Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Phát triển năng lực tự học cho học sinh lớp 5 thông qua hoạt động trải nghiệm tạo lập kiến thức mới trong học toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (987.21 KB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐAI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
----------------***--------------NGUYỄN LAN HƢƠNG

PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH LỚP 5
THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM TẠO LẬP KIẾN
THỨC MỚI TRONG HỌC TOÁN

Chuyên ngành: Giáo dục tiểu học
Mã số: 60.14.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS.TRẦN NGỌC LAN

HÀ NỘI, 2017

0


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................5
CHƢƠNG I .........................................................................................................16
1. Cơ sở lý luận....................................................................................................16
1.1. Cơ sở lý luận về vấn đề tự học ....................................................................16
1.1.1. Các quan niệm về vấn đề tự học .............................................................16
1.1.2. Vị trí vai trò của tự học ............................................................................18
1.1.3. Các mức độ tự học ....................................................................................20
1.1.4. Một số đặc điểm của hoạt động tự học ở học sinh tiểu học ..................22
1.1.5. Một số biểu hiện đặc trƣng của năng lực tự học ...................................24
1.1.6. Quan điểm về hoạt động trải nghiệm sáng tạo đối với học sinh Tiểu
học. .......................................................................................................................26


1.1.7. Nội dung hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong học môn Toán tiểu học
nói chung và lớp 5 nói riêng. .............................................................................28
1.1.8. Các phƣơng pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo. .................34
1.1.9. Mô hình tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo. .................................36
1.2. Cơ sở thực tiễn .............................................................................................37
1.2.1. Định hƣớng phát triển năng lực tự học cho học sinh trong xây dựng
chƣơng trình và sách giáo khoa phổ thông giai đoạn sau 2015 ......................37
1.3. Thực trạng phát triển năng lực tự học cho học sinh lớp 5 thông qua hoạt
động trải nghiệm tạo lập kiến thức mới trong học Toán tại một số trƣờng
Tiểu học trên địa bàn Thành phố Hạ Long- tỉnh Quảng Ninh. .....................45
1.3.1. Mục đích điều tra......................................................................................45
1.3.2. Nội dung điều tra ......................................................................................45
1.3.3. Phƣơng pháp điều tra ..............................................................................45
1.3.4. Đối tƣợng, phạm vi điều tra ....................................................................45
1.3.5. Xây dựng phiếu và tổ chức điều tra. .......................................................46
1.3.6. Thống kê kết quả điều tra ........................................................................47
1.4. Khái quát thực trạng về phát triển năng lực tự học cho HS tiểu học nói
chung và học sinh lớp 5 khi dạy học môn Toán nói riêng tại thành phố Hạ

1


Long, Quảng Ninh. .............................................................................................47
1.4.1. Đối với giáo viên........................................................................................47
1.4.2. Đối với học sinh học Toán - Tiểu học.....................................................50
KẾT LUẬN CHƢƠNG I ...................................................................................52
CHƢƠNG II. BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO
HỌC SINH LỚP 5 THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM TẠO
LẬP KIẾN THỨC MỚI TRONG HỌC TOÁN ..............................................53
1. Định hƣớng phát triển năng lực tự học qua hoạt động trải nghiệm tạo lập

kiến thức mới trong dạy học toán cho học sinh lớp 5 .....................................53
1.1. Mức độ tự học và một số biểu hiện về năng lực tự học toán đối với học sinh
lớp 5. .....................................................................................................................53
1.2. Các hoạt động trải nghiệm tạo lập kiến thức có thể sử dụng đối với học
sinh lớp 5 thuộc địa bàn tỉnh Quảng Ninh. ......................................................55
1.3. Một số nội dung môn Toán lớp 5 có ƣu thế phát triển năng lực tự học
cho học sinh lớp 5 thông qua hoạt động trải nghiệm. .....................................57
2.2. Thiết kế một số tình huống phát triển năng lực tự học cho học sinh lớp 5 qua
hoạt động trải nghiệm tạo lập kiến thức mới trong học Toán. ............................60
2.2.1. Những căn cứ để lựa chọn nội dung tự học và lựa chọn các hoạt động
trải nghiệm. .........................................................................................................60
2.2.2. Một số nguyên tắc cần đảm bảo khi thiết kế hoạt động trải nghiệm góp
giúp học sinh tự học kiến thức mới . .................................................................61
2.2.3. Qui trình thiết kế ......................................................................................61
2.2.4. Thực hành thiết kế và phân tích ví dụ minh họa ...................................62
2.3. Thiết kế một số tình huống dạy học phát triển năng lực tự học cho học
sinh lớp 5 qua trải nghiệm tạo lập kiến thức mới............................................73
CHƢƠNG III. THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM ..................................................86
1. Mục đích thực nghiệm....................................................................................86
2. Đối tƣợng thực nghiệm ..................................................................................86
3. Thời gian thực nghiệm ...................................................................................86
4. Nội dung và cách thức tiến hành thực nghiệm ............................................86
5. Kết quả thực nghiệm ......................................................................................88
PHẦN III. KẾT LUẬN ......................................................................................93

2


TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................96
PHỤ LỤC 1 .........................................................................................................98

PHỤ LỤC 2 .......................................................................................................102

3


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận
được sự hướng dẫn, giúp đỡ quý báu của các thầy cô, các anh chị, các em và
các bạn. Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn
chân thành tới:
PGS. TS Trần Ngọc Lan, đã hết lòng giúp đỡ, dạy bảo, động viên và
tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành
luận văn tốt nghiệp.
Xin được trân trọng gửi lời cảm ơn đến các thầy cô Phòng đào tạo sau
đại học của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô, học sinh Trường Tiểu học Lê Hồng
Phong, Hạ Long, Quảng Ninh đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình khảo
sát và thực nghiệm luận văn.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn ở bên
cạnh động viên và giúp đỡ tôi học tập làm việc và hoàn thành luận văn.
Hà Nội, tháng 6 năm 2017
Người thực hiện luận văn

Nguyễn Lan Hƣơng

4


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bản luận án này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi.
Các số liệu và tài liệu được trích dẫn trong luận án là trung thực. Kết quả nghiên
cứu này không trùng với bất cứ công trình nào đã được công bố trước đó.
Tôi chịu trách nhiệm với lời cam đoan của mình.
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Tác giả luận án

Nguyễn Lan Hƣơng

5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Chúng ta đang sống trong thời đại bùng nổ thông tin mà ở đó khối
lượng tri thức của loài người tăng lên với tốc độ cực kỳ nhanh chóng. Người
ta tính được sau 10 năm thì lượng tri thức tăng lên gấp đôi. Đứng trước thực
tế này, giáo dục nhà trường đã có những thay đổi căn bản: từ quan niệm học
tập chỉ trong một thời gian nhất định bằng quan niệm: “học thường xuyên,
học liên tục, học suốt đời”. Để có thể học tập suốt đời đạt hiệu quả, đương
nhiên mỗi người phải lựa chọn cho mình một cách phù hợp nhất, lấy tự học
làm nền tảng.
Việt Nam đang bước vào giai đoạn công nghiệp hóa – hiện đại hóa với
mục tiêu đến năm 2020 sẽ cơ bản trở thành nước công nghiệp. Nhân tố quyết
định thắng lợi của cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa là nguồn lực con
người. Để làm được điều này giáo dục Việt Nam đang phải đứng trước một
bài toán: phải đổi mới một cách toàn diện từ mục tiêu, nội dung đến phương
pháp và phương tiện dạy học. Về phương pháp dạy học, nghị quyết TW2
khóa VIII (12/1996) đã chỉ rõ: “phải đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục
– đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy

sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và
phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự
học, tự nghiên cứu, tự giải quyết vấn đề, phát triển năng lực thực hành sáng
tạo cho người học, …”
Nghị quyết TW2 (khoá VIII) của Đảng đã khẳng định: “Cuộc cách
mạng về phương pháp giáo dục phải hướng vào người học, rèn luyện và phát
triển khả năng suy nghĩ, khả năng giải quyết vấn đề một cách năng động, độc
lập, sáng tạo ngay trong quá trình học tập ở nhà trường”. Trong Luật giáo dục
năm 2005 quy định về mục tiêu giáo dục phải giúp học sinh “phát triển năng

6


lực cá nhân, tính năng động, sáng tạo”; về nội dung giáo dục tiểu học: “Nội
dung giáo dục tiểu học phải đảm bảo tính phổ thông, cơ bản, toàn diện, hướng
nghiệp và có hệ thống; gắn với thực tiễn cuộc sống”, về phương pháp phải
“phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với
đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng
làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh’’.
Một số kết quả điều tra xã hội học và nghiên cứu tâm sinh lý của học
sinh gần đây trên thế giới cũng như ở Việt Nam cho thấy đã có sự thay đổi
mạnh mẽ trong quá trình phát triển tâm sinh lý của thanh thiếu niên hiện nay:
các em giờ đây được tiếp nhận nhiều nguồn thông tin đa dạng phong phú từ
nhiều mặt của cuộc sống. Vì thế, có hiểu biết linh hoạt và thực tế hơn so với
thế hệ cùng lứa tuổi cách đây vài chục năm. Trong học tập, các em không
thỏa mãn với vai trò của người tiếp thu thông tin thụ động, không dừng lại ở
việc tiếp nhận các giải pháp được đưa ra.
Vì vậy nhiệm vụ của nhà trường trong khi tiến hành đổi mới phương
pháp dạy học là phải theo hướng phát huy tích cực, độc lập sáng tạo của

người học; giúp người học tự tìm tòi, tự khám phá và suy nghĩ trong quá trình
học tập, trên cơ sở đó mà học tập suốt đời.
Chương trình sách giáo khoa hiện nay đã góp phần thực hiện giáo dục
toàn diện đức, trí, thể, mĩ; bảo đảm tính hệ thống, sự liên tục giữa các cấp
học. Những hạn chế là: “chưa trực tiếp giúp đỡ giáo viên và học sinh chuyển
từ cách dạy học thụ động áp đặt, chủ yếu là đối phó với thi cử sang cách dạy
học tích cực, chủ động để phát triển năng lực sáng tạo và phương pháp tự học
của học sinh.
Ở nước ta đã có nhiều nhà khoa học sư phạm quan tâm nghiên cứu tư
tưởng của các trường phái tâm lý, với quan điểm kiến tạo nhận thức vào dạy -

7


học nói chung, dạy - học toán nói riêng ở tất cả các cấp học, góp phần nâng
cao chất lượng dạy học. Tuy nhiên, tư tưởng kiến tạo trong các trường phái
tâm lí chỉ mang tính định hướng hoạt động học tập, việc nghiên cứu, ứng
dụng vào dạy học các môn học cụ thể ở nước ta vẫn còn là vấn đề mới mẻ.
Chương trình và sách giáo khoa môn Toán lớp 5 hiện nay về cơ bản
được xây dựng trên cơ sở các hoạt động của người học có hướng dẫn khá chi
tiết của người dạy. Các kiến thức toán trong chương trình được thiết kế dưới
dạng cung cấp thông tin và chỉ dẫn các hoạt động học tập, nhằm làm cho người học, bằng hoạt động của mình, dưới sự điều khiển của giáo viên, hình
thành nên kiến thức cho bản thân. Tuy nhiên, có rất nhiều giáo viên ở các
trường Tiểu học, đặc biệt là giáo viên vùng sâu, vùng xa, vùng có khó khăn,
vì nhiều lý do, chưa có sự nhận thức đúng đắn về chương trình môn Toán,
cũng như các ý tưởng dạy học dẫn đến việc tổ chức các hoạt động dạy - học
còn mang tính áp đặt kiến thức một chiều. Học sinh mất dần hứng thú trong
quá trình học tập và không ít học sinh thiếu ý thức vươn lên tự chiếm lĩnh tri
thức một cách chủ động.
Gần đây, có một vài tác giả quan tâm nghiên cứu quan điểm kiến tạo

nhằm xác định một số thành tố của năng lực tự học, từ đó có căn cứ thiết kế các
hoạt động giúp cho học sinh tự chiếm lĩnh tri thức. Những nghiên cứu hướng
này chủ yếu tiếp cận ở các cấp học trên. Một số nghiên cứu thử nghiệm bước
đầu để hình thành năng lực tự học cho học sinh cấp tiểu học chưa nhiều, và
chưa thực hiện thường xuyên trong dạy học các môn học. Nhận thấy tính cấp
thiết của việc nghiên cứu góp phần phát triển năng lực tự học cho học sinh Tiểu
học nói chung và tự học môn Toán nói riêng, tôi quyết định chọn đề tài "Phát
triển năng lực tự học cho học sinh lớp 5 thông qua hoạt động trải nghiệm
tạo lập kiến thức mới trong học Toán" nhằm xác định một số thành tố cơ
bản của năng lực tự học và lựa chọn một số biện pháp nhằm bồi dưỡng những

8


năng lực đó cho học sinh lớp 5, góp phần nâng cao chất lượng dạy - học toán
ở học sinh lớp 5.
2. Lịch sử của vấn đề nghiên cứu
Vấn đề tự học trên thế giới.
Tự học đã được con người thực hiện từ rất sớm, ngay từ khi GD chưa
trở thành một ngành khoa học thực sự. Ở thời kỳ đó, người ta đã biết quan
tâm đến việc làm sao cho người học chăm chỉ, tích cực ghi nhớ được những
giáo huấn của thầy và hành động theo những điều ghi nhớ đó.
Montaigne từng khuyên rằng: “Tốt hơn là ông thầy để cho học trò tự
học, tự đi lên phía trước, nhận xét bước đi của họ, đồng thời giảm bớt tốc độ
của thầy cho phù hợp với sức học của trò”.
Vào những năm đầu của thế kỷ XX, trên cơ sở phát triển mạnh mẽ của
tâm lý học hành vi, tâm lý học phát sinh, nhiều Phương pháp dạy học mới ra
đời: “phương pháp lạc quan”,” “phương pháp trọng tâm tri thức”, “phương
pháp montessori”…Các phương pháp dạy học này đã khẳng định vai trò
quyết định của học sinh trong học tập nhưng quá coi trọng “con người cá thể”

nên đã hạ thấp vai trò của người giáo viên đồng thời phức tạp hóa quá trình
dạy học. Mặt khác, những phương pháp này đòi hỏi các điều kiện rất cao kể
cả từ phía người học lẫn các điều kiện giảng dạy nên khó có thể triển khai
rộng rãi được.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, bên cạnh sự tiến bộ rất nhanh của các
ngành khoa học cơ bản, khoa học giáo dục cũng có nhiều tiến bộ đáng kể.
Một trong những tiến bộ đó là: sự xích lại gần nhau hơn giữa dạy học truyền
thống (Giáo viên là nơi phát động thông tin, học sinh là nơi tiếp nhận thông
qua diễn giảng trên lớp) và các quan điểm dạy học hiện đại (học sinh là chủ
thể tích cực, giáo viên là người tổ chức hướng dẫn).

9


Khái niệm người học trong giai đoạn này cũng không còn được quan
niệm cá thể hóa cực đoan như trước đây, tuy nó vẫn được chú ý. Theo
J.Dewey: “học sinh là mặt trời, xung quanh nó quy tụ mọi phương tiện giáo
dục”. Tư tưởng “lấy học sinh làm trung tâm” đã được cụ thể hóa thành nhiều
phương pháp cụ thể như: “Phương pháp hợp tác” (cooperative methods),
“phương pháp tích cực” (active methods), “Phương pháp cá thể hóa”, “Phương
pháp nêu vấn đề”, … trong đó “Phương pháp tích cực” được nghiên cứu triển
khai rộng hơn cả. Theo phương pháp này, giáo viên đóng vai trò gợi sự chú ý
kích thích, thúc đẩy học sinh tự hoạt động. Vì thế, người học đóng vai trò trung
tâm của quá trình dạy học, còn người dạy là chuyên gia của việc học. Nhìn
chung tư tưởng “lấy học sinh là trung tâm” trong quá trình dạy học nói riêng và
giáo dục nói chung đòi hỏi có sự phối hợp của nhiều phương pháp, trong đó
“phương pháp tích cực” là chủ đạo mang tính nguyên tắc. Đây chính là cơ sở
để đưa ra những biện pháp bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh.
Đồng tình với quan điểm trên, các nhà giáo dục Xô Viết đã khẳng định
vai trò tiềm năng to lớn của hoạt động tự học trong giáo dục nhà trường. Đặc

biệt, nhiều tác giả còn nghiên cứu sâu sắc cách thức nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động tự học của người học , trong đó nêu lên những biện pháp tổ chức
hoạt động độc lập nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học.
Vấn đề tự học ở Việt Nam
Vấn đề tự học ở Việt Nam cũng được chú ý từ lâu. Ngay từ thời kỳ
phong kiến, giáo dục chưa phát triển nhưng đất nước vẫn có nhiều nhân tài
kiệt xuất. Những nhân tài đó, bên cạnh yếu tố được những “ông đồ” tài giỏi
dạy dỗ, thì yếu tố quyết định đều là tự học của bản thân. Cũng chính vì vậy
mà người ta coi trọng việc tự học, nêu cao những tấm gương tự học thành tài.
Nhưng nhìn chung, lối giáo dục còn rất hạn chế “người học tìm thấy sự bắt
chước, đúng mà không cần độc đáo, người học học thuộc lòng …”

10


Đến thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, mặc dù nền giáo dục Âu Mỹ rất phát
triển nhưng nền giáo dục nước ta vẫn chậm đổi mới. Vấn đề tự học không
được nghiên cứu và phổ biến, song thực tiễn lại xuất hiện nhu cầu tự học rất
cao trong nhiều tầng lớp xã hội.
Vấn đề tự học thực sự được phát động nghiên cứu nghiêm túc, rộng rãi
từ khi nền giáo dục cách mạng ra đời (1945), mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa
là người khởi xướng vừa nêu tấm gương về tinh thần và phương pháp dạy
học. Người từng nói: “còn sống thì còn phải học” và cho rằng: “về cách học
phải lấy tự học làm cốt”. Có thể nói tự học là một tư tưởng lớn của Hồ Chí
Minh về phương pháp học tập. Những lời chỉ dẫn quý báu và những bài học
kinh nghiệm sâu sắc rút ra từ chính tấm gương tự học bền bỉ và thành công
của Người cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Từ những năm 60 của thế kỷ XX, tư tưởng về tự học đã được nhiều tác
giả trình bày trực tiếp và gián tiếp trong các công trình tâm lý học, giáo dục
học, phương pháp dạy học bộ môn. Một số công trình tiêu biểu như: Nguyễn

Cảnh Toàn - luận bàn và kinh nghiệm về tự học (1995), Trần Kiều, Nguyễn
Bá Kim, Thái Duy Tuyên, Bùi Văn Nghị,…
GS.TSKH Nguyễn Cảnh Toàn là một tấm gương sáng về tự học ở nước
ta. Ông cho rằng: “Học bao giờ cũng gắn với tự học, tự rèn luyện để biến đổi
nhân cách của mình. Người dạy giỏi là người dạy cho học sinh biết cách tự
học, tự nghiên cứu, tự giáo dục”.
Các tác giả: Nguyễn Kỳ, Vũ Văn Tảo, Bùi Tường đã khẳng định: Năng
lực tự học của trò dù còn đang phát triển vẫn là nội lực quyết định sự phát
triển của bản thân người học. Thầy là ngoại lực, là tác nhân, hướng dẫn, tổ
chức, đạo diễn cho trò tự học. Nói cách khác quá trình tự học, tự nghiên cứu
cá nhân hóa việc học của trò phải kết hợp với việc dạy của thầy và quá trình
hợp tác của bạn trong cộng đồng lớp học, tức là quá trình xã hội hóa việc học.

11


Bước vào thời kì đổi mới hiện nay, việc tự học nói chung, và vấn đề tự
học của học sinh nói riêng ngày càng được quan tâm và nghiên cứu vì vai trò
quan trọng của tự học trong quá trình dạy và học theo hướng đổi mới lấy
người học là trung tâm. Chúng ta có thể tham khảo bài viết của Nguyễn Nghĩa
Dán “Vì năng lực tự học sáng tạo của học sinh” (Tạp chí “Nghiên cứu Giáo
dục”, số 2/1998); hay Giáo sư Cao Xuân Hạo đã có những phân tích thấu
đáo và ý kiến sâu sắc trong bài “Bàn về chuyện tự học” (Kiến thức ngày
nay, số 396, năm 2001). Và giáo viên ở các trường đại học cũng có những
nghiên cứu để giúp dần đưa việc tự học thành một hoạt động không thể thiếu
trong quá trình dạy và học hiện nay. (Diệp Thị Thanh, trường Đại học Ngoại
ngữ, Đại học Đà Nẵng với bài “Phương pháp Tự học – Cầu nối giữa học tập
và Nghiên cứu Khoa học”). Tự học là vấn đề quan trọng và cần thiết nghiên
cứu triển khai đối với học sinh các cấp hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm bước đầu phát triển năng
lực tự học cho học sinh lớp 5 thông qua hoạt động trải nghiệm tạo lập kiến
thức mới trong học Toán.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
a) Tìm hiểu và làm rõ thêm một số vấn đề về thuật ngữ cũng như cơ sở
lý luận trong việc phát triển năng lực tự học cho học sinh Tiểu học nói chung
và học sinh lớp 5 nói riêng.
b) Tìm hiểu và hệ thống hóa một số hoạt động trải nghiệm tạo lập kiến
thức mới trong môi trường học tập môn Toán có sự hướng dẫn của giáo viên.
c) Điều tra về nhận thức cũng như các biện pháp triển khai phát triển
năng lực tự học cho học sinh lớp 5 thông qua hoạt động trải nghiệm tạo lập
kiến thức mới trong học Toán tại một số trường Tiểu học.

12


d) Xác định mức độ tự học đối với học sinh lớp 5 và tiêu chí chỉ báo về
năng lực tự học môn Toán khi tạo lập kiến thức mới.
e) Thiết kế và thử nghiệm một số tình huống dạy học toán lớp 5 nhằm
phát triển năng lực tự học của học sinh lớp 5 thông qua hoạt động trải nghiệm
tạo lập kiến thức mới.
f) Thực nghiệm sư phạm: Nhằm đánh giá tính khả thi của các hoạt động
trải nghiệm tạo lập kiến thức mới trong học toán lớp 5 tại một số trường Tiểu
học tại Quảng Ninh theo các tiêu chí phát triển năng lực tự học cho học sinh.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
a) Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Tìm hiểu một số cơ sở Triết học, Tâm lý học để làm căn cứ xác định các
năng lực tự học; đồng thời tìm hiểu lý luận dạy học nói dung, dạy học toán
(nói riêng) theo quan điểm kiến tạo để làm cơ sở tiếp cận một số biện pháp
dạy học thích hợp vào dạy và học Toán học lớp 5 tại một số trường Tiểu học

thuộc địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
b) Phương pháp Điều tra - quan sát
Kết hợp với các phiếu điều tra là các cuộc phỏng vấn trực tiếp, dự giờ
quan sát nhằm mục đích thu lượm các thông tin về hoạt động dạy và học toán
lớp 5 một số trường Tiểu học thuộc thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh làm
cơ sở xác định thực trạng dạy và học toán theo quan điểm tự học.
c) Phương pháp thống kê toán học
Nhằm mục đích thống kê các số liệu thu được qua tìm hiểu thực trạng,
các kết quả điều tra trước và sau thực nghiệm, làm cơ sở đánh giá tính đúng
đắn và khả thi của giả thuyết khoa học của đề tài.
6. Phạm vi nghiên cứu
Phát triển năng lực tự học cho học sinh lớp 5 thông qua hoạt động trải
nghiệm tạo lập kiến thức mới trong học Toán.

13


7. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
7.1. Khách thể nghiên cứu:
Quá trình dạy học toán của giáo viên và học sinh ở một số trường Tiểu
học thuộc địa bàn Thành phố Hạ Long - tỉnh Quảng Ninh.
7.2. Đối tượng nghiên cứu:
Phát triển năng lực tự học cho học sinh lớp 5 thông qua hoạt động trải
nghiệm tạo lập kiến thức mới trong học Toán.
8. Đóng góp của đề tài:
8.1. Đóng góp về lý luận:
+ Làm rõ quan niệm về quy trình tự học; một số hình thức tự học ….
+ Làm rõ một số quan niệm về hoạt động trải nghiệm và trải nghiệm sáng tạo.
8.2. Đóng góp thực tiễn:
+ Đề tài xác định được các mức độ tự học của học sinh tiểu học nói

chung và học sinh lớp 5 nói riêng trong quá trình học toán.
+ Xác định một số tiêu chí cơ bản chỉ báo cụ thể về năng lực tự học của
học sinh lớp 5 trong môn Toán.
+ Thiết kế được một số tình huống với các hoạt động trải nghiệm giúp
học sinh lớp 5 tạo lập kiến thức mới.
+ Đề xuất biện pháp triển khai các tình huống đã thiết kế nhằm phát
triển năng lực tự học cho học sinh lớp 5 trong học Toán
9. Giả thuyết khoa học
Trên cơ sở hiểu rõ giá trị, tác dụng và quy trình tự học; nếu xác định
được mức độ tự học và xác định nội dung toán lớp 5 mà học sinh có thể tự
học đồng thời sử dụng hợp lý các hoạt động trải nghiệm thì sẽ đề xuất được
một số tình huống giúp học sinh lớp 5 tự tạo lập kiến thức mới trong môn
Toán; từ đó góp phần phát triển năng lực tự học môn Toán nói riêng và phát
triển năng lực tự học các môn học nói chung.

14


10. Cấu trúc của luận văn
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
Chương 2. Giải pháp phát triển năng lực tự học cho học sinh lớp 5 thông
qua hoạt động trải nghiệm tạo lập kiến thức mới trong học Toán tại một số
trường Tiểu học trên địa bàn thành phố Hạ Long – tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

15


CHƢƠNG I
1. Cơ sở lý luận

1.1. Cơ sở lý luận về vấn đề tự học
1.1.1. Các quan niệm về vấn đề tự học
Trong các giáo trình, tài liệu các nhà nghiên cứu đã đưa ra các quan
niệm khác nhau về tự học, sau đây là một số định nghĩa cơ bản:
Nhà tâm lý học N.ARubakin coi: Tự tìm lấy kiến thức – có nghĩa là tự học.
Tự học là quá trình lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội, lịch sử trong
thực tiễn hoạt động cá nhân bằng cách thiết lập các mối quan hệ cải tiến kinh
nghiệm ban đầu, đối chiếu với các mô hình phản ánh hoàn cảnh thực tại, biến
tri thức của loài người thành vốn tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng , kỹ xảo của
chủ thể.
- Trong cuốn “Học tập hợp lí” R.Retke chủ biên, coi tự học là việc hoàn
thành các nhiệm vụ khác không nằm trong các lần tổ chức giảng dạy”
- Theo tác giả Lê Khánh Bằng: thì tự học (self learning) là tự mình suy
nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ, các phẩm chất tâm lý để chiếm lĩnh một lĩnh
vực khoa học nhất định.
- Theo Giáo sư – Tiến sỹ Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học – là tự mình
động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích,
tổng hợp...) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các
phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới
quan (như tính trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó, ngại
khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biến khó khăn
thành thuận lợi..vv...) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân
loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình”.
Trong tập bài giảng chuyên đề Dạy tự học cho SV trong các nhà trường
trung học chuyên nghiệp và Cao đẳng, Đại học GS – TSKH Thái Duy Tuyên

16


viết: “Tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự

mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân
tích, tổng hợp…) cùng các phẩm chất động cơ, tình cảm để chiếm lĩnh tri thức
một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những kinh nghiệm lịch sử, xã hội của nhân
loại, biến nó thành sở hữu của chính bản thân người học”.
Tác giả Nguyễn Kỳ ở Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 7/ 1998 cũng bàn
về khái niệm tự học: “Tự học là người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra
tri thức kinh nghiệm bằng hành động của mình, tự thể hiện mình. Tự học là tự
đặt mình vào tình huống học, vào vị trí nghiên cứu, xử lí các tình huống, giải
quyết các vấn đề, thử nghiệm các giải pháp…Tự học thuộc quá trình cá nhân hóa
việc học”.
Trong bài phát biểu tại hội thảo Nâng cao chất lượng dạy học tổ chức
vào tháng 11 năm 2005 tại Đại học Huế, GS Trần Phương cho rằng: “Học bao
giờ và lúc nào cũng chủ yếu là tự học, tức là biến kiến thức khoa học tích lũy
từ nhiều thế hệ của nhân loại thành kiến thức của mình, tự cải tạo tư duy của
mình và rèn luyện cho mình kĩ năng thực hành những tri thức ấy”.
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều quan niệm rằng tự học là học với
sự độc lập và tích cực, tự giác ở mức độ cao, tự học là quá trình mà trong đó,
chủ thể người học tự biến đổi mình, tự làm phong phú giá trị của mình bằng
các thao tác trí tuệ hoặc chân tay nhờ cả ý chí, nghị lực và sự say mê học tập
của cá nhân. Tự học có thể diễn ra ở trên lớp hoặc ngoài giờ lên lớp, chẳng
hạn như giải bài tập trên lớp, nảy sinh những thắc mắc khi nghe giáo viên
giảng bài, tự sắp xếp những lời giảng của giáo viên để ghi vào vở, tự phân
tích, nhận xét câu trả lời của bạn trong quá trình thảo luận…
Theo tác giả, tự học là một quá trình, trong đó dưới vai trò chủ đạo của
giáo viên, người học tự mình chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo thông qua
các hoạt động trí tuệ (quan sát, phân tích, tổng hợp, so sánh, phán đoán…) và

17



cả các hoạt động thực hành (khi phải sử dụng các thiết bị đồ dùng học tập).
Tự học gắn liền với động cơ, tình cảm và ý chí… của người học để vượt qua
chướng ngại vật hay vật cản trong học tập nhằm tích luỹ kiến thức cho bản
thân người học từ kho tàng tri thức của nhân loại, biến những kinh nghiệm
này thành kinh nghiệm và vốn sống của cá nhân người học.
1.1.2. Vị trí vai trò của tự học
Trong thực tiễn dạy học cho thấy, tự học có ý nghĩa rất quan trọng
trong quá trình học tập. Học trên lớp chỉ có thời gian nhất định còn tự học là
quá trình lâu dài, học suốt đời. Hiệu quả của quá trình tự học phụ thuộc vào ý
chí, tố chất, động cơ và năng lực của người học. Vì vậy ở bất kỳ cấp học nào
hoạt động tự học luôn có một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình học
tập của người học. Tuy nhiên, đối với học sinh ở các trường tiểu học nó lại
càng thiết thực hơn bởi hoạt động tự học của học sinh ở các trường tiểu học
có nét đặc thù so với bậc học khác, thể hiện hoạt động nhận thức của học sinh
ở mức nền tảng. Xây dựng được năng lực tự học từ bậc học tiểu học giúp học
sinh có được tính độc lập, tự lực, tự giác, sáng tạo trong việc tiếp thu tri thức
cũng như việc vận dụng tri thức vào các tình huống cụ thể. Từ đó quyết định
sự phát triển các phẩm chất nhân cách và quyết định chất lượng học tập của
học sinh.
Nhờ có tự học và chỉ bằng con đường tự học, người học mới có thể
nắm vững tri thức, thông hiểu tri thức, bổ xung và hoàn thiện tri thức cũng
như hình thành những kỹ năng, kỹ xảo tương ứng. Điều này đã được
K.Đ.Usinxki nói: chỉ có công tác tự học của học sinh mới tạo điều kiện cho
việc thông hiểu tri thức. Và như vậy hoạt động tự học sẽ quyết định chất lượng
giáo dục - đào tạo của nhà trường.
Một trong những phẩm chất quan trọng của mỗi cá nhân là tính tích
cực, sự chủ động sáng tạo trong mọi hoàn cảnh. Và một trong những nhiệm

18



vụ quan trọng của giáo dục là hình thành phẩm chất đó cho người học. Bởi từ
đó nền giáo dục mới mong đào tạo ra những lớp người năng động, sáng tạo,
thích ứng với mọi thị trường lao động, góp phần phát triển cộng đồng. Có thể
xem tính tích cực (hình thành từ năng lực tự học) như một điều kiện, kết quả
của sự phát triển nhân cách thế hệ trẻ trong xã hội hiện đại.
Vì vậy, trong quá trình học tập ở bậc tiểu học, nếu bồi dưỡng được ý
chí và năng lực tự học cần thiết thì sẽ khơi dậy được ở học sinh tiềm năng to
lớn vốn có của họ, tạo nên động lực nội sinh của quá trình học tập, vượt lên
trên mọi khó khăn, trở ngại bên ngoài.
Tự học thường xuyên, tích cực, tự giác, độc lập không chỉ giúp học
sinh mở rộng đào sâu kiến thức mà còn giúp học sinh hình thành được những
phẩm chất trí tuệ và rèn luyện nhân cách của mình. Tạo cho họ có nếp sống và
làm việc khoa học, rèn luyện ý chí phấn đấu, đức tính kiên trì, óc phê phán,
hứng thú học tập và lòng say mê nghiên cứu khoa học.
Tự học giúp con người thích ứng với mọi biến cố của sự phát triển kinh
tế - xã hội. Bằng con đường tự học mỗi cá nhân sẽ không cảm thấy bị lạc hậu
so với thời cuộc, thích ứng và bắt nhịp nhanh với những tình huống mới lạ mà
cuộc sống hiện đại mang đến, kể cả những thách thức to lớn từ môi trường
nghề nghiệp. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng tự
học, biết linh hoạt vận dụng những điều đã học vào thực tiễn thì sẽ tạo cho họ
lòng ham học, nhờ đó kết quả học tập sẽ ngày càng được nâng cao.
Bên cạnh đó tự học giúp mọi người nắm vững tri thức, kỹ năng kỹ xảo
và đơn giản có ứng dụng nhiều trong thực tế xây dựng nền móng toán học để
các em học tiếp lên các bậc học trên đồng thời ứng dụng thiết thực trong cuộc
sống hàng ngày của các em. Chính trong quá trình tự học giúp người học từng
bước biến vốn kinh nghiệm của loài người thành vốn tri thức riêng của bản
thân. Hoạt động tự học đã tạo điều kiện cho học sinh hiểu sâu tri thức, mở

19



rộng kiến thức, củng cố ghi nhớ vững chắc tri thức, biết vận dụng tri thức vào
giải quyết các nhiệm vụ học tập mới.
Ngoài ra, tự học không những giúp người học không ngừng nâng cao
chất lượng và hiệu quả học tập khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà còn giúp
họ có được hứng thú thói quen và phương pháp tự thường xuyên để làm
phong phú thêm, hoàn thiện thêm vốn hiểu biết của mình. Giúp họ tránh được
sự lạc hậu trước sự biến đổi không ngừng của khoa học và công nghệ trong thời
đại ngày nay.
Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là hạ thấp vai trò của giáo viên
và tập thể học sinh trong nhà trường. Các lực lượng này có tác dụng lớn trong
việc động viên khuyến khích hướng dẫn học sinh tự học một cách đúng
hướng và hiệu quả.
1.1.3. Các mức độ tự học
1.1.3.1. Tự học hoàn toàn
Là mức độ cao nhất của quá trình tự học, người học nghiên cứu, tìm tòi
tài liệu từ mạng Internet và sách tham khảo. Tự học hoàn toàn có kết quả tích
cực nhưng mất nhiều thời gian vì không có hệ thống và chiều sâu tư tưởng, rất
ít kế thừa từ hiểu biết của người đi trước.
Học với sách, không có thầy bên cạnh thường được hiểu là tự học.
Nhưng hiểu như vậy thì hơi hẹp. Bởi hoạt động dạy của người thầy thực chất
chỉ là ngoại lực tác động đến người học. Sự tác động này phải kết hợp được
với nội lực của người học thì mới đạt được kết quả.
Thật vậy, qua theo dõi, quan sát, có thể thấy ngay cùng một lớp học,
với các học sinh cùng độ tuổi, tất cả đều có tâm sinh lí bình thường, cùng hoạt
động theo một tài liệu hướng dẫn học tập như nhau nhưng kết quả đạt được
của mỗi em là khác nhau. Sự khác nhau này phần nhiều là do nội lực của từng
em. Cụ thể, những em chịu khó đọc, tìm hiểu, thực hiện các bước học tập đầy


20


đủ như hướng dẫn sẽ có kết quả tốt hơn những em không tuân thủ nghiêm túc
quá trình hoạt động.
Sách cũng chính là sản phẩm của các tác giả viết ra, cùng một quyển
sách nhưng sự tiếp thu và kiến thức mỗi người thu nhận được sau khi đọc
xong là không giống nhau. Học với sách thì khó khăn hơn khi học với thầy và
nếu có thắc mắc thì không có người để hỏi. Nhưng có như vậy, thì người học
mới cố gắng động não để tìm hiểu, giải đáp những thắc mắc của mình, thậm
chí tra cứu thêm những tài liệu có liên quan khác. Có như vậy thì người học
mới rèn luyện cho mình đỡ mất thời gian hơn, song phải động não nhiều và
người học quen dần với tác phong “làm việc độc lập với sách”. Có như vậy
thì người học mới rèn luyện cho mình được năng lực tự học, tự học suốt đời
vì không phải lúc nào cũng có thầy bên cạnh.
1.1.3.2. Tự học có hƣớng dẫn
Là hình thức hoạt động tự lực của người học để chiếm lĩnh tri thức và
hoàn thành kĩ năng tương ứng dưới sự hướng dẫn, tổ chức, chỉ đạo của giáo
viên thông qua tài liệu tham khảo.
Với cách học này được diễn ra theo phương thức đặc thù ở nhà trường,
qua đó hình thành ở người học những tri thức khoa học, những năng lực mới
phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn nghĩa là nhằm lĩnh hội các tri thức mới, kĩ
năng, kĩ xảo mới trong nhà trường.
Theo Chương trình giáo dục phổ thông (Chương trình tổng thể, dự thảo
ngày 20/01/2017) Tự học có hướng dẫn là hoạt động tự học trên lớp của học
sinh tiểu học với sự giúp đỡ, hướng dẫn của giáo viên nhằm góp phần hình
thành và phát triển năng lực tự học cho học sinh, giảm tối đa việc học ở nhà.
Với hình thức này thời gian giáo viên trực tiếp giảng dạy sẽ ít hơn, chủ yếu
dành thời gian cho học sinh tự học. Hình thức dạy học “tự học có hướng dẫn” là
một trong những biện pháp để phát huy tính tích cực học tập của học sinh.


21


1.1.4. Một số đặc điểm của hoạt động tự học ở học sinh tiểu học
Tự học có thể diễn ra dưới sự chỉ đạo trực tiếp của giáo viên và ngay cả
khi không có sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên. Tự học được thực hiện qua
nhiều bước khác nhau: tiếp nhận thông tin từ nhiều kênh thông tin khác nhau,
xử lý thông tin dựa vào vốn kinh nghiệm hiểu biết của mình, tự kiểm tra, tự
đánh giá những thông tin đã thu được, vận dụng thông tin để giải quyết vấn đề
do nhiệm vụ nhận thức và thực tiễn đặt ra…
Khác với việc tự học của người lớn (học sinh Trung học, Đại học…)
việc tự học của học sinh Tiểu học bao giờ cũng phải có sự hướng dẫn tự học
của thầy cô giáo, có thể kết hợp với sự hỗ trợ của cha mẹ các em. Bởi các em
đang ở lứa tuổi ham chơi hơn ham học, ý thức học tập ở các em chưa cao.
Hướng dẫn học sinh Tiểu học tự học cần lưu ý đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi
các em, không được thoát ly trình độ hiểu biết, sự suy nghĩ của các em. Nếu
đưa ra yêu cầu quá cao thì học sinh sẽ chán và thiếu tự tin vào bản thân; nếu
đưa ra yêu cầu quá thấp thì học sinh sẽ cảm thấy thiếu hứng thú học tập.
Chính vì thế GV phải bám sát chương trình SGK, bài học ở lớp… khi cần mở
rộng thì GV chỉ nên xoay quanh các kiến thức đang học. Thường xuyên động
viên khuyến khích học sinh Tiểu học tự giác học tập, không áp đặt gò ép trẻ.
Tự học của học sinh Tiểu học phải có sự định hướng của giáo viên.
Ngoài những giờ lên lớp GV trực tiếp giảng dạy. Quá trình học tập khi không
có GV, người học phải chủ động tự sắp xếp kế hoạch huy động trí tuệ kĩ năng
của bản thân để học tập theo yêu cầu và hướng dẫn của giáo viên: ôn tập, làm
bài tập nâng cao… nhằm hoàn thành nhiệm vụ học tập. Hay nói cách khác,
GV đã điều khiển gián tiếp quá trình tự học của học sinh thông qua các nhiệm
vụ học tập được giao về nhà sau mỗi bài giảng.
Lớp 5 là giai đoạn cuối của cấp tiểu học, về mặt Toán học, đây là giai

đoạn hình thành và bước đầu phát triển. Hoạt động chủ đạo của học sinh ở

22


giai đoạn này là học tập thông qua hoạt động thực hành, luyện tập của cá nhân
hay nhóm để từ đó có thể tự mình phát hiện ra các kiến thức, kỹ năng. Vì vậy,
khi dạy học kiến thức mới ở giai đoạn này chúng ta cần phải chú ý đến việc
hình thành mức độ về kiến thức kĩ năng.
Nội dung chương trình Toán ở Tiểu học được biên soạn theo hướng
đồng tâm. Trong đó, số học được coi là mảng kiến thức cốt lõi. Mảng kiến
thức này được sắp xếp bắt đầu từ số tự nhiên, phân số rồi đến số thập
phân.Theo từng lớp, những kiến thức về số học cũng không ngừng được mở
rộng. Cái sau được hình thành trên nền tảng cái trước. Nếu ở lớp 4 là sự tiếp
nối của số tự nhiên ở lớp 3 để hình thành phát triển số mới là phân số thì ở lớp
5 là khai thác, phát triển nhiều ứng dụng của số. Từ phân số sang phân số thập
phân, từ số thập phân sang tỉ số phần trăm là sự phát triển mở rộng ứng dụng
trong cuộc sống.
Những phân số có thể chuyển thành phân số thập phân đều có thể viết
dưới dạng số thập phân:
2 4

 0,4
5 10

Ví dụ:

;

3 75


 0,75
4 100

Ta có thể thấy số thập phân là cách viết không có mẫu số của phân số
thập phân.
Ví dụ:

1
m còn được viết thành 0,1m
10
1
m còn được viết thành 0,01m.
100

Các phân số thập phân

1
1
1
,
,
được viết thành 0,1 ; 0,01 ; 0,001.
10 100 1000

Mọi phân số thập phân đều có thể viết được dưới dạng số thập phân.

23



Ví dụ:

7
 0,7
10

;

32
 0,32
100

;

55
 5,5
10

Ngoài ra, số thập phân cũng là một giải pháp để viết gọn lại thay cho
các biểu diễn số đo ở dạng hỗn hợp. Chẳng hạn:
2m 37cm = 2,37m ; 53m 2mm = 53,002m
Không chỉ giúp ghi ngắn gọn mà còn dễ dàng trong việc tính toán đối
với các đơn vị đo.
Ví dụ: 2m 37cm + 53m 2mm = ?
Ta có: 2m 37cm = 2370 mm
53m 2mm = 53022 mm
2m 37cm + 53m 2mm = 2370 mm + 53022 mm = 55372 mm = 55m 372
mm. Thay vào đó ta có thể tính như sau:
2m 37cm = 2,37m
53m 2mm = 53,002m

2m 37cm + 53m 2mm = 2,37m + 53,002m = 55,372 m.
1.1.5. Một số biểu hiện đặc trƣng của năng lực tự học
1.1.5.1. Khái niệm năng lực
Năng lực được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau do sự lựa chọn
dấu hiệu khác nhau.
(1). Năng lực là khả năng huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và
các thuộc tính tâm lí cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí… để thực
hiện thành công một công việc trong bối cảnh nhất định. Biểu hiện của năng
lực là biết sử dụng các nội dung và các kĩ thuật trong một tình huống có ý
nghĩa, chứ không tiếp thu lượng tri thức rời rạc. (Theo Phạm Thị Kim Thoa –
Dạy Toán ở Tiểu học theo hướng phát triển năng lực người học)

24


×