Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

KHÓA LUẬN tốt NGHIỆP KINH tế CHÍNH TRỊ GIẢI QUYẾT VIỆC làm CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN ở TỈNH VĨNH PHÚC HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.77 KB, 58 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việc làm cho người lao động là vấn đề được quan tâm hàng đầu và luôn
mang tính thời sự trong chiến lược phát triển kinh tế -xã hội ở mỗi quốc gia
trên thế giới. Việc làm vừa là yều cầu, là nguyện vọng chính đáng của người
lao động, đồng thời nó cũng là trách nhiệm của mỗi con người đối với bản
thân,gia đình và xã hội. Việc làm giúp cho người lao động vươn lên làm giàu
bằng chính sức lực của mình. Đảm bảo việc làm cho người lao động không
những giúp cho bản thân người lao động có thu nhập, ổn định cuộc sống mà
còn làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội và là một trong những yếu tố cơ
bản cho sự phát triển bền vững. Đối với những nước đang phát triển như Việt
Nam thì vấn đề việc làm cho người lao động nói chung, lao động nông thôn
nói riêng là vấn đề hết sức quan trọng và có ý nghĩa to lớn trong tiến trình xây
dựng và phát triển bền vững đất nước. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường,
giải quyết việc làm cho người lao động là tiền đề quan trọng để sử dụng có
hiệu quả nguồn nhân lực, góp phần vào hình thành thể chế kinh tế thị trường,
đồng thời đảm bảo an sinh xã hội. Hiện nạy, Việt Nam với dân số trên 90 triệu
người, trong đó lao động nông nghiệp nông thôn có nguồn nhâu lực dồi dào,
đây cũng là thế mạnh của chúng ta, việc quan tâm giải quyết việc làm cho
người lao động luôn là một trong những vấn đề được Đảng và Nhà nước hết
sức quan tâm. Chính vì vậy, trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX của Đảng đã nhấn mạnh: "Giải quyết việc làm là nhân tố quyết định để
phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã
hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân" [01,
tr 136]. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng tiếp tục nhấn mạnh:
“Trên cơ sơ đầu tư phát triến kinh tế, phải hết sức quan tâm tới yêu cầu
chuyển dịch cơ cấu lao động; giải quyết việc làm cho người lao động; tạo



2
điều kiện giải quyết ngày càng nhiều việc làm, đặc biệt là cho nông dân” [02,
tr132]. Đến Đại hội XII, Đảng ta lại nhấn mạnh: “Giải quyết tốt lao động,
việc làm và thu nhập cho người lao động… tạo cơ hội để mọi người có việc
làm và cải thiện thu nhập”. [03, tr146]
Vĩnh Phúc là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, nằm trong
vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và Vùng Thủ đô, phía Bắc giáp tỉnh Thái
Nguyên và Tuyên Quang, phía Tây giáp Phú Thọ, phía Đông và phía Nam
giáp thủ đô Hà Nội, diện tích khoảng 1.235,13 km2 với dân số
khoảng 1.054.492 người, mật độ dân số khoảng 854 người/km 2, tỷ lệ dân số
trong độ tuổi lao động chiếm 60%.
Sau 20 năm tái lập, vị thế của tỉnh ngày càng được khẳng định và đạt
được nhiều thành tựu to lớn. Kinh tế của tỉnh tăng trưởng cao hơn so với
trung bình chung của cả nước; tổng sản phẩm địa phương (GRDP) không
ngừng được mở rộng và tăng lên, năm 2015 đạt 70,57 nghìn tỷ đồng (theo giá
hiện hành); tổng sản phẩm địa phương bình quân đầu người năm 2015 đạt
67,1 triệu đồng. Công tác giải quyết việc làm, giảm nghèo được thực hiện tốt
và huy động được sự tham gia của toàn xã hội; bình quân mỗi năm giải quyết
việc làm cho 21,35 nghìn lao động.
Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh Vĩnh Phúc vẫn còn
những bất cập, tồn tại chưa được giải quyết, trong đó có vấn đề giải quyết
việc làm cho người lao động, nhất là lao động nông thôn.Chất lượng nguồn
nhân lực chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển. Tình trạng thừa lao động,
thiếu việc làm có thu nhập ổn định khá phổ biến, nhất là ở nông thôn; công
tác giải quyết việc làm, giảm nghèo bền vững hiệu quả chưa cao. Những bất
cập, tồn tại đó ảnh hưởng không nhỏ đến thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã
hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng của tỉnh. Để góp phần giải quyết các vấn
đề bất cập trên, tác giả đã lựa chọn vấn đề: "Giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn ở tỉnh Vĩnh Phúc " làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến khóa luận



3
Giải quyết việc làm là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với
nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Do vậy, đã có nhiều công trình nghiên
cứu về lao động, việc làm trong nước. Tiêu biểu như:
Chính sách việc làm: Thực trạng và giải pháp của ThS Thúy Hà, Trung
tâm nghiên cứu khoa học, Viện nghiên cứu lập pháp, năm 2013.
Bài viết tổng quan lại thực trạng các chính sách việc làm mà Chính phủ
đưa ra để hỗ trợ công tác giải quyết việc làm cũng như những giải pháp đế
hoàn thiện cơ chế chính sách trên, nhằm phát huy cao nhất hiệu quả của
nhũng chính sách đưa ra.
Đinh Thị Bích Thảo (2015) Giải quyết việc làm cho người lao động
nông thôn ở ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hóa, Luận văn thạc sĩ
Tác giả phân tích, luận giải, đánh giá thực trạng công tác giả quyết việc
làm cho lao động nông thôn ở ngoại thành Hà Nội. Trên cơ sở đó luận văn đề
xuất các giải pháp nhằm gải quyết và tạo thêm việc làm cho lao động nông
thôn ở ngoại thành Hà Nội trong quá trình đo thị hóa hiện nay.
Sử dụng vốn ngân sách Nhà nước để cho vay giải quyết việc làm lao
động nông nghiệp (2007), Luận án tiến sỹ, Đặng Văn Quang, Đại học kinh tế
quốc dân, Hà nội.
Tác giả phân tích, đánh giá thực trạng cho vay giải quyết việc làm
trong nông nghiệp; tổng kết những kết quả cũng như những tồn tại, đi sâu
phân tích nguyên nhân của những tồn tại cả về cơ chế, chính sách lẫn tổ
chức thực hiện; cả về phía Nhà nước và người vay vốn. Trên cơ sở đó, luận
án đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay giải quyết việc
làm trong nông nghiệp ở nước ta hiện nay.
Việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh (2006), Luận văn
thạc sỹ, Nguyễn Thị Hồng Ninh, Học viện Chính trị quốc gia, Hà nội.
Tác giả đã tập trung nghiên cứu đưa ra các quan niệm về việc làm, về

giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn. Luận giải, phân tích thực
trạng việc làm, giải quyết việc làm ở Việt Nam nói chung, của tỉnh Hà Tĩnh
nói riêng và đề xuất những phương hướng và giải pháp giải quyết việc làm


4
phù hợp với điều kiện thực tiễn của tỉnh Hà tĩnh hiện nay.
Giải quyết việc làm ở Thái Bình: Thực trạng và giải pháp, Bùi Xuân
An(2005) ,Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Tác giả đã phân tích thực trạng công tác giải quyết việc làm tại tỉnh
Thái Bình, từ đó đưa ra các hạn chế còn tồn tại và đề xuất các giải pháp để
giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Thái Bình.
Nguyễn Tiệp (2004), Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn: Các
giải pháp để tạo thêm việc làm, Tạp chí Lao động và công đoàn, số 309, trang 6-7.
Tác giả khặng định, một trong các giải pháp hữu hiệu để giải quyết việc
làm cho người lao động là tạo ra cầu lao động, trong đó giải pháp phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ để thu hút lao động được coi là một trong những
giải pháp thích hợp trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay. Bài viết đã nêu
lên những hướng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn và các
phương thúc thu hút lao động vào các doanh nghiệp này.
Việc làm ở nông thôn, thực trạng và giải pháp (2001), Chu Tiến Quang,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tác giả đã phân tích làm rõ vấn đề việc làm ở nông thôn Việt Nam.
Đưa ra phương pháp tiếp cận tổng quát về chính sách việc làm, hệ thống khái
niệm về lao động, việc làm, đánh giá thực trạng vấn đề việc làm ở Việt Nam.
Từ đó đề xuất hệ thống các quan điểm, giải pháp giải quyết việc làm và
khuyến nghị một số chính sách cụ thể về việc làm, chống thất nghiệp trong
công cuộc CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay.
Ngoài ra, cũng có một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ viết về vấn đề
việc làm và giải quyết việc làm ở tỉnh: Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Kiên

Giang... với những cách tiếp cận khác nhau, nhưng chưa có luận văn, công trình
khoa học nào phân tích, đánh giá vấn đề giải quyết việc làm cho LĐNT tỉnh
Vĩnh Phúc dưới dạng một khóa luận khoa học kinh tế chính trị.
Quá trình xây dựng khóa luận, trên cơ sở đường lối, quan điểm phát
triển KT-XH của Đảng, Nhà nước và của tỉnh Vĩnh Phúc, tác giả có lựa chọn
và kế thừa một số kết quả nghiên cứu đã công bố, kết hợp tìm hiểu, khảo sát


5
thực tiễn ở nông thôn Vĩnh Phúc để phân tích thực trạng. Từ đó đưa ra các
giải pháp phù hợp với tình hình thực tế của địa phương.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý luận, thực tiễn về giải quyết
việc làm cho lao động nông thôn. Trên cơ sở đó, đề xuất quan điểm và giải
pháp giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh Vĩnh Phúc.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích và luận giải một số vấn đề lý luận liên quan đến giải quyết việc
làm cho lao động nông thôn, làm cơ sở để phân tích thực trạng giải quyết việc
làm cho lao động nông thôn ở tỉnh Vĩnh Phúc.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp giải quyết tốt hơn việc làm cho lao
động nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn.
* Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu vấn đề giải quyết việc
làm cho lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc dưới góc độ của
khoa học Kinh tế chính trị Mác – Lênin.
Thời gian khảo sát đánh giá thực trạng: Từ năm 2011 - 2015.
5 . Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:

Khóa luận được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách kinh tế của Đảng và Nhà
nước; lý thuyết lao động và việc làm hiện đại, các chỉ thị, nghị quyết về lao
động, việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn của Tỉnh uỷ, Hội
đồng nhân dân, UBND tỉnh Vĩnh Phúc. Đồng thời kế thừa kết quả nghiên cứu
của các công trình khoa học có liên quan đến khoá luận.
* Phương pháp nghiên cứu:
Cơ sở phương pháp luận của khoá luận là phép biện chứng duy vật. Sử
dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp tiếp cận hệ thống,
phương pháp phân tích, so sánh, thống kê, phương pháp chuyên gia, dựa trên
những tài liệu thực tiễn của các ngành có liên quan đến đối tượng, phạm vi
nghiên cứu để làm rõ vấn đề mà khoá luận đề cập.


6
6. Ý nghĩa của khoá luận
Khóa luận góp phần làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn
về giải quyết việc làm cho lao động nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của khóa luận cung cấp những cơ sở khoa học cho
các cơ quan chức năng của tỉnh Vĩnh phúc tham khảo để hoạch định chính
sách phát triển KT-XH tỉnh Vĩnh Phúc, cũng như các địa phương khác có điều
kiện KT-XH tương đồng.
7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận
gồm 2 chương, 4 tiết.

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
Ở TỈNH VĨNH PHÚC
1. 1. Những vấn đề chung về việc làm và giải quyết việc làm cho lao

đông nông thôn ở tỉnh Vĩnh Phúc
1.1.1. Việc làm cho lao động nông thôn
Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, xã hội
và nhân khẩu, là một trong những vấn đề chủ yếu nhất cử toàn bộ đời sống xã
hội. Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì việc làm là những hoạt động lao
động được trả công bằng tiền và hiện vật. Còn theo Đại từ điển tiếng Việt thì
việc làm là công việc, nghề nghiệp hàng ngày để sinh sống.
Việc làm bắt nguồn từ lao động của con người - ở những người có sức
lao động tác động đến tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất để thỏa mãn nhu
cầu của mình, việc làm luôn gắn với ngành nghề nhất định.


7
Trong tác phẩm “ Biện chứng của tự nhiên”, Ph. Ăngghen đã khẳng
định: “ Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người
và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó chúng ta phải nói: lao
động đã sáng tạo ra bản thân con người”. Điều đó có nghĩa là nhân tố có ý
nghĩa quyết định trong lịch sử, xét đến cùng là việc sản xuất và tái sản xuất ra
chính bản thân con người. Sản xuất gồm hai loại: một loại sản xuất ra những
của cải vật chất, tinh thần hay sản xuất ra tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt
như thức ăn, nhà ở, quần áo và các công cụ cần thiết khác; một loại sản xuất
ra bản thân loài người, tức là việc phát triển giống nòi. Ở đây lao động được
xem xét ở khía cạnh thứ nhất – lao động để sản xuất ra của cải, vật chất hay
sản phẩm để phục vụ con người và xã hội.
Điều 9, Bộ Luật Lao động nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được Quốc hội khóa 13 thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2012 chỉ rõ: “Việc làm
là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm”[05, tr.05].
Nói cách khác, mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp
luật cấm đều được thừa nhận là việc làm. Như vậy việc làm là lao động của con
người nhằm tạo ra thu nhập hoặc lợi ích của bản thân, gia đình và xã hội

không bị pháp luật ngăn cấm. Trong thực tế, có nhiều công việc tạo ra thu nhập
cao cho chủ thể hoạt động như buôn bán ma túy, buôn lậu, sản xuất hàng giả,
hàng cấm, buôn người…nhưng đó là những công việc phạm pháp, không được
pháp luật cho phép nên không được thừa nhận là việc làm.
Các hoạt động được xác định là việc làm bao gồm:
- Làm các công việc được trả công dưới dạng bằn tiền hoặc hiện vật (làm
việc được trả công).
- Những công việc tự làm hoặc làm các công việc gia đình, được hiểu là
các công việc sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong gia đình để thu lợi nhuận cho
bản thân hoặc tạo ra thu nhập cho gia đình nhưng không được trả công bằng
tiền hoặc hiện vật cho công việc đó ( việc làm không được trả công). Trên thực
tế, phần thu nhập mà bản thân hay gia đình nhận được, phục vụ cho nhu cầu


8
sinh hoạt hàng ngày chính là tiền công, tiền lương mà bản thân người lao động
nhận được, hay nói cách khác, trong trường hợp này bản thân người lao động
tự trả công cho lao động của mình. Việc làm không được trả công này khác với
việc làm không được trả công khi lao động làm việc cho nhà tư bản, bởi việc
làm không được trả công của người lao động khi làm việc cho nhà tư bản thì đó
chính là phần lao động tạo ra giá trị thặng dư và lại bị nhà tư bản chiếm đoạt.
Theo luận giải về việc làm như trên thì hoạt động được coi là việc làm
cần thỏa mãn hai điều kiện:
Một là, hoạt động đó phải có ích nhưng đồng thời tạo ra thu nhập cho
người lao động và cho các thành viên trong gia đình. Những hoạt động lao
động có ích khác như sản xuất tự cung, tự cấp nhằm phục vụ tự tiêu dùng,
nhưng không trao đổi, không đem lại thu nhập cho người lao động thì không
được coi là việc làm.
Hai là, hoạt động đó phải đúng luật; không bị pháp luật cấm.
Hai tiêu thức này có quan hệ chặt chẽ với nhau và là điều kiện cần và

đủ của một hoạt động được thừa nhận là việc làm. Nếu một hoạt động chỉ tạo
ra thu nhập nhưng vi phạm luật pháp như: trộm cắp, buôn bán ma túy, mại
dâm,... Không thể được công nhận là việc làm. Mặt khác, một hoạt động dù là
hợp pháp, có ích nhưng không tạo ra thu nhập cũng không được thừa nhận là
việc làm. Chẳng hạn như công việc nội trợ hàng ngày của phụ nữ cho chính
gia đình mình: đi chợ, nấu cơm, giặt giũ quần áo,... Nhưng nếu người phụ nữ
đó cũng thực hiện các công việc nội trợ tương tự cho gia đình người khác và
được trả công thì hoạt động của họ lại được thừa nhận là việc làm.
Việc làm có những tính chất đa dạng như sau:
Một là, tính chất cá nhân hay tập thể của việc làm: Điều này cho biết
công việc của một người hay tập thể.
Hai là, tính chất địa lý của việc làm: Cho biết việc làm được diễn ra ở
đâu, khu vực nông thôn hay thành thị, đồng bằng hay miền núi.
Ba là, tính chất kỹ thuật của việc làm: Cho biết tính đặc thù về kỹ thuật và
công nghệ của việc làm. Đây cũng là cơ sở để chia theo ngành nghề của công việc.


9
Bốn là, tính chất thành thạo của việc làm: Cho biết năng lực và phẩm
chất của người lao động được thể hiện trong quá trình làm việc.
Năm là, tính chất kinh tế của việc làm: Cho thấy hiệu quả kinh tế của việc
làm.
Sáu là, tính chất cơ động của việc làm: Cho thấy khả năng thay đổi nghề
nghiệp và năng lực thích nghi với điều kiện làm việc mới của người lao động.
Từ những phân tích trên cho ta thấy rằng, việc làm là hoạt động lao
động của con người mà pháp luật không cấm, là dạng hoạt động kinh tế xã
hội, đó là sự kết hợp giữa sức lao động với tư lỉệu sản xuất theo những điều
kiện phù hợp nhất định, nhằm tạo ra sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ, đáp ứng
lợi ích của con người.
Lao động nông thôn đề cập trong khóa luận được xem xét dưới góc độ

tiếp cận là những người lao động sinh sống ở nông thôn. Đó là một bộ phận
của lao động xã hội, bao gồm toàn bộ những người lao động đang làm việc
trong nền kinh tế quốc dân và những người có khả năng lao động nhưng chưa
tham gia hoạt động trong nền kinh tế quốc dân thuộc khu vực nông thôn. Cụ
thể, lao động nông thôn bao gồm những người từ 15 tuổi trở lên sống ở nông
thôn đang làm việc trong các ngành, lĩnh vực như nông, lâm, ngư nghiệp,
công nghiệp, xây dựng, dịch vụ hoặc các ngành phi nông nghiệp khác và
những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng tham gia các
hoạt động kinh tế.
Lao động nông thôn có các đặc điểm
Lao động nông thôn mang tính thời vụ. Đây là đặc điểm đặc thù không
thể xáo bỏ được của lao động nông thôn. Nguyên nhân của nét đặc thù trên là
do đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cây trồng vật nuôi chúng là những
cơ thể sống, trong đó quá trình tái sản xuất tự nhiên và tái sản xuất kinh tế đan
xen nhau. Cùng một loại cây trồng vật nuôi ở những vùng khác nhau có điều
kiện tự nhiên khác nhau chúng cũng có quá trình sinh trưởng và phát triển
khác nhau. Tính thời vụ trong nông nghiệp là vĩnh cửu không thể xáo bỏ được
trong quá trình sản xuất chúng ta chỉ có thể tìm cách làm giảm tính thời vụ


10
của sản xuất nông nghiệp. Từ đó đặt ra vấ đề cho việc sử dụng các yếu tố đầu
vào của qúa trình sản xuất, đặc biệt là vấn đề sử dụng lao động nông thôn một
cách hợp lý có ý nghĩa rất quan trọng.
Chất lượng nguồn lao động nông thôn chưa cao. Chất lượng của người
lao động được đánh giá qua trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật và sức
khoẻ. Trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật nguồn lao động của nước ta
đông về số lượng nhưng sự phát triển của nguồn nhân lực nước ta còn nhiều
hạn chế, nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu khắt khe trong bối cảnh đất
nước đang hội nhập kinh tế quốc tế. Riêng lao động nông thôn chiếm hơn 3/4

lao động của cả nước. Tuy vậy nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn chưa
phát huy hết tiềm năng do trình độ chuyên môn của lao động thấp kỹ thuật lạc
hậu. Do đó, để có một nguồn lao động với trình độ chuyên môn kỹ thuật cao
thì Nhà nước cần phải có chính sách đào tạo bồi dưỡng để có nguồn nhân lực
đủ trình độ để phát triển đất nước.
1.1.2. Giải quyết việc làm và nội dung giải quyết việc làm cho lao
động nông thôn ở tỉnh Vĩnh Phúc
Giải quyết việc làm theo nghĩa chung nhất là tạo mới, tạo thêm việc
làm cho người lao động. Nói một cách khác là tạo ra cơ hội để người lao động
có hoặc có thêm việc làm, tăng thu nhập, đáp ứng nhu cầu, lợi ích của bản
thân người lao động, của gia đình và cộng đồng. Giải quyết việc làm cho
người lao động chính là việc khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực con
người. Giải quyết việc làm cho người lao động giúp họ tham gia vào quá trình
sản xuất, là yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội. Chính vì vậy giải quyết
việc làm phù hợp có ý nghĩa quan trọng đối với người lao động, tạo cơ hội
cho họ thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình, trong đó có quyền cơ bản
nhất là quyền được làm việc nhằm nuôi sống bản thân, gia đình và góp phần
xây dựng quê hương đất nước.
Giải quyết việc làm có thể được hiểu ở các khía cạnh như sau:


11
Một là, Giải quyết việc làm cho người lao động là quá trình tạo ra
những cơ hội sử dụng tối đa sức lao động kết hợp với tư liệu sản xuất trong
phát triển kinh tế xã hội mang lại thu nhập hợp pháp cho người lao động,
người sử dụng lao động và cho xã hội. Ở nước ta hiện nay với chủ trương
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đã và đang tạo mọi
điều kiện thuận lợi để hình thành thị trường sức lao động đa dạng và phong
phú, cả thị trường trong và ngoài nước. Người lao động được làm chủ sức lao
động của mình, tự do tìm kiếm việc làm theo năng lực của mình ở mọi lúc,

mọi nơi... Người sử dụng lao động ở các loại hình doanh nghiệp khác nhau
cũng được tự do thuê mướn lao động theo số lượng, chất lượng, theo nhu cầu
sản xuất kinh doanh mà pháp luật cho phép. Đó thực chất là quá trình đẩy
mạnh phân công lao động, tạo ra các ngành, nghề mới để nhằm thu hút lực
lượng lao động xã hội hiện đang chưa có việc làm hoặc có việc làm chưa ổn
định, thu nhập thấp.
Hai là, giải quyết việc làm là quá trình tạo ra nhu cầu về việc làm để
thu hút người lao động có nhu cầu, mong muốn được làm việc có thể tìm đến.
Đó thực chất là quá trình tạo ra những điều kiện kinh tế xã hội, các chính
sách của Nhà nước; các giải pháp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, các
giải pháp để duy trì việc làm ổn định và đạt hiệu quả cao; các giải pháp về mở
rộng thị trường xuất khẩu lao động; về tiền lương, trợ cấp nghề nghiệp; về chế
độ hưu trí… Giải quyết việc làm còn cần phải được xem xét cả phía người lao
động, người sử dụng lao động và vai trò của Nhà nước.
Ba là, giải quyết việc làm là một hoạt động mang tính xã hội sâu sắc,
đòi hỏi phải có sự chung sức của cả hệ thống chính trị. Trong bất cử xã hội
nào nhu cầu được có việc làm và khả năng giải quyết việc làm của xã hội và
bản thân nền kinh tế luôn có sự lệch pha và thông thường số lượng người
muốn có việc làm hay còn gọi là cầu về việc làm luôn lớn hơn khả năng giải
quyết việc làm hay cung về việc làm. Việc giải quyết bất cập này phải bằng


12
tổng thể các biện pháp cả kinh tế, chính trị, giáo dục; của cả gia đình, nhà
trường và xã hội, của cả hệ thống chính trị, từ Trung ương đến địa phương
nhằm tác động đến quy mô, tốc độ tăng dân số, các quy định về độ tuổi lao
động và sự di chuyển của lao động, về sự phát triển của giáo dục đào tạo, y tế,
thể chất và chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Vì vậy, vấn đề việc làm và giải quyết việc làm là vấn đề có ý nghĩa to
lớn đối với mỗi quốc gia. Trong Bộ luật Lao động của nước Cộng hoà xã hội

chủ nghĩa Việt Nam đã có quy định rõ ràng và đầy đủ về trách nhiệm của Nhà
nước, trách nhiệm qua từng thành viên trong xã hội đối với vấn đệ việc làm:
“Nhà nước, người sử dụng lao động và xã hội có trách nhiệm tham gia giải
quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội
có việc làm.” [04, tr.05]. Để từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống, phát
huy nguồn lực con người thì việc giải quyết việc làm, tạo việc làm thường
xuyên, ổn định cho người lao động là yếu tố quan trọng hàng đầu.
Từ những phân tích luận giải trên, có thể quan niệm: “Giải quyết việc
làm cho người lao động là quá trình tạo ra và kết hợp các yếu tổ sản xuất bao
gồm sức lao động, tư liệu sản xuất và các điều kiện kinh tế - xã hội khác để
đảm bảo cho người có khả năng lao động đựợc laọ động và duy trì hoạt động
lao động đó”.
Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh Vĩnh Phúc là quá
trình Đảng bộ, chính quyền, các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội sử dụng tổng
thể các chính sách từ vi mô đến vĩ mô để tạo thêm việc làm, tăng thu nhập và
ổn định đời sống của người lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh.
Từ quan niệm về giải quyết việc làm cho lao động nông thôn tỉnh Vĩnh
Phúc cho thấy.
- Mục đích của giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh Vĩnh
Phúc là nhằm tạo ra nhiều việc làm bền vững cho người lao động nông thôn,
giúp họ ổn định đời sống, phát triển kinh tế địa phương hay nói cách khác là


13
làm tăng lên số người lao động nông thôn có việc làm, giảm bớt số người lao
động nông thôn không có việc làm hoặc việc làm thiếu ổn định
- Chủ thể giải quyết việc làm cho lao động nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc
bao gồm: Chính bản thân người lao động phải chủ động sử dụng sức lao động
của mình để có thể tự do tìm kiếm một công việc phù hợp; Người sử dụng lao
động có thể tìm kiếm được người lao động thỏa mãn các yêu cầu của mình về

mặt số lượng và chất lượng; Nhà nườc với tư cách là chủ thể lớn nhất phải
đảm bảo tạo ra môi trường thuận lợi để lao động nông thôn có thế thực hiện
quá trình lao động của họ.
Phương thức giải quyết việc làm là kết hợp chặt chẽ giữa sự chủ
động,tích cực của Nhà nước thông qua quy hoạch, chiến lược, chương trình, mục
tiêu quốc gia về giải quyêt việc làm với sự năng động, chủ động và tích cực của
bản thân người lao động; kết hợp giữa các giải pháp kinh tế với các giải pháp về
mặt xã hội; kết hợp giữa Nhà nước - doanh nghiệp - người lao động.
Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh Vĩnh Phúc là vấn đề
có tầm quan trọng to lớn đối với sự phát triển của tỉnh, vì vậy phải được cấp
ủy Đảng, chính quyền địa phương nhìn nhận, đánh giá đúng đắn, từ đó có sự
quan tâm đúng mức và phải coi đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Giải quyết việc làm cho
người lao động nông thôn ở tỉnh Vĩnh Phúc góp phần ổn định cuộc sống cho
người lao động nông thôn, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao thu
nhập, cải thiện đời sống pho người lao động nông thôn, góp phần thực hiện
tiến bộ và cồng bằng, an sinh xã hội, giảm các tệ nạn xã hội; ốn định chính trị,
trật tự an toàn cho xã hội; tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh.
Nội dung giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh Vĩnh Phúc
Một là, xây dựng, ban hành các chủ trương, cơ chế, chính sách về giải
quyết việc làm cho ngựời lao động nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc
Như trên đã đề cập, giải quyết việc làm là vấn đề mang tính xã hội sâu
sắc và phải được thực hiện đồng bộ từ việc đề ra các chủ trương đến việc ban
hành các chính sách nhằm huy động mọi lực lượng trong xã hội vào chung


14
sức thực hiện. Vì vậy, để giải quyết việc làm cho lao động nông thôn tỉnh
Vĩnh Phúc cần phải tiếp tục hoàn thiện, bổ sung các chính sách hỗ trợ tạo việc
làm, khai thác các tiềm năng sẵn có của địa phương, thu hút vốn đầu tư để

phát triển kinh tế - xã hội, chính sách thu hút vốn đầu tư cần chú trọng vào cải
thiện môi trường đầu tư, sản xuất, kinh doanh, nhất là cải cách thủ tục đầu tư,
tích cực đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ những trở ngại về cơ
chế chính sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa mọi nguồn lực cho
phát triến kinh tế, giải quyết'việc làm cho người lao động.
Bên cạnh đó, cần tích cực đấy mạnh việc xã hội hoá công tác đào tạo
nghề, các chương trình quốc gia về đào tạo nghề, giải quyết việc làm, chính
sách an sinh xã hội đối với các đối tượng như thanh niên, lao động nông thôn,
phụ nữ, lao động có điều kiện khó khăn, khuyến khích lực lượng lao động trẻ,
có tiềm năng đi đầu trong công tác phát triển mở rộng sản xuất các ngành
nghề, giải quyết việc làm cho ngươi lao động.
Đặc biệt, cần có chính sách để thu hút nguồn vốn FDI, ODA vào các
khu, thu hút lao động vào các khu công nghiệp, giải quyết công ăn việc làm
cho người dân. Vĩnh Phúc có nhiều khu công nghiệp như khu công nghiệp
Khai Quang, Bình Xuyên, Bình xuyên 2, Bá Thiện A, Bá Thiện B, Bá Thiện
2, Tam Dương, Phúc Yên, Kim Hoa, Thăng Long… đã thu hút được nhiều lao
động tham gia, góp phần không nhỏ giải quyết việc làm cho lao động các địa
phương
Hai là, phát triến thị trường sức lao động của tỉnh đề mở mang cơ hội
tìm kiếm việc làm cho lao động nông thôn
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay, thị trường lao động có vai trò quan trọng trong việc tạo cơ hội để
người lao động nói chung và lao động nông thôn nói riêng. Vì vậy cần tiếp tục
đẩy mạnh sự phát triển của loại thị trường này để tăng khả năng giải quyết
việc làm cho lao động nông thôn trong tỉnh. Theo đó, cần phải được điều
chỉnh để tạo điều kiện cho sự dịch chuyển cơ cấu lao động phù hợp với kinh


15
tế thị trường và hội nhập quốc tế. Đồng thời cần hoàn thiện khung pháp lý,

thể chế, chính sách và sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động của thị
trường lao động, hỗ trợ thiết thực việc phát triển thị trường lao động phù hợp
với qui mô và nhu cầu về cung, cầu việc làm của tỉnh cả trước mắt và lâu dài.
Bên cạnh đó cần phát triển các Trung tâm giới thiệu việc làm vì các
Trung tâm giới thiệu việc làm chính là cầu nối giữa người lao động và người
sử dụng lao động. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các Trung tâm giới thiệu
việc làm góp phần phát triển thị trường lao động. Phát huy vai trò hiệu quả
của sàn giao dịch việc làm của tỉnh và các sàn giao dịch việc làm vệ tinh tại
các địa phương lân cận đảm bảo hiệu quả thông tin cung - cầu lao động được
cập nhật chính xác, thường xuyên, liên tục kịp thời tạo kết nối nhiều mối quan
hệ lao động mới.
Ba là, đẩy mạnh xuất khẩu lạo đông để giải quyết việc làm cho lao
động nông thôn
Xuất khẩu lao động góp phần giải quyết việc làm, đáp ứng nhu cầu
thực tiễn, tăng thu nhập, nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động. Để
đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động, các trung tâm giới thiệu việc làm và
các cơ quan ban ngành liên quan cần tăng cường công tác tuyên truyền, cung
cấp thông tin cho người lao động về chính sách xuất khẩu lao động của tỉnh,
làm rõ lợi ích của việc xuất khẩu lao động đối với vấn đề việc làm và tăng thu
nhập cho người dân. Đồng thời, chuẩn bị đủ nguồn lao động đảm bảo chất
lượng đáp ứng yêu cầu thị trường xuất khẩunguồn lao động cần có khả năng
cạnh tranh đối với các địa phương khác để đẩy mạnh xuất khẩu lao động
trong thời gian tới, tiếp tục hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế, hỗ trợ tài chính
đối với các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu lao động, cải thủ tục hành chính
nhằm tạo sự thông thoáng và giảm phiền hà cho người lao động và doanh
nghiệp.
Thời gian qua, toàn tỉnh có không ít người lao động được xụất khẩu lao
động sang các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Trung Quốc, Đài



16
Loan... tuy nhiên cũng khống ít người dân bị lừa, chính vì vậy, giải quyết việc
làm bằng cách xuất khẩu lao động vừa là một nội dung trong vấn đề giải
quyết việc làm hiện nay nhưng cũng cần nhận được sự quan tâm và quản lý
chặt chẽ hơn bởi các ban, ngành, địa phương trong toàn tỉnh.
Bốn là, giải quyết việc làm thông qua cho vay vốn từ Quỹ quốc gia về
việc làm thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm
Quỹ cho vay giải quyết việc làm hiện nay hoạt động với mục đích chủ
yếu là cho vay để phát triển mở rộng sản xuất kinh doanh, dịch vụ tạo thêm
nhiều việc làm mới, đi xuất khẩu lao động và giúp các hộ nghèo, cận nghèo
thoát nghèo bền vững. Thông qua quỹ này sẽ giúp cho các đối tượng trên có
cơ hội tìm được các việc làm mới mang lại thu nhập cao ổn định, hoặc đi xuât
khẩu lao động, sau đó khi hết thời hạn xuất khẩu về nước có thể tự chủ mở
mang ngành nghề để chủ động sản xuất kinh doanh cho mình và thu hút lao
động khác từ chính địa phương.
Năm là, hỗ trợ người nông dân phát triển sản xuất kinh doanh để có
việc làm và thu nhập ổn định.
Người dân nông thôn muốn sản xuất, nuôi trồng đều cần đến các tư liệu
sản xuất, như giống vật nuôi, cây trồng và các điều kiện khác. Nhưng nhiều
hộ lại khồng có vốn để đầu tư chăn nuôi, trồng trọt. Để có thế giải quyết tốt
hơn việc làm cho nông dân thì chính quyền các cấp và các tố chức cần đấy
mạnh hơn các biện pháp hỗ trợ về vốn, về giống, kỹ thuật và cơ giới hóa nông
nghiệp cho nông dân như đầu tư máy gặt, đầu tư máy cấy... cho các hộ nông
dân. Ngân hàng chính sách xã hội ở địa phương hàng năm cần quan tâm giải
quyết nhu cầu vay vốn cho các hộ dân để tiến hành sản xuất. Ngoài ra, việc hỗ
trợ vốn cho nông dân có thể thông qua các Quỹ như Quỹ xóa đói giảm nghèo,
Quỹ hỗ trợ…
Bằng các chính sách hỗ trợ trên sẽ giúp nông dân không chỉ ổn định mà
còn có thể mở rộng sản xuât kinh doanh, giúp bản thân họ và các thành viên
trong gia đình không chỉ gắn bó với nghề nông mà còn khuyến khích tìm



17
kiếm các giải pháp đề phát triển mô hình nông nghiệp đô thị; nâng cao năng
suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất nông nghiệp; có thu nhập ổn định và
ngày càng cao. Nhờ đó, sẽ giúp người lao động nông thôn và các thế hệ con
cái của họ có được việc làm ổn định lâu dài và giảm bớt gánh nặng về giải
quyết việc làm của tỉnh.
Sáu là, đẩy mạnh đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho khu vực
nông thôn
Chất lượng lao động là một trong những điều kiện để các quốc gia có
thể cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Chất lựợng lao động
thể hiện ở khía cánh thể lực và trí lực của người lao động. Đặc biệt để có thể
tìm được việ làm trong môi trường cạnh tranh cao như thị trượng sức lao
động ở nước ta hiện nay, người lao đông cần phải trang bị cho mình ngoài sức
khỏe, trình độ chuyên môn kỹ thuật thì người lao động cần phải có hiểụ biết
về pháp luật, tinh thần chấp hành kỷ luật, văn hóa ứng xử trong công việc
mang tính chuyện nghiệp, kỹ năng sống và làm việc.
Chất lượng nguồn nhân lực có vai trò rất quan trọng trong tìm kiếm cơ
hội việc làm, đáp ứng yên cầu công vịệc và ảnh hưởng đến thu nhập của
người lao động. Bởi lẽ, bất cứ chủ thể sản xuất kinh doanh nào cũng muốn
tuyển dụng cho mình những người lao động có trình độ chuyên môn cao, có
kỹ năng nghề nghiệp tốt.
Mặt khác, do tác động của quá trình đô thị hóa nên có nhiều làng nghề
không phát triển, người dân bỏ nghề, dẫn đến một bộ phận thất nghiệp mà
nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là sản phẩm đầu ra của các làng nghề
chưa có thương hiệu, uy tín, tiêu chuẩn chất lượng chưa cao nên không tiêu thụ
được. Để cải thiện tình trạng này cần phải nâng cao chất lượng người lao động.
Phát triển mạng lưới dạy nghề gắn với nâng cao chất lượng dạy nghề, giải
quyết việc làm và thực hiện xã hội hóa công tác dạy nghề, đồng thời chủ động

huy động mọi nguồn lực đầu tư phát triển giáo dục đào tạo và đào tạo nghề.


18
Vì vậy, để tăng cường giải quyết việc làm cho người lao động nông
thôn cần tăng cường triển khai đồng bộ các biện pháp nhằm nâng cao chất
lượng nhân lực lao động nông thôn, trong đó cần đẩy mạnh công tác đào tạo
nghề ở các địa phương, phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể tham gia
công tác đào tạo nghề, tập huấn nghề, gắn chuyển giao công nghệ với đào tạo
nhân lực; khuyến khích tự đào tạo; nâng cao chất lượng cuộc sống và môi
trường học tập cho người dân nông thôn.
1.2 Thực trạng giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh
Vĩnh Phúc
1.2.1 Những đặc điểm ảnh hưởng đến giải quyết việc làm cho lao
động nông thôn ở tỉnh Vĩnh Phúc
* Đặc điểm về tự nhiên
Vĩnh Phúc là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, phía Bắc
giáp tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang, phía Tây giáp tỉnh Phú Thọ, phía
Đông và phía Nam giáp thủ đô Hà Nội. Vĩnh phúc nằm trong vùng kinh tế
trọng điểm Bắc bộ và vùng Thủ đô, đang được đầu tư để phát triển tương
xứng với tiềm năng của tỉnh, làm cho tỉnh trở thành một trong các vệ tinh bảo
đảm cho sự phát triển mạnh mẽ của cả vùng kinh tế.
Vĩnh Phúc có diện tích khoảng 1.235,13km2 với dân số khoảng
1.054.492 người, mật độ dân số khoảng 854 người/km 2, tuy nhiên sự phân bố
dân cư giữa nông thôn và thành thị cũng không đều nhau. Tỷ lệ dân số trong
độ tuổi lao động chiếm 60%. Tỉnh có 9 đơn vị hành chính: 1 thành phố, 1 thị
xã và 7 huyện; 137 xã, phường, thị trấn. Tỉnh có 9 đơn vị hành chính cấp
huyện trực thuộc là: Thành phố Vĩnh Yên là trung tâm kinh tế, chính trị, văn
hóa của tỉnh; thị xã Phúc Yên và 7 huyện là Bình Xuyên, Yên Lạc, Vĩnh
Tường, Tam Dương, Tam Đảo, Lập Thạch và Sông Lô.

Vĩnh Phúc có hệ thống giao thông thuận lợi, nối liền với nhiều địa
phương, bao gồm cả đường bộ, đường sắt và đường thủy, tạ điều kiện thuận
lợi cho phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.


19
Vĩnh Phúc cũng có nhiều thuận lợi về đất đai cho sự đa dạng hóa sinh
học. Trong đó đất nông nghiệp khoảng 92.920ha, đất phi nông nghiệp khoảng
29.311ha và đất chưa sử dụng khoảng 1.282ha. (Biểu đồ hoặc bảng phụ lục).
Vĩnh Phúc cũng là tỉnh có nhiều thuận lợi về phát triển các ngành dịch
vụ, đặc biệt là ngành Du lịch. Với các địa danh du lịch nổi tiếng như Tam
Đảo, Tây Thiên, Đại Lải, các lễ hội…, rất thuận lợi cho phát triển các hoạt
động tham quan du lịch về nguồn, du lịch lịch sử, văn hóa, tâm linh.
Với những thuận lợi nêu trên, Vĩnh Phúc có điều kiện để đề ra những
chính sách phù hợp nhằm từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
hiện đại. Nhờ đó, phát triển mạnh các ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ,
du lịch cũng như từng bước hoàn thiện các vùng sản xuất nông sản, thực
phẩm... để từng bước tạo nhiều việc làm cho người lao động của tỉnh.
* Đặc điểm về xã hội
Vĩnh Phúc luôn được đánh giá là một trong những tỉnh, thành phố có
chất lượng giáo dục tốt nhất cả nước, là tỉnh thứ 5 của toàn quốc được công
nhận đạt chuẩn phổ cập mẫu giáo 5 tuổi năm 2013 và chuẩn phổ cập tiểu học
mức độ 2 năm 2014, tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia đạt 66%. Tính đến năm
2015, toàn tỉnh có 567 trường học và cơ sở giáo dục, đào tạo, với trên
306.809 học sinh, sinh viên. Trong đó có 183 trường mầm non, 174 trường
tiểu học, 146 trường THCS, 37 trường THPT, 01 trường PTCS, 02 trường
trung học và 14 đơn vị giáo dục thường xuyên; 3 trường đại học, 03 trường
cao đẳng, 04 trường trung học chuyên nghiệp. Trên địa bàn tỉnh có 48 cơ sở
dạy nghề (04 trường cao đẳng nghề; 02 trường trung cấp nghề; 09 trường cao
đẳng và trung cấp chuyên nghiệp có dạy nghề; 27 trung tâm dạy nghề; 06 cơ

sở dạy nghề); giai đoạn 2011-2015 đào tạo được 140.801 người, hàng năm có
khoảng 27.000 người tốt nghiệp (bao gồm cả đào tạo nghề và đào tạo chuyên
nghiệp), đáp ứng nhu cầu lao động của mọi thành phần kinh tế.
Nhìn chung, Vĩnh Phúc có lợi thế là gần trung tâm giáo dục lớn của cả
nước là Thủ đô Hà Nội, cókhả năng tiếp cận các cơ sở, trường đào tạo có chất


20
lượng cao. Vì vậy đây là cơ sở để nâng cao trình độ tri thức cho lao động trẻ
hiện nay và khi có trình độ, kiến thức, người lao động có nhiều lợị thế hơn
trong quá trình tìm kiếm việc làm, góp phần thúc đẩy vấn đề giải quyết công
ăn việc làm cho người lao động nói chung, lao động nông thôn nói riêng.
1.2.2 Thực trạng giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh
Vĩnh Phúc
* Những thành tựu về giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
tỉnh Vĩnh Phúc thời gian qua
Xác định giải quyết việc làm cho người lao động là nhiệm vụ trọng tâm
trong công tác xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội, thúc đẩy phát
triển kinh tế xã hội, thời gian qua với sự nỗ lực của các cấp, các ngành, các
địa phương, công tác giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh đã đạt được nhiều
kết quả quan trọng.
Một là, tỉnh đã ban hành được các chủ trương, chương trình cơ chế
chính sách đẩy mạnh giả quyết việc làm cho lao động nông thôn trong tỉnh.
Các cơ chế chính sách dạy nghề; hỗ trợ giải quyết việc làm và giảm
nghèo của tỉnh được ban hành kịp thời. Trên cơ sở Chỉ thị số 11/2006/CTTTG của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng kế hoạch hỗ trợ dạy nghề, tạo
việc làm và vay vốn giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất
nông nghiệp và Nghị quyêt 1965/QĐ-TTg ngày 17-1-2009 của Thủ tướng
chính phủ về việc thực hiện đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến
năm 2020, tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 37 về một số chính sách hỗ trợ dạy
nghề, bồi dưỡng kiến thức, hướng nghiệp, phân luồng và giải quyết việc làm;

Nghị quyết số 116 nhằm hỗ trợ người lao động tham gia xuất khẩu lao động
được hỗ trợ chi phí xuất cảnh và hỗ trợ vốn vay với mức lãi suất ưu đãi; Nghị
quyết số 207 của Hội đồng nhân dân tỉnh về một số chính sách hỗ trợ hoạt
động giáo dục nghề nghiệp và giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
giai đoạn 2016-2020; Chỉ thị số 04 của Ủy ban nhân dân tỉnh về tăng cường
công tác đưa lao động Vĩnh Phúc đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Tỉnh


21
cũng đã thành lập và duy trì có hiệu quả hoạt động của Trung tâm Dịch vụ
việc làm tỉnh thuộc Sở lao động thương binh và xã hội; Trung tâm Đào tạo lao
động xuất khẩu; trường cao đẳng nghề; trường trung cấp nghề; trường cao
đẳng, trung cấp chuyên nghiệp có dạy nghề; trung tâm dạy nghề và cơ sở
khác có dạy nghề. Các chủ trương, chính sách đó của tỉnh đã góp phần giải
quyết việc làm, ổn định đời sống cho lao động trong tỉnh nói chung, lao động
nông thôn trong tỉnh nói riêng.
Hai là, đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn lao động, mở rộng
dịch vụ tư vần hướng nghiệp tạo thuận lợi cho người lao động nông thôn tiếp
cận và tìm kiếm việc làm.
Nhằm nâng cao chất lượng nguồn lao động, công tác đào tạo nghề được
tỉnh đặc biệt chú trọng. Tỉnh đã tổ chức kiểm tra, khảo sát và đầu tư trang
thiết bị đào tạo của các cơ sở dạy nghề công lập; nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác đào tạo nghề, chuẩn hóa đội ngũ giáo
viên dạy nghề; thực hiện liên kết với doanh nghiệp trong đào tạo và thực hành
gắn với đầu ra cho người học nghề ngay sau khi tốt nghiệp. Tính đến nay,
toàn tỉnh có 35 cơ sở dạy nghề có đăng ký hoạt động dạy nghề gồm 4 trường
cao đẳng nghề, 2 trường trung cấp nghề, 6 trường cao đẳng, trung cấp chuyên
nghiệp có dạy nghề, 16 trung tâm dạy nghề và 7 trung tâm giáo dục thường
xuyên và dạy nghề.
Để đáp ứng nhu cầu học nghề của người lao động và nhu cầu tuyển

dụng của doanh nghiệp, các cơ sở dạy nghề đã chủ động đào tạo nghề mới,
mở rộng quy mô và nâng cao năng lực đào tạo nghề. Bên cạnh việc đào tạo
nghề chính quy tập trung cho người lao động tại các cơ sở dạy nghề, người
lao động còn được học nghề bằng nhiều hình thức đa dạng khác như vừa làm
vừa học tại các doanh nghiệp, học nghề tại các sở sở sản xuất kinh doanh
hoặc các làng nghề truyền thống. Năm 2015, tỷ lệ lao động qua đào tạo toàn
tỉnh đạt 66%, trong đó tỷ lệ qua đào tạo nghề là gần 50%, lao động được cấp
chứng chỉ 23%. Riêng trong 6 tháng đầu năm 2016, tổng số học sinh, sinh


22
viên tuyển mới tại các cơ sở đào tạo nghề toàn tỉnh là 12.376 người. Trong đó:
Trình độ cao đẳng nghề 58 người; trung cấp nghề 546 người; sơ cấp nghề
8.665 người và dạy nghề dưới 3 tháng 3.107 người... Ngoài ra, còn có hàng
ngàn lao động được đào tạo tại các doanh nghiệp, các làng nghề tiểu thủ công
nghiệp, được bồi dưỡng nâng cao kiến thức.
Theo số liệu thống kể của Sở lao động thương binh và xã hội tỉnh đến
nay, các chương trình dạy nghề trong toàn tỉnh đã được điều chỉnh, cập nhật
phù hợp với thực tế đào tạo và thị trường lao động. Giai đoạn 2011-2015, tỉnh
đã dành trên 110 tỷ đồng để hỗ trợ hơn 50.500 lượt người học nghề cao đẳng,
trung cấp nghề và bổ túc văn hóa nghề; hỗ trợ gần 820 triệu đồng mở lớp tập
huấn bồi dưỡng nghề nông nghiệp cho trên 2.400 lao động. Đồng thời, 725
lao động được truyền nghề mộc, mây tre đan, rèn tại 8 xã có làng nghề với
kinh phí hỗ trợ gần 2,25 tỷ đồng. Cũng từ năm 2011 đến 2015, tỉnh đã dành
trên 280 tỷ đồng để hỗ trợ người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước
ngoài, cho vay giải quyết việc làm và vay vốn xuất khẩu lao động.
Phát huy vai trò cầu nối giữa người lao động với doanh nghiệp, thời
gian qua, Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh thuộc Sở lao động thương binh và
xã hội đã đẩy mạnh công tác thông tin thị trường lao động, liên kết, tìm hiểu
nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp; đồng thời tăng cường năng lực hoạt

động của Sàn giao dịch việc làm bằng việc nâng từ 2 phiên lên 4 phiên hàng
tháng; mở sàn giao dịch việc làm online; đặt văn phòng tư vấn, tuyển dụng
lao động tại các huyện; tư vấn tuyển sinh tạo nguồn lao động xuất khẩu.
Trung bình mỗi năm, trung tâm tổ chức được hàng chục phiên giao dịch việc
làm, thu hút hơn 1.000 lượt doanh nghiệp tuyển dụng và từ 6.000 – 7.000 lao
động tham gia đăng ký tìm việc; qua đó, hàng nghìn lao động đã được tư vấn
giới thiệu và tìm được việc làm mới ổn định với thu nhập khá. Riêng trong 6
tháng đầu năm 2016, Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh đã tư vấn việc làm cho


23
gần 9.000 lượt lao động; giới thiệu việc làm mới cho gần 1.700 lao động,
cung ứng trên 1.300 lao động cho các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh...
Tỉnh đã đề ra nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ chi phí xuất cảnh, vốn
vay cho người đi lao động xuất khẩu. Sở lao động thương binh và xã hội đã
thành lập và phát huy hiệu quả tạo nguồn và đưa người lao động đi làm việc
có thời hạn ở nước ngoài của Trung tâm Đào tạo lao động xuất khẩu. Trung
tâm Đào tạo lao động xuất khẩu đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tổ chức
các buổi hội thảo, tư vấn; hướng dẫn người lao động các quy trình thủ tục cần
thiết khi có nhu cầu đi xuất khẩu lao động. Bên cạnh đó, trung tâm còn mở
rộng mạng lưới cộng tác viên để cung ứng nguồn lao động; lựa chọn các
doanh nghiệp uy tín để liên kết đào tạo nghề, giáo dục định hướng góp phần
nâng cao chất lượng nguồn lao động xuất khẩu. Trong năm 2015, trung tâm
đã tư vấn cho gần 7.500 lao động, sơ tuyển được gần 700 lao động, liên kết
đào tạo và xuất cảnh cho 205 lao động. Riêng 6 tháng đầu năm 2016, trung
tâm đã tư vấn xuất khẩu lao động cho 6.516 người lao động có nhu cầu đi
xuất khẩu lao động, du học vừa học vừa làm; xuất cảnh 75 lao động đi làm
việc tại các thị trường Nhật Bản, Đài Loan.
Ngoài ra, để người lao động có điều kiện tự tạo dựng việc làm, ngành
Lao động thương binh và xã hội tỉnh đã phối hợp với Ngân hàng chính sách

xã hội cho vay giải quyết việc làm tại chỗ cho hàng nghìn hộ gia đình và
người lao động với số tiền hàng trăm tỷ đồng; cho người lao động vay vốn đi
xuất khẩu lao động; hỗ trợ chi phí xuất cảnh cho người lao động đi làm việc
có thời hạn tại nước ngoài.
Ba là, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn thông qua xuất khẩu
lao động được đẩy mạnh
Xuất khẩu lao động là một kênh giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn một cách hiệu quả. Để đẩy mạnh xuất khẩu lao động, Uỷ ban nhân dân
tỉnh đã ban hành kế hoạch Số: 340/KH-BCĐXKLĐ ngày 19 tháng 01 năm 2015


24
về đưa lao động tỉnh Vĩnh Phúc đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp
đồng. Trong đó xác định các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu lao động như sau.
- Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động các cấp; Các cơ quan tuyên truyền từ
tỉnh đến cơ sở tổ chức các hình thức tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp
luật, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xuất khẩu lao động tới người dân
để người lao động hiểu và tham gia tích cực vào công tác xuất khẩu lao động
của tỉnh nhằm hoàn thành đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra.
- Củng cố nâng cao chất lượng mạng lưới tư vấn, tuyển dụng xuất khẩu
lao động. Hoàn thiện cơ sở vật chất đầu tư cho các Trung tâm dịch vụ việc
làm của tỉnh, Trung tâm Đào tạo lao động xuất khẩu; hệ thống thông tin cập
nhật công tác xuất khẩu lao động và tuyển lao động từ tỉnh đến cơ sở. Rà soát
cán bộ phụ trách công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm của 137 xã
phường thị trấn đảm bảo hoạt động có hiệu quả. Tổ chức tập huấn bồi dưỡng
nâng cao nghiệp vụ tư vấn, tuyển lao động đi làm việc có thời hạn ở nước
ngoài; thường xuyên cập nhật thông tin.
- Thực hiện chính sách hỗ trợ và cho vay đi xuất khẩu lao động. Tập
trung hướng dẫn, làm thủ tục hỗ trợ và cho vay đi xuất khẩu lao động theo
Nghị quyết số 37/2011/NQ-HĐND ngày 19/12/2011 của Hội đồng nhân dân

tỉnh Vĩnh Phúc về một số chính sách hỗ trợ dạy nghề, giải quyết việc làm và
giảm nghèo giai đoạn 2012- 2015; Nghị quyết số 116/2013/NQ-HĐND ngày
20/12/2013 của Hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc về việc sửa đổi một số nội
dung của Nghị quyết số 37/2011/NQ-HĐND ngày 19/12/2011 của Hội đồng
nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc và các qui định của Ủy ban nhân dân tỉnh liên quan
đến công tác xuất khẩu lao động.
- Phân công trách nhiệm cho từng sở, ban, ngành địa phương về tổ chức
thực hiện các chủ trương, kế hoạch của tỉnh về đưa lao động đi làm việc ở nước
ngoài, thực hiện chính sách xuất khẩu lao động góp phần tạo việc làm, tăng thu
nhập cho lao động nói chung, lao động nông thôn trong tỉnh nói riêng.


25
Theo số liệu từ Sở lao động thương binh và xã hội, giai đoạn 20112015, toàn tỉnh đã đưa được trên 6.700 lao động đi làm việc có thời hạn ở
nước ngoài, trong đó có 5.520 lao động nông thôn. Bình quân mỗi năm toàn
tỉnh đưa được trên 1.300 lao động ra nước ngoài làm việc có thời hạn. Thị
trường tiếp nhận lao động ngày càng mở rộng, chất lượng nguồn lao động của
tỉnh đi làm việc ở nước ngoài được cải thiện. Đến nay, lao động của tỉnh đã có
mặt tại hơn 40 thị trường tiếp nhận lao động toàn thế giới. Số lao động làm
việc tại các thị trường yêu cầu cao về trình độ, thể lực, tác phong công nghiệp
tăng lên, đã có lao động xuất cảnh đi làm việc tại các thị trường Mỹ, Úc, Anh,
Đức... Điều quan trọng là, từ xuất khẩu lao động, đời sống vật chất, tinh thần
của người dân ngày càng nâng lên, bộ mặt kinh tế - xã hội các địa phương
ngày càng khởi sắc. Xuất khẩu lao động là một trong những giải pháp quan
trọng trong quá trình triển khai thực hiện chương trình mục tiêu giải quyết
việc làm và giảm nghèo bền vững; đồng thời, góp phần nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực qua trình độ chuyên môn kỹ thuật, ngoại ngữ, tác phong công
nghiệp, tư duy kinh tế…
Kết quả cụ thể giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trong tỉnh
giai đoạn 2011 – 2015

Số lượng lao động nông thôn trong tỉnh có việc làm trong thời gian qua
có sự tăng lên khá vững chắc. Nhận thức rõ giải quyết việc làm là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của công tác an sinh xã hội, có ý nghĩa to lớn trong
việc ốn định đời sống nhân dân và góp phàn phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh, trong những năm qua, các cấp, các ngành của tỉnh đã triến khai nhiều
giải pháp đồng bộ nhằm tăng thêm số người được tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất
nghiệp, đặc biệt là lao động nông thôn. Thời gian từ 2011 - 2015, công tác
giải quyết việc làm trong tỉnh nói chung và lao động nông thôn nói riêng đã
đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Trong 5 năm (2011 - 2015), toàn tỉnh
có bình quân 506.849 lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc, trong đó có


×