH) chuyên
biệt và các cơ sở bảo trợ xã hội tổng hợp, nhiều mô hình thí điểm trợ giúp đã được

10


triển khai nhân rộng. Nhờ đó mà đời sống vật chất, tinh thần và hòa nhập cộng đồng
của người khuyết tật ngày càng thay đổi.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện chính sách CTXH đối với NKT, bên cạnh
những mặt tích cực đã đạt được cũng bộc lộ nhiều hạn chế, khó khăn: nhiều cơ quan
ban ngành, địa phương chưa quan tâm đúng mức đến NKT, công tác truyền thông
nâng cao nhận thức và chăm lo đời sống NKT chưa đi vào chiều sâu; một số chính
sách, quy định được hướng dẫn thi hành chậm nên việc thực hiện trợ giúp không
đồng bộ, có những quy định vẫn chưa được thi hành, tổ chức thực hiện. Bên cạnh
đó là những khó khăn về nguồn lực hỗ trợ, mặc dù ngân sách nhà nước đầu tư ngày
càng cao nhưng vẫn thiếu nguồn kinh phí thực hiện, đội ngũ cán bộ làm công tác trợ
giúp người khuyết tật còn thiếu về số lượng và yếu về chuyên môn nghiệp vụ, cơ sở
vật chất của các Hội, tổ chức tự lực, cơ sở sản xuất kinh doanh có sử dụng lao động
là người khuyết tật còn gặp nhiều khó khăn.
Tỉnh Bình Định là một tỉnh thuộc khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ, dân số
1,6 triệu người, có 32.372 người khuyết tật. Trong đó, có 28.766 người đang hưởng

trợ cấp xã hội, có 704 người khuyết tật được nuôi dưỡng trong 03 cơ sở bảo trợ xã
hội. Công tác xã hội (CTXH) với người khuyết tật là lĩnh vực mới, đã và đang phát
huy vai trò hỗ trợ trong cung cấp dịch vụ chăm sóc trực tiếp và hỗ trợ triển khai chế
độ chính sách đối với người khuyết tật. Tỉnh đã và đang tổ chức thực hiện chính
sách CTXH đối với NKT. Kết quả các chính sách đã tác động làm thay đổi đời sống
vật chất và tinh thần của NKT. Tuy nhiên, mới chỉ là kết quả ban đầu và còn hạn
chế nhất định, đặc biệt là trong thực hiện chính sách CTXH đối với người khuyết
tật. Để từng bước nâng cao hiệu quả thực hiện CTXH đối với người khuyết tật thì
yếu tố thực hiện chính sách công tác xã hội đóng vai trò then chốt, đặc biệt trong
bối cảnh ở Việt Nam nói chung và tỉnh Bình Định nói riêng.
Xuất phát từ thực tiễn trên, đề tài luận văn về “Thực hiện chính sách công
tác xã hội đối với người khuyết tật từ thực tiễn tỉnh Bình Định” là cần thiết, vừa
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, vừa có ý nghĩa đóng góp vào sự phát triển chung,
nâng cao hiệu quả về CTXH đối với người khuyết tật tại tỉnh Bình Định.
11


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề người khuyết
tật và thực hiện chính sách công tác xã hội đối với người khuyết tật như:
Viện nghiên cứu phát triển xã hội (2008) đã công bố báo cáo nghiên cứu
Người khuyết tật ở Việt Nam từ kết quả điều tra xã hội tại Thái Bình, Quảng Nam,
Đà Nẵng và Đồng Nai. Nghiên cứu được thực hiện nhằm mục đích giúp chúng ta
hiểu sâu hơn những khó khăn đa dạng và nhiều mặt mà người khuyết tật hiện đang
gặp phải. Nghiên cứu cũng cung cấp cơ sở thông tin giúp cho việc hoàn thiện chính
sách cũng như thiết kế các chương trình hỗ trợ hiệu quả [34].
Đỗ Thị Liên (2014), Công tác xã hội đối với NKT từ thực tiễn thành phố
Thanh Hóa. Tác giả đã đánh giá thực trạng hỗ trợ NKT tại thành phố Thanh Hóa và
đưa những dịch vụ trợ giúp cho NKT tại đây, đồng thời tác giả cũng đã đưa ra
những đề xuất những giải pháp phù hợp để thực hiện quá trình trợ giúp cho NKT

[13]
Nguyễn Ngọc Toản (2009), bài viết về Trợ giúp xã hội cho cá nhân và hộ gia
đình nhằm đảm bảo an sinh xã hội cho người khuyết tật. Tạp chí Lao động và Xã
hội. Tác giả cho rằng hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam luôn đảm bảo
thực hiện quyền của NKT và luôn nhìn nhận họ là một bộ phận của nguồn nhân lực,
tạo một môi trường bình đẳng và không rào cản tiếp cận cho NKT; Nâng cao chất
lượng dịch vụ chăm sóc đời sống, giáo dục, y tế, giao thông, công nghệ thông tin...
Cùng với đó là cải cách thủ tục hành chính, tăng cường hệ thống giám sát, thực thi
cũng như xã hội hóa, phân cấp và tăng cường sự tham gia của NKT [27]. Tuy nhiên,
công tác chăm lo cho người khuyết tật cũng còn gặp nhiều khó khăn. Đó là vẫn tồn
tại những định kiến nhất định cản trở sự hòa nhập và đóng góp cho xã hội của người
khuyết tật. Một số phong trào, hoạt động trợ giúp người khuyết tật còn hình thức,
thiếu bền vững. Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động hỗ trợ người khuyết tật từ
trung ương đến địa phương chưa được thường xuyên, việc điều phối còn chưa kịp
thời và kém hiệu quả. Chưa có nhiều cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất
kinh doanh thu hút lao động là người khuyết tật...
12


Nguyễn Thị Kim Hoa (chủ biên) cũng đã nghiên cứu và xây dựng giáo trình
đào tạo CTXH với NKT ở bậc Đại học và sau đại học với ba nội dung chính. Đó là
tổng quan về về NKT; Trải nghiệm khuyết tật; và Các kỹ năng thực hành CTXH [8]
Công trình nghiên cứu của tác giả Hà Thị Thư đã trình bày một cách tổng
quát nhất về công tác xã hội với người khuyết tật, các mô hình hỗ trợ, các phương
pháp tiếp cận, các chương trình chính sách của nhà nước đối với NKT, vai trò của
nhân viên CTXH đối với NKT, các kỹ năng làm việc với người khuyết tật. Đây là
giáo trình đào tạo Công tác xã hội ở hệ trung cấp nghề [22].
Nguyễn Thị Báo (2008), Hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật
ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh [1]. Tác giả đã chỉ rõ từ thực tiễn và quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về

quyền của người khuyết tật ở Việt Nam, bên cạnh những mặt tích cực cũng đã bộc
lộ những hạn chế cản trở người khuyết tật hoà nhập vào cộng đồng. Việc nghiên
cứu những cơ sở lý luận và thực tiễn đảm bảo tính pháp lý lâu dài, ổn định có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong bối cảnh thay đổi mạnh mẽ về kinh tế-xã hội đất
nước, hướng tới để bảo vệ, chăm sóc và tạo điều kiện tốt hơn cho người khuyết tật,
góp phần phát triển và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội toàn diện, làm cơ sở cho
phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2015), Báo cáo kết quả thực hiện
Luật người khuyết tật và đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2010 - 2015 [3].
Báo cáo được xây dựng dựa trên quá trình khảo sát, phân tích, đánh giá một cách kỹ
lưỡng, đồng thời lấy ý kiến tham gia của các tổ chức, cá nhân có liên quan. Từ thực
tiễn thi hành Luật người khuyết tật cho thấy đã có thay đổi nhận thức xã hội về vấn
đề người khuyết tật, phương thức, cách thức trợ giúp, hỗ trợ NKT. Đời sống vật
chất và tinh thần của NKT đã được thay đổi và có điều kiện tham gia các hoạt động
xã hội, hòa nhập với cộng đồng. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế, khó khăn,
vướng mắc, bất cập cũng đã bộc lộ, ảnh hưởng tới hiệu quả của công tác trợ giúp
người khuyết tật, trong đó có những vấn đề xuất phát từ những quy định của Luật
còn bất cập so với điều kiện thực tế của đất nước.
13


Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) “Báo cáo khảo sát về đào tạo nghề và Việc
làm cho người khuyết tật Việt Nam”, năm 2010 đã cung cấp một cách nhìn tổng thể
về các tổ chức của NKT, các tổ chức vì NKT và các dịch vụ dạy nghề, việc làm và
phát triển cơ sở sản xuất kinh doanh của NKT, cơ sở sản xuất kinh doanh có tuyển
dụng NKT vào làm việc. Trong đó tập trung đối với các cơ sở của phụ nữ khuyết
tật, dịch vụ dành riêng cho phụ nữ khuyết tật. Cùng với những thành công đã đạt
được trong quá trình thực hiện Bộ Luật lao động, Pháp lệnh về người tàn tật năm
1998, Báo cáo đã chỉ ra giai đoạn từ năm 2010 trở về trước ở Việt Nam NKT rất ít
được đào tạo nghề, hướng dẫn về việc làm, cũng như thành lập và phát triển các cơ

sở kinh doanh của mình. Hệ thống pháp luật cũng chưa có những quy định đầy đủ
và toàn diện về lĩnh vực này. Trong khi đó nhu cầu trợ giúp việc làm của NKT
nhiều [28].
Đại Học College London, Anh Quốc, thực hiện dự án nghiên cứu về “Báo
trợ xã hội dành cho người khuyết tật tại Việt Nam”, 2012-2014 đã thực hiện khảo
sát định tính về bảo trợ xã hội và y tế đối với NKT, hộ gia đình và các cơ quan tổ
chức có liên quan. Kết quả sơ bộ ban đầu được báo cáo tại hội thảo về Bảo trợ xã
hội đối với người khuyết tật tại Hà Nội đã cho thấy nhìn về những chính sách đạt
được, nhu cầu và những khó khăn của NKT. Trong đó đã đề cập đến những nhu cầu
việc làm và những khó khăn khi tìm việc làm của người khuyết tật, được nhìn nhận
từ chính bản thân NKT [12].
Tổ chức hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam (VNAH), Tổ chức các giải pháp
phát triển (DAI), đưa ra báo cáo ban đầu Dự án hỗ trợ tổng thể và tích hợp cho
người khuyết tật Việt Nam, nghiên cứu tại Bình Định và Đồng Nai (2013) thông
qua việc phân tích kết quả khảo sát NKT đã phân tích các khía cạnh về giới, sức
khỏe, tiếp cận y tế, giáo dục, văn hóa, bảo trợ xã hội… Trong đó cũng đã phân tích
về học nghề và tiếp cận dịch vụ học nghề của NKT là rất hạn chế và cần có các biện
pháp hỗ trợ. Trong đó có đề cập đến các giải pháp, biện pháp công tác xã hội [29].
Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ em mồ côi Việt Nam, đề tài nghiên cứu “Mô
hình hỗ trợ sinh kế cho người khuyết tật tại cộng đồng” (2012) đã nghiên cứu cơ sở
14


lý luận, thực tiễn trong nước và quốc tế có liên quan đến người khuyết tật, bảo trợ
xã hội đối với người khuyết tật và hỗ trợ sinh kế cho NKT. Đồng thời tổng hợp
đánh giá mô hình hỗ trợ sinh kế cho NKT ở nước ta giai đoạn 2008 - 2010. Từ kết
quả đánh giá thực tiễn đã xây dựng và đề xuất mô hình phù hợp trong giai đoạn tới,
bao gồm cả việc xác định mục tiêu, tiêu chí, đối tượng, phương thức, cách thức tổ
chức thực hiện, nguồn lực và các giải pháp kèm theo. Đề xuất quan điểm, định
hướng về công tác hỗ trợ cho NKT giai đoạn 2011 - 2020 và nghiên cứu, xây dựng

mô hình hỗ trợ sinh kế cho NKT, cùng với hệ thống các giải pháp vĩ mô và vi mô
để đưa ra mô hình áp dụng để các địa phương trong phạm vi cả nước. Trong đó có
đề cập đến một số lĩnh vực liên quan đến các hoạt động công tác xã hội trong hỗ trợ
sinh kế cho NKT [10].
Những nghiên cứu, đề tài, báo cáo trên chỉ tiếp cận ở khía cạnh ảnh hưởng và
tác động của chính sách an sinh xã hội tại địa phương ảnh hưởng đến đời sống của
người khuyết tật và gia đình họ; tìm hiểu về vấn đề chăm sóc sức khỏe, trợ giúp xã
hội, khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội, hay đánh giá hiệu quả của việc thực hiện
Luật người khuyết tật dưới góc nhìn của người làm chính sách nói chung chứ không
có đề tài nào đi sâu vào việc nghiên cứu sâu sắc về thực hiện chính sách CTXH đối
với NKT, nhất là ở tỉnh Bình Định.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu hệ thống chính sách hiện có và thực trạng về thực hiện chính sách
CTXH đối với người khuyết tại tỉnh Bình Định, từ đó đề xuất giải pháp tăng cường
thực hiện chính sách CTXH đối với NKT nói chung và tại tỉnh Bình Định nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng hợp khái quát cơ sở lý luận về thực hiện chính sách CTXH đối với
NKT.
- Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách CTXH đối với NKT cũng như các
yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện chính sách CTXH đối với NKT tại địa bàn
tỉnh Bình Định;
15


- Đề xuất giải pháp tăng cường thực hiện chính sách CTXH đối với NKT tại
tỉnh Bình Định nói riêng và cả nước nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống chính sách hiện có và các hoạt động thực hiện chính sách CTXH đối

với người khuyết tật tỉnh Bình Định.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi chính sách: Tập trung vào các chính sách tuyên truyền nâng cao
nhận thức về công tác xã hội; chính sách phát triển nhân lực làm công tác xã hội;
chính sách đào tạo cán bộ nhân viên, người làm công tác xã hội; chính sách huy
động nguồn lực cho thực hiện công tác xã hội; chính sách hỗ trợ phát triển dịch vụ
công tác xã hội đối với người khuyết tật.
- Khách thể nghiên cứu: Cán bộ, công chức và viên chức làm việc tại Sở Lao
động-Thương binh và Xã hội (LĐTBXH), Phòng LĐTBXH cấp huyện, cơ sở bảo
trợ xã hội có chăm sóc người khuyết tật, cán bộ làm công tác LĐTBXH cấp xã và
người khuyết tật, hộ gia đình có người khuyết tật tại Bình Định.
- Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2012 đến năm 2016.
- Không gian nghiên cứu: Tại tỉnh Bình Định.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng để phân tích, đánh giá
thực trạng về đời sống của NKT, thực trạng thực hiện chính sách CTXH đối với
NKT tại tỉnh Bình Định, rút ra được những lý luận và đưa ra được những đề xuất về
giải pháp để tăng cường việc thực hiện chính sách CTXH đối với người khuyết tật
tại tỉnh Bình Định. Những phát hiện của nghiên cứu này sẽ bổ sung thêm cơ sở lý
luận, khoa học cũng như phát triển hệ thống các lý luận, phương pháp trong nghiên
cứu về các vấn đề liên quan như CTXH, thực hiện chính sách công tác xã hội và
một số vấn đề lý luận về người khuyết tật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
16


- Phương pháp tổng hợp phân tích tài liệu thứ cấp: Tổng hợp phân tích tài
liệu: (i) Công trình nghiên cứu liên quan đến NKT, vấn đề thực hiện chính sách
CTXH đối với NKT; (ii) Báo cáo của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Bình

Định, các tổ chức Hội có liên quan đến người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Bình
Định, báo cáo các cơ sở BTXH, báo cáo tổng kết của phòng Lao động – TBXH một
số huyện, thị xã, thành phố cung cấp.
- Phương pháp quan sát: Quan sát, thu thập thông tin về hoàn cảnh sống, thái
độ, thể trạng, không gian sống và điều kiện sinh sống trong sinh hoạt hằng ngày của
NKT; thái độ, hành vi của cán bộ trực tiếp làm việc đối với NKT, gia đình có NKT
và quan sát thực trạng đời sống kinh tế - xã hội địa phương, thái độ, hành vi của
người dân, của chính quyền đối với các vấn đề liên quan đến thực hiện chính sách
CTXH đối với NKT…
- Phương pháp xử lý số liệu: Đề tài không thực hiện điều tra khảo sát riêng về
NKT, mà lồng ghép câu hỏi vào với điều tra NKT của tỉnh Bình Định năm 2016.
Đồng thời có sử dụng cơ sở dữ liệu thứ cấp của các cuộc khảo sát về NKT và
CTXH của tỉnh Bình Định do Sở Lao động – Thương binh và Xã hội thực hiện
trong các năm 2010, 2013, 2015 và 2016. Đây là các khảo sát được thiết kế phiếu
hỏi và có thực hiện phỏng vấn sâu đối với cán bộ, nhân viên thực hiện các hoạt
động CTXH ở các cấp cơ sở và các trung tâm bảo trợ xã hội trong tỉnh. Trong quá
trình thực hiện nghiên cứu đề tài đã sử dụng các phương pháp phân tích thống kê để
xử lý dữ liệu điều tra.
- Phương pháp thảo luận nhóm: Đề tài đã thực hiện 01 thảo luận nhóm đối với
cán bộ làm công tác quản lý ở Sở LĐTBXH và cán bộ lãnh đạo trung tâm bảo trợ xã
hội; 01 thảo luận nhóm đối với cán bộ cấp huyện và 01 thảo luận nhóm với cán bộ
cấp xã và đại diện người khuyết tật về các nội dung thực hiện các chính sách công
tác xã hội đối với NKT. Tổng số đối tượng tham gia thảo luận nhóm là 36 người
(mỗi thảo luận nhóm 12 người). Nội dung thảo luận theo các chủ đề chính sách
CTXH. Trong đó tập trung chủ yếu về những hạn chế của các chính sách tuyên
truyền, chính sách phát triển nguồn nhân lực, chính sách hỗ trợ phát triển hệ thống
17


dịch vụ, chính sách tài chính… Kết quả thảo luận nhóm được tóm tắt cụ thể trong

nội dung luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn nghiên cứu và làm sáng tỏ lý luận về thực hiện chính sách CTXH
đối với NKT từ thực tiễn tỉnh Bình Định, qua đó bổ sung và làm phong phú thêm về
cách nhìn nhận, đánh giá về thực hiện chính sách CTXH đối với NKT tại tỉnh Bình
Định nói riêng và trên cả nước nói chung.
Kết quả nghiên cứu đề tài minh chứng cho việc vận dụng các lý thuyết về
chính sách xã hội (CSXH), lý thuyết về CTXH nói chung và CTXH đối với NKT
nói riêng là cần thiết trong quá trình nghiên cứu thực tiễn, từ đó góp phần nâng cao
hiệu quả thực hiện chính sách CTXH với NKT ở nước ta nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả trong việc xây dựng cũng như tổ chức thực hiện. Là nguồn tài liệu
tham khảo hữu ích đối với những người có quan tâm đến CTXH nói chung và thực
hiện chính sách CTXH đối với NKT nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài tổng hợp thực trạng chính sách CTXH đối với NKT, qua đó đóng góp
hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với NKT, đồng thời nâng cao công tác tuyên
truyền, phổ biến chính sách, chương trình có liên quan đến NKT cũng như toàn thể
người dân biết và thực hiện kịp thời, có hiệu quả các chế độ, dịch vụ, chính sách thụ
hưởng... Đồng thời góp phần nâng cao nhận thức về chính sách CTXH đối với
NKT, nâng cao hiệu quả xây dựng và phát triển CTXH trở thành một nghề chuyên
nghiệp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh sách
các phụ lục, danh mục các chữ viết tắt, phần nội dung của luận văn được chia làm
ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách công tác xã hội đối với người
khuyết tật.
18



Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách công tác xã hội đối với người
khuyết tật tại tỉnh Bình Định.
Chương 3: Giải pháp tăng cường thực hiện chính sách công tác xã hội đối với
người khuyết tật tại tỉnh Bình Định.

19


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1.1. Khái quát về người khuyết tật và những đặc trưng của người khuyết
tật
1.1.1. Khái niệm người khuyết tật
Theo quan điểm của Tổ chức Quốc tế Người khuyết tật: Người khuyết tật trở
thành tàn tật là do thiếu cơ hội để tham gia các hoạt động xã hội và có một cuộc
sống giống như thành viên khác (Disabled People International- DPI, 1982).
Tại Điều 1 của Công ước Quốc tế về quyền của người khuyết tật năm 2006 đã
khẳng định: “Người khuyết tật bao gồm những người có khiếm khuyết lâu dài về
thể chất, trí tuệ, thần kinh hoặc các giác quan mà khi tương tác với các rào cản khác
nhau có thể cản trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của họ trong xã hội trên một nền
tảng công bằng như những người khác trong xã hội” [6, trang 11].
Tại khoản 1, Điều 2 của Luật Người khuyết tật Việt Nam ban hành ngày
17/06/2010 định nghĩa về người khuyết tật như sau: “Người khuyết tật là người bị
khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc suy giảm chức năng được biểu
hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn” [16]. Với
khái niệm này, người được coi là khuyết tật có đủ 2 điều kiện là: (i) Phải có khiếm
khuyết hoặc có suy giảm chức năng cơ thể và (ii) Khiếm khuyết và suy giảm chức
năng này có ảnh hưởng đến lao động, học tập và sinh hoạt cá nhân của chính người

đó.
Với Việt Nam việc sử dụng khái niệm NKT thay cho khái niệm người tàn tật
(như trong Pháp lệnh người tàn tật năm 1998) là một bước tiến mới trong cách nhìn
về NKT. Việt Nam đã phê chuẩn Công ước Quốc tế về quyền của NKT năm 2007
và đang trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật, cũng như từng bước thay đổi
trong chính sách, dịch vụ … hướng tới đảm bảo quyền của NKT.
1.1.2. Phân loại khuyết tật
20


Trên thế giới có rất nhiều cách phân loại về khuyết tật, tuy nhiên việc phân loại
khuyết tật ở Việt Nam đã được cụ thể hóa trong Luật Người khuyết tật năm 2010.
Việc phân loại mức độ khuyết tật thường được dựa trên nhiều tiêu chí khác
nhau: dựa vào các dạng tật và dựa vào các mức độ khuyết tật [8].
(i) Tiêu chí thứ nhất, về các dạng khuyết tật
Căn cứ vào Khoản 1, Điều 2, Chương 1, Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày
10/4/2012 của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật người khuyết tật [4], đã quy định 6 dạng khuyết tật cơ bản như sau:
• Khuyết tật vận động: Là tình trạng giảm hoặc mất chức năng cử động đầu,
cổ, chân, tay, thân mình dẫn đến hạn chế trong vận động, di chuyển.
• Khuyết tật nghe, nói: là tình trạng giảm hoặc mất chức năng nghe, nói hoặc
cả nghe và nói, phát âm thành tiếng và câu rõ ràng dẫn đến hạn chế trong giao tiếp,
trao đổi thông tin bằng lời nói.
• Khuyết tật nhìn: là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhìn và cảm nhận ánh
sáng, màu sắc, hình ảnh, sự vật trong điều kiện ánh sáng và môi trường bình thường.
• Khuyết tật thần kinh, tâm thần: là tình trạng rối loạn tri giác, trí nhớ, cảm xúc,
kiểm soát hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện với những lời nói, hành động bất thường.
• Khuyết tật trí tuệ: là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhận thức, tư duy
biểu hiện bằng việc chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về sự vật, hiện tượng,
giải quyết sự việc.

• Khuyết tật khác: là tình trạng giảm hoặc mất những chức năng cơ thể khiến
cho hoạt động lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn mà không thuộc các
trường hợp được quy định tại các dạng trên.
(ii) Tiêu chí thứ hai, về các mức độ khuyết tật:
• Khuyết tật đặc biệt nặng: là những người do khuyết tật dẫn đến mất hoàn
toàn chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được các hoạt động đi
lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá
nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc hoàn toàn.
21


• Khuyết tật nặng: là những người do khuyết tật dẫn đến mất một phần hoặc
suy giảm chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được một số hoạt
động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh
hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc.
• Khuyết tật nhẹ: là người khuyết tật không thuộc trường hợp quy định tại hai
mức độ trên.
1.1.3. Đặc trưng của người khuyết tật
(i) Sức khỏe yếu, cần đến các hoạt động phục hồi chức năng: Những NKT
do bị khiếm khuyết về một hoặc một số bộ phận chức năng của cơ thể nên sức khỏe
của họ kém hơn so với người bình thường. Ở mỗi dạng tật, tình hình sức khỏe lại
khác nhau. Phần lớn những người khuyết tật vận động không có khả năng sức khỏe
để làm những công việc thủ công, những công việc đòi hỏi phải có sức khỏe. Những
người hạn chế nghe, nói, tâm thần kinh thì đặc trưng về sức khỏe cũng có những sự
khác biệt nhất định so với những người bình thường. Nhìn chung về thể trạng và
tâm thần của người khuyết tật đều có những đặc trưng riêng. Một số ít về thể trạng
khỏe mạnh, còn lại đa phần là có thể trạng yếu và khó có thể vận động như những
người không khuyết tật.
(ii) Sống rất khép kín, ít thích giao tiếp, ít hòa nhập cộng đồng: Nguyên
nhân là do bị khiếm khuyết về thể chất hoặc tinh thần nên họ dễ bị tổn thương về

mặt tinh thần. Bên cạnh đó, họ còn phải đối mặt với sự kỳ thị và phân biệt đối xử từ
phía cộng đồng do nhận thức chưa đúng của xã hội. Tâm lý chung là mặc cảm nghĩ
rằng mình là người thừa, là gánh nặng của gia đình và xã hội. Do đó, để đảm bảo
cuộc sống cho NKT thì không chỉ dừng lại ở các chính sách về chăm sóc sức khỏe,
phục hồi chức năng mà còn phải tiến tới xoá bỏ các rào cản đối với NKT nhằm
nâng cao nhận thức và trách nhiệm của Nhà nước, xã hội, gia đình, cộng đồng và
của mọi cá nhân đối với NKT, giảm thiểu hoặc xoá bỏ những rào cản, giúp người
khuyết tật chủ động hòa nhập, có cơ hội tham gia một cách bình đẳng vào các hoạt
động của xã hội.

22


(iii) Có ý chí vươn lên khỏi hoàn cảnh, số phận của mình: Đại đa số NKT
đều có nghị lực và ý thức vượt lên số phận. Họ mong muốn có thể tự chủ được
trong công việc và cuộc sống. Nếu có được sự hỗ trợ thích hợp của gia đình và xã
hội, người khuyết tật sẽ đạt được nhiều thành tích cao trong lao động và học tập, trở
thành tấm gương sáng, thành nguồn động lực cho nhiều người noi theo.
(iv) Cũng còn tư tưởng ỷ lại: Một bộ phận NKT nghĩ rằng mình là đối tượng
được bảo trợ, được gia đình và xã hội quan tâm. Vì vậy, đã ỷ lại, trông chờ vào
người khác hỗ trợ, không có ý thức tự rèn luyện, phấn đấu vươn lên hòa nhập xã
hội.
(v) Khó khăn khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ: NKT là những người bị
khiếm khuyết (thiếu, không có hoặc bị mất đi) bộ phận nào đó trên cơ thể, bị suy
giảm sức khỏe khó có thể phục hồi, bị hạn chế hoặc không có khả năng nhận thức,
tiếp thu các tư tưởng văn hóa và giáo dục như các chủ thể thông thường khác. Khả
năng thực hiện quyền và nghĩa của người khuyết tật sẽ hạn chế hơn đối với những
đối tượng thông thường. Do bị khiếm khuyết về thể chất, tâm thần, trí tuệ hoặc giác
quan mà những NKT sẽ khó khăn khi thực hiện các công việc lao động, học tập,
sinh hoạt, vui chơi giải trí, tham gia các quan hệ xã hội, hoạt động xã hội khác kém

hiệu quả hơn các đối tượng thông thường.
1.2. Một số lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu
1.2.1. Lý thuyết về vị trí - vai trò xã hội
Thuyết vị trí vai trò trong xã hội nhấn mạnh đến các bộ phận cấu thành của
xã hội và cho rằng mỗi cá nhân có một vị trí xã hội nhất định, được thừa nhận trong
cơ cấu xã hội, gắn liền với những quyền lợi, nghĩa vụ hay kỳ vọng để định hướng
cho những hành vi xã hội của cá nhân đó. Nó được xác định trong sự đối chiếu so
sánh với các vị trí xã hội khác [17].
Mỗi xã hội có cơ cấu phức tạp bao gồm các vị trí, vai trò xã hội khác nhau.
Lý thuyết về vị trí - vai trò xã hội cho rằng, mỗi cá nhân có một vị trí xã hội là vị trí
tương đối trong cơ cấu xã hội, hệ thống quan hệ xã hội. Nó được xác định trong sự
đối chiếu so sánh với các vị trí xã hội khác nhau. Vị thế xã hội là vị trí xã hội gắn
với những trách nhiệm và quyền hạn kèm theo. Mỗi cá nhân có vị trí xã hội khác
23


nhau, do đó cũng có nhiều vị thế khác nhau. Những vị thế xã hội của cá nhân có thể
là: vị thế đơn lẻ, vị thế tổng quát hoặc có thể chia theo cách khác là: vị thế có sẵn được gắn cho, vị thế đạt được, một số vị thế vừa mang tính có sẵn, vừa mang tính
đạt được [21].
Vai trò của cá nhân được xác định trên cơ sở các vị thế xã hội tương ứng.
Vai trò là những đòi hỏi của xã hội đặt ra với các vị thế xã hội. Những đòi hỏi đó
luôn dựa vào các chuẩn mực của xã hội. Tùy thuộc vào đặc thù văn hóa của mỗi
vùng, của mỗi dân tộc mà có những chuẩn mực riêng của nó. Vì vậy một vị thế xã
hội nhưng tùy vào đặc thù của xã hội đó mà có những vai trò khác nhau.
Trong Công tác xã hội, thuyết này được ứng dụng để khi tiếp cận với đối
tượng thì nhân viên công tác xã hội phải hiểu rõ từng vị trí mà họ đuợc thừa nhận
trong gia đình và ngoài xã hội. Khi con người có tiếng nói riêng của mình, được gia
đình và xã hội coi trọng thì họ sẽ thực hiện tốt các vai trò của mình và sẽ đáp ứng
được nhiều mong đợi từ người khác.
Lý thuyết vị trí - vai trò xã hội được sử dụng trong luận văn này nhằm mục

đích nói lên rằng trong công tác xã hội khi hoạt động ở từng lĩnh vực cụ thể thì cũng
có những vai trò cụ thể đối với từng lĩnh vực. Trong thực hiện chính sách CTXH
đối với NKT thì nhân viên công tác xã hội có vai trò như thế nào để hỗ trợ NKT
được đảm bảo các quyền của NKT. Trong quá trình hỗ trợ NKT thì nhân viên công
tác xã hội phải hiểu rõ vai trò và vị thế của NKT trong gia đình và ngoài xã hội, qua
đó giúp NKT có cơ hội tham gia vào quá trình lao động sản xuất cũng như tham gia
các hoạt động xã hội.
1.1.2. Lý thuyết hệ thống
Thuyết hệ thống ra đời từ năm 1940, do nhà sinh vật học Ludwig Von
BertaLffy phát hiện. Để phản đối chủ nghĩa đơn giản hóa và việc cô lập của các đối
tượng khoa học, ông đưa ra quan điểm rằng tất cả các cơ quan đều là các hệ thống,
bao gồm những hệ thống nhỏ hơn và là phần tử của các hệ thống lớn hơn. Từ một
quan điểm trong ngành sinh học, ý tưởng về hệ thống đã có nhiều ảnh hưởng tới các
ngành khoa học khác, kể cả công tác xã hội.
Thuyết hệ thống cung cấp cho nhân viên công tác xã hội một phương tiện để
tổ chức tư duy vấn đề, đặc biệt là khi vấn đề có sự tương quan phức tạp giữa các
24


thông tin và khi khối lượng thông tin lớn. Thuyết hệ thống sử dụng trong công tác
xã hội chú ý tới nhiều các quan hệ giữa những phần tử nằm trong hệ thống hơn là
chú ý tới trong phần tử là mỗi cá nhân với các thuộc tính của phần tử (cá nhân) đó.
Thuyết hệ thống được sử dụng trong công tác xã hội như một công cụ trợ
giúp nhân viên xã hội sắp xếp, tổ chức những lượng thông tin lớn thu thập được, để
xác định mức độ nghiêm trọng của vấn đề và cách can thiệp. Thuyết hệ thống là
một bộ phận không thể tách rời của quan điểm sinh thái. Hành vi của con người
không phải bộc lộ tự phát một cách độc lập, mà nằm trong mối quan hệ qua lại với
những hệ thống khác trong xã hội.
Cá nhân được coi là một hệ thống vi mô, cá nhân không nằm đơn lẻ mà luôn
chịu sự tác động của các hệ thống gia đình, hệ thống xã hội. Các hệ thống luôn có

sự tác động qua lại với nhau.
Tác giả vận dụng lý thuyết hệ thống trong việc nghiên cứu luận văn của mình
nhằm nhìn nhận sự tác động qua lại của NKT như thế nào ở các hệ thống trong xã
hội. Cụ thể, NKT đã có những tiếp cận như thế nào về hệ thống các chính sách xã
hội, đặc biệt trong chính sách như trợ cấp xã hội, chăm sóc sức khỏe, vay vốn, dạy
nghề, việc làm... Mặc dù, sống trong một cộng đồng nhưng không phải cá nhân nào
cũng có cơ hội tiếp cận các chính sách và dịch vụ như nhau. Qua đó, tìm hiểu
nguyên nhân để có những giải pháp nhằm giúp họ có cơ hội tiếp cận các chính sách
và dịch vụ một cách nhanh nhất.
1.1.3. Thuyết nhu cầu của Abraham Maslow
Mỗi con người sinh ra trong xã hội ai cũng có những nhu cầu cho cuộc sống
sinh tồn của mình, đó là nhu cầu về vật chất và nhu cầu về tinh thần. Các nhu cầu
đó rất đa dạng, phong phú và phát triển. Nhu cầu của con người phản ánh những
mong muốn chủ quan hoặc khách quan tùy theo hoàn cảnh sống, yếu tố văn hóa,
nhận thức và vị trí xã hội của họ. Để tồn tại và phát triển trong xã hội, con người
cần phải đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống như: ăn, mặc, ở và
chăm sóc y tế… rồi đến các nhu cầu cao hơn như: nhu cầu được an toàn, được học
hành, được yêu thương, được tôn trọng và phát triển. Khi con người được đáp ứng
các nhu cầu cơ bản thì họ mới có động lực và đó cũng chính là điều kiện để được
đáp ứng các nhu cầu cao hơn.
25


×