Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ CÔNG NGHIỆP hóa, HIỆN đại hóa NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN ở TỈNH THÁI NGUYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (495.81 KB, 115 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Chủ nghĩa xã hội
Cơ cấu kinh tế
Công nghệ cao
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công nghiệp nông thôn
Hợp tác xã
Kết cấu hạ tầng
Khoa học công nghệ
Khoa học và công nghệ
Kinh tế - xã hội
Nguồn nhân lực
Công nghiệp hóa
Nông nghiệp, nông thôn
Nông, lâm, thuỷ sản
Ủy ban nhân dân

Chữ viết tắt
CNXH
CCKT
CNC
CNH, HĐH
CNNT
HTX
KCHT
KHCN
KH&CN
KT-XH
NNL
CNH


NN, NT
N,L,TS
UBND

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Chương 1:

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở TỈNH THÁI
NGUYÊN

Trang
3
13


1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
1.2. Quan niệm, nội dung và những nhân tố tác động đến công nghiệp

13

hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thái Nguyên
THỰC TRẠNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI

24


HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở TỈNH

40

Chương 2:

2.1.

THÁI NGUYÊN
Thành tựu, hạn chế trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thái Nguyên
2.2. Nguyên nhân của thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt

40

ra từ thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thái Nguyên
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CÔNG

57

NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP,
NÔNG THÔN Ở TỈNH THÁI NGUYÊN THỜI

70

GIAN TỚI
3.1. Quan điểm đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thái Nguyên
3.2. Giải pháp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông


70

nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thái Nguyên thời gian tới

83
104
106
113

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ
quá độ nhằm đưa đất nước vượt qua những khó khăn, thách thức và tận dụng
thời cơ để phát triển trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay, trong đó
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một nội dung quan trọng hàng đầu.
Đảng ta khẳng định: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước” [20, tr. 2].
Trong những năm qua CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đã có những
bước tiến quan trọng. Cơ sở vật chất kỹ thuật, nhất là kết cấu hạ tầng KT-XH
nông thôn được củng cố. CCKT nông nghiệp chuyển dịch theo hướng sản
xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường. Đời sống vật
chất và tinh thần của cư dân nông thôn được cải thiện.
Cùng với cả nước, tỉnh Thái Nguyên đang từng bước cụ thể hóa đường

lối, chủ trương, chính sách của Đảng về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
đối với quá trình phát triển nông nghiệp của tỉnh theo hướng hiện đại. Là một
tỉnh có vị trí địa lý, chính trị khá quan trọng, điều kiện tự nhiên nhiều ưu đãi,
tỉnh Thái Nguyên đang không ngừng phát huy nội, ngoại lực để đẩy mạnh
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn làm thay đổi diện mạo và phát triển
nhanh chóng về mọi mặt của tỉnh. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng bộ tỉnh
Thái Nguyên lần thứ XIX đánh giá: trong 5 năm (2010 - 2015) kinh tế tăng
trưởng bình quân hằng năm của Thái Nguyên đạt 13,1%, GDP bình quân đầu
người năm 2015 đạt 46,4 triệu đồng… Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay đang còn nhiều khó khăn, hạn chế thể hiện
rõ nét cơ cấu kinh tế NN, NT chuyển dịch chậm; đầu tư phát triển và ứng
3


dụng kỹ thuật công nghệ mới trong nông nghiệp, kinh tế nông thôn còn nhiều
hạn chế. Nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn chưa đáp
ứng được nhu cầu. Chưa phát huy tốt vai trò của các thành phần kinh tế trong
phát triển kinh tế NN, NT. Số lượng doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng
CNC chưa nhiều. Quản lý của chính quyền một số địa phương chưa theo kịp
với sự đòi hỏi của thực tiễn CNH, HĐH...
Từ tình hình trên, tác giả nhận thấy việc nghiên cứu CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thái Nguyên là cần thiết, đáp ứng yêu cầu làm sáng
tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất quan điểm, giải pháp đẩy mạnh CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thái Nguyên thời gian tới. Vì những lý
do trên, vấn đề “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở
tỉnh Thái Nguyên” được tác giả chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành
kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Vấn đề CNH, HĐH nói chung, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nói
riêng là một chủ trương lớn trong chiến lược phát triển KT-XH của Đảng và
Nhà nước ta trong suốt thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Do đó, đã được
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, với những mặt, những khía cạnh, những cấp
độ và cách thức tiếp cận khác nhau, cụ thể là:
* Các công trình nghiên cứu về nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
Phạm Xuân Nam (1997), Phát triển nông thôn trong thời kỳ đổi mới,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, đã chỉ ra thực trạng của NN, NT trước thời kỳ
đổi mới và tác động kinh tế - xã hội của đổi mới với phát triển nông thôn.
Nhóm tác giả khẳng định: Trình độ phát triển của kinh tế nông thôn nước ta
còn thua kém nhiều nước.
Tô Đức Hạnh và Phạm Văn Linh (2000), Phát triển kinh tế hàng hoá
trong nông thôn các tỉnh vùng núi phía Bắc Việt Nam - thực trạng và giải
pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, đã trình bày những cơ sở lý luận và
4


thực tiễn về phát triển kinh tế hàng hoá trong nông thôn; nêu một số kinh
nghiệm của Đài Loan và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) trong phát triển kinh tế
hàng hoá ở nông thôn vùng núi. Tác giả đã đề xuất một số giải phấp đó là:
thực hiện đa dạng hoá các hình thức sở hữu ở nông thôn, tăng cường vai trò
kinh tế của Nhà nước; mở rộng phân công lao động gắn với xây dựng CCKT
hợp lý; phát triển thị trường; xây dựng, phát triển KCHT nông thôn; phát triển
giáo dục, nâng cao dân trí gắn với đào tạo nguồn nhân lực; huy động và sử
dụng hợp lý các nguồn vốn cho phát triển kinh tế hàng hoá; phát triển khoa
học công nghệ.
Nguyễn Tiến Dũng (2002), Phát triển kinh tế nông thôn vùng Đồng bằng
sông Hồng trong quá trình hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, luận án tiến sỹ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội. Công trình đã làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của

kinh tế nông thôn trong quá trình hình thành nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Từ việc phân tích thực trạng phát triển kinh tế nông thôn đồng
Đồng bằng sông Hồng trong những năm đổi mới. Tác giả đã đề xuất những
quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế nông thôn
vùng Đồng bằng sông Hồng, trong quá trình hình thành nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN.
Nguyễn Thị Bích Đào (2004), Một số vấn đề lý luận và định hướng phát
triển kinh tế nông thôn ở Việt Nam, luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Công trình đã luận giải một số vấn đề lý luận về
kinh tế nông thôn. Phân tích thực trạng phát triển kinh tế nông thôn ở Việt
Nam trong thời ký đổi mới; Từ đó làm rõ những tồn tại và mâu thuẫn trong
quá trình phát triển kinh tế nông thôn Việt Nam, Tác giả nêu kinh nghiệm của
một số nước trên thế giới và đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục xây
dựng và phát triển kinh tế nông thôn ở Việt Nam.
5


Nguyễn Danh Sơn (2010), Nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt Nam
trong quá trình phát triển đất nước theo hướng hiện đại, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, đã đề cập tới một số vấn đề mới về lý luận chính trị về vai trò, vị
trí của nông dân, nông thôn, nông nghiệp trong đời sống chính trị, đời sống
kinh tế, đời sống xã hội, đời sống văn hóa của đất nước khi đã thoát khỏi danh
sách các nước nghèo, đang bước vào giai đoạn mới cao hơn đó là CNH, HĐH
gắn chặt với phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tác giả nêu
định hướng giải pháp về một số vấn đề chiến lược về phát triển nông nghiệp,
nông dân, nông thôn; định hướng chuyển dịch CCKT ngành; định hướng xây
dựng nông thôn mới; định hướng tích tụ nguồn lực cho phát triển; định
hướng phát huy vai trò chủ thể của nông dân.
* Các công trình nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế NN, NT
Lê Vũ Anh (2001), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn Tây Bắc trong

quá trình CNH, HĐH, luận án tiến sỹ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội. Luận án đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về CCKT nói chung và
CCKT nông thôn nói riêng, phân tích thực trạng CCKT nông thôn Tây Bắc
giai đoạn từ 1989 đến 2001 để thấy được những thành công và hạn chế. Trên
cơ sở đó, luận án đưa ra phương hướng, quan điểm và giải pháp chủ yếu
nhằm tiếp tục thúc đẩy quá trình chuyển dịch CCKT nông thôn Tây Bắc theo
hướng CNH, HĐH.
Trương Duy Hoàng (2004), Các giải pháp tài chính thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn Việt Nam theo hướng CNH, HĐH đất nước,
luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Luận án đã
phân tích, đánh giá thực trạng chuyển dịch CCKT nông thôn Việt Nam và
khẳng định việc khai thác tối đa thế mạnh của từng vùng, địa phương để phát
triển kinh tế sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho CNH, HĐH đất nước. Thực hiện
chuyển dịch CCKT nông thôn nhằm nâng cao đời sống người dân ở nông
thôn, giảm bớt chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, tạo điều
6


kiện thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững, đủ sức cạnh tranh và hội nhập kinh
tế thế giới.
Phạm Hữu Hùng (2012), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong công
nghiệp hóa, hiện đại hóa khu vực miền núi Thanh Hóa hiện nay, luận văn thạc
sỹ kinh tế, Học viện chính trị, Hà Nội. Luận văn đã phân tích đánh giá thực
trạng chuyển dịch CCKT ngành khu vực miền núi Thanh Hóa, nhằm phát huy
cao nhất lợi thế của khu vực, xây dựng được một CCKT ngành phù hợp để thúc
đẩy kinh tế xã hội phát triển. Đưa ra những quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm
đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở khu vực miền núi Thanh Hóa.
Phạm Đăng Minh (2015), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở tỉnh
Hải Dương, luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị, Học viện Chính trị, Hà Nội. Tác
giả đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn chuyển dịch CCKT nông nghiệp nhằm

khai thác tối ưu các nguồn lực của tỉnh Hải Dương. Đánh giá thực trạng chuyển
dịch CCKT nông nghiệp những năm qua và chỉ ra nguyên nhân của những
thành tựu cũng như những hạn chế đó. Đề xuất những quan điểm và giải pháp
chủ yếu đẩy mạnh chuyển dịch CCKT nông nghiệp ở tỉnh Hải Dương.
* Các công trình nghiên cứu về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
Nguyễn Văn Bảy (2001), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn đồng bằng Bắc bộ và tác động của nó đối với tăng cường sức
mạnh khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố thuộc khu vực này, luận án tiến sĩ
kinh tế, Học viện Chính trị, Hà Nội. Luận án đã làm rõ mối tương tác giữa hai
nhân tố CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và khu vực phòng thủ, ngoài
phần lý luận chung xoay quanh đối tượng nghiên cứu, trên cơ sở đánh giá
thực trạng, tác giả khẳng định sự tác động theo hai chiều hướng thuận chiều
và không thuận chiều của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Đồng bằng
Bắc bộ đến tăng cường sức mạnh khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố ở khu
vực này. Từ đó đề xuất những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm
đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn gắn với tăng cường sức mạnh
7


khu vực phòng thủ.
Phan Diễn (2002), Tạo bước chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa tiến trình
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, Tạp chí Cộng sản, (số 28), đã nêu những
thành công của NN, NT nước ta trong những năm đổi mới là: phát triển tương
đối toàn diện, tăng trưởng liên tục với tốc độ cao, an ninh lương thực quốc gia
được bảo đảm vững chắc. Đồng thời cũng chỉ rõ: CCKT nông nghiệp, nông
thôn chuyển dịch chậm, chưa gắn kết có hiệu quả với thị trường, nặng nề về
trồng trọt (khoảng 80%), sản xuất nông nghiệp ở nhiều nơi còn phân tán,
manh mún, quy mô nhỏ, mang nhiều yếu tố tự phát; công nghiệp chế biến
nông sản phát triển chậm, lạc hậu về công nghệ; dịch vụ ở nông thôn chưa
phát triển. Quan hệ sản xuất nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển

kinh tế nông thôn hàng hoá theo cơ chế mới. Trên cơ sở đó đề xuất một số
giải pháp trong thời gian tới: đẩy mạnh chuyển dịch CCKT; thực hiện tốt công
tác quy hoạch NN, NT; đẩy mạnh việc nghiên cứu, chuyển giao khoa học,
thực hiện có hiệu quả các chính sách liên quan đến phát triển kinh tế; tiếp tục
đổi mới và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, theo hướng phát triển kinh tế
nhiều thành phần trong NN, NT; phát huy dân chủ, tăng cường đoàn kết, ổn
định chính trị- xã hội nông thôn và xây dựng nông thôn mới.
Phạm Anh Tuấn (2010), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn gắn với
phát triển bền vững ở tỉnh Ninh Bình hiện nay, luận văn thạc sỹ kinh tế chính
trị, Học viện Chính trị, Hà Nội. Luận văn đã đánh giá đặc điểm KT-XH, thực
trạng CNH, HĐH rút ngắn gắn với phát triển bền vững ở tỉnh Ninh Bình và
chỉ ra những mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển kinh tế nhanh và bảo đảm chất
lượng tăng trưởng và tính cân đối của nền kinh tế, xác định phương hướng tập
trung mọi nguồn lực cho CNH, HĐH rút ngắn trên cơ sở bản đảm sự tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Hoàng Thị Ngọc Loan (2014), Những vấn đề đặt ra đối với quá trình
đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, thôn thôn Đồng bằng sông Cửu Long,
8


Tạp chí Khoa học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh khu
vực I, đã khái quát những kết quả trong quá trình CNH, HĐH vùng Đồng
bằng sông Cửu Long như: Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đã
đem đến sự thay đổi tích cực cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Sản xuất
nông sản hàng hóa phát triển với quy mô ngày càng lớn, tạo ra những vùng
chuyên canh nông sản, góp phần tăng thu nhập cho nông dân. Nhiều mô hình
sản xuất tập trung qui mô lớn đem lại hiệu quả cao đã và đang ngày càng phát
triển. Tuy nhiên, những khó khăn hạn chế mà Đồng bằng sông Cửu Long cần
khắc phục đó là, kinh tế nông thôn vẫn nặng về nông nghiệp, đặc biệt là trồng
trọt, cây lúa vẫn đóng vai trò chủ yếu trong cơ cấu cây trồng; tỷ trọng giá trị

chăn nuôi thấp; việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở nhiều nơi còn
mang tính tự phát, thiếu quy hoạch, nên kém hiệu quả và chưa bền vững khiến
cho điệp khúc “chặt, trồng - trồng, chặt” liên tục tiếp diễn với nhiều loại cây
trồng. Năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của hàng nông sản còn
thấp. Tác giả cũng đã phân tích một số nội dung cần giải quyết như: xây dựng
các hình thức tổ chức sản xuất quy mô lớn; tập trung phát triển mạnh công
nghiệp bảo quản và chế biến nông sản; vấn đề nghiên cứu ứng dụng công
nghệ, phương pháp mới trong việc chăm sóc và bảo vệ cây trồng, vật nuôi;
vấn đề chuyển đổi nghề và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trong
quá trình CNH, HĐH.
Vũ Văn Phúc (2015), Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn - nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, Báo điện tử Đảng cộng sản, www.tapchicongsan.org.vn.
Bài viết của tác giả phân tích khá sâu sắc tính tất yếu phải tiến hành CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn của nước ta hiện nay, những hạn chế mà chúng
ta chưa đạt được trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trong
những năm qua, phân tích, nội dung của CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn ở
Việt Nam hiện nay, chỉ ra những khó khăn, bất cập và đề xuất một số quan
9


điểm, chủ trương giải pháp nhằm thúc đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn Việt Nam trong những năm tới đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đều tập trung vào phân tích các
khía cạnh từ những vấn đề về lý luận cơ bản, vai trò, sự cần thiết và nội dung
của CNH, HĐH và CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn cả nước và một địa
phương, hay một vùng cụ thể. Một số công trình đề cập định hướng chiến
lược phát triển CNNT; có công trình nghiêu cứu và đặt vấn đề về phương
hướng, nội dung và giải pháp thực hiện chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp và

kinh tế nông thôn hoặc vấn đề phát triển công nghiệp phục vụ NN, NT. Các
công trình đã nghiên cứu và được công bố chủ yếu là phân tích, đánh giá tình
hình CNH, HĐH hiện nay trên phạm vi cả nước. Nhưng chưa có công trình
nào trực tiếp nghiên cứu về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thái
Nguyên dưới góc độ kinh tế chính trị. Vì vậy, việc lựa chọn vấn đề nghiên
cứu của tác giả là cần thiết ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn của CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn ở tỉnh Thái Nguyên, đề xuất quan điểm và giải pháp đẩy mạnh CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thái Nguyên thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích làm sáng tỏ cơ sở lý luận của CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn ở tỉnh Thái Nguyên.
Đánh giá thực trạng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thái
Nguyên.
Đề xuất quan điểm và giải pháp đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn ở tỉnh Thái Nguyên thời gian tới.
10


4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa NN, NT dưới góc độ kinh tế chính trị.
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Nghiên cứu sự phát triển và ứng dụng KT&CN tiến tiến
trong nông nghiệp, kinh tế nông thôn; chuyển dịch cơ cấu kinh tế NN, NT.
Về không gian: Ở tỉnh Thái Nguyên.
Về thời gian: Từ năm 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu.

* Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về công
nghiệp hoá. Những Chỉ thị, Nghị quyết của Tỉnh về CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn. Luận văn còn kế thừa kết quả các công trình khoa học đã được
công bố liên quan đến đề tài luận văn.
* Cơ sở thực tiễn
Luận văn dựa trên cơ sở thực tiễn CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở
nước ta và dựa trên các báo cáo của Tỉnh cùng với số liệu, tư liệu khảo sát của
tác giả về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thái Nguyên từ năm
2010 đến nay.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, đề tài sử
dụng phương pháp đặc thù của kinh tế chính trị Mác - Lênin là phương pháp
trừu tượng hoá khoa học; các phương pháp phân tích và tổng hợp; phương
pháp điều tra khảo sát, thu thập thông tin; phương pháp thống kê, so sánh và
phương pháp chuyên gia để thực hiện mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
6. Ý nghĩa của đề tài
* Ý nghĩa lý luận
11


Luận văn góp phần làm sáng tỏ những quan niệm, tính tất yếu khách
quan, nội dung và các điều kiện bảo đảm, giải pháp tiến hành CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn nói chung và CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở
tỉnh Thái Nguyên nói riêng.
* Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan địa phương, các
cơ quan tham mưu, hoạch định chính sách, kế hoạch và đưa ra giải pháp đẩy
mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thái Nguyên và những địa

phương có đặc điểm tương đồng. Đồng thời làm tài liệu tham khảo cho học
tập, nghiên cứu môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin ở các nhà trường.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm phần mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.

12


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở TỈNH THÁI NGUYÊN
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

và Đảng Cộng sản Việt Nam về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn
1.1.1. Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về công nghiệp

hóa hóa nông nghiêp, nông thôn
* Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen về công nghiệp hóa nông nghiệp,
nông thôn
Khi nghiên cứu quá trình công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa C.Mác đã
nghiên cứu ba giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong công nghiệp
(hiệp tác giản đơn, phân công công trường thủ công và đại công nghiệp cơ
khí), C. Mác cho rằng đây là quá trình chuyển nền kinh tế từ chủ yếu là nông
nghiệp lên kinh tế công nghiệp. Ông viết: “Cái máy điểm xuất phát của cuộc
cách mạng công nghiệp, đã thay thế người lao động chỉ sử dụng có mỗi một
dụng cụ, bằng một cơ cấu sử dụng ngay một lúc nhiều công cụ như nhau hoặc
cùng loại và do một động lực làm cho chuyển động”; cho nên “ nền đại công
nghiệp phải nắm lấy những tư liệu sản xuất đặc trưng của nó, tức là bản thân

máy móc, và dùng máy móc để sản xuất ra máy móc. Nhờ thế, nó đã tạo ra
được cho mình một cơ sở kỹ thuật thích hợp và đứng vững trên đôi chân của
mình” [39, tr. 542-554].
Dựa trên cơ sở phân tích sự phát triển của máy móc tự động, C.Mác đã
chỉ rõ vai trò ngày càng quan trọng của KH&CN, khẳng định máy móc sẽ dần
thay thế cho lao động cơ bắp, lao động trực tiếp trở thành lao động thứ yếu.
Từ đó rút ra những vấn đề có ý nghĩa thực tiễn về tăng năng suất lao động xã
hội, xã hội hóa lao động, cách mạng kỹ thuật trong quá trình chuyển biến của
nền sản xuất xã hội từ sản xuất nhỏ, thủ công, phân tán lên sản xuất lớn, cơ
khí hóa, tập trung.
13


C.Mác đã dự báo: “Theo đà phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra
của cải thực sự trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và vào số lượng
lao động đã chi phí..., mà đúng ra, chúng phụ thuộc vào trình độ chung của
khoa học và vào sự tiến bộ của kỹ thuật hay là phụ thuộc vào việc ứng dụng
khoa học ấy vào sản xuất” [41, tr. 368-369]. Lao động biểu hiện ra không phải
chủ yếu là lao động được nhập vào quá trình sản xuất, mà chủ yếu là một loại
lao động, trong đó con người là chủ thể kiểm soát và điều tiết bản thân quá
trình sản xuất. Hệ thống máy móc tự động sẽ từng bước thay thế hầu hết lao
động trực tiếp. Bởi vậy, thay vì làm tác nhân chủ yếu của quá trình sản xuất,
người công nhân lại đứng bên cạnh quá trình ấy. Khi ấy, khoa học trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp, phát minh trở thành một nghề đặc biệt, đối với
nghề này, việc vận dụng khoa học vào nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành
một trong những yếu tố có tính chất quyết định và kích thích. Quá trình sản
xuất từ chỗ là một quá trình lao động giản đơn trở thành quá trình khoa học.
Lao động trực tiếp về lượng sẽ được quy vào một phần nhỏ hơn, còn về chất
được chuyển hóa thành một yếu tố cần thiết nhưng là thứ yếu so với lao động
khoa học phổ biến và đối với sự áp dụng khoa học tự nhiên vào công nghệ.

Hệ thống máy móc tự động được phát triển cùng với sự tích lũy những tri
thức xã hội nói chung, sự tích lũy sức sản xuất, dẫn đến chỗ cơ sở chủ yếu của
sản xuất và của cải sẽ không phải là lao động trực tiếp nữa mà là tri thức.
Trong bối cảnh trên sẽ xuất hiện tình huống thừa nhiều lao động giản đơn và
thiếu công nhân tri thức, do đó, đòi hỏi phải đẩy mạnh giáo dục, đào tạo để
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Đối với nông nghiệp, C.Mác đưa ra luận điểm “những tri thức khoa học
mà chúng ta nắm được và những phương tiện kỹ thuật để canh tác mà chúng
ta có, như máy móc,… chỉ có thể dùng một cách có kết quả nếu được dùng
trong việc canh tác đại quy mô” [37, tr. 83]. Một khi máy móc được sử dụng
rộng rãi trong công nghiệp, nông nghiệp và khu vực dịch vụ, mà trước hết là
14


nông nghiệp sẽ tạo ra năng suất lao động xã hội cao hơn so với trước, C.Mác
viết: “Năng suất lao động nông nghiệp vượt quá nhu cầu cá nhân của người
lao động là cơ sở của mọi xã hội; Năng suất lao động nông nghiệp là cái cơ sở
tự nhiên không phải chỉ riêng cho lao động thặng dư trong lĩnh vực của bản
thân ngành nông nghiệp, mà còn là cái cơ sở tự nhiên để biến tất cả các ngành
lao động khác thành những ngành độc lập và do đó là cái cơ sở cho giá trị
thặng dư được tạo ra trong các ngành đó” [40, tr. 496]. Đây chính là cơ sở
hình thành nên cơ cấu ngành của nền kinh tế.
Trong tác phẩm “Mác-cơ”, Ph.Ăng-ghen cho rằng: “Với sự giúp đỡ của
công nhân, nông dân có khả năng canh tác tập thể, sử dụng kỹ thuật đại nông
nghiệp bằng cách đổi mới chế độ sở hữu công xã về ruộng đất, sao cho nó
không những bảo đảm được cho những tiểu nông thành viên của Công xã tất
cả mọi ưu thế của phương thức kinh doanh lớn và của việc sử dụng máy móc
nông nghiệp, mà còn tạo ra cho họ phương tiện để tiến hành cùng với nông
nghiệp nền đại công nghiệp với sức hơi nước hoặc sức nước, và hơn nữa, làm
như vậy không phải vì lợi ích của các nhà tư bản, mà vì lợi ích của Công xã”

[38, tr. 491]. Luận điểm này của Ph.Ăngghen đã chỉ rõ quan hệ chặt chẽ giữa
công nghiệp với nông nghiệp, quan hệ sở hữu ruộng đất bảo đảm cho nông
dân canh tác tập thể bằng sử dụng máy móc vì lợi ích của tập thể nông dân
với ưu thế phương thức kinh doanh lớn.
Những tư tưởng đúng đắn, có ý nghĩa thời sự của C.Mác và Ph.Ăngghen
về nông dân, sử dụng máy móc trong nông nghiệp trên đây cần được nghiên
cứu vận dụng sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta, nhất là khi
chúng ta đang tích cực đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và giải
quyết đúng đắn vấn đề NN, NT, nông dân ở nước ta trong thời kỳ đổi mới
hiện nay.
* Quan điểm của V.I.Lênin về công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn
CNH là một biện pháp cơ bản để xây dựng CNXH. CNH là nhằm xây
15


dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, phát triển lực lượng sản xuất, thực
hiện xã hội hoá sản xuất trên thực tế.
V.I.Lênin viết: “Việc nâng cao năng suất lao động trước hết đòi hỏi phải
có cơ sở vật chất của nền đại công nghiệp” [32, tr. 227]. Sự tiến bộ của khoa
học và kỹ thuật là đòn bẩy chính tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH.
V.I.Lênin đã chỉ rõ: “ Cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội chỉ có thể là nền đại
công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp. Một nền đại công
nghiệp ở vào trình độ kỹ thuật hiện đại và có khả năng cải tạo nông nghiệp,
đó là điện khí hóa cả nước” [35, tr. 11]. Nhưng không thể chỉ đóng khung ở
nguyên lý chung đó mà phải cụ thể hóa nguyên lý đó. Vì thế, V.I.Lênin đã đưa
ra kế hoạch công nghiệp hoá với những tư tưởng như: bắt đầu từ nông nghiệp,
khôi phục, củng cố kinh tế nông thôn và cụ thể hoá những biện pháp xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật. Lênin cho rằng: Cần phải đưa thêm nhiều máy móc
vào khắp mọi nơi, cần phải chuyển sang áp dụng kỹ thuật cơ khí với qui mô
hết sức rộng lớn. Ông viết: “Phân bố nền công nghiệp của Nga một cách hợp

lý xét về phương diện gần nguồn nguyên liệu và khả năng hao phí lao động ít
nhất trong quá trình chuyển từ chế biến nguyên liệu sang tất cả các giai đoạn
kế tiếp để chế biến các bán thành phẩm, cho tới khi nhận được thành phẩm.
Hợp nhất và tập trung sản xuất một cách hợp lý - xét theo quan điểm xây
dựng một nền công nghiệp hiện đại nhất và lớn nhất, đặc biệt là những tơ-rớt vào một số ít xí nghiệp hết sức lớn...Đặc biệt chú ý vấn đề điện khí hóa công
nghiệp và giao thông vận tải và sử dụng điện vào nông nghiệp. Sử dụng các
nhiên liệu loại kém (than bùn, than đá loại xấu) để sản xuất điện với những
chi phí ít nhất trong việc khai thác và vận chuyển nhiên liệu. Vấn đề các
nguồn thủy lực và các động cơ chạy bằng sức gió nói chung, và việc sử dụng
chúng trong nông nghiệp” [31, tr. 278-281]. Trong quá trình công nghiệp hoá
đất nước cần phải học tập, tranh thủ kỹ thuật hiện đại của các nước tư bản,
học tập các chuyên gia tư sản cho dù có phải trả giá bằng những khoản “cống
vật” lớn. V.I.Lênin khẳng định: “Không có sự chỉ đạo của các chuyên gia am
16


hiểu lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có kinh nghiệm thì không thể chuyển lên
chủ nghĩa xã hội được” [31, tr. 217].
Cuộc cách mạng KHCN không chỉ làm cho tính năng của máy móc phù
hợp với yêu cầu hiện đại về kỹ thuật và công nghệ, nâng cao năng suất, mà
còn có vai trò quan trọng đối với sản xuất NN, NT. V.I. Lênin chỉ rõ: “Chúng
ta biết rằng không thể xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa nếu không phục
hồi công nghiệp và nông nghiệp, nhưng không phải phục hồi nguyên như cũ.
Phải khôi phục công nghiệp và nông nghiệp trên cơ sở hiện đại, phù hợp với
nền khoa học tối tân nhất” [33, tr. 364]. Cụ thể hơn, V.I.Lênin còn nhấn mạnh
rằng: Công nghiệp là chìa khoá để cải tạo nền nông nghiệp lạc hậu và phân
tán trên cơ sở tập thể hoá… Do đó, nhiệm vụ là phải cung cấp cho nông
nghiệp đến mức tối đa những công cụ và tư liệu sản xuất cần thiết để xúc tiến
và đẩy mạnh cải tạo nông nghiệp trên cơ sở kỹ thuật mới và việc cải tạo một
nền nông nghiệp bị chia nhỏ, phân tán là một việc làm hết sức khó khăn cần

phải đi dần từng bước nhưng liên tục và kiên quyết bền bỉ, làm cho nông
nghiệp chuyển qua một cơ sở kỹ thuật mới, cơ sở của nền đại sản xuất, đưa
nông nghiệp lên ngang tầm trình độ công nghiệp xã hội chủ nghĩa. Nếu làm
được việc đó thì thắng lợi cuối cùng của CNXH mới được đảm bảo.
Từ các quan điểm của các nhà kinh điển Mác xít, chúng ta thấy rằng, tất
cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, nhất là NN, NT muốn
đạt trình độ sản xuất cao thì tương ứng với nó phải có một trình độ KHCN
mới nhất. Nhưng do sự phát triển không đều giữa các lĩnh vực trong nền kinh
tế cho nên sẽ có sự chuyển giao công nghệ trong quá trình CNH, HĐH, trong
đó có NN, NT.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn
Xuất phát từ đặc điểm to lớn nhất của thời kỳ quá độ tiến lên CNXH của
nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhiệm vụ quan trọng nhất của
17


chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”;
“Muốn đảm bảo đời sống sung sướng mãi mãi, phải CNH xã hội chủ nghĩa”
[46, tr. 13-159]. Chỉ có như vậy thì mục đích của CNXH là không ngừng nâng
cao mức sống của nhân dân mới được thực hiện.
Hồ Chí Minh đã xác định điểm xuất phát, con đường và bước đi của quá
trình công nghiệp hoá. Người chỉ rõ: “Nước ta vốn là một nước nông nghiệp
lạc hậu. Đó là chỗ bắt đầu đi của chúng ta… Đời sống nhân dân chỉ có thể
thật dồi dào, khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất một cách thật rộng rãi:
Dùng máy móc cả trong công nghiệp và trong nông nghiệp. Máy sẽ chắp cánh
cho con người, làm cho sức người tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp người
làm những việc phi thường… Đó là con đường phải đi của chúng ta, con
đường công nghiệp hoá nước nhà”[46, tr. 13]. Trong đó, bước đi đầu tiên là

phải tập trung sức cho phát triển nông nghiệp. Hồ Chí Minh viết: Hiện nay
chúng ta lấy sản xuất nông nghiệp làm chính là vì muốn mở mang công
nghiệp phải có đủ lương thực và nguyên liệu. Nhưng công nghiệp hoá xã hội
chủ nghĩa vẫn là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường ấm no thực sự của
nhân dân ta.
Trong quá trình phát triển nông nghiệp, theo Người: Chúng ta phải ra sức
tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc trong công cuộc phát triển nông nghiệp
vì: “có thực mới vực được đạo”, phải làm cho nhân dân ta ngày càng thêm ấm
no. Hồ Chí Minh có một tầm nhìn xa về CNH nông thôn khi lý giải mối quan
hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp. Người viết: Công nghiệp và nông
nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và
đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích. Sự giúp đỡ lẫn
nhau đó được thể hiện: Nông nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ
lương thực cho nhân dân; cung cấp đủ nguyên liệu (như bông, mía, chè...) cho
nhà máy, cung cấp đủ nông sản (như lạc, đỗ, đay...) để xuất khẩu đổi lấy máy
móc. Công nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ hàng tiêu dùng cần
18


thiết cho nhân dân, trước hết là cho nông dân; cung cấp máy bơm nước, phân
hóa học, thuốc trừ sâu... để đẩy mạnh nông nghiệp; và cung cấp máy cày, máy
bừa cho các HTX nông nghiệp
Việc tiến hành công nghiệp hóa NN, NT là bước đi tất yếu khách quan.
Công nghiệp hoá nông nghiệp là trang bị máy móc cho nông nghiệp, cơ khí
hoá sản xuất. Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn no thì phải sản xuất nhiều
gạo. Muốn ấm thì phải xuất nhiều vải. Muốn có gạo, có vải thì nông nghiệp
không thể để mãi như hiện nay mà phải có máy móc, phải có nhiều máy và
máy tốt. Máy móc là do quá trình công nghiệp hoá đem lại” [45, tr. 298]. Hồ
Chí Minh chỉ ra rằng: Cải cách nông cụ thì công việc đỡ nặng nhọc, lại nhanh,
kịp thời vụ. Không cải tiến nông cụ, không thể tăng được năng suất lao động,

không thể tiến bộ được. Theo Hồ Chí Minh để áp dụng KHCN vào trong NN,
NT thì trước hết phải sản xuất ra công nghệ, Người cho rằng: “Muốn có nhiều
nhà máy thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy, ra gang, thép,
than, dầu…đó là con đường phải đi của chúng ta” [45, tr. 40-41].
Như vậy, con đường duy nhất đúng, đồng thời là điểm khởi đầu cần thiết
để biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước xã hội chủ
nghĩa giàu mạnh là phải công nghiệp hoá đất nước và đẩy mạnh CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn. Đó là định hướng chiến lược phát triển KT-XH của
đất nước ta.
* Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn.
Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Từ kinh nghiệm tiến hành công nghiệp hoá của các nước đi trước và qua
thực tế kiểm nghiệm công nghiệp hoá dưới sự tác động mạnh mẽ của cách
mạng KHCN và hội nhập kinh tế quốc tế, các quan điểm về CNH, HĐH phản
ánh sự đổi mới tư duy của Đảng ta, nhất là đã đưa ra được quan niệm CNH,
HĐH của Việt Nam.
19


Tại các kỳ Đại hội Đại biểu toàn quốc trước năm 1986 đã xác định: CNH
là quá trình thực hiện cách mạng kỹ thuật, thực hiện sự phân công mới về lao
động xã hội và là quá trình tích lũy XHCN để không ngừng thực hiện tái sản
xuất mở rộng. Để đẩy mạnh sự nghiệp đó tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI (1986) Đảng cộng sản Việt Nam đã nêu quan điểm xây dựng những tiền đề
cần thiết để đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN và coi việc thực hiện 3 chương
trình lớn “lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu” [13, tr.
153] là cụ thể hóa nội dung chính của CNH.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ bảy, khóa VII năm 1994, Đảng ta quan
niệm CNH, HĐH như sau: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình

chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và
quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng
một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp
tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học
công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao” [15, tr. 42].
Quan niệm đã phản ánh được phạm vi rộng lớn của CNH, HĐH; gắn kết
chặt chẽ CNH với hiện đại hóa; xác định được vai trò của KHCN trong quá
trình này; chỉ ra cái cốt lõi của CNH là cải biến lao động thủ công, lạc hậu
thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt năng suất lao động
cao. Nó không đơn thuần là phát triển công nghiệp, mà còn thực hiện chuyển
dịch cơ cấu trong từng ngành, lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo
hướng hiện đại. Đồng thời chỉ ra mục đích CNH nhằm tạo ra năng suất lao
động xã hội cao. Quan niệm trên đã đánh dấu bước phát triển vượt bậc tư duy
của Đảng về CNH trong thời kỳ mới.
Quan điểm về CNH, HĐH nông nghiệp
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX tháng 3 năm 2002 chỉ rõ: “CNH, HĐH nông nghiệp là quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp
20


chế biến và thị trường; thực hiện cơ giới hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, ứng
dụng các thành tựu khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, đưa
thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp
nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nông sản
hàng hóa trên thị trường” [18, tr. 79].
Nhận thức quan điểm của Đảng về CNH, HĐH nông nghiệp trên đây,
chúng ta có thể khái quát những vấn đề cơ bản sau:
Thực chất CNH, HĐH nông nghiệp là tiến hành hiện đại hoá công nghệ
sản xuất, hiện đại hoá quản lý sản xuất kinh doanh và hiện đại hoá lực lượng

lao động ngành nông nghiệp; làm thay đổi căn bản tính chất, phương thức sản
xuất, cơ cấu sản xuất, hình thức tổ chức quản lý sản xuất từ một nền nông
nghiệp sản xuất dựa chủ yếu vào điều kiện tự nhiên với kỹ thuật thủ công
sang một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá với kỹ thuật công nghệ tiên tiến
trong điều kiện thương mại hoá toàn cầu và đảm bảo cho sự phát triển bền
vững về tự nhiên, kinh tế, xã hội.
Nội dung chủ yếu của CNH, HĐH nông nghiệp là chuyển dịch CCKT
nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến
và thị trường; thực hiện cơ giới hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, ứng dụng các
thành tựu khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ
thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp...sản xuất
nông nghiệp được tổ chức theo phương pháp công nghiệp nhằm khai thác triệt
để lợi thế của các ngành kinh tế, trên cơ sở đó nâng cao năng suất, chất lượng
nông sản hàng hoá trên thị trường đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh và
tiêu dùng xã hội, nhu cầu xuất khẩu trên thị trường thế giới.
Quan điểm về CNH, HĐH nông thôn
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao
động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao
21


động nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; quy hoạch phát
triển nông thôn. Tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp;
xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ở nông thôn” [18, tr. 79].
Quan niệm của Đảng về CNH, HĐH nông thôn trên đây đã giúp chúng ta
nhận thức nhiều vấn đề quan trọng:
CNH, HĐH nông thôn là quá trình chuyển dịch CCKT nông thôn theo
hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công

nghiệp và dịch vụ giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp.
Phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ, các ngành nghề đa dạng, chú
trọng công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ NN, NT. Phát huy tiềm năng của
từng vùng nông thôn, khôi phục các làng nghề truyền thống ở các địa phương,
chuyển bộ phận quan trọng trong nông nghiệp nông thôn sang công nghiệp
dịch vụ, tạo việc làm mới, giảm tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp.
Xây dựng KCHT kinh tế - xã hội ở nông thôn như: đầu tư phát triển hệ
thống đường điện, giao thông nông thôn, trường, trạm; hệ thống thuỷ lợi,
ngăn mặn, giữ ngọt, kiểm soát lũ... ở nông thôn đảm bảo tưới tiêu, an toàn
cho sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân.
Thực hiện mục tiêu Chương trình quốc gia xây dựng nông thôn mới; xây
dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh và không ngừng nâng cao đời
sống vật chất văn hoá của nhân dân ở nông thôn và hướng tới giảm sự chênh
lệch giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị.
Quan niệm về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
CNH, HĐH nông nghiệp và CNH, HĐH nông thôn có quan hệ chặt chẽ
với nhau, hoà quyện vào nhau, tác động lẫn nhau, trong quá trình phát triển.
Vì vậy, trong chỉ đạo thực hiện không được chia cắt, tách rời từng nội dung
mà phải gắn kết trong một thể thống nhất. Từ nhận thức đó, Đảng ta chủ
trương: “Tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy
22


nhanh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn” [17, tr. 91-92]. “Đẩy mạnh
CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn theo hướng hình thành nền nông
nghiệp hàng hóa lớn phù hợp với nhu cầu thị trường và điều kiện sinh hoạt
của từng vùng” [17, tr. 168]. “Xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng
hóa lớn, hiệu quả và bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao
trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu
cầu trong nước và xuất khẩu; xây dựng nông thôn ngày càng giầu đẹp, dân

chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù
hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển ngày càng hiện đại” [18, tr.
96]. “Phải luôn luôn coi trọng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn” [19, tr. 190-191]; “Phát huy lợi thế của nền nông nghiệp
nhiệt đới. Trên cơ sở tích tụ đất đai, đẩy mạnh cơ giới hóa, áp dụng công nghệ
hiện đại (nhất là công nghệ sinh học); bố trí lại cơ cấu cây trồng, vật nuôi;
phát triển kinh tế hộ, trang trại, tổ hợp tác, HTX nông nghiệp, vùng chuyên
môn hóa, khu nông nghiệp công nghệ cao, các tổ hợp sản xuất lớn” [21, tr.
195-196]. Theo đó, “Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng xây dựng
nền nông nghiệp công nghệ cao, hàng hoá lớn; tăng cường ứng dụng tiến bộ
khoa học, công nghệ, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; bảo
đảm phát triển bền vững, an ninh lương thực quốc gia và vệ sinh, an toàn thực
phẩm. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng khu vực nông nghiệp
bình quân khoảng 2,5 - 3,0% /năm…”; “Có cơ chế, chính sách khuyến khích
nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ sinh học,
công nghệ thông tin vào sản xuất và quản lý. Áp dụng rộng rãi các loại giống
mới và kỹ thuật nuôi trồng có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao và thích
ứng với biến đổi khí hậu. Hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng thương hiệu sản
phẩm, nông dân ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông
nghiệp” [22, tr. 281-283].
Từ các quan điểm của Đảng về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn qua
các kỳ Đại hội, có thể khái quát: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
23


nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
theo hướng hướng hiện đại, thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa,
ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ vào các khâu sản xuất nông
nghiệp, kinh tế nông thôn nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả,
sức cạnh tranh của nông nghiệp, kinh tế nông thôn và không ngừng nâng cao

đời sống nhân dân.
1.2. Quan niệm, nội dung và những yếu tố ảnh hưởng đến công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thái Nguyên
1.2.1. Quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn ở tỉnh Thái Nguyên
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa NN, NT là con đường tất yếu phải tiến
hành đối với một tỉnh kinh tế chưa phát triển. Đó là nhiệm vụ hết sức quan
trọng, có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân các dân
tộc tỉnh Thái Nguyên. Thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn để ứng
dụng những thành tựu KHCN tiên tiến vào khai thác sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực; chuyển dịch CCKT theo hướng hiện đại, gia tăng sản lượng, nâng
cao chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng và xuất khẩu. Kế
thừa kết quả nghiên cứu ở trên, tác giả quan niệm CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn ở tỉnh Thái Nguyên như sau: CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở
tỉnh Thái Nguyên là hoạt động tích cực chủ động của các chủ thể trong tỉnh
thông qua cơ chế, chính sách thực hiện chuyển dịch CCKT nông nghiệp, nông
thôn theo hướng hướng hiện đại, thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi
hóa, ứng dụng các thành tựu KHCN vào các khâu sản xuất nông nghiệp, kinh
tế nông thôn nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh
của nông nghiệp, kinh tế nông thôn và không ngừng nâng cao đời sống nhân
dân ở tỉnh Thái Nguyên.
Nội hàm quan niệm CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thái
Nguyên gồm các vấn đề cơ bản sau:
24


Chủ thể và lực lượng tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở
tỉnh Thái Nguyên: là tổ chức Đảng, chính quyền các cấp, các doanh nghiệp,
các tổ chức chính trị xã hội và nhân dân trong tỉnh. Mỗi chủ thể trên có vị trí,
vai trò khác nhau trong CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.

Đối với tổ chức Đảng, chính quyền, các cơ quan, ban, ngành trong tỉnh
lãnh đạo bằng Nghị quyết và chỉ đạo tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách đẩy
mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nhằm nâng cao năng suất lao động
nông nghiệp và kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới giàu có, công
bằng, dân chủ, văn minh và nâng cao đời sống nhân dân.
Doanh nghiệp và người sản xuất nông nghiệp cần nắm vững các chủ
trương, chính sách của Đảng bộ và chính quyền các cấp; tổ chức sản xuất,
chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo đúng quy hoạch, quy trình kỹ
thuật nhằm nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả, hạ giá thành sản phẩm,
tạo sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường.
Phương thức tiến hành: thông qua vận dụng cơ chế, chính sách của Nhà
nước, của chính quyền các cấp và phát huy tính tự chủ, sáng tạo của nhân dân
thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa và ứng dụng các thành tựu
KHCN vào sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn; chuyển dịch CCKT nông
nghiệp nông thôn theo hướng hướng hiện đại.
Mục đích CNH, HĐH nông nghiêp, nông thôn ở tỉnh Thái Nguyên: nâng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá
nông nghiệp, kinh tế nông thôn trên thị trường và không ngừng nâng cao đời
sống nhân dân tỉnh Thái Nguyên.
1.2.2. Nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn ở tỉnh Thái Nguyên
Từ quan niệm trên, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thái
Nguyên được xác định các nội dung cơ bản là:
Một là, tăng cường sử dụng máy móc, thiết bị tiên tiến và ứng dụng
KHCN hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn.
25


×