Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Thực hiện chính sách công tác xã hội đối với người khuyết tật từ thực tiễn tỉnh phú yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (847.05 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ VĂN BINH

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN
TỈNH PHÚ YÊN

Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60. 90. 01. 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. VÕ KHÁNH VINH

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ
Công tác xã hội “Thực hiện chính sách Công tác xã hội đối với người khuyết tật
từ thực tiễn tỉnh Phú Yên” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề
tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả luận văn

Võ Văn Binh




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1.1. Khái quát về thực hiện chính sách công tác xã hội đối với người khuyết tật
1.2. Nội dung của thực hiện chính sách công tác xã hội đối với người khuyết tật
1.3.Hệ thống luật pháp, chính sách về công tác xã hội đối với người khuyết tật
1.4. Các yếu tố tác động đến thực hiện chính sách công tác xã hội đối với người
khuyết tật
Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CÔNG TÁC XÃ
HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT TẠI TỈNH PHÚ YÊN
2.1. Khái quát địa bàn nghiên cứu
2.2. Thực trạng hoạt động trợ giúp người khuyết tật tại địa phương
2.3. Thực trạng thực hiện chính sách tuyên truyền về công tác xã hội đối với
người khuyết tật
2.4. Thực trạng thực hiện các chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với cán bộ
nhân viên làm công tác xã hội đối với người khuyết tật
2.5. Thực trạng thực hiện các chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với cán bộ
nhân viên làm công tác xã hội đối với người khuyết tật
2.6. Thực trạng thực hiện chính sách huy động nguồn lực
2.7.Thực trạng thực hiện chính sách đảm bảo cho nhân viên công tác xã hội
triển khai các cách tiếp cận, phương pháp công tác xã hội đối với người khuyết
tật
2.8.Thực trạng thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển dịch vụ công tác xã hội
chuyên nghiệp đối với người khuyết tật
2.9. Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá
Chương 3. HOÀN THIỆN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CÔNG TÁC XÃ
HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN TỈNH PHÚ

YÊN
3.1. Quan điểm, mục tiêu hoàn thiện thực hiện chính sách công tác xã hội đối
với người khuyết tật

1
8
8
17
20
22
28
28
31
35
36
41
44
45

49
52
55

55

3.2. Các giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách CTXH đối với NKT
3.3. Lộ trình thực hiện
3.4. Một số kiến nghị nhằm đảm bảo giải pháp có tính khả thi cao

56

65
65

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

69
72


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Từ đầy đủ

LĐ-TBXH

Lao động - Thương binh và Xã hội

NKT

Người khuyết tật

CTXH

Công tác xã hội

CSXH


Chính sách xã hội

DV

Dịch vụ

DVCTXH

Dịch vụ công tác xã hội

ASXH

An sinh xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác
người khuyết tật. Hệ thống chính sách, pháp luật về NKT không ngừng được hoàn
thiện, tạo môi trường pháp lý nhằm bảo vệ, chăm sóc, trợ giúp, hỗ trợ tạo việc làm
để NKT phát huy khả năng của mình, vượt qua khó khăn, hòa nhập cuộc sống, vươn
lên tham gia bình đẳng vào các hoạt động kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, Việt Nam
đã ký tham gia Công ước của LHQ về quyền của NKT vào tháng 10/2007 và Quốc
hội phê chuẩn Công ước vào tháng 11/2014. Việt Nam cam kết tham gia Chiến lược
Incheon nhằm hiện thực hóa quyền cho NKT giai đoạn 2013-2022 được Liên Chính
phủ cùng các tổ chức NKTcác nước Châu Á – Thái Bình Dương thông qua ngày
01/11/2012 tại Incheon, Hàn Quốc. Gần đây nhất, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 1717/QĐ-TTg ngày 06/10/2015 về việc thành lập Ủy ban Quốc
gia về NKT Việt Nam.
Việc tổ chức thực hiện chính sách CTXH đối với NKT đã tạo ra những

chuyển biến tích cực đối với cuộc sống của NKT . Sự thay đổi về nhận thức xã hội
giúp NKT tự tin hơn, hòa nhập vào đời sống xã hội ngày càng thuận lợi. Với vai trò
chủ đạo của Nhà nước, hoạt động trợ giúp NKT đã thu hút sự quan tâm và phát huy
trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư tới mọi
mặt đời sống của NKT, từng bước giảm dần những rào cản, cải thiện một bước việc
đáp ứng các nhu cầu, quyền lợi chính đáng của NKT, tạo động lực để NKT phát huy
năng lực của mình, vươn lên hòa nhập, đóng góp cho xã hội và trợ giúp thiết thực
đối với người cùng hoàn cảnh. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, việc thực hiện
chính sách CTXH đối với NKT vẫn còn những hạn chế hệ thống chính sách CTXH
đối với NKT chưa được ban hành kịp thời và đầy đủ, công tác dạy nghề cho NKT
hiệu quả chưa cao, nhận thức của một bộ phận cán bộ làm công tác hỗ trợ người
khuyết tật, cộng đồng và người dân còn hạn chế, xem công tác NKT thuộc trách
nhiệm của ngành Lao động - Thương binh và xã hội và trợ giúp NKT chỉ là hoạt
động từ thiện….. Do vậy đời sống của một bộ phận không nhỏ NKT còn nhiều khó
khăn, vẫn còn nhiều NKT chưa được tiếp cận hoặc tiếp cận chưa đầy đủ các dịch vụ
xã hội cơ bản.
1


Theo số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, hiện nay Việt Nam
có khoảng 7 triệu người khuyết tật, chiếm 7,8% dân số. Trong đó, có khoảng 28,9%
NKT đặc biệt nặng và nặng, 58% NKT là nữ, 28,3% NKT là trẻ em, 10,2% NKT là
người cao tuổi, 61,5% NKT trong độ tuổi lao động và khoảng 10% NKT thuộc hộ
nghèo. Thực tiễn tại tỉnh Phú Yên, việc thực hiện chính sách CTXH đối với NKT
cũng gặp không ít khó khăn. Theo số liệu thống kê, toàn tỉnh Phú Yên có 20.140
người khuyết tật, chiếm 2,26% dân số. Công tác Xã hội đối với NKT nhằm đáp ứng
nhu cầu của cá nhân, giúp cho NKT phát huy khả năng tự lực của mình, vượt qua
khó khăn để hòa nhập cộng đồng. Quyền tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của
NKT là một trong những nội dung thể hiện trong Công ước của LHQ về quyền của
NKT và đã được quy định khá đầy đủ trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật

của Việt Nam. Tuy nhiên việc thực hiện chính sách CTXH đối với NKT hiện nay
trên địa bàn tỉnh hầu như chỉ là việc “cho và nhận”.
Các công trình nghiên cứu về công tác xã hội với người khuyết tật, chính
sách xã hội đối với người khuyết tật đã có. Tuy nhiên, nghiên cứu về thực hiện
chính sách công tác xã hội đối với người khuyết tật là một nội dung khá mới.
Từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài : “Thực hiện chính sách công
tác xã hội đối với người khuyết tật từ thực tiễn tỉnh Phú Yên ” làm luận văn tốt
nghiệp thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, các vấn đề về NKT luôn nhận được sự quan tâm
đặc biệt của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, các chuyên gia, học giả trong và
ngoài nước. Trong phạm vi nghiên cứu luận văn này, tác giả lựa chọn và phân tích
một số công trình nghiên cứu, bài viết, tạp chí tiêu biểu như sau:
Các nghiên cứu về pháp luật, chính sách xã hội đối với người khuyết tật
Tác giả Trần Thái Dương (Trường Đại học Luật Hà Nội) đã nghiên cứu về
những điểm khác biệt giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật Quốc tế, đặc biệt là
những quy định của Công ước về quyền của NKT trong việc bảo đảm quyền tiếp
cận công lý, quyền được trợ giúp pháp lý của NKT, từ đó đề xuất một số ý kiến
nhằm hoàn thiện pháp luật, thực hiện trọn vẹn nghĩa vụ quốc gia khi Việt Nam phê
chuẩn và trở thành thành viên chính thức của Công ước. [7, tr.12].
2


Tác giả Trần Thị Thúy Lâm đã có bài viết phân tích và đánh giá thực trạng
pháp luật Việt Nam hiện hành về dạy nghề cho NKT trên các phương diện: Chính
sách đối với cơ sở dạy nghề, NKT học nghề và giáo viên dạy nghề cho NKT; đồng
thời đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả việc học nghề đối với NKT
cả ở phương diện hoàn thiện pháp luật và biện pháp tổ chức thực hiện.[10, tr.18].
Nguyễn Thị Báo (2007), Hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật
ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí

Minh [….]. Tác giả đã chỉ rõ từ thực tiễn và quá trình tổ chức thực hiện pháp
luật về quyền của NKT ở Việt Nam, bên cạnh những mặt tích cực cũng đã bộc lộ
những hạn chế cản trở NKT hoà nhập vào cộng đồng. Việc nghiên cứu những cơ
sở lý luận và thực tiễn đảm bảo tính pháp lý lâu dài, ổn định có ý nghĩa vô cùng
quan trọng trong bối cảnh thay đổi mạnh mẽ về kinh tế-xã hội của đất nước,
hướng tới bảo vệ, chăm sóc và tạo các điều kiện tốt hơn cho NKT, góp phần
phát triển và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội toàn diện, làm cơ sở cho phát
triển kinh tế xã hội của đất nước.
Các nghiên cứu lý luận phục vụ đào tạo công tác xã hội đối với người
khuyết tật
Về vấn đề nghiên cứu lý luận phục vụ đào tạo CTXH đối với NKT, có thể kể
đến một số công trình tiêu biểu sau:
Công trình nghiên cứu của Tác giả Hà Thị Thư đã trình bày một cách tổng
quát nhất về CTXH với NKT, các mô hình hỗ trợ, các phương pháp tiếp cận, các
chương trình chính sách của nhà nước đối với NKT, vai trò của nhân viên CTXH
đối với NKT, các kỹ năng làm việc với NKT... Đây là giáo trình đào tạo CTXH ở
hệ trung cấp nghề.
Tác giả Nguyễn Thị Kim Hoa (chủ biên) cũng đã nghiên cứu và xây dựng giáo
trình đào tạo CTXH với NKT ở bậc Đại học và Sau đại học với ba nội dung chính.
Đó là tổng quan về NKT; Trải nghiệm khuyết tật và Các kỹ năng thực hành CTXH.
Để hỗ trợ cho đội ngũ cán bộ làm việc với NKT một cách chuyên nghiệp, Cục
Bảo trợ xã hội thuộc Bộ LĐ-TBXH, phối hợp cùng Cơ quan phát triển quốc tế Hoa
Kỳ (USAID) và Tổ chức hỗ trợ NKT xây dựng tài liệu về quản lý trường hợp với

3


NKT đề cập tới những quan điểm về cung cấp dịch vụ cho NKT và các giai đoạn
của quản lý trường hợp với NKT.
Các nghiên cứu về thực trạng và đề xuất giải pháp

Tác giả Thạc sĩ Đỗ Lan Phương có bài nghiên cứu về Pháp luật về nghề công
tác xã hội tại Việt Nam và một số kiến nghị. Tác giả đã đánh giá về sự phát triển
nghề công tác xã hội ở Việt Nam nhất là thời gian sau khi có Quyết định số
32/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ. Qua nghiên cứu tác giả có một số đề
xuất kiến nghị về phương pháp tiếp cận CTXH; sửa đổi, bổ sung các văn bản quy
phạm pháp luật có liên quan đến quy định vai trò, quyền hạn và trách nhiệm của cán
bộ, viên chức, nhân viên CTXH ; Bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật liên
quan về quy định thủ tục và trình tự cung cấp dịch vụ CTXH của viên chức, nhân
viên CTXH đồng thời quy định Quy tắc đạo đức nghề CTXH và tiêu chuẩn cung
cấp dịch vụ CTXH cần được ưu tiên nghiên cứu và quy định trong văn bản quy
phạm pháp luật.
Riêng đối với tình hình tại tỉnh Phú Yên chưa có một nghiên cứu nào về thực
hiện chính sách CTXH đối với NKT.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và và thực trạng về thực hiện chính sách
công tác xã hội đối với người khuyết tại tỉnh Phú Yên; từ đó đề xuất giải pháp hoàn
thiện chính sách CTXH đối với NKT nói chung và tại tỉnh Phú Yên nói riêng .

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu đã đề ra, luận văn tập trung giải quyết
những nhiệm vụ sau:
- Tổng hợp khái quát cơ sở lý luận về thực hiện chính sách CTXH đối với
NKT.
- Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách CTXH đối với NKT cũng như các
yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện chính sách CTXH đối với NKT tại địa bàn
tỉnh Phú Yên ;
- Đề xuất giải pháp thực hiện chính sách CTXH đối với NKT tại tỉnh Phú Yên
nói riêng và cả nước nói chung.
4



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Hệ thống chính sách hiện có và kết quả thực hiện chính sách CTXH đối với
NKTtỉnh Phú Yên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung nghiên cứu: Tình hình thực hiện chính sách CTXH đối với NKT.
- Địa bàn nghiên cứu: Tại tỉnh Phú Yên.
- Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2012 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng để phân tích, đánh giá
thực trạng về đời sống của NKT, thực trạng thực hiện chính sách CTXH đối với
NKT tại tỉnh Phú Yên, rút ra được những lý luận và đưa ra được những đề xuất về
giải pháp để nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách CTXH đối với NKTtại
tỉnh Phú Yên .
Những phát hiện của nghiên cứu này sẽ bổ sung thêm cơ sở lý luận, khoa học
cũng như phát triển hệ thống các lý luận, phương pháp trong nghiên cứu về các vấn
đề liên quan như CTXH, thực hiện chính sách CTXHvà một số vấn đề lý luận về
người khuyết tật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp nghiên cứu phân tích tài liệu:
(i). Tra cứu các tài liệu về Công ước quốc tế; các chủ trương, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước về NKT như Luật người khuyết tật, Bộ luật lao
động, Luật việc làm, Đề án trợ giúp NKT giai đoạn 2012 - 2020, Nghị định số
28/2012/NĐ-CP, Thông tư số 26/2012/TT-BLĐTBXH, Thông tư liên tịch số
37/2012/TTLT-BLĐTBXH-BYT-BTC-BGDĐT,

Thông




số

01/2015/TT-

BLĐTBXH và các Công trình nghiên cứu liên quan đến NKT, vấn đề thực hiện
chính sách CTXH đối với NKT;
(ii). Báo cáo của Bộ Lao động Thương binh và xã hội, các báo cáo của các cơ
quan lập pháp liên quan đến đánh giá tình hình thực hiện chính sách đối với NKT, của
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Phú Yên, các Hội và Tổ chức có liên quan đến
NKT trên địa bàn tỉnh Phú Yên, báo cáo các cơ sở bảo trợ xã hội, báo cáo tổng kết của
phòng Lao động – TB&XH một số huyện, thị xã, thành phố cung cấp.
5


5.3.2. Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát là phương pháp thu thập thông tin thông qua các tri
giác như nghe, nhìn để thu thập các thông tin từ thực tế xã hội nhằm đáp ứng mục
tiêu nghiên cứu của đề tài. Trong đề tài nghiên cứu này, tác giả sử dụng phương
pháp quan sát nhằm thu thập, bổ sung thông tin còn thiếu và kiểm tra độ tin cậy của
các thông tin thông qua việc quan sát hoàn cảnh sống, thái độ, thể trạng... của đối
tượng được tiếp xúc, cụ thể:
Quan sát về môi trường, không gian sống và điều kiện sinh sống trong sinh
hoạt hằng ngày của NKT; quan sát về thể chất, thái độ giao tiếp và trạng thái tâm lý
của NKT; quan sát thái độ, hành vi của cán bộ trực tiếp làm việc đối với NKT, gia
đình NKT và quan sát thực trạng đời sống kinh tế - xã hội địa phương, thái độ, hành
vi của người dân, của chính quyền đối với các vấn đề liên quan đến chính sách CTXH
đối với NKT… Những quan sát này sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm những kết quả

nghiên cứu định lượng đã thu thập được.
5.2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Phương pháp xử lý số liệu thống kê, khai thác có hiệu quả các số liệu; rút ra
được những nhận xét, kết luận khoa học khách quan đối với vấn đề nghiên cứu.
5.2.4. Phương pháp khảo sát điều tra bằng bảng hỏi
Điều tra trên 40 người thân của NKT về thực hiện chính sách đối với NKT,
NKT đã và đang tiếp cận những chính sách, dịch vụ nào? Những đề xuất và giải
pháp nào để nâng cao hiệu quả trong công tác thực hiện chính sách CTXH với
người khuyết tật?
5.2.5. Phương pháp phỏng vấn sâu
Phỏng vấn 10 cán bộ, nhân viên của Trung tâm Công tác xã hội và Bảo trợ
xã hội, các cơ sở bảo trợ có chăm sóc, nuôi dưỡng người khuyết tật để tìm hiểu về
tác động, hiệu quả của thực hiện chính sách CTXH đối với NKT; Những bất cập và
thuận lợi trong thực hiện chính sách CTXH đối với NKT; Những đề xuất khuyến
nghị của họ nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách CTXH đối với NKT.
Phỏng vấn sâu 20 công chức Lao động – TB&XH cấp xã và Cộng tác viên
CTXH cấp xã để tìm hiểu về tác động, hiệu quả của thực hiện chính sách CTXH đối
với NKT tới công việc của họ; Những thận lợi, khó khăn trong thực hiện chính sách
CTXH đối với NKT đã ảnh hưởng tới công việc của họ; Những đề xuất khuyến nghị

6


của họ nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách CTXH đối với NKT, từ đó
giúp cho công việc của họ được thực hiện tốt hơn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn
Luận văn nghiên cứu và làm sáng tỏ lý luận về thực hiện chính sách CTXH
đối với NKT từ thực tiễn tỉnh Phú Yên, qua đó bổ sung và làm phong phú thêm về
cách nhìn nhận, đánh giá về thực hiện chính sách CTXH đối với NKT tại tỉnh Phú

Yên nói riêng và trên cả nước nói chung.
Kết quả nghiên cứu đề tài minh chứng cho việc vận dụng các lý thuyết về
CSXH, lý thuyết về CTXH nói chung và CTXH đối với NKT nói riêng là cần thiết
trong quá trình nghiên cứu thực tiễn, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách CTXH với NKT ở nước ta nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong
việc xây dựng cũng như tổ chức thực hiện. Là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích đối
với những người có quan tâm đến CTXH nói chung và thực hiện chính sách CTXH
đối với NKT nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Đề tài tổng hợp thực trạng chính sách CTXH đối với NKT, qua đó đóng góp
hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với NKT, đồng thời nâng cao công tác tuyên truyền,
phổ biến chính sách, chương trình có liên quan đến NKT cũng như toàn thể người dân
biết và thực hiện kiệp thời, có hiệu quả các chế độ, dịch vụ, chính sách thụ hưởng...
Đồng thời góp phần nâng cao nhận thức về chính sách CTXH đối với NKT, nâng cao
hiệu quả xây dựng và phát triển CTXH trở thành một nghề chuyên nghiệp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo, luận
văn được trình bày theo 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách Công tác xã hội đối
với người khuyết tật.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách công tác xã hội đối với người
khuyết tật từ thực tiễn tỉnh Phú Yên .
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách công tác xã hội đối với
người khuyết tật từ thực tiễn tỉnh Phú Yên.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH

CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1.1. Khái quát về thực hiện chính sách công tác xã hội đối với người
khuyết tật
1.1.1. Khuyết tật, người khuyết tật
1.1.1.1. Khuyết tật: Có nhiều cách hiểu cũng như nhiều định nghĩa khác nhau
về khuyết tật, tuy nhiên mỗi cách hiểu đều xét trên những mục đích và quan điểm
khác nhau.
Trong hệ thống “Phân loại Quốc tế về Chức năng, Khuyết tật và Sức khỏe”
(ICF) (năm 2001) của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã đưa ra định nghĩa khuyết tật
như sau: “Khuyết tật là thuật ngữ chung chỉ tình trạng khiếm khuyết, hạn chế vận
động và tham gia, thể hiện những mặt tiêu cực trong quan hệ tương tác giữa cá
nhân một người (về mặt tình trạng sức khỏe) với các yếu tố hoàn cảnh của người đó
(bao gồm yếu tố môi trường và các yếu tố cá nhân khác)”[9, tr.26]. Như vậy, với
khái niệm này có thể hiểu “khuyết tật” chỉ đơn giản là bị khiếm khuyết mà không
phải xác định nguyên nhân của một dạng khuyết tật.
Như vậy, định nghĩa khuyết tật theo cách tiếp cận khái niệm mới có thể hiểu
là: “Tình trạng thiếu hụt chức năng hay rối loạn chức năng so với chuẩn sinh lý
bình thường làm cho cá nhân bị trở ngại trong học tập, làm việc, giao tiếp, vui chơi
giải trí và sinh hoạt”. [23, tr 8].
1.1.1.2. Người khuyết tật :
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về NKT ở các quốc gia khác như Úc, Anh
hay Trung Quốc, song tựu chung lại đều xoay quanh hai vấn đề đó chính là các
khiếm khuyết hay sự suy giảm các chức năng khác nhau và những điều đó cản trở
cá nhân tham gia một cách bình thường vào cuộc sống xã hội. [4, tr. 9].
Trong phạm vi đề tài, tác giả sử dụng định nghĩa về NKT theo Luật Người
khuyết tật Việt Nam ban hành vào năm 2010. Đây là định nghĩa khá đầy đủ, tổng
hợp được các cách hiểu khác nhau về khuyết tật và phù hợp với điều kiện và hoàn
cảnh Việt Nam, đó là: “Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều

8



bộ phận cơ thể hoặc suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho
lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”.[4, tr.10].
1.1.1.3.Các dạng khuyết tật :
Theo cách phân loại dạng khuyết tật của tổ chức Y tế Thế giới (WHO,1989)
có những dạng khuyết tật sau:
- Khó khăn về vận động: cụt chi, khoèo chân, dị tật chân, tay...
- Khó khăn về nhìn: mù giảm thị lực...
- Khó khăn về nghe-nói: câm, điếc ...
- Khó khăn về học: hội chứng Down, hội chứng ngu đần ...
- Hành vi xa lạ, khác thường: tâm thần phân liệt.
- Động kinh.
- Mất cảm giác: bệnh phong ...
- Đa tật
Theo qui định tại khoản 1, Điều 3, Luật Người khuyết tật Việt Nam (2010),
các dạng tật cũng được chia làm 6 nhóm, tuy nhiên cách phân loại có khác đôi chút,
cụ thể là:
- Khuyết tật vận động.
- Khuyết tật nghe, nói.
- Khuyết tật nhìn.
- Khuyết tật thần kinh, tâm thần.
- Khuyết tật trí tuệ.
- Khuyết tật khác.
Về phân loại mức độ khuyết tật: NKT đặc biệt nặng; NKT nặng; NKT nhẹ.
- NKT đặc biệt nặng là người do khuyết tật dẫn đến không thể tự thực hiện
việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày;
- NKT nặng là người do khuyết tật dẫn đến không thể tự thực hiện một số
việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày;
- NKT nhẹ là NKT không thuộc trường hợp nêu trên.

1.1.1.4. Đặc điểm của người khuyết tật
(i) Sức khỏe yếu, cần đến các hoạt động phục hồi chức năng: Những NKT
do bị khiếm khuyết về một hoặc một số bộ phận chức năng của cơ thể nên sức khỏe
9


của họ kém hơn so với người bình thường. Ở mỗi dạng tật, tình hình sức khỏe lại
khác nhau. Phần lớn những NKT vận động không có khả năng để làm những công
việc thủ công, những công việc đòi hỏi phải có sức khỏe. Vì vậy qua các vấn đề mà
NKT và gia đình NKT gặp phải, nhân viên CTXH cần xác định nhu cầu, mục tiêu
và kế hoạch can thiệp trước các vấn đề đó. Việc này cần được thực hiện như một kế
hoạch trợ giúp.
(ii). Sống rất khép kín, út thích giao tiếp, ít hòa nhập cộng đồng
Nguyên nhân là do bị khiếm khuyết về thể chất hoặc tinh thần nên họ dễ bị
tổn thương về mặt tinh thần. Bên cạnh đó, họ còn phải đối mặt với sự kỳ thị và phân
biệt đối xử từ phía cộng đồng do nhận thức chưa đúng của xã hội. Vì vậy NKT và
người nhà của NKT có thái độ thiếu động lực và buông xuôi, cho rằng NKT sống
ngày này nào hay ngày đấy. Đối với những trường hợp này NVXH cần kiên trì
thăm hỏi, động viên. Có thể mời những NKT có hoàn cảnh tương tự nhưng đã phục
hồi đến thăm để tạo động lực và niềm tin chữa trị phục hồi . NVXH cần tư vấn cho
gia đình những hậu quả có thể xảy ra cho bản thân NKT và gia đình nếu họ không
nỗ lực và hợp tác trong việc PHCN cho NKT.
(iii). Có ý chí vươn lên khỏi hoàn cảnh, số phận của mình
Đại đa số NKT có đều có nghị lực và ý thức vượt lên số phận. Họ mong
muốn có thể tự chủ được trong công việc và cuộc sống. Nếu có được sự hỗ trợ thích
hợp của gia đình và xã hội, người khuyết tật sẽ đạt được nhiều thành tích cao trong
lao động và học tập, trở thành tấm gương sáng, thành nguồn động lực cho nhiều
người noi theo.
(iv). Cũng còn tư tưởng ỷ lại: Một bộ phận NKT nghĩ rằng mình là đối tượng
được bảo trợ, được gia đình và xã hội không quan tâm. Vì vậy, đã ỷ lại, trông chờ

vào người khác hỗ trợ, không có ý thức tự rèn luyện, phấn đấu vươn lên hòa nhập
xã hội. NVXH cần tư vấn, giúp kết nối tới các dịch vụ tư vấn cá nhân để NKT sớm
vượt qua khủng hoảng tâm lý, biết chấp nhận thực trạng, lên kế hoạch cuộc sống
cho bản thân. Giúp kết nối với nhóm đồng cảnh để cùng sinh hoạt chia sẻ, hỗ trợ
nhau. Tư vấn và hướng nghiệp cho họ: kết nối cơ sở dạy nghề để NKT học nghề
phù hợp.

10


(v). Khó khăn khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ: NKT là những người bị
khiếm khuyết (thiếu, không có hoặc bị mất đi) bộ phận nào đó trên cơ thể, bị suy
giảm sức khỏe khó có thể phục hồi, bị hạn chế hoặc không có khả năng nhận thức.
Khả năng thực hiện quyền và nghĩa của người khuyết tật sẽ hạn chế hơn đối với
những đối tượng thông thường. Vì vậy NVXH cần tư vấn và giúp gia đình từng
bước tháo gỡ khó khăn, hướng dẫn gia đình làm thủ tục để xin hỗ trợ dụng cụ
PHCN từ các Dự án có ở địa phương. Gia đình phân công người đưa NKT đi tập
PHCN và học kỹ thuật PHCN để tập thêm cho NKT ngay tại nhà. Đồng thời NHXH
cần có mặt động viên tư vấn để giảm bớt căng thẳng, áp lực mà người nhà đang gặp
phải. Nếu cần thiết thì phối hợp với các chuyên gia tư vấn chuyên nghiệp để tư vấn
cho gia đình
1.1.2. Chính sách , chính sách xã hội
1.1.2.1. Chính sách
Chính sách là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế - xã hội,
qua tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu cho thấy khái niệm, định nghĩa chính sách
được thể hiện khác nhau như: (i). Chính sách là những sách lược và kế hoạch cụ thể
nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình
thực tế mà đề ra. (ii). Chính sách là các chủ trương và các biện pháp của một đảng
phái, một chính phủ trong các lĩnh vực chính trị - xã hội…
Có rất nhiều loại chính sách, trong đó có loại chính sách chung như: Chính

sách đối ngoại, chính sách kinh tế…, trong các loại chính sách chung lại có các
chính sách riêng đối với từng lĩnh vực. Tóm lại, có nhiều loại chính sách khác nhau,
có chính sách chung, chính sách cụ thể tuỳ thuộc vào nội dung và lĩnh vực kinh tế xã hội. Chính sách được thực thi khi được thể chế hoá bằng pháp luật. Nói một cách
khác, pháp luật là kết quả thể chế hoá đường lối, chính sách, là công cụ để thực thi
chính sách. Do chính sách có các loại và cấp độ khác nhau, có những chính sách
mang tính định hướng, có những chính sách cụ thể, nên các cấp phê duyệt chính
sách và nguồn chính sách cũng khác nhau, do các cấp khác nhau ban hành.
Trong khuôn khổ nghiên cứu của đề tài này, Chính sách của Nhà nước được
hiểu là tập hợp văn bản mà Chính phủ xây dựng, ban hành với mục đích rõ ràng, tác
động đến nhóm người hoặc toàn bộ người dân trong xã hội. Ở nghĩa rộng hơn,
11


chính sách là tổng thể các quan điểm, giải pháp và công cụ mà chủ thể quản lý sử
dụng để tác động lên các đối tượng và khách thể quản lý nhằm thực hiện những mục
tiêu nhất định trong một giai đoạn, thời kỳ lịch sử cụ thể.
1.1.2.2. Chính sách xã hội
CSXH là công cụ để đảm bảo nền an sinh xã hội. CSXH ở một nghĩa rộng
nhất được hiểu như một bộ phận cấu thành chính sách chung của một Nhà nước,
chính quyền hướng tới lĩnh vực xã hội nhằm giải quyết vấn đề liên quan tới cuộc
sống của con người, đến lợi ích của nhóm người trong xã hội góp phần điều chỉnh
các quan hệ xã hội cho phù hợp với mục tiêu của giai cấp, chính đảng.
CSXH được xem như sự định hướng hay những can thiệp liên quan tới các
vấn đề xã hội tạo nên sự thay đổi hoặc duy trì điều kiện sống đảm bảo an sinh cho
con người. Các CSXH được xây dựng nhằm cải thiện an sinh xã hội và đáp ứng nhu
cầu của con người như: y tế, giáo dục, việc làm, nhà ở và an toàn xã hội…
Dinitto & Dye (1983) định nghĩa về CSXH: “Tất cả những điều chính quyền
làm hoặc không làm mà ảnh hưởng đến cuộc sống của mọi công dân”. Theo định
nghĩa tổng quát này thì CSXH có thể bao gồm tất cả những vấn đề về thuế, quốc
phòng, bảo vệ môi trường, giáo dục, y tế, nhà ở và những chương trình cứu trợ. Và

trong phạm vi hẹp có thể định nghĩa CSXH một cách cụ thể là những hoạt động của
chính quyền có mục đích tác động đến sự an sinh của công dân thông qua những
chương trình, dịch vụ tạo thu nhập, các chính sách liên hệ trực tiếp đến chương trình
xã hội có tính chất trợ giúp và bảo hiểm với những nhóm đối tượng đặc biệt trong
hoàn cảnh khó khăn.
Từ cách tiếp cận trên, khái niệm CSXH có thể hiểu là sự thể chế hóa, cụ thể hóa
các giải pháp của Nhà nước trong việc giải quyết vấn đề xã hội liên quan đến từng
nhóm người hay toàn bộ dân cư, trên cơ sở phù hợp với quan điểm, đường lối của
Đảng, nhằm hướng tới công bằng, tiến bộ xã hội và phát triển toàn diện con người.
1.1.3. Công tác xã hội và công tác xã hội đối với người khuyết tật
1.1.3.1. Khái niệm về công tác xã hội
Có nhiều khái niệm về CTXH được đưa ra ở các góc độ khác nhau:

12


Theo từ điển Bách khoa ngành CTXH (1995) : “CTXH là một khoa học ứng
dụng nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của con người, tạo ra những chuyển biến
xã hội và đem lại nền an sinh cho người dân trong xã hội”. [29, tr.12].
Hiệp hội quốc gia nhân viên công tác xã hội Mỹ (NASW – 1970): “Công tác
xã hội là một chuyên ngành để giúp đỡ cá nhân, nhóm, hoặc cộng đồng tăng cường
hay khôi phục việc thực hiện các chức năng xã hội của họ và tạo những điều kiện
thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu đó” [29, tr.171].
Hiệp hội nhân viên công tác xã hội Quốc tế thông qua tháng 7 năm 2000 tại
Montreal, Canada (IFSW): “Nghề công tác xã hội thúc đẩy sự thay đổi xã hội, giải
quyết vấn đề trong mối quan hệ của con người, tăng năng lực về giải phóng cho con
người, nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày càng thoải mái, dễ chịu. Vận dụng các
lý thuyết về hành vi con người và hệ thống, công tác xã hội tương tác vào những
điểm giữa con người với môi trường của họ. Nhân quyền và công bằng xã hội là các
nguyên tắc cơ bản của nghề” [29, tr.171].

CTXH ở Việt Nam cũng được các tác giả xem xét từ những khía cạnh khác
nhau điển hình có tác giả Nguyễn Thị Oanh cho rằng: CTXH là hoạt động thực tiễn,
mang tính tổng hợp được thực hiện và chi phối bởi các nguyên tắc, phương pháp hỗ
trợ cá nhân, nhóm và cộng đồng giải quyết vấn đề. CTXH theo đuổi mục tiêu vì
phúc lợi, hạnh phúc con người và tiến bộ xã hội’’. [28, tr.26].
CTXH tại Việt Nam cũng được xem như là sự vận dụng các lý thuyết khoa
học về hành vi con người, về hệ thống xã hội nhằm khôi phục lại các chức năng xã
hội và thúc đẩy sự thay đổi vai trò của cá nhân, nhóm, cộng đồng người yếu thế
hướng tới bình đẳng và tiến bộ xã hội. Đây là lĩnh vực cung cấp các dịch vụ chuyên
môn góp phần giải quyết những vấn đề xã hội liên quan tới con người để thỏa mãn
những nhu cầu căn bản, mặt khác góp phần giúp cá nhân tự nhận thức về vị trí, vai
trò xã hội của mình. [29, tr.17]
Và như vậy ta có thể hiểu một cách chung nhất theo như định nghĩa của
PGS.TS. Bùi Thị Xuân Mai: “CTXH là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp
nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực đáp ứng nhu
cầu và tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính

13


sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và
phòng ngừa các vấn đề xã hội, góp phần đảm bảo an sinh xã hội”. [29,tr.19]
1.1.3.2. Công tác xã hội đối với người khuyết tật:
Trong tất cả các đối tượng mà CTXH cần trợ giúp, hỗ trợ thì NKT có thể nói
là một nhóm đối tượng cần được sự quan tâm và trợ giúp đặc biệt. Việc trợ giúp của
nhân viên CTXH đối với NKT được coi là một lĩnh vực chuyên môn sâu của người
làm CTXH, lĩnh vực này được gọi là “CTXH đối với NKT”.
CTXH với NKT như một lĩnh vực hoạt động của thực hành CTXH, làm việc
với NKT có nghĩa là làm việc với những trường hợp bị khiếm thị, khiếm thính,
thiểu năng, khó hăn về vận động và những người là nạn nhân của các khiếm khuyết

thân thể khác bao gồm cả những người ốm đau về tâm thần và tật nguyền.
Mục đích của CTXH đối với NKT là tạo điều kiện để giúp đỡ NKT phát triển
năng lực bản thân một cách tốt nhất và tạo được môi trường phát triển, hòa nhập tốt
cho NKT. Muốn đạt được mục đích nêu trên, bản thân NKTcần được giúp đỡ về mọi
mặt, từ chăm sóc sức khỏe, y tế, giáo dục, đến tạo cơ hội việc làm và thu nhập; từ
việc nâng cao đời sống vật chất đến nâng cao đời sống tinh thần…Mặt khác NKT là
đối tượng có hạn chế về thể lực, tâm lý… vì vậy đòi hỏi nhân viên CTXH khi làm
việc với NKTphải có tấm lòng bao dung, nhân hậu, cảm thông và chia sẽ đồng thời
nhân viên CTXH phải có những phẩm chất, đạo đức, phương pháp và kỹ năng làm
việc chuyên nghiệp thì mới có thể đem lại hiệu quả tốt nhất cho NKT.
Từ những phân tích, nhận định về CTXH đối với NKT như trên, chúng ta có
thể hiểu: CTXH đối với NKT là hoạt động chuyên nghiệp của nhân viên CTXH
giúp đỡ những NKT tăng cường hay khôi phục việc thực hiện các chức năng xã hội
của họ, huy động nguồn lực, xác định những dịch vụ cần thiết để hỗ trợ NKT, gia
đình và cộng đồng triển khai hoạt động chăm sóc trợ giúp họ một cách hiệu quả,
vượt qua những rào cản, đảm bảo sự tham gia đầy đủ vào các hoạt động xã hội trên
nền tảng sự công bằng như những người khác trong xã hội.
1.1.3.3. Chính sách công tác xã hội đối với người khuyết tật
Trước hết, chính sách CTXH cũng là một CSXH. Bởi lẽ, như phân tích trên,
CTXH là một nghề và nghề CTXH cũng là một lĩnh vực hoạt động lao động mà
trong đó, nhờ được đào tạo, nhân viên CTXH có được những tri thức, những kỹ
14


năng, đạo đức nghề nghiệp để cung cấp các DV CTXH, đáp ứng được những nhu
cầu nâng cao năng lực, tăng cường chức năng xã hội của cá nhân, gia đình và cộng
đồng cần sự trợ giúp. Chính sách CTXH định hướng, điều chỉnh cho sự vận động,
phát triển của CTXH và suy cho cùng, chính sách CTXH là để phát triển con người
và thúc đẩy sự phát triển.
Vậy, chính sách CTXH là sự thể chế hóa, cụ thể hóa các giải pháp của Nhà

nước trong việc hình thành và phát triển CTXH với mục đích phát huy vai trò, chức
năng của nghề CTXH trong việc trợ giúp đối tượng theo quan điểm, đường lối của
Đảng, nhằm hướng tới công bằng, tiến bộ xã hội và phát triển toàn diện con người.
Từ việc định nghĩa NKT, chính sách CTXH đề cập trên, ta có hệ quả khái
niệm về chính sách CTXH đối với NKT đó là: Sự thể chế hóa, cụ thể hóa các giải
pháp của Nhà nước trong việc hình thành và phát triển CTXH thành một nghề
chuyên nghiệp, đảm bảo cho nhân viên CTXH triển khai các cách tiếp cận, phương
pháp của nghề CTXH và chuyên nghiệp hóa DV CTXH đối với NKT theo quan
điểm, đường lối của Đảng trong thực hiện chính sách đối với NKT nhằm góp phần
hướng tới công bằng, tiến bộ xă hội và phát triển con người toàn diện.
1.1.3.4. Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong thực hiện chính sách
công tác xã hội đối với người khuyết tật :
(i) Là người vận động nguồn lực trợ giúp NKT (cá nhân, gia đình, cộng
đồng...) tìm kiếm nguồn lực (nội lực, ngoại lực) cho giải quyết vấn đề.
(ii) Là người kết nối - khai thác, giới thiệu NKT tiếp cận tới các dịch vụ,
chính sách nguồn tài nguyên đang sẵn có trong cộng đồng.
(iii) Là người biện hộ/vận động chính sách giúp bảo vệ quyền lợi cho đối
tượng để họ được hưởng những dịch vụ, chính sách, quyền lợi của họ đặc biệt trong
những trường hợp họ bị từ chối những dịch vụ, chính sách mà họ là đối tượng được
hưởng.
(iv) Là người giáo dục cung cấp kiến thức kỹ năng nâng cao năng lực cho cá
nhân, gia đình, nhóm hay cộng đồng qua tập huấn, giáo dục cộng đồng để họ có
hiểu biết, tự tin và tự mình nhìn nhận vấn đề đánh giá vấn đề phân tích và tìm kiếm
nguồn lực cho vấn đề cần giải quyết.
(v) Là người tham vấn giúp cho những đối tượng có khó khăn về tâm lý, tình
cảm và xã hội vượt qua được sự căng thẳng, khủng hoảng duy trì hành vi tích cực
đảm bảo chất lượng cuộc sống.
15



(vi) Là người chăm sóc, người trợ giúp đối tượng như trực tiếp cung cấp dịch
vụ chăm sóc đối tượng yếu thế.
(vii) Là người trợ giúp xây dựng và thực hiện kế hoạch cộng đồng: trên cơ sở
nhu cầu của cộng đồng đã cộng đồng được xác định, nhân viên công tác xã hội giúp
cộng đồng xây dựng chương trình hành động phù hợp với điều kiện hoàn cảnh, tiềm
năng của cộng đồng để giải quyết vấn đề của cộng đồng.
(viii) Là người tạo sự thay đổi về đời sống cũng như tư duy của người yếu
thế và người dân trong cộng đồng nghèo vươn lên làm chủ cuộc sống.
(ix Là người nhà đào tạo, nghiên cứu và quản lý hành chính giúp đào tạo thế
hệ nhân viên CTXH, đưa ra những nghiên cứu lý luận và xây dựng mô hình giúp đỡ
đối tượng và quản lý các hoạt động, các chương trình, lên kế hoạch và triển khai kế
hoạch các chương trình dịch vụ cho cá nhân, gia đình và cộng đồng.
1.1.4. Thực hiện chính sách công tác xã hội đối với người khuyết tật:
Có nhiều cách diễn đạt và khái niệm về thực hiện chính sách. Theo PGS. TS.
Văn Tất Thu thì thực hiện chính sách là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ
thể chính sách thành hiện thực, là bước đặc biệt quan trọng trong chu trình chính
sách: hiện thực hóa chính sách, đưa chính sách vào cuộc sống. Chất lượng, hiệu quả
thực hiện chính sách phụ thuộc nhiều vào năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức
trong thực thi chính sách.
Theo khái niệm và phân tích trên cho thấy thực hiện chính sách CTXH đối
với NKT là toàn bộ quá trình chuyển hóa hệ thống chính sách CTXH đối với NKT
thành hiện thực, đưa chính sách đi vào cuộc sống, đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng
của NKT. Tổ chức thực thi chính sách CTXH đối với NKT là sự kết nối liên tiếp
các khâu (các bước) trong quá trình chuyển hóa các quy định, các cơ chế chính sách
đến với NKT.
Ví dụ để triển khai thực hiện Thông tư số 01 của Bộ Lao động Thương binh
và xã hội về việc Hướng dẫn quản lý trường hợp đối với người khuyết tật thì trước
hết chúng ta phải xây dựng kế hoạch triển khai, tổ chức tập huấn cho cộng tác viên
CTXH xã, phường và đội ngũ cán bộ ngành Lao động Thương binh và xã hội các
cấp, thực hiện truyền thông để cộng đồng dân cư hiểu và bản thân người khuyết tật

biết, phân công đội ngũ cán bộ trực tiếp triển khai thực hiện, nguồn kinh phí lấy từ
đâu ….. và cuối cùng là theo dõi, kiểm tra, đôn đốc và đánh giá hiệu quả qua quá
16


trình thực hiện. Như vậy thực hiện chính sách công tác xã hội nói chung và đối với
NKT nói riêng phải thực hiện theo một chuỗi dài các khâu công việc theo một quy
trình nhất định. Tuy nhiên tùy theo từng chính sách mà mỗi khâu công việc có thể
đầu tư nhiều hay ít, cần sự phối hợp với cơ quan đơn vị nào… nhưng mục đích cuối
cùng là đưa chính sách đó vào cuộc sống.
Từ sự phân tích và đánh giá nêu trên, có thể khái niệm thực hiện chính sách
CTXH đối với NKT có thể khái quát như sau : Thực hiện chính sách CTXH là toàn
bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách CTXH đối với NKT thành
hiện thực, là bước đặc biệt quan trọng để đưa chính sách CTXH vào cuộc sống,
nhằm đáp ứng nhu cầu nguyện vọng chính đáng của NKT. Chất lượng, hiệu quả
thực hiện chính sách CTXH đói với NKT phụ thuộc nhiều vào năng lực của đội ngũ
nhân viên CTXH trong thực thi chính sách.
1.2. Nội dung của thực hiện chính sách công tác xã hội đối với người
khuyết tật
1.2.1. Nội dung của chính sách công tác xã hội đối với người khuyết tật
Mục tiêu cuối cùng của chính sách CTXH nói chung và Chính sách CTXH
đối với NKT nói riêng là các biện pháp, giải pháp và các can thiệp bằng các công cụ
quản lý của nhà nước vào xã hội để phát triển công tác xã hội thành một nghề
chuyên nghiệp , được NKT chấp nhận, sử dụng các dịch vụ đó thường xuyên. Chính
vì vậy nội dung của chính sách CTXH đối với NKT sẽ bao gồm:
(i) Các chính sách tuyên truyền về CTXH đối với NKT
(ii) Các chính sách phát triển nguồn nhân lực (chính sách phát triển đội ngũ
nhân viên CTXH , chính sách ưu đãi về tiền lương, ưu đãi ngành nghề…)
(iii) Chính sách tài chính, ưu tiên nguồn lực cho CTXH đối với NKT
(iv) Chính sách đầu tư phát triển các cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội

(hệ thống chung tâm, cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội, hành nghề công tác xã
hội, khuôn khổ pháp luật đầu tư….)
(v) Chính sách hỗ trợ đối tượng thụ hưởng sử dụng các dịch vụ CTXH. Ở
chừng mực nào đó khi CTXH chưa thành nghề, xã hội chưa biết đến và sử dụng,
tiêu dùng nó như một nhu cầu cần thiết thì cũng cần có các chính sách hỗ trợ của
nhà nước. Cụ thể như giảm giá, miễn phí, khuyến khích thay đổi thói quen…
17


1.2.2. Nội dung thực hiện chính sách công tác xã hội đối với người khuyết tật
Sau khi chính sách CTXH đối với NKT được hoạch định, chính sách đó cần
được thực thi thì mục tiêu của chính sách đó mới đạt được. Khâu thực hiện là khâu
thức hai trong cả quá trình chính sách, nhằm mục tiêu biến các chính sách thành
những hoạt động và những kết quả cụ thể. Cơ quan hành chính nhà nước, cụ thể là
cơ quan LĐTBXH các cấp chịu trách nhiệm chính tổ chức thực hiện chính sách
CTXH đối với NKT. Như vậy, có thể hiểu thực hiện chính sách CTXH đối với
NKT là một quá trình do cơ quan nhà nước các cấp thực hiện nhằm biến các chính
sách CTXH thành những kết quả cụ thể và để đạt được các mục tiêu đã đặt ra của
chính sách. Quá trình thực hiện chính sách CTXH đối với NKT là một quá trình
thường xuyên liên tục và qua 3 giai đoạn với các nội dung cụ thể sau:
1.2.2.1. Giai đoạn chuẩn bị triển khai thực hiện chính sách
Đây là giai đoạn đầu của thực hiện chính sách, nhiệm vụ của giai đoạn này là
bảo đảm về cơ cấu tổ chức bộ máy và chuẩn bị nguồn lực thực hiện chính sách. Giai
đoạn này gồm các nội dung là:
(i) Xây dựng bộ máy tổ chức thực hiện,
(ii) Lập kế hoạch triển khai thực hiện,
(iiii) Tổ chức tập huấn cán bộ, cơ quan và các đối tượng tham gia trong quá
trình thực hiện chính sách.
Trong đó tổ chức bộ máy, cán bộ thực hiện chính sách CTXH và chính sách
đối với NKT ở địa phương đã phân công cho từng ngành theo chức năng nhiệm vụ

để tổ chức thực hiện. Do vậy, giai đoạn này chính sách CTXH đối với NKT thuộc
ngành nào quản lý thì ngành đó chủ trì, phối hợp với các sở, ban ngành của địa
phương thực hiện.
1.2.2.2. Giai đoạn chỉ đạo triển khai thực hiện chính sách
Đây là khâu quan trọng nhất của quá trình thực hiện chính sách nói chung và
chính sách CTXH đối với NKT nói riêng. Nhiệm vụ của chỉ đạo thực hiện chính
sách là các hoạt động, nội dung để đưa chính sách vào cuộc sống. Giai đoạn này
được chia làm các bước cụ thể như sau:
(i) Truyền thông và tư vấn về các nội dung chính sách và các hoạt động tổ
chức thực hiện chính sách và ý nghĩa của nó, nguồn lực thực hiện chính sách, phân
18


công trách nhiệm thực hiện, phạm vi địa bàn thực hiện chính sách, đối tượng truyền
thông . Hướng tới việc bảo đảm đồng thuận trong quá trình thực hiện.
(ii) Triển khai thực hiện các chế độ chính sách cụ thể đối với từng nhóm đối
tượng.
(iii) Quản lý, khai thác và sử dụng các nguồn lực cho các chính sách CTXH.
(iv) Điều hành, phối hợp các cơ quan, tổ chức cá nhân tham gia trong quá
trình tổ chức thực hiện
(v) Vận hành hệ thông cung cấp dịch vụ CTXH đối với NKT
1.2.2.3. Giai đoạn kiểm tra thực hiện chính sách
Đây là gia đoạn cuối của tổ chức thực hiện chính sách. Nhiệm vụ của giai
đoạn này là giám sát, đo lường, đánh giá thực hiện, phát hiện những vấn đề nảy sinh
trong thực tế, duy trrì hệ thống thông tin phản hồi về chính sách, nhằm điều chỉnh
hoạt động của các bên như: Cơ quan LĐTBXH, các sở, ban ngành liên quan, các cơ
sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội (trung tâm BTXH), nhân viên công tác xã hội,
người thụ hưởng dịch vụ công tác xã hội (NKT). Đồng thời đưa ra khuyến nghị điều
chỉnh phù hợp với tình hình thực tiễn. Bao gồm cả điều chỉnh về nội dung chính
sách và các điều chỉnh về nội dung tổ chức thực hiện chính sách. Các điều chỉnh

này vẫn phải giữ được mục tiêu, cũng như những yêu cầu cần đạt được của chính
sách. Cụ thể giai đoạn này gồm các bước:
(i) Xây dựng hệ thống thông tin báo cáo, giảm sát, phản hồi và thu thập thông tin
(ii) Tổ chức kiểm tra, thanh tra cấp dưới. Cụ thể tỉnh kiểm tra thanh tra huyện,
xã và các cơ sở cung cấp dịch vụ. Huyện kiểm tra cấp xã, cá nhân cung cấp dịch vụ.
(iii) Tổ chức đánh giá chính sách. Việc đánh giá phải được thực hiện thường
xuyên theo định kỳ và đột xuất. Đánh giá chính sách cần có phương pháp, công cụ
và người thực hiện đánh giá. Thông thường mỗi nội dung chính sách CTXH cần có
các công cụ, phương pháp và cách thức đánh giá riêng biệt.
(iv) Đề xuất sửa đổi chính sách cho phù hợp. Khâu này cũng rất quan trọng,
nhưng thường ít được các cơ quan quan tâm và thực hiện nghiêm túc và đầy đủ.
Trong quá trình thực hiện rất tốn kém chi phí và nguồn lực cho đánh giá chính sách
và khuyến nghị các giải pháp hoàn chỉnh. Tuy nhiên, người ta quan tâm nhiều đến
đánh giá kết quả đạt được, chưa đạt được. Ít tìm hiểu sâu xem chưa đạt được là do

19


nguyên nhân gì và vì sao. Từ đó có đề xuất các khuyến nghị một cách tốt nhất cho
điều chỉnh chính sách.
1.3. Hệ thống luật pháp, chính sách về công tác xã hội đối với người
khuyết tật
1.3.1. Chính sách xã hội đối với Người khuyết tật :
Luật Người khuyết tật được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Việt Nam khoá
XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010, Luật Người khuyết tật gồm
10 chương, 53 điều và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2011 với các nội dung
bản như sau:
(i) Về xác nhận khuyết tật: Gồm 6 điều, từ Điều 15 đến Điều 20 quy định về
Trách nhiệm xác định mức độ khuyết tật; Hội đồng xác định mức độ khuyết tật;
Phương pháp xác định mức độ khuyết tật; Thủ tục xác định mức độ khuyết tật; xác

định lại mức độ khuyết tật.
(ii) Về y tế và chăm sóc sức khỏe: Nội dung này gồm 6 điều, từ Điều 21 đến
Điều 26 quy định về Chăm sóc sức khỏe ban đầu tại nơi cư trú; Khám bệnh, chữa
bệnh; Trách nhiệm của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; Cơ sở chỉnh hình, phục hồi
chức năng; Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng; Nghiên cứu khoa học, đào tạo
chuyên gia, kỹ thuật viên, sản xuất trang thiết bị dành cho người khuyết tật.
(iii) Về lĩnh vực giáo dục: Nội dung này gồm 4 điều, từ Điều 27 đến Điều 31
quy định về chính sách giáo dục đối với người khuyết tật; các phương thức giáo dục
NKT bao gồm giáo dục hòa nhập, giáo dục bán hòa nhập và giáo dục chuyên biệt.
(iv) Về dạy nghề và việc làm : Chính sách việc làm với mục tiêu phải tạo ra
điều kiện và cơ hội để mọi người lao động có việc làm, có thu nhập bảo đảm cuộc
sống bản thân và gia đình đồng thời đóng góp một phần cho xã hội. Chính sách việc
làm và giải quyết việc làm là yêu cầu cho mọi người lao động nhưng đặc biệt quan
tâm những người lao động yếu thế trong xã hội do có những khiếm khuyết đã ngăn
cản hoặc hạn chế họ tham gia thuận lợi vào thị trường lao động để có một việc làm
ổn định.
(v) Về văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch : Nội dung này quy định
chính sách, trách nhiệm của nhà nước, xã hội và các cơ sở văn hóa, thể dục, thể

20


thao, giải trí và du lịch trong việc bảo đảm các điều kiện để NKT tiếp cận và tham
gia các hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch.
Về tiếp cận các công trình công cộng, giao thông, công nghệ thông tin và truyền
thông: Nội dung này từ Điều 39 đến Điều 43 quy định về các điều kiện trong việc phê
duyệt thiết kế đầu tư xây dựng mới, lộ trình cải tạo công trình công cộng nhằm bảo
đảm các điều kiện tiếp cận và sử dụng của người khuyết tật; tham gia giao thông của
người khuyết tật; phương tiện giao thông và các chính sách, biện pháp bảo đảm NKT
tiếp cận giao thông, tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông.

(vi) Về chính sách bảo trợ xã hội: Quy định về các chính sách trợ cấp xã hội
đối với người khuyết tật, gia đình người khuyết tật, người nhận nuôi dưỡng và chăm
sóc người khuyết tật; chính sách nuôi dưỡng tập chung trong cơ sở chăm sóc người
khuyết tật; chính sách hỗ trợ mai táng; cơ sở chăm sóc người khuyết tật. NKT nặng
và đặc biệt nặng được trợ cấp xã hội hàng tháng. Đối với NKT đặc biệt nặng không
nơi nương tựa, không tự lo được cuộc sống được tiếp nhận vào nuôi dưỡng tại cơ sở
bảo trợ xã hội được chăm sóc, nuôi dưỡng tại các Trung tâm bảo trợ xã hội thì trợ
cấp xã hội hàng tháng…
Bên cạnh Luật Người khuyết tật, Chính phủ và các bộ ngành Trung ương từ
năm 2010 đến nay đã ban hành 13 Nghị định và Quyết định của Chính phủ, 21
Thông tư và Quyết định của các bộ ngành trung ương, đây là hệ thống văn bản
chính sách để tổ chức thực hiện, triển khai các chính sách, dịch vụ cho NKT tại Việt
Nam (có mục lục đính kèm)
1.3.2. Chính sách công tác xã hội đối với người khuyết tật
Nhận thức tầm quan trọng và ý nghĩa của việc phát triển CTXH như một
nghề chuyên nghiệp, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo tại công văn số
1817/VPCP-VX ngày 06/4/2006 giao cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
chủ trì và phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng Đề án “Phát triển nghề
công tác xã hội”. Năm 2010 là năm đánh dấu cột mốc quan trọng về phát triển nghề
CTXH tại Việt Nam. Ngày 25/3/2010, Thủ Tướng Chính phủ ký Quyết định số
32/2010/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn
2010 - 2020. Ðề án phát triển nghề CTXH tập trung vào 04 hoạt động chủ yếu sau:
(i) Xây dựng và ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về CTXH; (ii)
21


×