Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp phát triển kinh tế trang trại tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.38 KB, 15 trang )

MỤC LỤC

1


LỜI MỞ ĐẦU
Ở nước ta, kinh tế trang trại đã xuất hiện từ rất lâu và thực sự phát triển
mạnh mẽ cùng quá trình đổi mới trong sản xuất nông nghiệp. Sự phát triển của
kinh tế trang trại đã góp phần khai thác thêm nguồn vốn trong dân, mở mang them
diện tích đất trống đồi trọc, đất hoang đá, nhất là ở các vùng trung du, miền núi và
ven biển, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động nông thôn, góp phần xóa
đói giảm nghèo, tăng thêm nông sản hàng hóa, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong nông nghiệp, nông thôn. Chính vị vậy, phát triển kinh tế trang trại là xu
hướng tất yếu trong sản xuất nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay.
Mô hình kinh tế trang trại trong sản xuất nông nghiệp ở nước ta đã hình
thành và không ngừng được mở rộng, phát triển trong thời gian qua. Sự phát triển
của kinh tế trang trại đã góp phần giúp người dân phát huy được lợi thế so sánh,
mở rộng quy mô sản xuất nông nghiệp hàng hoá, nâng cao năng suất, hiệu quả và
sức cạnh tranh trong cơ chế thị trường.
Từ những lý do trên, việc nghiên cứu, đánh giá và đề xuất các biện pháp
phát triển kinh tế trang trại ở nước ta là cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và giá trị thực
tế. Vì vậy em lựa chọn đề tài: “Đánh giá hiện trạng và đề xuất các biện pháp để
phát triển kinh tế trang trại trong điểu kiện nước ta hiện nay” là đề tài của bài
tập lớn.
Kết cấu của bài tập lớn gồm ba chương:
CHƯƠNG I: Cơ sở lý luận
CHƯƠNG II: Thực trạng về kinh tế trang trại tại Việt Nam hiện nay
CHƯƠNG III: Đề xuất các biện pháp để phát triển kinh tế trang trại trong
điều kiện nước ta hiện nay
Do trình độ còn hạn chế nên bài tập lớn chắc chắn sẽ không tránh khỏi thiếu
sót. Em rất mong được sự góp ý của thầy để đề tài hoàn thiện hơn!


Em xin chân thành cảm ơn!

2


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN
Khái niệm của kinh tế trang trại
1.1.1 Khái niệm trang trại
Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm, ngư nghiệp, có
mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hóa, tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc
quyền sử dụng của chủ thể độc lập. Sản xuất được tiến hành trên quy mô ruộng đất
và các yếu tố sản xuất được tập trung tương đối lớn, với cách thức tổ chức quản lý
tiến bộ và trình độ kĩ thuật cao: hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường.
1.1.2 Khái niệm về kinh tế trang trại
Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hóa chủ yếu trong nông
nghiệp, nông thôn; chủ yếu dựa vào hộ gia đình nhằm mở rộng quy mô và nâng
cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy s,ản
trồng rừng gắn với sản xuất chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thủy sản.
Kinh tế trang trại vừa là kinh tế hộ, vừa là kinh tế doanh nghiệp, vì vậy trang
trại không tổ chức sản xuất như nông hộ nhưng không hoàn toàn tổ chức sản xuất
như doanh nghiệp. Tổ chức sản xuất của trang trại có những cơ sở khách quan và
nội dung mang tính chất đặc thù của trang trại.
1.2 Những đặc trưng của kinh tế trang trại
1.2.1 Mục đích của kinh tế trang trại
Kinh tế trang trại là một đơn vị sản xuất kinh doanh cơ sở trực tiếp sản xuất
trồng trọt trên đồng ruộng và chăn nuôi chuồng trại với quy mô lớn, trình độ sản
xuất và quản lý tiến bộ, ... Là hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm
nghiệp và thủy sản với mục đích chính là sản xuất ra hàng hóa để cung ứng cho thị
trường. Là loại hình sản xuất hàng hóa với tỷ trọng hàng hóa chiếm từ 70% đến
80% trở lên, đáp ứng phần lớn hàng hóa ra thị trường không chỉ ở trong nước mà

còn xuất khẩu ra nước ngoài.
1.2.2 Hoạt động của trang trại
Hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại được tiến hành trên cơ sở các
yếu tố sản xuất, trước hết là ruộng đất và tiền vốn được tập trung với quy mô nhất
định theo yêu cầu phát triển sản xuất hàng hoá.
1.2.3 Tổ chức và quản lý sản xuất
Tổ chức và quản lý sản xuất tiến bộ trên cơ sở chuyên môn hoá, thâm canh,
ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, hạch toán kinh doanh và thường xuyên tiếp
cận thị trường. Mô hình sản xuất rất đa dạng và phong phú, phản ánh những đặc
thù, kinh nghiệm và những truyền thống canh tác của địa phương.
1.2.4 Nguồn nhân lực
1.1

3


Nguồn nhân lực chủ yếu là nhân lực của gia đình hoặc nhân lực đi thuê (Thuê
theo thời vụ và thuê thường xuyên). Nguyên tắc thuê dựa trên thoả thuận giữa chủ
trang trại và người lao động làm thuê. Số lượng lao động thuê mướn phụ thuộc vào
loại hình, quy mô và năng lực sản xuất của trang trại.
1.2.5 Loại hình trang trại
Có các loại hình trang trại sau: Nông trại, lâm trại và ngư trại.
1.3 Vai trò của kinh tế trang trại
Kinh tế trang trại đã đóng một vai trò quan trọng về cả mặt kinh tế cũng như
về mặt xã hội và môi trường.
Về mặt kinh tế, các trang trại góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển
các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị hàng hoá cao, khắc phục dần tình trạng phân
tán, tạo nên những vùng chuyên môn hoá cao mặt khác qua thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế trang trại góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp, đặc biệt công
nghiệp chế biến và dịch vụ sản xuất ở nông thôn. Thực tế cho thấy việc phát triển

kinh tế trang trại ở những nơi có điều kiện bao giờ cũng đi liền với việc khai thác
và sử dụng một cách đầy đủ và hiệu quả các loại nguồn lực trong nông nghiệp
nông thôn so với kinh tế nông hộ. Do vậy, phát triển kinh tế trang trại góp phần
tích cực vào thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của nông nghiệp và kinh tế nông
thôn.
Về mặt xã hội, phát triển kinh tế trang trại góp phần quan trọng làm tăng số
hộ giàu trong nông thôn, tạo thêm việc làm tăng thêm thu nhập cho lao động. Điều
này rất có ý nghĩa trong giải quyết vấn đề lao động và việc làm, một trong những
vấn đề bức xúc của nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay. Mặt khác phát triển
kinh tế trang trại còn góp phần thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng trong nông thôn
và tạo tấm gương cho các hộ nông dân về cách tổ chức và quản lý sản xuất kinh
doanh … do đó phát triển kinh tế trang trại góp phần tích cực vào việc giải quyết
các vấn đề xã hội và đổi mới bộ mặt xã hội nông thôn nước ta.
Về mặt môi trường: Do sản xuất kinh doanh tự chủ và vì lợi ích thiết thực và
lâu dài của mình mà các chủ trang trại luôn có ý thức khai thác hợp lý và quan tâm
bảo vệ các yếu tố môi trường, trước hết là trong phạm không gian sinh thái trang
trại và sau nữa là trong phạm vi từng vùng. Các trang trại ở trung du, miền núi đã
góp phần quan trọng vào việc trồng rừng, bảo vệ rừng, phủ xanh đất trồng đồi núi
trọc và sử dụng hiệu quả tài nguyên đất đai – những việc làm này đã góp phần tích
cực cải tạo và bảo vệ môi trường sinh thaí trên các vùng đất nước.

4


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI
TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Lịch sử hình thành và phát triển của kinh tế trang trại
Kinh tế trang trại có lịch sử phát triền lâu đời, các chuyên gia về sử học và
kinh tế học thế giới đã chứng minh từ thời đế quốc La Mã, các trang trại đã hình
thành trong đó lực lượng sản xuất chủ yếu là các nô lệ. Ở Trung Quốc trang trại có

từ đời nhà Đường. Với nước ta, trang trại hình thành và phát triển dưới thời nhà
Trần với tên gọi chung là các “thái ấp”. Trang trại trên thế giới bắt đầu phát triển
mạnh khi chế độ tư bản chủ nghĩa ra đời. Năm 1802 ở Pháp có 5.672.000 trang
trại, năm 1882 ở Tây Đức có 5.278.000, năm 1990 ở Mỹ có 5.737.000, năm 1963
Thái Lan có 3.214.000 và Ấn Độ có hơn 44 triệu trang trại.
Quá trình phát triền công nghiệp, số lượng các trang trại giảm, nhưng quy mô về
diện tích và quy mô về doanh thu tăng lên. Hiện nay ở Mỹ có 2,2 triệu trang trại,
sản xuất mỗi năm 50% sản lượng đậu tương và ngô trên thế giới; ở Pháp có 0,98
triệu trang trại, sản xuất một lượng nông sản gấp 2,2 lần nhu cầu trong nước; 1.500
trang trại của Hà Lan mỗi năm sản xuất 7 tỷ bông hoa, 600 triệu chậu hoa; 4 triệu
lao động trong các trang trại của Nhật Bản (chiếm 3,7% dân số cả nước) nhưng bảo
đảm lương thực, thực phẩm cho hơn 100 triệu người. Như vậy, trang trại là một mô
hình tổ chức sản xuất phổ biến trong nông nghiệp, xu thế tất yếu của sản xuất nông
nghiệp hàng hoá.
2.2 Thực trạng hoạt động của kinh tế trang trại tại Việt Nam hiện nay
Ở nước ta, trang trại đã hình thành và phát triển từ rất sớm nhưng có những
giai đoạn việc phát triển loại hình kinh tế này không được coi trọng. Tuy nhiên từ
khi có chủ trương đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp theo nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, Đảng và Nhà nước đã có rất nhiều chính sách khuyến
khích phát triển nên số lương trang trại tăng lên nhanh chóng, hình thức tổ chức
sản xuất và cơ cấu thành phần chủ trang trại cũng ngày càng đa dạng.
Những năm vừa qua, loại hình kinh tế trang trại đã phát triển nhanh, sử dụng
nhiều đất đai, tạo việc làm và tạo ra một lượng giá trị hàng hóa, sản phẩm nông,
lâm nghiệp và thủy sản khá lớn cho xã hội.
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tính đến cuối năm
2016, cả nước có khoảng 33.488 trang trại, tăng 13.460 trang trại (67,2%) so với
năm 2011. Số liệu điều tra do Tổng cục Thống kê thực hiện năm 2016 công bố kết
quả sơ bộ cho thấy, từ năm 2011-2016, bình quân mỗi năm số trang trại của cả
nước tăng trên 13%. Trong đó, vùng đồng bằng sông Hồng trang trại phát triển
mạnh nhất (tăng 6.435 trang trại), chiếm gần một nửa số trang trại tăng thêm trong

vòng 5 năm qua của cả nước.
5


Số trang trại của cả nước tăng tập trung chủ yếu ở loại hình trang trại chăn
nuôi, tăng 14.521 trang trại (gấp 3,3 lần) so với năm 2011. Trong vòng 5 năm vừa
qua, bình quân mỗi năm số trang trại chăn nuôi phát triển tăng trên 45%. Trong khi
đó, số lượng trang trại thủy sản lại giảm mạnh, giảm 2.172 trang trại (48%) so với
năm 2011, trung bình giảm gần 10% mỗi năm.
Trong tổng số trang trại trên cả nước, hiện có khoảng 9.216 trang trại trồng
trọt (chiếm 27,5%), 20.869 trang trại chăn nuôi (chiếm 62,4%), 112 trang trại lâm
nghiệp (chiếm 0,3%), 2.350 trang trại nuôi trồng thủy sản (chiếm 7%), 941 trang
trại tổng hợp (chiếm 2,8%).
Các trang trại đã sử dụng tổng cộng 187.000ha đất sản xuất nông, lâm
nghiệp và thủy sản, tăng 35.900ha so với năm 2011. Trong đó, có 60.000ha đất
trồng cây hàng năm; 79.500ha đất trồng cây lâu năm; 17.600ha đất lâm nghiệp và
29.800ha đất nuôi trồng thủy sản. Mức bình quân đất đai sản xuất nông, lâm
nghiệp và thủy sản của 1 trang trại trên cả nước sử dụng là 5,6 ha/trang trại.
Đồng thời, giải quyết việc làm thường xuyên cho 134.700 lao động, tăng
40.000 lao động (42,4%) so với năm 2011. Trong đó, lao động của hộ chủ trang trại
là 75.800 người, chiếm 56,3% tổng số lao động, còn lại là lao động do chủ trang
trại thuê mướn thường xuyên. Bình quân 1 trang trại sử dụng khoảng 4 lao động
thường xuyên. Số lượng lao động bình quân của 1 trang trại sử dụng vào thời điểm
năm 2016 giảm so với năm 2011 (năm 2011 là 4,7 lao động) do các trang trại đã áp
dụng khoa học kỹ thuật, đưa máy móc thiết bị kỹ thuật vào phục vụ các khâu trong
sản xuất. Bên cạnh đó, do các trang trại phát triển có sự chuyển đổi loại hình khá ro
nét gia tăng trang trại chăn nuôi, một loại hình sử dụng ít lao động hơn các loại
hình trang trại khác như trồng trọt, nuôi trồng thủy sản… nên mức bình quân sử
dụng lao động của một trang trại giảm.
Loại hình kinh tế trang trại phát triển nhanh đã góp phần tạo ra nhiều giá trị

sản phẩm hàng hóa nông, lâm nghiệp và thủy sản. Tổng cục Thống kê cho biết,
tổng thu từ sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản của các trang trại trong năm
2016 ước đạt 93.098 tỷ đồng, tăng 54.007 tỷ đồng (138,2%) so với giá trị đạt được
cách đây 5 năm (2011). Tính bình quân 1 trang trại có thu nhập đạt 2.780 triệu
đồng, tăng 828 triệu đồng (tăng 42,4%) so với cách đây 5 năm.
2.3 Đánh giá thực trạng kinh tế trang trại của Việt Nam hiện nay
2.3.1 Thành tựu đạt được
Những mặt được của kinh tế trang trại trong những năm qua có thể kể đến
như sau:

6


Thứ nhất, tạo ra sản xuất hàng hóa lớn, sự phát triển của KTTT đã góp phần
mở rộng quy mô sản xuất nông nghiệp hàng hoá, nâng cao năng suất, hiệu quả và
sức cạnh tranh trong cơ chế thị trường. Ví dụ, như ngành chăn nuôi, trước đây
KTTT đóng góp chỉ 30%, 60-70% là đóng góp của nông hộ nhỏ. Tuy nhiên hiện
nay KTTT đóng góp 60% sản lượng cho ngành chăn nuôi lợn. KTTT còn góp phần
đẩy lùi tỷ lệ dịch bệnh; khả năng quản lý dịch bệnh của ngành chăn nuôi được tốt
hơn trong vài năm trở lại đây.
Thứ hai, Đây là một bước phát triển mới của kinh tế hộ gắn với mục tiêu sản
xuất hàng hoá qui mô lớn, góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế
nông nghiệp và nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng sản xuất hàng hoá, tạo
ra các vùng sản xuất tập trung làm tiền đề cho công nghiệp chế biến nông lâm sản,
đưa công nghiệp và các ngành nghề dịch vụ vào nông thôn, tăng tốc độ phủ xanh
đất trống, đồi núi trọc, cải thiện môi trường sinh thái. Phát triển kinh tế trang trại
đã góp phần quan trọng trong quá trình chuyển dịch, tích tụ ruộng đất gắn liền với
quá trình phân công lại lao động ở nông thôn, từng bước chuyển dịch lao động
nông nghiệp sang làm các ngành phi nông nghiệp, thúc đẩy tiến trình công nghiệp
hoá trong nông nghiệp và nông thôn.

Thứ ba, việc hình thành nhiều mô hình trang trại đã góp phần nâng cao hiệu
quả đầu tư, khai thác và sử dụng đất trống, đồi núi trọc, đất hoang hoá, ao, hồ,
đầm, bãi bồi ven sông… để sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng chuyên
canh với tỷ suất hàng hoá cao. Đồng thời, việc hình thành nhiều mô hình trang trại
cũng đã góp phần nâng cao hiệu quả mô hình trang trại sử dụng ít đất, sử dụng
nhiều lao động, có tính thâm canh cao gắn với chế biến, thương mại và dịch vụ,
làm ra hàng hoá nông sản có giá trị kinh tế lớn. Kinh tế trang trại phát triển đã góp
phần khai thác thêm diện tich lớn đất trống, đồi núi trọc, diện tích còn hoang hoá
(khoảng 20-30 vạn ha) đưa vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, nâng cao hiệu quả
sử dụng đất, nhất là ở các vùng trung du, miền núi và ven biền.
Thứ tư, giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn, ngoài 30 vạn lao động
của gia đình còn thuê thêm 10 vạn lao động thường xuyên và 30 triệu ngày công
lao động thời vụ/năm. Kinh tế trang trại đã tận dụng được nguồn lực, khai thác hiệu
quả nguồn lực đất đai, lao động nông thôn, góp phần phát triển nông nghiệp bền
vững, tạo việc làm, tăng thu nhập, xây dựng nông thôn mới. Thông qua phát triển
kinh tế trang trại đã góp phần quan trọng trong quá trình chuyển dịch, tích tụ ruộng
đất gắn liền với quá trình phân công lại lao động ở nông thôn, từng bước chuyển
dịch lao động nông nghiệp sang làm các ngành phi nông nghiệp, thúc đẩy tiến trình
công nghiệp hoá trong nông nghiệp và nông thôn.
7


Cuối cùng, áp dụng khoa học và công nghệ của trang trại trong sản xuất tăng
lên. Những năm qua, đặc biệt là trong năm 2016 các chủ trang trại đã áp dụng khoa
học công nghệ vào sản xuất, qua đó nâng cao hiệu quả sản xuất trong nhiều lĩnh
vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản... Có thể nhận thấy ro trang trại là
chủ công để đưa khoa học công nghệ vào nông nghiệp, làm tăng hiệu quả sản xuất
nông nghiệp. Mô hình HTX Hòa Mỹ, Ứng Hòa (Hà Nội) là một điển hình, HTX
này quy tụ mấy chục trang trại chăn nuôi với vốn hơn 200 tỷ đồng. Vì là HTX của
những trang trại nên quy mô của họ rất lớn. Các mô hình trang trại rau hoa áp dụng

công nghệ cao ở Đà Lạt (Lâm Đồng), các mô hình nuôi trồng thủy sản ở Đồng
bằng sông Cửu Long đã rất thành công. Một số trang trại đã sản xuất và cung cấp
giống tốt, làm dịch vụ kỹ thuật, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân trong vùng.
2.3.2 Những hạn chế còn tồn tại
Về quy mô và số lượng: Số lượng trang trại hiện nay tăng chậm và phân bố
không đều giữa các vùng trong cả nước. Khu vực Trung du miền núi phía Bắc là
nơi có diện tích đất đai rộng nhưng số lượng trang trại ít, trong khi đó khu vực
Đồng bằng Sông Cửu Long, Đông Nam Bộ lại tập trung nhiều trang trại thì quy mô
diện tích lại thấp, việc phân bố này cũng không đồng đều ở các vùng và các lĩnh
vực.
Về giá trị sản xuất: Mặc dù giá trị sản xuất hàng hóa bình quân một trang trại
tương đối lớn (trung bình 02tỷ đồng/trang trại) nhưng số có thu nhập cao chỉ tập
trung ở một số loại hình trang trại chăn nuôi, thủy sản còn các loại hình trang trại
trồng trọt, lâm nghiệp, kinh doanh tổng hợp giá trị sản xuất thấp, do chất lượng sản
phẩm chưa cao, sản phẩm bán ra chủ yếu dưới dạng thô hoặc tươi sống, chưa qua
chế biến nên giá bán thấp, sức cạnh tranh yếu, nhiều chủ trang trại chưa nắm bắt
được nhu cầu thị trường nên sản xuất thụ động.
Về khoa học công nghệ: Số lượng trang trại ứng dụng công nghệ cao trong
sản xuất, chế biến bảo quản còn hạn chế mới chỉ tập trung ở một số lĩnh vực và khu
vực nhất định.
Sản xuất của các trang trại chưa thật sự bền vững, phần lớn chất lượng sản
phẩm chưa được quản lý chặt chẽ. Ô nhiễm môi trường do nước thải, chất thải
không được xử lý. Quy mô sản xuất càng lớn nguy cơ ô nhiễm càng tăng, nhất là
đối với các trang trại chăn nuôi và thủy sản.
Trình độ quản lý và sản xuất của các chủ trang trại: Chủ trang trại chủ yếu là
nông dân, không được đào tạo chuyên môn về quản lý, kỹ thuật nên khả năng quản
lý sản xuất, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, liên kết tiêu thụ nông sản còn
8



nhiều hạn chế, chủ yếu là dựa vào kinh nghiệm thực tế. Lực lượng lao động của
các trang trại chưa được đào tạo nghề cơ bản lao động chưa được đào tạo nghề, tập
huấn nghiệp vụ chuyên môn.
Việc cơ giới hóa trong nông nghiệp chưa được trú trọng do trang trại chủ yếu
quy mô nhỏ, dẫn đến sử dụng nhiều lao động, hiệu quả thấp.
2.3.3 Nguyên nhân các khó khăn, tồn tại của các trang trại
Nhận thức về vai trò của kinh tế trang trại của các cấp, các ngành chưa đầy
đủ, dẫn đến các cơ chế, chính sách, nhằm giúp cho các chủ trang trại hiện nay còn
thiếu, chưa đồng bộ. Từ năm 2000 đến nay, mới chỉ có Nghị quyết số 03/NQ-CP
ngày 02/02/2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại và một số chính sách đối với
kinh tế trang trại được quy định trong một số văn bản quy phạm pháp luật. Nhiều
tỉnh đã ban hành các chính sách đặc thù để khuyến khích phát triển kinh tế trang
trại trên địa bàn (chính sách khuyến khích phát triển khu chăn nuôi tập trung, trồng
trọt chuyên canh hoặc trang trại chăn nuôi ngoài khu dân cư; chính sách tín dụng;
chính sách đất đai; chính sách hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng và khoa học kỹ thuật;
chính sách hỗ trợ giống cây con vật nuôi và phòng chống dịch bệnh; chính sách
xúc tiến thương mại và đào tạo…). Tuy nhiên, vẫn mang tính tự phát và gặp nhiều
khó khăn. Công tác quản lý nhà nước về phát triển kinh tế trang trại ở nhiều địa
phương (ban hành cơ chế chính sách, công tác quản lý, hướng dẫn, tư vấn hỗ trợ
các trang trại) chưa được quan tâm đầy đủ.
Quy hoạch: Nhiều địa phương chưa có quy hoạch, kế hoạch hàng năm và dài
hạn để phát triển trang trại. Thiếu quy hoạch tổng thể và lâu dài, một số trang trại
có điều kiện nhưng chưa mạnh dạn đầu tư. Bên cạnh đó, nhiều địa phương cũng
chưa làm tốt công tác quy hoạch sản xuất, thuỷ lợi, giao thông, điện, nước, thông
tin liên lạc, thị trường. Có không ít địa phương, các quy hoạch đặc biệt là quy
hoạch sử dụng đất sau khi được công bố đã đặt nhiều trang trại hình thành trước đó
nằm “ngoài quy hoạch” nên không được áp dụng chính sách hỗ trợ phát triển kinh
tế trang trại.
Đất sản xuất: Đây là vấn đề khó khăn nhất của trang trại. Để đạt tiêu chí
trang trại, hộ nông dân phải có quỹ đất đủ lớn theo quy định. Nhưng hiện nay đa số

các địa phương không còn quỹ đất mới để giao cho nông hộ làm trang trại. Do đó,
phần lớn các hộ gia đình nông dân phải dồn điền đổi thửa, mua bán, thuê mướn,
chuyển nhượng quyền sử dụng đất của nhiều chủ khác nhau với nhiều loại đất khác
nhau để có khu đất tương đối tập trung để làm trang trại. Trung bình ở Đồng bằng
Sông Hồng, muốn đạt quy mô 2,1 ha/trang trại, chủ hộ cũng phải mua bán thuê
9


mướn đất của 5-7 hộ khác. Do có quá nhiều giao dịch, trao đổi, mua bán (nhìn
chung là tự nguyện và hợp pháp) với nhiều loại đất khác nhau nên đa số các chủ
trang trại gặp khó khăn ở việc xác nhận, chứng nhận và cấp sổ đỏ sau trao đổi mua
bán.
Thiếu vốn và khó tiếp cận tín dụng đối với trang trại: Có đến 70% số trang
trại đang kinh doanh bằng vốn tự có hoặc chiếm dụng vốn (mua chịu vật tư, phân
bón, thức ăn). Tuy có không ít các chủ trang trại thường xuyên vay vốn của các tổ
chức tín dụng, nhưng chủ yếu là các khoản vay nhỏ và ngắn hạn do không có thế
chấp. Khi cần đầu tư mua sắm để khởi nghiệp trang trại thường muốn vay vốn lãi
suất thấp và dài hạn hơn.
Hạ tầng, công nghệ sản xuất yếu kém làm giảm sức cạnh tranh của trang
trại: Hệ thống cơ sở hạ tầng chưa được đầu tư, cải tạo, chưa đáp ứng yêu cầu đi lại,
vận chuyển, cấp, tiêu thoát nước phục vụ sản xuất của trang trại. Chi phí cho mua
thuê và cải tạo đất, chi phí mua cây con giống và các chi phí sản xuất trong điều
kiện tiếp cận tín dụng khó khăn khiến cho trang trại không còn vốn để đầu tư hạ
tầng và công nghệ. Đa số các trang trại chỉ là các “hộ sản xuất lớn”, không có sự
biến đổi về chất trong sản xuất, khả năng cạnh tranh khó khăn. Nếu sớm được hỗ
trợ về hạ tầng và công nghệ sản xuất, sẽ giúp trang trại bứt phá ngay từ đầu.
Thông tin thị trường, quảng bá, xúc tiến thương mại và kết nối thị trường:
Phần lớn chủ trang trại gặp khó khăn về tiêu thụ nông sản vì đa số còn thiếu hiểu
biết về thị trường, lúng túng và chịu thua thiệt khi giá nông sản biến động. Ngoài
ra, do các trang trại thường nằm ở các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn nên khả

năng kết nối với thị trường cũng gặp khó khăn. Tính liên kết giữa các trang trại với
nhau và liên kết giao dịch với các tổ chức kinh tế khác còn ở mức thấp, chậm hình
thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước
và xuất khẩu.

10


CHƯƠNG III: ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TRONG ĐIỀU KIỆN
NƯỚC TA HIỆN NAY
3.1 Quy hoạch khoanh vùng, lựa chọn mô hình kinh tế trang trại phù hợp
Để trang trại phát triển tạo ra khối lượng hàng hoá lớn, hình thành các vùng sản
xuất tập trung, tạo ra khả năng cạnh tranh mới, khắc phục tình trạng trang trại phát
triển tự phát. Các tỉnh thành phố cần rà soát lại quy hoạch phát triển sản xuất nông,
lâm, ngư nghiệp, xác định các vùng phát triển trang trại; công bố quỹ đất có thể
giao hoặc cho thuê để phát triển trang trại, chủ yếu là các vùng đất trống, đồi núi
trọc, đất còn hoang hoá, ao hồ, đầm, bãi bồi ven sông, ven biển…Hướng trong 510 năm tới, khai thác đưa vào sử dụng trong nông nghiệp khoảng 1 triệu ha, trồng
và khoanh nuôi tái sinh 2 triệu ha rừng sản xuất. Xác định phương hướng phát triển
các loại cây trồng, vật nuôi phù hợp với lợi thế đất đai, khí hậu của mỗi vùng và có
tính đến khả năng tiêu thụ sản phẩm. Quy hoạch kết cấu hạ tầng, nhất là hệ thống
thuỷ lợi, giao thông, hệ thống cung cấp điện, nước, cơ sở công nghiệp chế biến, cơ
sở sản xuất, cung ứng giống cây, con, vv…đảm bảo đáp ứng tốt các yêu cầu phát
triển sản xuất của trang trại.
3.2 Cần tăng cường áp dụng khoa học công nghệ vào các trang trại. Xây dựng
những mô hình trang trại kiểu mới
Trang trại là nơi sản xuất nông sản hàng hoá nên phải có khả năng cạnh tranh
cao. Muốn thực hiện được mục tiêu đó, phải nâng cao trình độ ứng dụng KH&CN.
Đầu tư xây dựng các công trình thuỷ lợi đầu mối kênh trục chính kết hợp với vốn
của trang trại đào ao, đắp đập, xây dựng các công trình thuỷ lợi nhỏ, ứng dụng các

phương pháp tưới tiêu khoa học, tiết kiệm nước. Đầu tư xây dựng các cơ sở ươm,
nhân giống cây trồng, vật nuôi, cây giống lâm nghiệp. Hỗ trợ các trang trại áp dụng
các tiến bộ kỹ thuật về bảo quản sản phẩm: áp dụng công nghệ chế biến tiên tiến có
quy mô vừa và nhỏ; sử dụng máy móc phù hợp để làm đất, vận chuyển, bơm
nước…
Tổ chức tốt công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư để hỗ trợ các
trang trại áp dụng nhanh các tiến bộ khoa học vào sản xuất. Đồng thời khuyến
khích các chủ trang trại tham gia chuyển giao tiến bộ kỹ thuật tới hộ nông dân
trong vùng. Các viện và trung tâm nghiên cứu khoa học theo doi sát nhu cầu của
trang trại, liên kết với các trang trại để xác định các mô hình chuyển giao kỹ thuật
mới cho nông dân.
11


Tăng cường công tác kiểm tra chất lượng giống cây trồng, vật nuôi, vật tư nông
nghiệp, xử lý kịp thời những trường hợp buôn bán hàng giả, hàng chất lượng xấu,
để giúp nông dân và các chủ trang trại phát triển sản xuất có hiệu quả, hạn chế rủi
ro.
3.3

Hỗ trợ đầu ra cho các sản phẩm, hàng hóa của trang trại

Hiện nay, phần lớn các hộ nông nghiệp, trang trại vẫn còn sản xuất hàng hóa
theo kiểu tràn lan, không có định hướng đầu ra. Chính vì vậy, năm nào cũng có
tình trạng nông sản giá rẻ và không bán được phải đổ bỏ. Vì vậy, cần thiết phải có
liên kết giữa các trang trại với các doanh nghiệp Nhà nước để phát triển sản xuất,
chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ
trang trại có khả năng tham gia xuất khẩu sản phẩm trực tiếp. Quy hoạch và đầu tư
phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn ở các địa bàn tập trung phát triển kinh
tế trang trại. Cần tổ chức tốt việc cung cấp thông tin thị trường, hướng dẫn các

trang trại sản xuất kinh doanh phù hợp với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước.
3.4 Áp dụng những tiêu chuẩn về quản lý chất lượng đối với nông sản bắt đầu
vào sản xuất
Những năm gần đây, Việt Nam đã kí kết được rất nhiều những hiệp định thương
mại tự do, ra nhập vào nhiều tổ chức kinh tế chung như AEC, ASEM, WTO, ... Khi
Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với kinh tế thế giới, các sản phẩm xuất
khẩu chủ lực, điển hình như nông sản sẽ có cơ hội tiếp cận với nhiều thị trường
lớn. Tuy nhiên, để khai thác tối đa lợi thế thương mại này, trước hết, nông sản phải
đảm bảo những tiêu chuẩn về chất lượng. Chính vì vậy, cần áp dụng những hệ
thống quản trị chất lượng vào sản xuất ngay từ đầu, để nông sản Việt Nam có thể
đạt tiêu chuẩn xuất khẩu.
3.5 Nâng cao năng lực quản lý của chủ trang trại và nâng cao tay nghề của
người lao động.
Số chủ trang trại có trình độ chuyên môn mới chiếm khoảng 32%, do đó việc
đào tạo, nâng cao năng lực quản lý cho các chủ trang trại đặt ra rất cấp bách. Trước
mắt, thông qua tổng kết, tổ chức tham quan các trang trại quản lý kinh doanh giỏi
để học tập lẫn nhau và tổ chức bồi dưỡng những kiến thức về khoa học và quản lý.
Về lâu dài, tổ chức các khoá đào tạo chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ quản lý cho
các chủ trang trại.

12


3.6 Thực hiện các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với phát triển kinh tế
trang trại.
Các địa phương có kế hoạch bố trí vốn để hỗ trợ các trang trại đầu tư phát
triển kết cấu hạ tầng, cơ sở chế biến, cung cấp thông tin. Trang trại được vay vốn
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nườc. Thực hiện miễn thuế thu nhập với thời
gian tối đa nếu chủ trang trại đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh ở những địa bàn
đất trống, đồi núi trọc, bãi bồi, đầm phá ven biển. Thực hiện miễn giảm thuế đất

cho chủ trang trại khi thuê đất trống, đồi núi trọc, đất hoang hoá để trồng rừng sản
xuất, trồng cây lâu năm, thuê diện tích đất ở các vùng nước tự nhiên chưa có đầu
tư, cải tạo để sản xuất kinh doanh.

13


KẾT LUẬN

Trong quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu, kinh tế trang trại ngày càng đóng
một vai trò quan trọng trong sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Nó
cho phép khai thác, sử dụng triệt để những tiềm năng về đất đai để mang lại khối
lượng sản phẩm hàng hóa lớn cho xã hội.
Cũng như các loại hình kinh tế khác, kinh tế trang trại cũng cần một môi
trường chính sách, thể chế, cần thiết cho sự tồn tại và phát triển ổn định, bền vững.
Vai trò của công tác truyền thông, nâng cao năng lực của chủ trang trại, hỗ trợ thị
trường, ... trong phát triển kinh tế trang trại đang là những vấn đề mà các cấp chính
quyền cần phải quan tâm, và đưa ra những định hướng để kinh tế trang trại có thể
phát triển toàn diện hơn, đóng góp cao hơn vào kinh tế nước nhà!

14


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.


Trần Quốc Khánh (2005), Quản Trị Kinh Doanh Nông Nghiệp, NXB Lao
động – xã hội.
“Kinh tế trang trại phát triển nhanh” từ Báo công thương số ra ngày
03/01/2017.
“Kinh tế trang trại - một mô hình phát triển bền vững trong sản xuất nông
nghiệp” theo Bộ lao động – thương binh và xã hội, ngày 29/3/2015.
Hoa Ly (2015), “Hướng đi bền vững cho phát triển kinh tế trang trại”, từ
ngày 29/12/2015.
Đình Thắng (2017), “Mỗi năm sẽ có 5.000 trang trại ra đời”, từ
ngày 22/02/2017.

15



×