Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG VĂN THƯỢNG

CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NẠN NHÂN BỊ
MUA BÁN TRỞ VỀ TỪ THỰC TIỄN TỈNH CAO BẰNG
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60900101

LUẬN VĂN THẠC SỸ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS: ĐỖ THỊ VÂN ANH

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn tốt nghiệp được hoàn thành với với sự cố gắng, nỗ lực học tập,
nghiên cứu, tìm hiểu một cách nghiêm túc của bản thân. Trong quá trình nghiên cứu
tôi có sử dụng các tài liệu có liên quan và được trích dẫn đã ghi trong luận văn.
Tôi cam kết những nội dung trong luận văn là đúng sự thật không sao chép
của ai, tôi chịu trách nhiệm về những nội dung đã viết trong luận văn.
Hà Nội, tháng 3 năm 2017
Học viên

Hoàng Văn Thượng



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCA

Bộ Công an

BLĐTBXH

Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội

BNG

Bộ Ngoại giao

BQP

Bộ Quốc phòng

BTC

Bộ Tài chính

CTXH

Công tác xã hội

COMMIT

Sáng kiến phối hợp cấp Bộ trưởng về phòng chống buôn
bán người


IOM

Tổ chức Di cư Quốc tế

ILO

Tổ chức Lao động Quốc tế

NV CTXH

Nhân viên Công tác xã hội

NNBMBTV

Nạn nhân bị mua bán trở về

NGOs

Tổ chức phi chính phủ

PALS

Tổ chức Vòng tay Thái Bình-Pacifik Links

TNXH

Tệ nạn xã hội

UBND


Ủy ban nhân dân

UNODC

Cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm Liên Hợp
Quốc

UNIAP

Liên minh Châu Âu phòng chống buôn bán người

TTGDLDXH

Trung tâm giáo dục lao động xã hội


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NẠN
NHÂN BỊ MUA BÁN TRỞ VỀ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CAO BẰNG. .............10
1.1. Khái niệm, đặc điểm và nhu cầu của nạn nhân bị mua bán trở về .................10
1.2. Nhu cầu, khái niệm công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về ......14
1.3. Nguyên tắc, phương pháp công tác xã hội đối với người bị mua bán trở về .17
1.4. Lý thuyết tiếp cận trong hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về. .........................18
1.5. Cơ sở pháp lý về công tác xã hội đối với nạn nhân bị buôn bán trở về..............25
1.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về
trên địa bàn tỉnh Cao Bằng ....................................................................................27
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HỖ TRỢ PHỤ NỮ BỊ MUA BÁN
TRỞ VỀ VÀ CON EM CỦA NẠN NHÂN TẠI TRUNG TÂM GIÁO DỤC
LAO ĐỘNG XÃ HỘI TỈNH CAO BẰNG ............................................................30

2.1. Thực trạng nạn mua bán người tại tỉnh Cao Bằng .........................................30
2.2. Nhu cầu của nạn nhân bị mua bán trở về từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng ...........38
2.3. Thực trạng tiếp nhận hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về tại Trung tâm Giáo
dục Lao động Xã hội tỉnh Cao Bằng .....................................................................50
Chương 3: ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM
TRONG HỖ TRỢ NẠN NHÂN BỊ MUA BÁN TRỞ VỀ TẠI TRUNG TÂM
GIÁO DỤC LAO ĐỘNG XÃ HỘI TỈNH CAO BẰNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO
ĐẢM THỰC HIỆN CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NẠN NHÂN BỊ MUA
BÁN TRỞ VỀ TẠI CAO BẰNG ...........................................................................56
3.1. Ứng dụng phương pháp công tác xã hội nhóm trong hỗ trợ nạn nhân bị buôn
bán trở về tại Trung tâm Giáo dục Lao động Xã hội tỉnh Cao Bằng ....................56
3.2. Định hướng bảo đảm thực hiện công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán
trở về trên địa bàn tỉnh Cao Bằng .........................................................................65
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .........................................................................70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH
BẢNG
Bảng 1.1: Phân biệt “buôn bán người” và “đưa người di cư trái phép” ..................11
Bảng 2.1 Số lượng nạn nhân bị buôn bán đến Trung tâm từ năm 2012 đến năm
2016. ..........................................................................................................................35
Bảng 2.2 Nguyên nhân bị lừa bán sang biên giới .....................................................37
Bảng 2.3 Đánh giá về các dịch vụ của trung tâm ......................................................50
Bảng 3.1 Danh sách nhóm giáo dục kỹ năng sống ..................................................58
Bảng 3.2 Lượng giá từng thành viên nhóm ..............................................................62
BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1.Tổng hợp tình hình nạn mua bán người giai đoạn 2012-2016
vào Trung tâm ...........................................................................................................35
Biểu 2.2 Vấn đề gặp phải khi bị mua bán trở về .......................................................43

Biểu đồ 2.3 :Mong muốn của con em NNBMBTV khi đang tạm trú tại trung tâm
...................................................................................................................................46
Biểu 2.4 Các nguyên nhân trở thành nạn nhân bị mua bán......................................49
HÌNH
Hình 1.1 Thang nhu cầu của Maslows ......................................................................21


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, Nạn buôn người được xem là một trong những vấn đề toàn cầu, có
tầm ảnh hưởng rất lớn cả về quy mô và tính chất. Hoạt động buôn bán người đang
diễn ra phức tạp, hậu quả gây ra đặc biệt nghiêm trọng vì nó xâm phạm đến những
quyền cơ bản nhất của con người: quyền tự do di chuyển, lựa chọn, kiểm soát cơ
thể, tinh thần và cả tương lai. Như chúng ta đã biết Buôn bán người là một hoạt
động bất hợp pháp được diễn ra trong xã hội nô lệ trước đây. Con người được xem
như là một món đồ, hàng hóa mua đi bán lại. Ngày nay khi xã hội ngày càng phát
triển tưởng trừng như hiện tượng buôn bán người không còn nữa nhưng thực ra lại
hoàn toàn ngược lại. Việt Nam là một quốc gia nguồn, và ở cấp độ thấp hơn là quốc
gia trung chuyển và là đích đến của các hoạt động buôn bán người (BBN).
Những kẻ buôn người nhắm vào các nhóm người có nguy cơ cao tại các khu
vực nông thôn và thành thị khác nhau trên toàn quốc, đặc biệt săn những người sẵn
sàng di cư không an toàn mong có cuộc sống tốt đẹp hơn. Những tuyến đường phổ
biến nhất của BBN ở Việt Nam là từ Việt Nam sang Trung Quốc đối với khu vực
miền Bắc và từ Việt Nam sang Cam-pu-chia đối với khu vực miền Nam. Với những
ca BBN từ Việt Nam sang Trung Quốc, các cô gái/phụ nữ trẻ thường bị buôn sang
để làm việc trong nhà chứa hoặc bị bán làm vợ cho đàn ông Trung Quốc ở nông
thôn. Cũng có một số ca trẻ em bị bán sang Trung Quốc để đáp ứng nhu cầu nhận
con nuôi và nam giới bị buôn bán nhằm mục đích bóc lột lao động. Với các ca BBN
từ Việt Nam sang Cam-pu-chia, các cô gái/phụ nữ trẻ chủ yếu bị buôn bán để bóc
lột tình dục. Một số cô/phụ nữ trẻ, sau khi được đưa sang Cam-pu-chia, đã bị bán

sang một nước thứ 3 như Thái Lan hoặc Mã Lai. Ở cấp độ thấp hơn, phụ nữ và nam
giới người Việt cũng bị buôn bán sang các nước khác nhằm mục đích bóc lột tình
dục và bóc lột lao động.
Nạn buôn người thật sự đã trở thành vấn nạn toàn cầu, đe dọa không chỉ
trong từng quốc gia mà còn cả toàn bộ thế giới. Thực tế của nạn buôn người thì
chúng tôi không thể thống kê toàn bộ được, nhưng đây là vấn đề có tầm ảnh hưởng

1


rất lớn, không một quốc gia riêng rẽ nào có thể giải quyết được, mà cần có sự phối
hợp giữa các quốc gia trong khu vực nói riêng và trên thế giới nói chung.
Cao Bằng là tỉnh biên giới phía bắc có đường biên giới kéo dài 322km, tiếp
giáp với tỉnh Quảng tây - Trung Quốc; đây cũng là nguy cơ cho bọn tội phạm mua
bán người lợi dụng đưa sang Trung Quốc với nhiều mục đích khác nhau, trong
những năm qua trên địa bàn tỉnh luôn được tiếp nhận các nạn nhân bị lừa gạt, mua
bán trao trả qua biên giới thông qua bộ đội Biên phòng giữa hai bên
Xuất phát từ thực tiễn nạn mua bán người, công tác tiếp nhận, hỗ trợ nạn
nhân bị mua bán trở về tại tỉnh Cao Bằng trong thời qua còn nhiều khoảng trống cả
về cơ chế chính sách và quá trình tổ chức thực hiện, thiếu đội ngũ nhân viên công
tác xã hội chuyên nghiệp, chưa mang lại hiệu quả như mong đợi, bản thân em rất
trăn trở, suy nghĩ làm thế nào để kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi nạn mua bán người, hỗ
trợ nạn nhân có hiệu quả, để không còn nhiều trẻ em và phụ nữ rơi vào cảnh bị bóc
lột đến cùng cực, đau sót, bất hạnh. Do đó tôi chọn đề tài “Công tác xã hội đối với
nạn nhân bị mua bán trở về từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng” làm luận văn tốt nghiệp
của mình.
2 Tổng quan tình hình nghiên cứu
2 .1. Các nghiên cứu nước ngoài
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, các bài báo, các báo cáo phản ánh
thực trạng, nhiều chương trình hành động phòng chống buôn bán người được đưa

ra:
- Theo báo cáo của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), hơn 21 triệu người lao
động đã bị lừa bán và bị cưỡng bức lao động. Báo cáo toàn cầu về nạn buôn người
của Cơ quan phòng chống ma tuý và tội phạm Liên hợp quốc (UNODC) cho thấy,
không một quốc gia nào “miễn dịch” với nạn buôn bán người. Có ít nhất 152 quốc
gia là điểm xuất phát và 124 quốc gia là đích đến của nạn buôn người với hơn 510
luồng buôn người trên khắp thế giới [34, tr.1,2].
- Trong bài báo gần đây nhất, Human Trafficking Is More Than Sex
Trafficking and Prostitution: Implications for social work (Mua bán người, hơn cả
mại dâm và buôn bán tình dục: Những ảnh hưởng của nó tới Công tác xã hội) năm
2


2012, đã đề cập tới một vấn đề mới trong buôn bán người: Không chỉ là bóc lột tình
dục mà còn để bóc lột sức lao động và ăn cắp nội tạng. Nhóm tác giả nhận định
rằng chủ đề này đã không được thảo luận rộng rãi trong công tác xã hội và nhấn
mạnh tới nhiệm vụ công tác xã hội (CTXH) thúc đẩy nhân quyền và công bằng kinh
tế và xã hội. Nhóm tác giả cũng nêu ra các phương thức để liên kết giữa phòng
chống mại dâm và phòng chống buôn bán người nói chung, từ đó gợi một mô hình
cho lĩnh vực CTXH trợ giúp nạn nhân bị buôn bán [35, tr. 9].
- Chính phủ các nước Commit với nghiên cứu Hậu Buôn bán người trải
nghiệm và thách thức của nạn nhân bị buôn bán trong quá trình tái hòa nhập khu
vực Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng đã đưa ra những thách thức trong quá trình
tái hòa nhập, những vấn đề trong việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ tái hòa nhập của
các nạn nhân bị buôn bán ở 6 nước thuộc tiểu vùng sông Mê Kông. Nghiên cứu
được thực hiện trong khuôn khổ sáng kiến về tái hòa nhập cấp khu vực, thuộc
khung đề xuất dự án 5 (PPC5) nhằm đánh giá tính hiệu quả của quá trình và cơ cấu
tái hòa nhập trong khu vực. Nghiên cứu được thực hiện dựa trên các cuộc phỏng
vấn sâu với 252 nạn nhân bị buôn bán, qua đó đã làm sáng tỏ những điểm mạnh và
điểm yếu tồn tại trong cơ chế và quá trình tái hòa nhập [19,tr.5].

2.2. Các nghiên cứu tại Việt Nam
Tại Việt Nam cũng có những nghiên cứu về tình hình buôn bán phụ nữ và
trẻ em, gần đây gọi chung là buôn bán người:
- Cuốn sách Tìm hiểu các chuẩn mực quốc tế và pháp luật của một số nước
về phòng, chống buôn bán người được Vụ pháp luật Hình sự- Hành chính viết năm
2010 đã mô tả rất rõ những thông tin cần thiết liên quan đến pháp luật quốc tế và
kinh nghiệm lập pháp của các nước về phòng, chống buôn bán người. Nhóm tác giả
cho rằng: “Tội phạm buôn bán người, đặc biệt là buôn bán phụ nữ, trẻ em đang là
một vấn nạn nhức nhối, diễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng ở quy mô toàn
cầu. Cùng với ma túy và vũ khí, nạn nhân bị buôn bán đã trở thành một loại hàng
hóa đem lại lợi nhuận cao trong thị trường của bọn tội phạm.”[5, tr 9]
- Trong tài liệu “Công tác xã hội với nạn nhân mua bán người” do Th.s
Nguyễn Hiệp Thương chủ biên được viết dưới góc nhìn của công tác xã hội, tài liệu
3


đã đưa ra cái nhìn khái quát về các vấn đề của nạn nhân bị mua bán gặp phải và quy
trình hỗ trợ nạn nhân bằng các phương pháp công tác xã hội. Tác giả cho rằng:
“Mua bán người luôn được hiểu như là một hệ quả của nghèo đói do đại đa số
những phụ nữ và trẻ em bị buôn bán đều xuất phát từ các vùng nông thôn và từ các
gia đình nông dân nghèo. Cha mẹ thông thường có trình độ học vấn thấp, giáo dục
gia đình kém. Nhiều gia đình còn gặp phải các vấn đề như rượu chè, bạo lực, tàn tật,
cha mẹ đơn thân, ly dị hoặc có cuộc sống không hạnh phúc. [27, tr. 14] Qua cái nhìn
của tác giả đã cho ta thấy rằng cốt lõi nguyên nhân gốc rễ của buôn bán người đó
chính là sự nghèo khổ.
- Cuốn sách “Cẩm nang pháp luật quốc tế và quốc gia về phòng, chống buôn
bán người” do Vụ Pháp luật Hình sự- Hành chính, Bộ Tư pháp tổ chức biên soạn đã
khái quát những nội dung cơ bản về các văn kiện pháp luật, các chính sách xã hội
quốc tế và Việt Nam về buôn bán người giúp những người làm công tác với nạn
nhân và mọi người có được sự hiểu biết và kiến thức cơ bản về vấn đề buôn bán

người [4, tr. 5-6].
- Nghiên cứu “Công tác xã hội đối với phụ nữ, trẻ em bị mua bán trở về từ
thực tiễn Ngôi nhà Bình yên” của tác giả Đỗ Thị Minh Nhâm đã đi sâu vào nghiên
cứu một mô hình cung cấp dịch vụ hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về. Đề tài tìm
hiểu các dịch vụ hỗ trợ tại chính Ngôi nhà Bình Yên, cho thấy các thuận lợi và cả
những thách thức trong quá trình trực tiếp hỗ trợ nạn nhân bị mua bán từ đó có
những biện pháp để nâng cao hiệu quả cho hoạt động hỗ trợ nạn nhân bị mua bán
được chuyên nghiệp hơn [21, tr.10].
- Tác giả Lê Thị Qúy với cuốn sách “Ngăn ngừa nạn buôn bán phụ nữ ở Việt
Nam” đã mô tả khá chi tiết về thực trạng buôn bán phụ nữ qua biên giới ở Việt Nam
những năm 1990 của thế kỷ XX cũng như những ứng phó của Chính phủ nước ta về
vấn đề này [25, tr12].
Tóm lại các nghiên cứu về buôn bán người, hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở
về mới chỉ dừng lại dưới góc độ pháp luật, xã hội. Các nghiên cứu mới chỉ tìm hiểu
về thực trạng, nguyên nhân, những khó khăn thách thức với các nạn nhân bị mua
bán trở về. Rất ít nghiên cứu đề cập đến một mô hình tiếp nhận, hỗ trợ toàn diện,
4


đồng bộ, khoa học mang lại hiệu quả toàn diện, bền vững có tính thực tiễn cao.
Nghiên cứu “Công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về từ thực tiễn tỉnh
Cao Bằng ” là một đề tài nghiên cứu dưới góc độ công tác xã hội nhằm đưa ra
những giải pháp, những đề xuất trong việc hỗ trợ nạn nhân bị buôn bán trở về là rất
cần thiết và phù hợp với tình hình thực tế tại Cao Bằng và từ đó có thể áp dụng cho
các tỉnh biên giới trên cả nước có nhiểu nạn nhân bị buôn bán trở về, đề tài cũng
phù hợp với thực tiễn bối cảnh xã hội hiện nay.
3 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Muốn làm rõ vấn đề lý luận và thực tiễn công tiếp nhận và hỗ trợ nạn nhân bị
mua bán trở về vào trung tâm cho đến khi hồi gia. Đánh giá đúng thực trạng nạn

mua bán người và công tác hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về từ thực tiễn tại tỉnh
Cao Bằng. Nhận ra những thiếu sót, tồn tại trong chính sách và công tác trợ giúp xã
hội đối với nạn nhân, đề xuất những giải pháp phù hợp và hoàn thiện hơn.
3 .2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng mua bán người tại tỉnh Cao Bằng trong thời gian qua
- Đánh giá công tác hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về tại tỉnh Cao Bằng
- Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến công tác hỗ trợ nạn nhân
- Xây dựng một mô hình công tác xã hội phù hợp để hỗ trợ nạn nhân
- Đưa ra một số kiến nghị và những giải pháp có tính thực tiễn nhằm tháo gỡ
những khó khăn ban đầu cho nạn nhân bị buôn bán trở về ổn định cuộc sống và vận
dụng công tác xã hội nhóm trong việc tiếp nhận, hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về tại tỉnh Cao Bằng
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi về đối tượng: Nghiên cứu lý luận và thực tiễn công tác xã hội đối
với nạn nhân bị mua bán trở về tại tỉnh Cao Bằng.

Phạm vi thời gian: Từ tháng 10/2016 đến tháng 03/2017

5


- Phạm vi khách thể: Những nạn nhân bị mua bán trở về và con em họ đang

tạm trú tại Trung tâm Giáo dục Lao động xã hội tỉnh Cao Bằng; Cán bộ, viên chức
làm việc tại Trung tâm giáo dục lao động xã hội; Gia đình, người thân của nạn nhân
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu

Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, giúp chúng ta có cách nhìn
đúng đắn và toàn diện hơn về thế giới khách quan. Mỗi khi nghiên cứu ta thấy chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh được những
quy luật cơ bản thể hiện sự luận giải và nguyên tắc chung cho khoa học. Phải nói
rằng con người là một thể thống nhất giữa các yếu tố sinh vật và xã hội, đồng thời
bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt,
do vậy bản chất của con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội và bản chất
của con người theo quan điểm của Mácxit được hình thành và thể hiện ở những con
người hiện thực.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1 Phương pháp phân tích tài liệu
Phương pháp này được sử dụng để phân tích những thông tin có sẵn cần
thiết trong tài liệu để đáp ứng mục tiêu nghiên cứu của đề tài từ: Sách, giáo trình,
tài liệu trên internet, báo cáo đánh giá, tổng kết quá trình nghiên cứu… có liên quan
đến cơ sở lý luận của đề tài sau đó hệ thống hóa thành cơ sở lý luận của đề tài.
5.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu
- Mục đích: Tiến hành phỏng vấn thu thập các thông tin, chi tiết về thực
trạng, nguyên nhân cũng như tác hại của nạn buôn bán người đối với các cá nhân,
gia đình và xã hội trên địa bàn tỉnh Cao Bằng
- Nội dung: Đặt những câu hỏi cho cá nhân. Khuyến khích họ chia sẻ thông tin
về các vấn đề của bản thân.
- Số lượng phỏng vấn: 20 người
+ Phỏng vấn nạn nhân tại Trung tâm GDLĐXH: 05 người
+ Phỏng vấn cán bộ Trung tâm: 05 người
+ Phỏng vấn gia đình nạn nhân: 05 người trong 05 gia đình
6


+ Phỏng vấn 5 cán bộ các nghành liên quan.
5.2.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

Nguyên tắc cơ bản về việc xây dựng bảng hỏi, trên cơ sở trưng cầu ý kiến chi
tiết, dễ hiểu để làm sao cho tất cả nạn nhân bị mua bán trả lời theo các nội dung yêu
cầu và cung cấp thông tin chính xác. Dùng phương pháp này, tác giả chọn 59 các
nạn nhân bị mua bán trở về và đã được Trung tâm Giáo dục Lao động Xã hội tỉnh
Cao Bằng. tác giả chọn mẫu như vậy để lấy ý kiến của họ về nạn buôn bán người
và các vấn đề gặp phải khi bị buôn bán. Với mỗi phiếu hỏi, chúng tôi xây dựng từ
10 đến 15 câu hỏi, có những câu hỏi đóng và câu hỏi mở để tìm hiểu về nguyên
nhân, thực trạng nạn buôn bán người tại Cao Bằng.
5.2.4. Phương pháp công tác xã hội nhóm: là phương pháp CTXH nhằm

giúp tăng cường, củng cố chức năng xã hội của cá nhân thông qua các hoạt
động nhóm và khả năng ứng phó với các vấn đề của cá nhân, có nghĩa là:
- Ứng dụng những kiến thức, kỹ năng liên quan đến tâm lý nhóm (hoặc
năng động nhóm)
- Nhóm nhỏ thân chủ có cùng vấn đề giống nhau hoặc có liên quan đến vấn
đề
- Các mục tiêu xã hội được thiết lập bởi nhân viên xã hội trong kế hoạch hỗ
trợ thân chủ (cá nhân, nhóm, cộng đồng) thay đổi hành vi, thái độ, niềm tin nhằm
giúp thân chủ tăng cường năng lực đối phó, chức năng xã hội thông qua các kinh
nghiệm của nhóm có mục đích nhằm để giải quyết vấn đề của mình và thỏa mãn
nhu cầu.
- Phương pháp công tác xã hội nhóm áp dụng trong việc hỗ trợ nạn nhân đem
lại hiệu quả nhất định để tạo cho nạn nhân ổn định cuộc sống.
Tiến trình công tác xã hội nhóm đối với nạn nhân bị buôn bán trở về gồm
bốn bước trong tiến trình công tác xã hội nhóm
Bước 1: : Thành lập nhóm
Bước 2 : Khảo sát nhóm:
Bước 3: Duy trì nhóm.
Bước 4:Bước giải quyết vấn đề và đạt mục tiêu xã hội
7



Mục đích: Nhằm tiếp cận, thu thập đầy đủ, chính xác về nguồn lực, các hoạt
động hỗ trợ nạn nhân bị buôn bán trở về tại Trung tâm và tỉnh Cao Bằng; để hiểu
biết bản chất nhất các đặc điểm, nhu cầu cần hỗ trợ của nạn nhân.
Kết quả: Việc vận dụng công tác xã hội nhóm đem lại hiệu quả như thế nào
và có những khó khăn gì trong hỗ trợ nan nhân bị buôn bán trở về sẽ thể hiện ở kết
quả đầu ra được trình bày chi tiết trong chương 3 của nghiên cứu này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1 Ý nghĩa lý luận
Tìm hiểu thực trạng công tác tiếp nhận, hỗ trợ nạn nhân bị buôn bán trở về;
đặc biệt là tỉnh miền núi biên giới, điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, chưa có
nhà tạm lánh hoặc trung tâm dành riêng cho việc tiếp nhận nạn nhân mà lồng ghép
vào trung tâm giáo dục lao động xã hội. Việc nghiên cứu này được tiến hành với sự
vận dụng một số khái niệm về thế nào là nạn nhân, lý thuyết lựa chọn hợp lý và tìm
hiểu từng bước về những khó khăn mà nạn nhân gặp phải khi trở về và tái hòa nhập
cộng đồng; nhằm xóa bỏ được những rảo cản, mặc cảm tự ti của bản thân cũng như
sự kỳ thị, xa lánh đối với họ, góp phần thực hiện công tác tiếp nhận và hỗ trợ nạn
nhân hiệu quả hơn
6.2 Ý nghĩa lý luận
Nghiên cứu muốn đem lại cho cộng đồng, xã hội có cái nhìn khách quan về
thế nào là nạn nhân, để có thêm hiểu biết đúng đắn về họ và tránh sự phân biệt, đối
xử. Các cơ quan chức năng có trách nhiệm hỗ trợ để họ ổn định cuộc sống, với điều
kiện kinh tế khó khăn đã nêu trên, mà áp dụng lồng ghép việc tiếp nhận nạn nhân
vào trung tâm giáo dục lao động xã hội hiệu quả mong muốn được nhân rộng mô
hình này với các tỉnh biên giới lân cận
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục,
Luận văn có 3 chương sau
Chương 1: Cơ sở lý luận về công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở

về trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.

8


Chương 2: Thực trạng công tác hỗ trợ phụ nữ bị mua bán trở về và con em
của nạn nhân tại Trung tâm Giáo dục Lao động Xã hội tỉnh Cao Bằng.
Chương 3:Ứng dụng phương pháp công tác xã hội nhóm trong hỗ trợ nạn
nhân bị mua bán trở về tại Trung tâm giáo dục lao động xã hội tỉnh Cao Bằng và đề
xuất các giải pháp hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.

9


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NẠN NHÂN BỊ MUA
BÁN TRỞ VỀ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CAO BẰNG.
1.1. Khái niệm, đặc điểm và nhu cầu của nạn nhân bị mua bán trở về
1.1.1. Các khái niệm liên quan
Khái niệm mua bán người
Tại Điều 3, Nghị định thư của Liên Hợp Quốc về phòng, chống và trừng phạt việc
buôn bán người (đặc biệt là phụ nữ và trẻ em) quy định:
a) "Buôn bán người" có nghĩa là việc mua bán, vận chuyển, chuyển giao, chứa
chấp và nhận người nhằm mục đích bóc lột bằng cách sử dụng hay đe doạ sử dụng vũ
lực hay bằng các hình thức ép buộc, bắt cóc, gian lận, lừa gạt, hay lạm dụng quyền lực
hoặc vị thế dễ bị tổn thương hay bằng việc đưa hay nhận tiền hay lợi nhuận để đạt
được sự đồng ý của một người đang kiểm soát những người khác. Hành vi bóc lột sẽ
bao gồm, ít nhất, việc bóc lột mại dâm những người khác hay những hình thức bóc lột
tình dục khác, các hình thức lao động hay phục vụ cưỡng bức, nô lệ hay những hình
thức tương tự nô lệ, khổ sai hoặc lấy các bộ phận cơ thể;

b) Việc một nạn nhân của việc buôn bán người chấp nhận sự bóc lột có chủ ý
được nêu tại Khoản a trên đây sẽ không được tính đến nếu bất kỳ một cách thức nào
nêu trong khoản a đã sử dụng;
c) Việc mua, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hay nhận một đứa trẻ nhằm
mục đích bóc lột sẽ bị coi là "buôn bán người" ngay cả khi việc này được thực hiện
không cần dùng đến bất kỳ cách thức nào được nói đến trong khoản (a) điều này;
d) "Trẻ em" có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi ”.[18, tr. 5].
Theo Điều 3, Luật Phòng chống mua bán người của Quốc hội Việt Nam số
66/2011/QH12 ngày 29/3/2011 quy định mua bán người là bao gồm các hành vi
“Tuyển mộ, vận chuyển, môi giới, chứa chấp, chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc
lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo
khác” [23, tr. 8].
Khái niệm buôn bán bán người được hiểu một cách chung nhất là “Việc một cá
nhân, nhóm hay tổ chức có liên quan đến việc vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp
10


người thông qua lừa đảo hoặc cưỡng chế, bắt ép, đe dọa, tước đoạt quyền con người và
đẩy họ vào tình trạng bị bóc lột dưới nhiều hình thức như: bóc lột tình dục, cưỡng bức
lao động, phục dịch, nô lệ hoặc làm việc tương tự như nô lệ nhằm mục đích bóc lột và
kiếm lời cho mình”.[27, tr. 9]
Quá trình buôn bán người thường gồm 3 bước:
Bước 1: Dụ dỗ nạn nhân tại nơi sinh sống hoặc nước xuất phát
Bước 2: Vận chuyển nạn nhân qua tay các chủ chứa (kẻ buôn người) các nước trung
gian/qua các biên giới quốc tế hoặc trong nội địa nước xuất phát
Bước 3: Khai thác nạn nhân vì vụ lợi tại nước đến
Nạn buôn bán người hiện nay đang diễn ra dưới nhiều hình thức tinh vi và xảo
trá. Trên thế giới, dù là nước giàu hay nước nghèo đều có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi
loại hình tội phạm mua bán người.
- Phân biệt “Buôn bán người” và “đưa người di cư trái phép”:

Theo điều 3 Nghị định thư về chống đưa người di cư trái phép thì “đưa người di
cư trái phép” được định nghĩa là
- Những điểm giống nhau giữa “buôn bán người” và “đưa người di cư trái
phép”:
Bảng 1.1: Phân biệt “buôn bán người” và “đưa người di cư trái phép”
Yếu tố cấu thành

Đưa người di cư

Buôn bán người

trái phép
Sự đồng tình

Có sự đồng ý của người di Không có sự đồng ý (hoặc


đồng ý do có sự cưỡng ép,
lừa gạt)

Yếu tố “bóc lột” tại nơi Người nhập cư đến địa điểm Nạn nhân bị khống chế,
đến

thỏa thuận

bóc lột tại nơi đến

Tính chất xuyên quốc Luôn là hoạt động xuyên Có thể xuyên quốc gia
gia


biên giới

hoặc ngay trong một quốc
gia

Cần phân biệt giữa “buôn bán người” và “đưa người di cư trái phép” vì:
11


- Việc phân biệt “buôn bán người” và “đưa người di cư trái phép” có vai trò
quan trọng trong việc xác định tội danh và đấu tranh với bọn tội phạm,
- Việc phân biệt “buôn bán người” và “đưa người di cư trái phép” còn có ý
nghĩa quan trọng trong việc phát hiện và áp dụng những biện pháp đặc biệt để hỗ trợ
nạn nhân
Khái niệm nạn nhân bị mua bán
Theo Điều 4, Quyết định số 17/2007/QĐ-TTg ngày 29/01/2007 của Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quy chế tiếp nhận và hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho phụ nữ,
trẻ em bị buôn bán từ nước ngoài trở về thì “Nạn nhân quy định trong Quy chế này là
phụ nữ, trẻ em bị một người hay một nhóm người sử dụng vũ lực, đe dọa sử dựng vũ
lực hay những hình thức ép buộc khác, bắt cóc, lừa gạt, lạm dụng quyền lực hay địa vị,
tình trạng dễ bị tổn thương để mua bán (giao, nhận tiền hoặc giao, nhận một lợi ích vật
chất khác) đưa ra nước ngoài nhằm mục đích bóc lột (cưỡng bức bán dâm hoặc các
hình thức bóc lột tình dục khác, lao động hoặc dịch vụ cưỡng bức, nô lệ hoặc làm việc
như tình trạng nô lệ hoặc lấy đi các bộ phận trên cơ thể)”
Theo Điều 2, Luật Phòng chống mua bán người của Quốc hội Việt Nam số
66/2011/QH12 ngày 29/3/2011 quy định Nạn nhân của mua bán người là người bị xâm
hại bởi các hành vi “Tuyển mộ, vận chuyển, môi giới, chứa chấp, chuyển giao hoặc
tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc
vì mục đích vô nhân đạo khác” [23, tr. 10].
Theo Tiến sỹ Rebecca Surtees (2013) Hậu buôn bán người – Học viện nghiên

cứu NEXUS đã nêu: “Nạn nhân là để chỉ một người đã trở thành nạn nhân của một loại
hình tội phạm và không bị đề cập tới cơ quan hay bất cứ đặc điểm nào khác của người
đó”.

Nạn nhân bị buôn bán là người có đầy đủ các dấu hiệu xác định là nạn nhân bị

buôn bán theo Điều 3 của Nghị định thư hoặc theo Luật phòng, chống mua bán người
của từng nước [19, tr. 51- 52].
Từ những quan điểm trên, có thể đưa ra khái niệm một cách dễ hiểu nhất: “Một
người được xác định là nạn nhân của mua bán người khi người đó bị một đối tượng dụ
dỗ, rủ rê, lừa bán, đưa đi khỏi địa phương đến một địa phương khác trong cùng một

12


nước hoặc sang một nước khác và cuối cùng bị khai thác vì vụ lợi cá nhân hay tiền
bạc”.
Khái niệm nạn nhân bị mua bán trở về
Hiện nay chưa có khái niệm nào đề cập đến vấn đề này, nhưng ta có thể hiểu
“Nạn nhân bị mua bán trở về là những người đã bị một người hay một nhóm đối tượng
dụ dỗ, lừa bán hay bắt cóc, ép buộc đưa đi khỏi địa phương này đến một địa phương
khác hay một nước khác để khai thác, bóc lột nhưng đã trốn thoát hoặc được giải cứu
thành công trở về”.
Trong thực tế: Các nạn nhân của buôn bán người đã từng bị tra tấn; bị giam cầm
bất hợp pháp; bị cưỡng bức tình dục, cưỡng bức lao động; bị ép nợ nần; gia đình và
người thân bị đe dọa; bị chịu các hình thức bạo hành về thể chất, tình dục và tâm lý
khác. Nạn nhân của buôn bán người có thể ở trong các ngành và các môi trường khác
nhau, cụ thể như: công nghiệp tình dục; công xưởng bóc lột sức lao động công nhân;
môi trường giúp việc gia đình; làm nông nghiệp và nông trại; ngư nghiệp; ngành xây
dựng; ăn xin đường phố. Những người dễ bị tổn thương trong xã hội, nhất là người

nghèo, người thiếu cơ hội học tập, việc làm, những người đang sống trong bối cảnh
chịu ảnh hưởng của nền chính trị không ổn định, chiến tranh, phân biệt tôn giáo, sắc tộc
trong xã hội, vì mong ước có được cơ hội tốt hơn khiến họ dễ bị lừa gạt, dụ dỗ bởi
những lời hứa hão huyền về một cuộc sống tốt đẹp nơi miền đất hứa của bọn buôn
người và thường bị rơi vào vòng xoáy khủng khiếp của nạn buôn bán người.
Khái niệm tái bị buôn bán: Tái bị buôn bán được hiểu là “Khi một người đã
thoát ra khỏi hoàn cảnh bị buôn bán nhưng sau đó lại rơi vào một tình cảnh khác.
Một người có thể đã thoát ra khỏi tình trạng bị buôn bán, trở về nhà và sau đó lại bị
tái buôn bán. Họ bị điều chuyển từ nơi bóc lột này sang một nơi bóc lột khác” [19,
tr.52].
Việc buôn bán người có thể diễn ra ở phạm vi trong nước và xuyên quốc gia. Ở
phạm vi trong nước, người bị buôn bán thường bị di chuyển liên tiếp từ tỉnh này sang
tỉnh khác nhằm cắt đứt mối liên hệ với gia đình và người thân quen. Ở phạm vi xuyên
quốc gia, việc buôn bán người thực hiện bằng cách đưa người qua biên giới và liên
quan đến nhiều hơn một nước, bao gồm: nước gửi là nơi nạn nhận được tuyển chọn;
13


nước trung chuyển là nơi lộ trình buôn bán đi qua và nước đích là nơi nạn nhân bị mua
và bóc lột..
1.1.2. Đặc điểm của nạn nhân bị buôn bán trở về
Nạn nhân bị mua bán trở về có những đặc điểm chung nhất về tâm lý, thể chất,
xã hội và pháp lý. Trải qua quá trình bị mua bán họ bị lừa dối, bị đánh đập, đe dọa, ép
buộc và cưỡng bức gây nên những tổn thương sâu sắc về cả thể chất lẫn tinh thần. Họ
trở thành những nạn nhân yếu thế trong xã hội, bị tước đoạt danh dự, các quyền con
người giấy tờ cá nhân và phải chịu những cái nhìn dò xét, khinh bỉ của xã hội. Hơn ai
hết những nạn nhân bị mua bán người cần được tất cả xã hội cảm thông, nhìn nhận thấu
đáo hơn. Với những đặc điểm riêng biệt khi phải chịu nhiều tổn thương, nạn nhân bị
mua bán trở về cần được hỗ trợ và tư vấn tâm lý để phần nào giảm những tổn thương
không đáng có.

1.1.3. Nhu cầu của nạn nhân bị buôn bán trở về
Nạn nhân bị mua bán trở về cũng có đặc điểm nhu cầu chung như nạn nhân của
ma túy, mại dâm, bên cạnh đó họ còn có những nhu cầu hỗ trợ riêng như nhu cầu hỗ
trợ về tâm lý, phục hồi thể chất, hỗ trợ về nơi ăn, ở ban đầu, nơi ở lâu dài bảo đảm an
ninh; hỗ trợ pháp lý các thủ tục cấp hộ chiếu, xuất nhập cảnh, cấp lại hộ khẩu, chứng
minh thư nhân dân, bởi khi bị lừa bán đi khỏi gia đình địa phương, họ đã bị bọn buôn
người thu giữ hoặc hủy hết giấy tờ tùy thân, bị cơ quan chức năng địa phương cắt hộ
khẩu sau 6 tháng rời khỏi địa phương. Hỗ trợ cấp giấy khai sinh cho con khi nạn nhân
mang theo con về nước; hỗ trợ giáo dục kỹ năng sống; học nghề, tìm việc làm, vay
vốn, hỗ trợ vốn khó khăn ban đầu khi mới trở về. Hỗ trợ tái hòa nhập gia đình, cộng
đồng, phòng chống kỳ thị phân biệt đối sử, phòng chống tái mua bán.
1.2. Nhu cầu, khái niệm công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về
1.2 .1. Nhu cầu công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về
Ở nhiều quốc gia, Công tác xã hội (CTXH) đã được xem là một nghề mang tính
chuyên nghiệp với sự tham gia đông đảo của đội ngũ nhân viên xã hội được đào tạo ở
các trình độ cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ. Trong khi Việt Nam giai đoạn 2000-2005 về
trước, CTXH chưa trở thành một nghề chuyên nghiệp. Tuy nhiên, trước những biến đổi
hết sức to lớn của quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra như vũ bão, những thách thức
14


khắc nghiệt của biến đổi khí hậu, thiên nhiên với hàng loạt vấn đề xã hội cần giải quyết
như bạo lực gia đình, nghèo đói, thất nghiệp, ma túy, buôn bán người…Việt Nam rất
cần có những nhân viên CTXH chuyên nghiệp. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, năm
2004 mã đào tạo nghề này đã được Bộ Giáo dục & Đào tạo đưa vào hệ thống đào tạo.
Tiếp đó, ngày 25 tháng 3 năm 2010, Thủ Tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án phát
triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010 – 2020. Điều này chứng tỏ Đảng và Nhà
nước ta đang hết sức quan tâm đến vấn đề đào tạo ngành CTXH trong bối cảnh hiện
nay.
Xã hội càng phát triển thì càng nhiều vấn đề xã hội nổi lên đòi hỏi cần những

biện pháp khắc phục. Một trong những vấn đề nóng bỏng hiện nay chính là nạn mua
bán người. Nạn nhân của buôn bán người gặp rất nhiều vấn đề về sức khỏe tinh thần,
thể chất, khó khăn về kinh tế, không được tiếp cận với các dịch vụ xã hội trong quá
trình hòa nhập nên rất cần đến nhân viên công tác xã hội trợ giúp để tái hòa nhập thành
công. Nhân viên công tác xã hội là người được đào tạo bài bản chuyên nghiệp về công
tác xã hội, có đủ bản lĩnh, đạo đức nghề nghiệp, giữ vững các nguyên tắc, thái độ tôn
trọng, chấp nhận, thấu cảm và có kỹ năng trong suốt quá trình hỗ trợ nạn nhân bị buôn
bán và gia đình họ.
Từ nghiên cứu thực tiễn cho thấy làm tốt công tác xã hội đối với nhân bị mua bán
trở về chính là một trong nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội bền vững. Hiện có hàng
nghìn nạn nhân bị buôn bán trở về nếu không được trợ giúp hoặc kết nối các dịch vụ hỗ
trợ xã hội kịp thời để tiếp sức cho họ vươn lên tự giải quyết các vấn đề khó khăn của
bản thân họ sẽ rơi vào bước đường cùng, bị đói nghèo, bệnh tật, tệ nạn xã hội, bất bình
đẳng, sẽ làm cho cộng đồng xã hội rối loạn, bất ổn. Do đó việc thực hiện tốt công tác
xã hội đối với nạn nhân bị buôn bán trở về vừa là một nhu cầu, vừa là trách nhiệm của
cộng đồng xã hội, là quan điểm đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong vấn đề
đổi mới xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong bối cảnh toàn cầu hóa. Do
đó nhu cầu công tác xã hội đối với nạn nhân của buôn bán người là một nhu cầu thiết
thực và nhân văn. Sự xuất hiện và phát triển của nghề CTXH chuyên nghiệp là tất yếu
khách quan, đáp ứng nhu cầu cấp thiết trong việc kết nối các dịch vụ hỗ trợ một cách
toàn diện, hiệu quả và bền vững cho nạn nhân bị buôn bán trở về nói riêng và các vấn
15


đề xã hội nói chung; góp phần quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề của đối
tượng yếu thế, điều chỉnh những “khuyết tật” của xã hội, hướng tới xây dựng một xã
hội phát triển hài hoà, bình đẳng và hạnh phúc cho mọi người.
1.2.2. Khái niệm công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về
Theo Hiệp hội công tác xã hội thế giới: “Nghề Công tác xã hội thúc đẩy sự thay
đổi xã hội, giải quyết vấn đề trong mối quan hệ của con người, tăng năng lực và giải

phóng cho người dân nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày càng thoải mái, dễ chịu.
Vận dụng các lý thuyết về hành vi con người và hệ thống xã hội, Công tác xã hội tương
tác vào những điểm giữa con người với môi trường của họ. Nhân quyền và Công bằng
xã hội là các nguyên tắc căn bản của nghề”.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam năm 1995 thì Công tác xã hội là khoa học
ứng dụng nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của con người, tạo ra những chuyển
biến xã hội và đem lại nền an sinh cho người dân trong xã hội.
Còn Đề án phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010-2020 kèm theo Quyết
định số 32/2010/QĐ-TTg đưa ra khái niệm: Nghề công tác xã hội là những hoạt động
mang tính chuyên môn, được thực hiện theo các nguyên tắc và phương pháp riêng
nhằm hỗ trợ các cá nhân, gia đình, nhóm xã hội và cộng đồng dân cư trong giải quyết
các vấn đề; giúp các đối tượng tự vươn lên trong cuộc sống và hòa nhập cộng đồng.
Trong giáo trình “Nhập môn công tác xã hội” của PGS. TS Bùi Thị Xuân Mai
đưa ra khái niệm tương đối toàn diện, đầy đủ về công tác xã hội đã bao phủ được diện
rộng không chỉ đối với các đối tượng yếu thế: “Công tác xã hội là một nghề, một hoạt
động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng
lực đáp ứng nhu cầu và tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi trường
xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng
giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội góp phần bảo đảm an sinh xã hội”. [10].
Từ việc nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của Công tác xã hội trên cả
phương diện lí thuyết và thực hành, khoa học và nghề nghiệp chuyên môn, tiếp thu các
giá trị, phân tích các định nghĩa, các quan niệm của các học giả, các tổ chức, hiệp hội
chuyên ngành ở trong và ngoài nước về công tác xã hội. Bằng những quan sát và trải
nghiệm của bản thân em trong 10 năm làm việc trong công tác tiếp nhận và hỗ trợ nạn
16


nhân bị mua bán trở về từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng có thể đưa ra một định nghĩa về
Công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về như sau:
Công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về là một nghề nghiệp, hoạt

động chuyên nghiệp, được thực hiện bởi các nhân viên công tác xã hội nhằm hỗ trợ
các nạn nhân bị mua bán trở về được tiếp cận các dịch vụ xã hội, được trợ giúp nâng
cao năng lực tự giải quyết vấn đề bản thân đang gặp phải, tiến tới tái hoà nhập cộng
đồng một cách bền vững và phát triển.
1.3. Nguyên tắc trong công tác xã hội đối với người bị mua bán trở về
Công tác xã hội với nạn nhân bị mua bán trở về cần đề cập đến các lí thuyết liên
quan đến nguyên tắc, phương pháp, nội dung và kỹ năng công tác xã hội đối với nạn
nhân bị mua bán. Nhận thấy hệ thống nguyên tắc và phương pháp công tác xã hội
nhóm đối với nạn nhân bị mua bán trở về là hai nội dung bao trùm các vấn đề khác nên
trong khuôn khổ luận văn tác giả đi sâu nghiên cứu về nguyên tắc trong công tác xã
hội và phương pháp công tác xã hội nhóm để làm tiền đề cho cơ sở thực tiễn của đề tài
nghiên cứu
Trong quá trình làm việc với nạn nhân bị mua bán trở về, nhân viên công tác xã
hội phải thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc cơ bản sau:
1.3.1. Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người
Việc mua bán người thường do bọn tội phạm có tổ chức thực hiện, nên có nguy
cơ đe dọa và xâm hại rất lớn đến các quyền con người của nạn nhân. Do đó trong quá
trình bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân cần tôn trọng các quyền con người như quyền tự do
thân thể, tôn trọng nhân phẩm, danh dự, quyền được sống, được bảo vệ khỏi bạo lực về
thể chất, quyền không bị khai thác, xâm hại tình dục, quyền được hưởng phúc lợi xã
hội, quyền được quyết định hôn nhân, quyền được quyết định các vấn đề của cá
nhân… Việc tôn trọng nạn nhân được thể hiện trong việc nhân viên CTXH đối xử công
bằng với nạn nhân, không phán xét tới hoàn cảnh hay trình độ hiểu biết của họ, luôn
quan tâm, lo lắng tới các nhu cầu của nạn nhân [7, tr. 20-23].
1.3.2. Nguyên tắc được sự đồng thuận của nạn nhân
Tất cả các dịch vụ hỗ trợ cho nạn nhân phải được sự đồng ý của họ. Nhân viên
xã hội cần cung cấp cho các nạn nhân mọi thông tin về các thủ tục, các chính sách pháp
17



luật liên quan và các dịch vụ của các tổ chức cung cấp để họ hiểu đúng và có sự quyết
định cho riêng mình. Với các nạn nhân là trẻ em thì nhân viên CTXH cần hỏi ý kiến
của người bảo trợ cho bất kì hoạt động nào liên quan. Các quan điểm của trẻ cần được
tôn trọng, quan tâm và cân nhắc.
1.3.3. Nguyên tắc giữ bí mật và quyền riêng tư
Đây là một nguyên tắc rất quan trọng trong công tác xã hội với nạn nhân bị mua
bán trở về, vì nạn nhân bị mua bán là những đối tượng yếu thế, rất nhạy cảm và dễ bị
tổn thương. Việc giữ bí mật thông tin của nạn nhân là trách nhiệm và nghĩa vụ của các
tổ chức, cá nhân hỗ trợ nạn nhân. Mọi thông tin, trao đổi liên quan đến nạn nhân đều
phải đảm bảo tính bảo mật và quyền riêng tư cho nạn nhân. Việc giữ bí mật thông tin
bao gồm các thông tin liên quan đến danh tính, thông tin cá nhân, nhận dạng, hoàn
cảnh, quá trình mua bán. Trong trường hợp nếu cần chia sẻ thông tin thì phải nhận
được sự đồng ý của nạn nhân, đảm bảo sự riêng tư, tạo sự an toàn và chất lượng của
thông tin, không làm ảnh hưởng đến cảm xúc của nạn nhân. Các tổ chức, cá nhân sử
dụng dữ liệu thông tin của cá nhân phải cam kết giữ bí mật. Với nạn nhân là trẻ em thì
chia sẻ thông tin cần được sự đồng ý của người giám hộ trẻ [7, tr. 20-23].
1.3.4. Nguyên tắc nạn nhân cùng tham gia giải quyết vấn đề
Công tác xã hội là không làm thay, làm hộ thân chủ, hiểu được điều đó các tổ
chức, cá nhân cung cấp dịch vụ hỗ trợ nạn nhân cần khuyến khích nạn nhân tìm ra vấn
đề mình gặp phải, nhận ra nhu cầu của mình, biết được điểm mạnh, điểm yếu của bản
thân để quyết định mọi việc liên quan đến bản thân mình. Nhân viên xã hội cần nâng
cao năng lực của bản thân nạn nhân để họ tự nhận ra khả năng, ý thức về giá trị của
mình, tránh sự tự ti, ỷ lại hay thu mình, buông xuôi. Ngoài ra cũng cần giúp các nạn
nhân nhận ra và hiểu được các quyền và nghĩa vụ trong các quy định của pháp luật như
được đề nghị các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo vệ
mình, người thân thích khi bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị xâm hại. Được hưởng các
chế độ hỗ trợ và được bảo vệ theo quy định của Luật phòng, chống mua bán người.
Được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật .
1.4. Lý thuyết tiếp cận trong hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về.
Cũng như các ngành chuyên môn khác, ngành CTXH tiếp cận và sử dụng một

số các lý thuyết khoa học về xã hội thuộc ngành tâm lý học như: thuyết nhân văn

18


hiện sinh; thuyết vai trò; thuyết nhận thức - hành vi…, các lý thuyết về sự tiếp cận
giữa các cá nhân và nhóm, xã hội như: thuyết hệ thống…
Trong phạm vi đề tài này, một số lý thuyết có thể sử dụng hiệu quả trong quá
trình nghiên cứu, ứng dụng vào thực tiễn đó là: Thuyết về quyền con người, thuyết
nhu cầu, thuyết hệ thống và cách tiếp cận theo mô hình xã hội.
1.4.1. Thuyết về quyền con người
Tiếp cận dựa trên quyền con người là một khung lý thuyết có chứa đựng các
nguyên tắc, tiêu chuẩn và mục tiêu của hệ thống quyền con người trong quá trình
lập kế hoạch và tiến trình thực hiện các hoạt động CTXH.
Cách tiếp cận dựa trên quyền lấy nền tảng cơ bản chính là hệ thống quyền con
người đã được pháp luật quốc tế bảo vệ. Với cách tiếp cận theo quyền, NVCTXH
cần dựa trên hệ thống quyền con người để xây dựng các phương pháp và hoạt động
của những mô hình phát triển xã hội. Cách tiếp cận dựa trên quyền con người luôn
đưa ra đối tượng tác động cụ thể, đó chính là con người với các quyền cơ bản của
mình. Theo đó, NVCTXH thực hiện việc trao quyền cho con người thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của mình [10, tr. 168].
Tiếp cận dựa trên quyền nhằm hướng tới việc cải thiện hoàn cảnh của con
người, tập trung vào nhu cầu, vấn đề và tiềm năng của họ. Đây là cách tiếp cận
mang tính nhân văn, đối tượng dù đang phải gặp vấn đề khó khăn nào cũng được
tôn trọng như một con người với đầy đủ các giá trị. Tiếp cận dựa trên quyền coi con
người là trung tâm, tập trung vào nhu cầu và tiềm năng của họ để đi tới giải quyết
vấn đề. Ví dụ Tiếp cận trên cơ sở quyền con người, dựa trên hệ thống các văn bản
qui phậm pháp luật liên quan tới mua bán người và hỗ trợ nạn nhân của mua bán
người. Nạn nhân bị mua bán được giải cứu hoặc tự trốn thoát trở về, gặp rất nhiều
khó khăn: Không còn chỗ ở, hộ khẩu ở địa phương đã bị cắt, mất chứng minh thư

nhân dân, trình độ học vấn thấp, có nạn nhân còn mù chữ, không có việc làm, hoàn
cảnh gia đình quá khó khăn, mắc bệnh xã hội, suy kiệt sức khỏe, nguy cơ bị tái
buôn bán hoặc trở thành tội phạm hoặc rơi vào tệ nạn xã hội. Từ những đặc điểm
khó khăn trên cho thấy nạn nhân khi bị mua bán trở về rất cần được các cấp, các
ngành quan tâm, giúp đỡ về bước đầu để ổn định cuộc sống như: Hỗ trợ kinh phí
như tiền ăn, tiền tàu xe khi trở về nhà, hỗ trợ nơi ở hoặc nhà ở, hỗ trợ các nhu cầu

19


thiết yếu (ăn, mặc), hỗ trợ chăm sóc y tế (khám chữa bệnh), tư vấn tâm lý, hỗ trợ
pháp lý, dạy nghề, vay vốn tạo việc làm….
Trong phạm vi đề tài này, nạn nhân bị mua bán trở về ( NNBMBTV) được
xem là đối tượng cần trợ giúp, hỗ trợ và họ có đầy đủ các quyền của mình. Tiếp cận
hướng vào quyền không chỉ tạo điều kiện cho chính những NNBMBTV thấy được
tầm quan trọng của bản thân trong hệ thống xã hội, cộng đồng để họ có thể được
hưởng những dịch vụ trờ giúp của xã hội. Tiếp cận dựa vào quyền còn thể hiện tính
nhân văn sâu sắc của hệ thống chính trị, xã hội của nước ta - vì con người và đặt
con người là trung tâm của sự phát triển, là điều kiện cần và đủ để NNBMBTV
thực hiện quyền của họ và sử dụng quyền có mục đích và có ý nghĩa.
Vận dụng thuyết này vào đề tài ta có thể giúp NNBMBTV nhận thấy được
những quyền cơ bản của họ đã được các văn bản pháp luật có liên quan như quyền
được tham gia các hoạt động xã hội; quyền được học tập, giáo dục; trợ giúp pháp lý;
chăm sóc sức khỏe; việc làm; sống độc lập… Ngoài ra, việc đánh giá các chế độ,
chính sách và chương trình, mô hình trợ giúp NNBMBTV tại địa phương cũng như
việc triển khai thực hiện tại TTGD LĐXHTỉnh Cao Bằng cần phải dựa trên quan
điểm quyền con người, từ việc thực hiện quyền và sử dụng quyền của NNBMBTV
cũng như các yếu tố nào ảnh hưởng đến việc tiếp cận các quyền của NNBMBTV
tại địa phương.
1.4.2. Lý thuyết nhu cầu

Nhà tâm lý học người Mỹ Abraham Maslow được xem là cha đẻ của lý
thuyết nhu cầu. Theo ông, hành vi của con người bắt nguồn từ nhu cầu của họ. Nhu
cầu tự nhiên của con người được chia thành các thang bậc khác nhau theo thứ tự từ
thấp đến cao về tầm quan trọng. Thang nhu cầu của ông chia làm hai cấp: cấp thấp
và cấp cao.

20


×