Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Kết nối văn học với đời sống trong dạy học đọc hiểu truyện ngắn việt nam sau 1975 ở THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.73 MB, 126 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ HUYỀN NGỌC

KẾT NỐI VĂN HỌC VỚI ĐỜI SỐNG
TRONG DẠY HỌC ĐỌC HIỂU
TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 Ở THPT

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

HÀ NỘI, NĂM 2017
1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ HUYỀN NGỌC

KẾT NỐI VĂN HỌC VỚI ĐỜI SỐNG
TRONG DẠY HỌC ĐỌC HIỂU
TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 Ở THPT

Chuyên ngành: Lí luận và phƣơng pháp dạy học Văn
Mã số: 60.14.01.11
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Phạm Thị Thu Hƣơng

HÀ NỘI, NĂM 2017


2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi.
Các số liệu và tài liệu được trích dẫn trong luận văn là trung thực. Kết quả
nghiên cứu này không trùng với bất cứ công trình nào đã được công bố trước đó.
Tôi chịu trách nhiệm với lời cam đoan của mình.
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Huyền Ngọc

3


LỜI CẢM ƠN
Để luận văn “Kết nối văn học với đời sống trong dạy học đọc hiểu truyện
ngắn Việt Nam sau 1975 ở THPT” được hoàn thành, tôi đã nhận được rất nhiều sự
động viên, giúp đỡ của các cá nhân, tập thể. Tôi xin chân thành bày tỏ tình cảm của
mình với những sự giúp đỡ quý báu đó!
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới PGS.TS Phạm Thị Thu Hương –
người đã tận tâm, nhiệt tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện
luận văn này!
Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, đặc biệt là các
thầy cô trong tổ Lí luận và Phương pháp dạy học bộ môn Văn – Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong quá trình học tập và thực
hiện đề tài!
Xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Sau đại học - Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội đã quan tâm và tạo điều kiện cho tôi trong toàn khóa học!

Xin gửi lời cảm ơn đến toàn thể gia đình, bạn bè; cảm ơn các đồng nghiệp,
các em học sinh trường THPT Kim Động (Hưng Yên) đã luôn động viên, khích lệ,
giúp đỡ tôi để hoàn thành luận văn của mình!
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Huyền Ngọc

4


CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
ĐHSPHN

Đại học Sư phạm Hà Nội

ĐHSPHN 2

Đại học Sư phạm Hà Nội 2

GV

Giáo viên

GS

Giáo sư

HS


Học sinh

Nxb

Nhà xuất bản

Nxb ĐHSP

Nhà xuất bản Đại học Sư phạm

SGK

Sách giáo khoa

SGV

Sách giáo viên

TS

Tiến sĩ

THPT

Trung học Phổ thông

5


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

9

1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................................9
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................................12
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................19
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .........................................................................20
5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................20
6. Đóng góp của luận văn ......................................................................................21
7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................................21
PHẦN NỘI DUNG

22

Chƣơng 1. MỐI QUAN HỆ VĂN HỌC – ĐỜI SỐNG VÀ VAI TRÒ CỦA
VIỆC KẾT NỐI VĂN HỌC VỚI ĐỜI SỐNG TRONG DẠY HỌC ĐỌC HIỂU
VĂN BẢN VĂN CHƢƠNG Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG
22
1.1. Mối quan hệ giữa văn học và đời sống ...........................................................22
1.1.1. Văn học bắt nguồn từ đời sống ................................................................22
1.1.2. Văn học tác động trở lại đời sống ............................................................24
1.2. Vai trò của việc kết nối văn học với đời sống trong dạy học đọc hiểu văn bản
văn chương.............................................................................................................25
1.2.1. Đọc hiểu văn bản văn chương .................................................................26
1.2.2. Kết nối văn học với đời sống ....................................................................39
1.2.3. Ý nghĩa của việc kết nối văn học với đời sống trong dạy học đọc hiểu văn
bản văn chương ..................................................................................................44
Tiểu kết chương 1 ..................................................................................................50
Chƣơng 2. TỔ CHỨC KẾT NỐI VĂN HỌC VỚI ĐỜI SỐNG TRONG DẠY

HỌC ĐỌC HIỂU TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 Ở THPT
51
2.1. Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở THPT ......................................................51
2.1.1. Vị trí, đặc điểm của truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 ......................51
6


2.1.2. Những tiềm năng kết nối văn học với đời sống trong dạy học truyện ngắn
Việt Nam sau 1975 .............................................................................................55
2.1.3. Thực trạng kết nối văn học với đời sống trong dạy học đọc hiểu truyện
ngắn Việt Nam sau 1975 ở THPT ......................................................................57
2.2. Những yêu cầu của việc kết nối văn học với đời sống trong dạy học đọc hiểu
truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở THPT ..............................................................62
2.2.1. Bám sát văn bản, tuân thủ bản chất thẩm mĩ của tác phẩm văn học .......62
2.2.2. Phát huy vai trò chủ thể tích cực của học sinh trong hoạt động kết nối ..64
2.2.3. Lựa chọn, kết hợp các phương pháp, biện pháp kết nối phù hợp và hiệu
quả ......................................................................................................................66
2.3. Những biện pháp kết nối văn học với đời sống trong dạy học truyện ngắn
Việt Nam sau 1975 ở THPT ..................................................................................67
2.3.1. Huy động trải nghiệm đời sống và phát hiện các “câu hỏi đời sống” từ
học sinh có liên quan mật thiết đến việc đọc hiểu văn bản ................................67
2.3.2. Bổ sung tri thức đời sống để hỗ trợ học sinh đọc hiểu văn bản ...............72
2.3.3. Hướng dẫn học sinh sử dụng tri thức đời sống để hình dung, tưởng tượng
thế giới nghệ thuật trong văn bản ......................................................................76
2.3.4. Hướng dẫn học sinh sử dụng tri thức đời sống để suy luận, cắt nghĩa, lí
giải, đánh giá văn bản ........................................................................................79
2.3.5. Hướng dẫn học sinh vận dụng kết quả tiếp nhận văn bản vào đời sống
thực tại ................................................................................................................84
Tiểu kết chương 2 ..................................................................................................91
Chƣơng 3. THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM


92

3.1. Mục đích thực nghiệm ....................................................................................92
3.2. Thời gian, địa điểm, đối tượng thực nghiệm ..................................................92
3.3. Phương pháp thực nghiệm ..............................................................................93
3.4. Tiêu chí đánh giá kết quả thực nghiệm ...........................................................93
3.5. Giáo án thực nghiệm .......................................................................................93
7


3.6. Kết quả thực nghiệm .....................................................................................116
3.6.1. Đề kiểm tra .............................................................................................116
3.6.2. Kết quả ...................................................................................................117
3.7. Đánh giá kết quả thực nghiệm ......................................................................118
3.7.1. Đánh giá về quá trình dạy học ...............................................................118
3.7.2. Đánh giá kết quả bài kiểm tra ................................................................118
KẾT LUẬN

120

TÀI LIỆU THAM KHẢO

123

8


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

1. Hiện nay, do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật, sự gia tăng
nhanh chóng của tri thức nhân loại nên xu thế giáo dục của các nước phát triển trên
thế giới là chuyển mạnh từ giáo dục theo định hướng nội dung (định hướng đầu
vào) sang định hướng năng lực (định hướng đầu ra).
Tiếp cận theo định hướng nội dung là chú trọng trang bị nội dung kiến thức,
ít chú ý đến việc hình thành và rèn luyện kĩ năng. Do vậy, việc đánh giá kết quả học
tập chủ yếu vào câu hỏi: Học sinh biết những gì? Và biết đến đâu? Hạn chế của xu
hướng này là nội dung chương trình nặng nề, ôm đồm; học sinh biết nhiều nhưng
làm không được bao nhiêu, thậm chí không biết làm, lúng túng trong việc ứng dụng,
thực hành các kiến thức đã học trong đời sống.
Chương trình theo định hướng tiếp cận năng lực tập trung vào hệ thống năng
lực cần có ở mỗi người học. Năng lực (competency) được hiểu “là khả năng vận
dụng những kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng, thái độ và sự hứng thú để hành động
một cách phù hợp và có hiệu quả trong các tình huống phong phú của cuộc sống”
[48, 292 - 293]. Mục tiêu đánh giá kết quả học tập ở đây chủ yếu hướng vào kết quả
đầu ra, nhằm trả lời câu hỏi: Học sinh biết làm gì? Và làm như thế nào? Theo định
hướng này, học sinh không chỉ biết học thuộc, ghi nhớ mà còn phải biết làm thông
qua các hoạt động cụ thể, sử dụng những tri thức học được để giải quyết các tình
huống do cuộc sống đặt ra. Nói cách khác “học phải đi đôi với hành”, phải gắn điều
được học với thực tiễn đời sống.
Cũng như nhiều nước khác trên thế giới, giáo dục Việt Nam đang từng bước
chuyển sang tiếp cận theo hướng phát triển năng lực. Tức là chú trọng hình thành
những kĩ năng, năng lực cho người học và khả năng vận dụng kiến thức được học
vào đời sống. Trong Định hướng phát triển chương trình giáo dục sau 2015, môn
Ngữ văn được được xác định là một môn học công cụ mang tính thẩm mĩ, nhân văn,
vừa có bản chất khoa học, vừa mang tính nghệ thuật. Theo đó, môn học này sẽ giúp
học sinh hình thành và phát triển các năng lực chung (năng lực giao tiếp, năng lực
9



tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác, năng lực tự quản bản
thân) và các năng lực đặc thù (năng lực giao tiếp tiếng Việt và năng lực thưởng thức
văn học/cảm thụ thẩm mỹ). Ngoài ra, môn Ngữ văn cũng góp phần hình thành và
phát triển những phẩm chất thiết yếu cho người học như: sống yêu thương (yêu Tổ
quốc; giữ gìn, phát huy truyền thống gia đình và giá trị các di sản văn hóa của quê
hương, đất nước; tôn trọng các nền văn hóa thế giới; nhân ái, khoan dung; yêu thiên
nhiên), sống tự chủ (trung thực, tự trọng, tự lực, chăm chỉ, vượt khó, tự hoàn thiện),
sống trách nhiệm (tự nguyện chấp hành kỉ luật; tuân thủ pháp luật; bảo vệ nội quy,
pháp luật).
Những năng lực và phẩm chất ấy chỉ được hình thành và thể hiện qua các
hoạt động thực tiễn. Vì thế, việc dạy văn không thể tách rời với thực tiễn đời sống.
Hay nói cách khác, người dạy phải hướng dẫn học sinh tạo ra được những kết nối
giữa văn học với đời sống của người học để từ đó góp phần hình thành những kĩ
năng, năng lực và phẩm chất cần thiết cho các em.
2. Văn học và đời sống vốn có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại với
nhau. Vòng đời của một tác phẩm văn học đó là "một vòng khép kín đan kết nhiều
quá trình và nhiều quan hệ: cuộc sống - nhà văn - tác phẩm - bạn đọc - cuộc sống.
Trong quá trình đi từ cuộc sống, trở về với cuộc sống, tác phẩm có những mối quan
hệ máu thịt và tác động qua lại với bản thân cuộc sống, với nhà văn, với bạn đọc"
[27, 177]. Văn học phản ánh, biểu hiện đời sống, là “hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan” [32]. Khi tác phẩm văn học ra đời qua sự tiếp nhận của người đọc, nó
lại tác động lại đời sống. Có thể nói, đời sống là điểm xuất phát, là nguồn cảm hứng
và cũng là đích đến cuối cùng của văn học.
Vì thế, trong dạy học đọc hiểu văn bản, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tạo
ra những kết nối giữa văn học với đời sống để giúp các em có thể hình dung, tưởng
tượng, cắt nghĩa, lí giải, đánh giá và hiểu sâu sắc hơn nội dung tư tưởng, giá trị, ý
nghĩa của tác phẩm. Qua đó, hình thành và phát triển những năng lực và phẩm chất
cần thiết cho học sinh, tăng cường khả năng vận dụng những kiến thức được học
vào thực tiễn cuộc sống.
10



Như vậy, kết nối giữa văn học với đời sống đã trở thành một quan điểm dạy
học đúng đắn, một định hướng quan trọng trong dạy học đọc hiểu các tác phẩm văn
chương. Để tạo sự kết nối giữa văn học với đời sống cần phải có những biện pháp,
cách thức cụ thể, linh hoạt, sáng tạo.
3. Tuy nhiên, việc kết nối văn học với đời sống trong dạy học đọc hiểu tác
phẩm văn chương hiện nay còn nhiều bất cập.
Trước hết, cả giáo viên và học sinh chưa ý thức đúng tầm quan trọng, ý
nghĩa của việc kết nối văn học với đời sống nên nó chưa thực sự trở thành một hoạt
động thường trực trong dạy học đọc hiểu văn bản văn chương. Câu hỏi kết nối
thường được “gắn vào”, “gá vào” cuối bài cho đủ, cho có.
Thứ hai, việc kết nối văn học với đời sống vẫn chủ yếu xuất phát từ giáo
viên. Giáo viên yêu cầu học sinh kết nối những vấn đề trong tác phẩm với đời sống
thông qua những câu hỏi gợi mở, gợi dẫn, liên hệ. Tức là học sinh chưa thực sự chủ
động, tự giác tạo ra những kết nối, chưa tự phát hiện được những vấn đề, nội dung
cần kết nối với đời sống trong tác phẩm.
Thứ ba, các biện pháp, cách thức kết nối còn máy móc, cứng nhắc, chưa đa
dạng, linh hoạt, sáng tạo, thậm chí nhiều khi không phù hợp với vấn đề cần kết nối,
với đối tượng học sinh nên chưa lôi cuốn, hấp dẫn người học và chưa mang lại hiệu
quả cao.
Những điều đó đã dẫn tới hệ quả là làm cho khoảng cách giữa văn học và đời
sống ngày càng xa; học sinh khó khăn trong hoạt động thâm nhập, chiếm lĩnh, đánh
giá tác phẩm; các em chưa biết áp dụng những điều được học vào các tình huống
của thực tiễn, chưa chuyển hóa được thông điệp nghệ thuật thành giá trị, kĩ năng
sống cho mình nên không ít học sinh có tâm lí chán ghét, quay lưng lại với môn văn
hoặc học văn chỉ để đối phó kiểm tra, thi cử.
4. Thực tế cho thấy trước đây, khoảng cách giữa văn học và đời sống còn quá
xa. Chương trình môn Văn đã dừng lại quá lâu ở mốc năm 1975. Trong khi đó đời
sống xã hội và con người luôn luôn biến động từng ngày từng giờ. Nhiều vấn đề

thời sự của xã hội được đặt ra nhưng văn học dường như vẫn đang “say sưa” với
11


những chiến thắng của dân tộc trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mĩ. Từ năm 2006, chương trình và SGK môn Ngữ văn THPT bắt đầu được đổi mới.
Các tác phẩm văn học Việt Nam sau 1975 lần đầu tiên được có mặt trong SGK
THPT. Các nhà biên soạn đã đưa vào chương trình và SGK một số tác phẩm, tác giả
tiêu biểu như: các truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, Một
người Hà Nội của Nguyễn Khải; tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn
Kháng; các bài thơ Đàn ghi ta của Lorca của Thanh Thảo, Đò Lèn của Nguyễn
Duy; bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường; kịch Hồn
Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ; …
Riêng về truyện ngắn, SGK Ngữ văn 12 (Ban cơ bản và Ban nâng cao) đều
lựa chọn hai tác phẩm để dạy học đọc hiểu là: Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn
Minh Châu, Một người Hà Nội của Nguyễn Khải. Đây là hai truyện ngắn tiêu biểu
cho sáng tác sau 1975 với những đổi mới cả về đề tài, bút pháp, tư duy thẩm mĩ,
điểm nhìn nghệ thuật. Hai nhà văn đều đã đề cập đến những câu chuyện đời thường
đang diễn ra với tất cả tính chất bộn bề, phức tạp của nó, với những con người,
những số phận dường như ở đâu đó quanh ta. Khi dạy học đọc hiểu các tác phẩm
này, giáo viên cần chú ý hướng dẫn học sinh tạo ra những kết nối giữa những vấn
đề, những nội dung được đề cập trong các tác phẩm với đời sống mà tác phẩm ra
đời, với xã hội hiện nay, với những suy nghĩ, cảm nhận của học sinh để giúp các em
vừa hiểu đúng, hiểu sâu sắc tác phẩm, vừa hình thành cho mình kĩ năng, thái độ
sống đúng đắn.
Từ những lí do trên nên chúng tôi đã quyết định lựa chọn đề tài Kết nối văn
học với đời sống trong dạy học đọc hiểu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở THPT
để triển khai trong luận văn của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Những nghiên cứu về vấn đề kết nối văn học với đời sống

Văn học và đời sống vốn có mối quan hệ mật thiết, gắn bó hữu cơ với nhau.
Bởi vậy, khi nghiên cứu, tìm hiểu, tiếp nhận các tác phẩm văn học, chúng ta không
thể không kết nối nó với đời sống. Trong lịch sử nghiên cứu văn học, đã có nhiều
12


cuốn sách, nhiều công trình của các học giả, các nhà nghiên cứu trong và ngoài
nước đề cập đến mối quan hệ giữa văn học với đời sống và nguyên tắc dạy văn gắn
với đời sống.
Về mối quan hệ giữa văn học với đời sống, trước hết chúng ta phải kể đến
cuốn Nghệ thuật với đời sống xã hội (1963) của tác giả Plêkhanốp. Trong cuốn sách
này, tác giả đã phân tích những ảnh hưởng, tác động của đời sống đối với nghệ
thuật, đã chỉ rõ sự phụ thuộc khăng khít giữa tính chất của sự cảm thụ thẩm mỹ của
con người với tính chất của các điều kiện sinh hoạt, điều kiện sống của một xã hội
nhất định. Ông viết: "Bản tính con người khiến họ có thể có những cảm giác và
quan niệm thẩm mỹ. Những điều kiện sinh hoạt của họ cải biến những tiềm thế ấy
thành hiện thực, chính là tùy theo các điều kiện ấy mà một con người xã hội nhất
định (hoặc nói cho đúng hơn, một xã hội nào đó, một dân tộc nào đó, một giai cấp
nào đó) có những thị hiếu và quan niệm thẩm mỹ này, chứ không phải là những thị
hiếu và quan niệm thẩm mỹ khác". Ông đã làm rõ quan điểm của mình bằng những
dẫn chứng cụ thể, chân thực và từ đó đi đến khẳng định: nghệ thuật (trong đó có văn
học) bắt nguồn, nảy nở từ đời sống và chịu sự quy định của đời sống xã hội.
Tiếp đó, với sự xuất hiện của G. Lukacs, lí luận văn học mác xít đã có thêm
những công trình lí luận quan trọng nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và hiện
thực đời sống. Tiếp thu những thành tựu triết học và mĩ học tư sản, Lukacs đã có cái
nhìn sâu hơn, toàn diện hơn vào một số vấn đề lí luận văn học, nhất là vấn đề mối
quan hệ giữa văn học và đời sống hiện thực. Xuất phát từ phản ánh luận của Lênin,
Lukacs nhấn mạnh quan điểm văn học phản ánh hiện thực "bằng các hình thức của
đối tượng". Ông khẳng định văn học nghệ thuật như là ý thức của sự phát triển nhân
loại, và cũng như Plêkhanốp, ông luôn trung thành với quan điểm văn học nghệ

thuật không tách rời đời sống xã hội. Tuy vậy, so với Plêkhanốp, Lukacs đã xác lập
được hệ thống quan điểm mĩ học của mình về mối quan hệ giữa văn học và hiện
thực qua đặc trưng của phản ánh nghệ thuật. Trong khi Plêkhanốp cho rằng "muốn
hiểu nghệ thuật phản ánh cuộc sống như thế nào thì cần phải hiểu cơ cấu của cuộc
sống đó" thì Lukacs nhấn mạnh đến thế giới riêng của sáng tạo nghệ thuật, ông cho
13


rằng mọi tác phẩm nghệ thuật có giá trị đều tạo ra "thế giới riêng", các nhân vật,
tình huống đều hoàn toàn khác với thực tế hàng ngày, thậm chí không giống với bất
kì nhân vật, tình huống nào của tác phẩm khác. Lukacs chỉ ra rằng sự say mê của
người tiếp nhận là sự say mê hoàn toàn vào đặc trưng của cái "thế giới riêng" của
tác phẩm, do tác phẩm đã “phản ánh hiện thực trung thực hơn, hoàn thiện hơn, sinh
động hơn cái mà người tiếp nhận có được về hiện thực”.
Ở trong nước, đầu tiên phải kể đến cuốn Lí luận văn học, tập 1 do tác giả
Phương Lựu chủ biên đã dành cả chương 2 để bàn về mối quan hệ giữa “văn học
với hiện thực đời sống”. Vận dụng thuyết phản ánh luận của Lênin, các tác giả đã
cho rằng “văn học cũng như nghệ thuật nói chung là lĩnh vực của tình cảm thẩm mĩ,
nhưng vẫn là một loại hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội. Mối quan hệ
giữa văn học với hiện thực là mối quan hệ giữa cái phản ánh và cái được phản
ánh” [32, 80]. Hiện thực là nguồn gốc của nhận thức, của ý thức, cho nên “đời sống
là mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng nghệ thuật và đồng thời là cái chìa khóa giải thích
được những hiện tượng phức tạp của nghệ thuật” [32, 80]. Các tác giả cũng đã đi
sâu phân tích mối quan hệ giữa phản ánh với nhận thức, phản ánh với biểu hiện,
phản ánh với sáng tạo, phản ánh với tác động. Từ đó cho thấy văn học không chỉ
phản ánh thế giới khách quan mà còn biểu hiện toàn bộ thế giới chủ quan của nhà
văn, hay nói cách khác “văn học là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”
[32, 91]. Văn học sáng tạo ra một thế giới mới trên cơ sở thế giới thực tại và nó góp
phần “cải tạo và sáng tạo thế giới theo chiều hướng tiến lên” [32, 96].
Ở cuốn Văn học và cuộc sống (1996), trong lời mở đầu, tác giả Mai Thanh

đã khẳng định: “Ý tưởng nổi bật và sâu đậm nhất (và đó là cơ sở cho sự hình thành
tựa đề của cuốn sách này) là: cuộc sống và mối quan hệ giữa văn học với cuộc
sống. Cuộc sống ở đây được hiểu theo nghĩa rộng nhất của khái niệm này” [43, 7].
Theo tác giả cuộc sống ấy là “lịch sử anh hùng ngàn năm dựng nước và giữ nước
của dân tộc ta gắn với những tấm gương anh hùng dân tộc, thông qua những hành
động lập đức, lập công của họ và của toàn dân tộc; là việc trồng lúa truyền đời của
người nông dân nước Việt”. Cũng theo tác giả, cuộc sống là cái có trước, văn học là
14


cái có sau, văn chương phải từ cuộc sống, thấu hiểu cuộc sống, chứ không được
phép xuyên tạc cuộc sống.
Tác giả Ngô Thảo, trong tiểu luận Văn học với đời sống - Đời sống với văn
học (2000) đã đi phân tích mối quan hệ tác động qua lại giữa văn học với đời sống
thực tại của đất nước sau năm 1975, đặc biệt từ sau công cuộc đổi mới năm 1986.
Ông cho rằng: “Thực tiễn văn học đang cần đến một lớp tác giả khác xông xáo trên
những vấn đề nóng hổi của cuộc sống khi một lớp đàn anh có chân tài đã phần nào
mỏi mệt” [44, 89].
Văn học gắn bó mật thiết với đời sống. Vì thế, dạy học đọc hiểu các tác
phẩm văn học, người dạy và người học không thể không tạo ra những kết nối,
những sự gắn kết giữa văn học với đời sống. Đời sống ở đây phải được hiểu theo
nghĩa rộng, đó là bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa mà tác phẩm ra đời, là đời sống
tâm hồn của người học, là đời sống của xã hội thực tại.
Theo cố giáo sư Phan Trọng Luận thực trạng đáng lo ngại của việc dạy học
văn trong nhà trường là “sự khủng hoảng về nội dung chất lượng và phương pháp”
[28, 87]. Trong đó, điều đáng lo đầu tiên là “khoảng cách ngày càng rộng giữa văn
hóa ngoài xã hội với văn học trong nhà trường, giữa nội dung giảng dạy và tâm lí
học sinh”. Tác giả cho rằng tâm lí học sinh ngày càng biến đổi “học sinh ngày nay
dám biểu thị thái độ trực tiếp” trước những vấn đề của cuộc sống trong khi đó
“nhiều vấn đề xã hội, chính trị, văn hóa nghệ thuật trong sách vở nhà trường quá ư

cũ kĩ và xa lạ, cách bức với họ”. Hơn nữa, cuộc sống luôn biến đổi phức tạp trên
mọi lĩnh vực càng làm lộ ra những hạn chế trong nội dung giảng dạy văn học của
nhà trường. “Hố sâu ngăn cách ấy” đòi hỏi người giáo viên không thể làm ngơ
được.
Tác giả Lê Sử, trong bài viết Quan niệm dạy văn gắn với đời sống (qua
chương trình và sách giáo khoa) đã phân tích sự thể hiện của quan niệm này qua các
thời kì, giai đoạn khác nhau. Tác giả bài viết đã cho rằng, quan niệm dạy văn gắn
với đời sống là quan niệm cơ bản của chương trình và SGK thời chống Mĩ. Bởi
chương trình môn Văn, ngay từ đầu đã khẳng định: “Muốn phát huy chức năng của
15


văn học, giáo viên cần gắn liền việc giảng dạy văn học với đời sống”, “Gắn liền
giảng dạy văn học với đời sống là từ cuộc sống trong tác phẩm làm cho học sinh
hiểu rõ con người thực tế bên ngoài, trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai, lấy
cái mới soi cái cũ, lấy cái cũ soi cái mới” (Bộ giáo dục, 1965). Đồng thời có thể
vận dụng những hiểu biết ngoài xã hội để cảm thụ, lí giải đời sống trong tác phẩm
văn học. Dạy văn gắn với đời sống được đẩy lên tới tận cùng, trở thành biểu hiện
cao nhất của việc độc tôn phương pháp xã hội học, phủ nhận mọi phương pháp cũng
như hướng tiếp cận khác. Hậu quả là sự xóa nhòa ranh giới giữa văn chương với
cuộc đời, xem tác phẩm chỉ là một thứ tài liệu ghi chép, chụp ảnh nguyên xi đời
sống. Lối tiếp cận dung tục đối với tác phẩm càng trở nên phổ biến.
PGS.TS Nguyễn Viết Chữ trong cuốn Phương pháp dạy học tác phẩm văn
chương trong nhà trường cho rằng: Để tiến hành đổi mới dạy học Ngữ văn, “chúng
ta cần tôn trọng những nguyên tắc dạy học văn hiện đại” [6, 65] và dạy văn gắn với
đời sống tinh thần của dân tộc và nhân loại là một trong năm nguyên tắc đó.
Ngoài ra, trong một số luận văn, khóa luận cũng đã phần nào bàn đến việc
dạy học tác phẩm văn học gắn với đời sống như: Khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn
Thị Thu Huyền (ĐHSPHN 2) Đọc hiểu văn bản “Vội vàng” (Xuân Diệu) gắn liền
với đời sống thực tiễn (2013); Khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Phương Chúc

(ĐHSPHN 2) Đọc hiểu văn bản “Nhàn” (Nguyễn Bỉnh Khiêm) gắn liền với đời
sống thực tiễn (2014), …
Nhìn chung, trong các tài liệu, các công trình nghiên cứu, các tác giả mới
chỉ dừng lại ở việc khẳng định sự cần thiết của việc dạy văn gắn với đời sống còn
gắn kết văn học với đời sống như thế nào, có những biện pháp, cách thức nào có thể
tạo ra sự kết nối ấy, … thì đó vẫn là một vấn đề còn bỏ ngỏ.
2.2. Những nghiên cứu về dạy học truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 ở
THPT
Sự xuất hiện của mảng văn học Việt Nam sau 1975 nói chung, trong đó có
truyện ngắn nói riêng trong Chương trình và SGK Ngữ văn THPT là một sự thay
đổi theo chiều hướng tích cực để việc dạy học văn từng bước bắt nhịp với sự vận
16


động của đời sống, góp phần rút ngắn khoảng cách giữa văn học nhà trường và cuộc
sống. Bởi thế, những truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 và việc dạy học các tác
phẩm này luôn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Do
giới hạn của đề tài, ở đây, chúng tôi chủ yếu tìm hiểu những công trình liên quan
đến việc giảng dạy hoặc có tác dụng định hướng cho việc dạy học những truyện
ngắn này.
Cho tới nay đã có rất nhiều cuốn sách, công trình nghiên cứu của các tác giả,
các nhà phê bình văn học, hàng trăm bài báo, khóa luận, luận văn thạc sĩ, luận án
tiến sĩ thuộc các chuyên ngành văn học đã nghiên cứu, khái quát, tổng hợp về
những đặc điểm, những đổi mới, những thành tựu và đóng góp của văn học sau
1975, tạo cơ sở cho việc dạy học thể loại truyện ngắn.
Trước tiên phải kể đến cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - những vấn đề
nghiên cứu và giảng dạy của tác giả Nguyễn Văn Long và Lã Nhâm Thìn đồng chủ
biên (Nxb Giáo dục, 2006). Cuốn sách là tập hợp những công trình nghiên cứu của
các nhà khoa học trong cả nước tham dự Hội thảo khoa học kỉ niệm 30 năm văn học
Việt Nam sau 1975, do trường ĐHSPHN tổ chức. Cuốn sách đã góp phần khẳng

định những kết tinh, định hình những giá trị của văn học Việt Nam trong thời kì đổi
mới và hội nhập. Từ đó, các tác giả đã đưa ra một số lưu ý khi dạy học các tác phẩm
sau 1975 trong nhà trường phổ thông có giá trị định hướng cho người dạy và người
học.
Giáo trình Văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 (PGS
Nguyễn Văn Long chủ biên, Nxb ĐHSP, 2006) đã dành những trang đánh giá rất
cao cho những nỗ lực cách tân mang ý nghĩa đột phá của thể loại truyện ngắn trên
con đường hiện đại hóa: “Cảm tưởng của số đông độc giả rằng truyện ngắn tập
trung được nhiều nhất những yếu tố có tính cách tân trong văn xuôi thời đổi mới, và
nhiều kết tinh nghệ thuật hơn hẳn so với các thể loại khác là có cơ sở. Với truyện
ngắn, văn học Việt Nam đang tiệm cận văn học đương đại thế giới ở tư duy thể
loại”.

17


Bên cạnh đó, không thể không kể đến chuyên luận Những đổi mới của văn
xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975 của tác giả Nguyễn Thị Bình (Nxb ĐHSP,
2007). Đây là một trong những công trình có ý nghĩa tổng kết những thành tựu cách
tân quan trọng nhất của văn xuôi Việt Nam khoảng 20 năm sau 1975, trong tương
quan so sánh với văn xuôi Việt Nam thời kì 1945 – 1975. Những đổi mới căn bản
của văn xuôi (trong đó có truyện ngắn) thời kì này được tác giả nhận diện trên ba
bình diện cơ bản: Đổi mới quan niệm nhà văn, quan niệm nghệ thuật về con người
và những cách tân nổi bật trên bình diện thể loại. Chuyên luận không chỉ giúp người
đọc nhận diện được sự vận động trong ý thức nghệ thuật của người cầm bút mà còn
góp phần khẳng định những tên tuổi, những tài năng trong văn xuôi trong giai đoạn
này.
Tác giả Bùi Việt Thắng dành sự quan tâm đặc biệt đến thể loại truyện ngắn,
với hai cuốn sách Bình luận truyện ngắn (Nxb Văn học, 1999) và Truyện ngắn –
Những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể loại (Nxb Đại học Quốc gia, 2000). Ngoài

việc trình bày một cách có hệ thống những vấn đề lí thuyết về thể loại truyện ngắn,
giới thiệu ý kiến của nhiều nhà văn về thể loại này, tác giả đã phác họa diện mạo
của truyện ngắn hiện đại Việt Nam và phê bình một số tác giả, tác phẩm truyện
ngắn tiêu biểu, chủ yếu từ thời kì đổi mới (Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Lê
Minh Khuê, …)
Dạy học truyện ngắn sau 1975 ở THPT cũng là đề tài thu hút nhiều tác giả,
nghiên cứu sinh, học viên và sinh viên các trường đại học. Có thể kể ra như: Luận
án TS Dạy học truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở trường Phổ thông của Đặng Thị
Mây (ĐHSPHN, 2010); Luận văn Phương hướng dạy học văn xuôi Việt Nam sau
1975 trong nhà trường phổ thông của Hoàng Quỳnh Liên (ĐHSPHN, 2006); Luận
văn Hình thức các cuộc giao tiếp văn học trong dạy học đọc hiểu truyện ngắn Việt
Nam sau 1975 ở THPT của Nguyễn Thị Thu (ĐHSPHN, 2011); Luận văn Sử dụng
tình huống dạy học trong “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu của
Nguyễn Thị Minh Hà (ĐHSPHN, 2014); Luận văn Vận dụng chiến thuật đọc suy
luận vào dạy học đọc hiểu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở THPT của Lê Thị
18


Hồng (ĐHSPHN, 2014); Luận văn Biện pháp tổ chức hoạt động hợp tác trong dạy
học truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu của Đỗ Thị Kim
Thoa (ĐHSPHN, 2014); Luận văn Dạy học truyện ngắn “Một người Hà Nội” của
Nguyễn Khải ở trường THPT nhằm phát triển năng lực học sinh của Đinh Thị Thùy
Linh (ĐHSPHN, 2015)… Bên cạnh đó là những khóa luận tốt nghiệp như: Khóa
luận Thiết kế thử nghiệm bài dạy học tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” theo
hướng tiếp cận quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu của Trần Thị Lan
Phương (ĐHSPHN, 2003); Khóa luận Hướng dẫn học sinh tiếp nhận truyện ngắn
“Một người Hà Nội” theo hướng tiếp cận quan niệm nghệ thuật về con người của
Lê Thị Xuân (ĐHSPHN, 2004); Khóa luận Dạy học “Chiếc thuyền ngoài xa” theo
hướng đối thoại của Ngô Phương Uyên (ĐHSPHN, 2009);… Nhìn chung, các tác
giả đã đưa ra những phương pháp, biện pháp, chiến thuật có tính chất thử nghiệm để

dạy học các tác phẩm truyện ngắn sau 1975 nhằm mục đích vừa phát huy được vai
trò trung tâm của người học, vừa đem lại hiệu quả giảng dạy cao.
Tuy nhiên, dạy học truyện ngắn Việt Nam sau 1975 theo hướng kết nối văn
học với đời sống là một vấn đề còn khá mới mẻ. Vì thế, trong luận văn của mình,
tôi mạnh dạn triển khai hoạt động kết nối các tác phẩm này với đời sống với hi vọng
rằng sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở
THPT.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu nhằm mục đích khẳng định ý nghĩa của việc kết nối
văn học với đời sống trong dạy học đọc hiểu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở
THPT, chỉ ra được những cách thức kết nối văn học với đời sống. Qua đó, phát triển
năng lực đọc hiểu văn bản của học sinh, bồi dưỡng phẩm chất, kĩ năng sống cho
người học.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu hoạt động kết nối văn học với đời sống trong dạy học đọc hiểu
truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở THPT, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
19


- Tìm hiểu, xây dựng cơ sở lí luận của hoạt động kết nối văn học với đời
sống trong dạy học tác phẩm văn chương nói chung, dạy học đọc hiểu truyện ngắn
Việt Nam sau 1975 ở THPT nói riêng.
- Tìm hiểu thực trạng kết nối văn học với đời sống trong dạy học đọc hiểu
truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở THPT.
- Đề xuất một số biện pháp, cách thức để tạo ra kết nối văn học với đời sống
trong dạy học đọc hiểu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở THPT.
- Thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng các biện pháp đã đề xuất.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Hoạt động kết nối văn học với đời sống trong dạy học đọc hiểu truyện ngắn
Việt Nam sau 1975 ở THPT.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Truyện ngắn Việt Nam sau 1975, tập trung vào các tác phẩm được dạy học ở
trường THPT (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu, Một người Hà Nội –
Nguyễn Khải) và hoạt động dạy học đọc hiểu các tác phẩm này.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, người viết đã sử dụng kết hợp các phương
pháp nghiên cứu sau:
5.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp lí luận
- Tổng hợp, hệ thống các kiến thức lí luận về kết nối văn học với đời sống để
vận dụng vào hoạt động kết nối văn học với đời sống trong dạy học truyện ngắn
Việt Nam sau 1975 ở THPT.
- Nghiên cứu về đọc hiểu tác phẩm văn chương nói chung, đọc hiểu truyện
ngắn nói riêng, từ đó làm cơ sở cho hoạt động đọc hiểu truyện ngắn Việt Nam sau
1975.
5.2. Phương pháp điều tra, thống kê, khảo sát

20


- Điều tra, khảo sát thực trạng của hoạt động kết nối văn học với đời sống
trong SGK, SGV và quá trình dạy học đọc hiểu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở
THPT.
- Thống kê các kết quả thực nghiệm sư phạm.
5.3. Phương pháp thực nghiệm
- Vận dụng những nghiên cứu lí luận vào thiết kế và thực nghiệm giáo án:
Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.
- So sánh hiệu quả giờ học theo hướng thiết kế mới với cách dạy hiện hành.
6. Đóng góp của luận văn

- Luận văn tiếp tục phát triển, bổ sung, khẳng định ý nghĩa, tầm quan trọng
của hoạt động kết nối văn học với đời sống trong dạy học tác phẩm văn chương nói
chung, dạy học đọc hiểu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở THPT nói riêng.
- Đề xuất các biện pháp, cách thức kết nối văn học với đời sống trong dạy
học đọc hiểu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở THPT.
- Bước đầu hiện thực hóa ý tưởng của đề tài thông qua một giáo án thiết kế
thử nghiệm có tính khả thi làm cơ sở cho giáo viên và học sinh vận dụng trong quá
trình dạy học các tác phẩm này.
- Kết nối văn học với đời sống trong trong dạy học đọc hiểu truyện ngắn Việt
Nam sau 1975 ở THPT sẽ giúp học sinh không chỉ hiểu sâu sắc nội dung, ý nghĩa
của các tác phẩm mà còn góp phần hình thành, phát triển những năng lực, phẩm
chất cần thiết cho các em.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và thư mục tham khảo, nội dung chính
của luận văn gồm ba chương:
Chương 1. Mối quan hệ văn học – đời sống và vai trò của việc kết nối văn
học với đời sống trong dạy học đọc hiểu văn bản văn chương ở trường phổ thông
Chương 2. Tổ chức kết nối văn học với đời sống trong dạy học đọc hiểu
truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở THPT
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm
21


PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
MỐI QUAN HỆ VĂN HỌC – ĐỜI SỐNG
VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆC KẾT NỐI VĂN HỌC VỚI ĐỜI SỐNG
TRONG DẠY HỌC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VĂN CHƢƠNG
Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG
1.1. Mối quan hệ giữa văn học và đời sống

Văn học và đời sống luôn tồn tại trong mối quan hệ mật thiết, tác động qua
lại lẫn nhau. Có thể nói đời sống là điểm xuất phát và cũng là đích đến cuối cùng
của văn học.
1.1.1. Văn học bắt nguồn từ đời sống
Từ xa xưa, bằng trực giác, người ta đã biết được văn học bắt nguồn từ đời
sống. Ở Trung Quốc từ xưa đã có thuyết “cảm vật”. Theo Lưu Hiệp “Mùa xuân,
mùa thu thay thế nhau, âm dương xen nhau, cảnh vật biến đổi, lòng người cũng xao
xuyến”, vì thế mà theo Lục Cơ văn chương “tùy theo bốn mùa mà than tiếc cái đã
mất, nhìn ngắm vạn vật mà lòng bối rối; buồn vì cành thu khô lá rụng, vui vì mùa
xuân thơm cành lá non mềm” [Dẫn theo Trần Đình Sử (2011), Giáo trình Lí luận
văn học, Tập 1, Nxb ĐHSP, trang 55].
Ở phương Tây, từ Hêraclít đến Aristote đều xem nghệ thuật bắt nguồn từ sự
“bắt chước” các hoạt động và cuộc sống của con người. Aristote xem bản chất nghệ
thuật là sự mô phỏng. Trước Aristote, Platon chủ trương một thuyết bắt chước khác:
nghệ thuật bắt chước ý niệm. Nghệ thuật mô phỏng thế giới, là sự “mô phỏng của
mô phỏng”.
Như thế, dù cho các lí thuyết lập luận khác nhau nhưng đều thừa nhận đời
sống con người – hành động, tình cảm, ý chí có trước, văn học nghệ thuật đều bắt
nguồn từ đó mà ra.

22


Ở nước ta hiện nay, vận dụng thuyết phản ánh luận của Lênin vào nghiên
cứu mối quan hệ giữa văn học với đời sống, các tác giả của cuốn Lí luận văn học,
Tập 1 do giáo sư Phương Lựu chủ biên đã cho rằng “văn học cũng như nghệ thuật
nói chung là lĩnh vực của tình cảm thẩm mĩ, nhưng vẫn là một loại hình thái ý thức
xã hội, phản ánh tồn tại xã hội. Mối quan hệ giữa văn học với hiện thực là mối
quan hệ giữa cái phản ánh và cái được phản ánh” [32, 80]. Hiện thực là nguồn gốc
của nhận thức, của ý thức, cho nên “đời sống là mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng nghệ

thuật và đồng thời là cái chìa khóa giải thích được những hiện tượng phức tạp của
nghệ thuật” [32, 80]. Xét đến cùng bất kì nền văn nghệ nào cũng hình thành trên
một cơ sở hiện thực nhất định. Bất kì một người nghệ sĩ nào cũng thoát thai từ một
môi trường sống nào đó. Bất kì một tác phẩm nào cũng là sự khúc xạ những vấn đề
trong cuộc sống. Tính hiện thực, do đó, là thuộc tính tất yếu của văn nghệ.
Phản ánh hiện thực đời sống, văn học có khả năng hiểu biết và khám phá
được bản chất hoặc những khía cạnh bản chất của hiện thực làm nên tính chân thật,
giá trị nhận thức của tác phẩm văn học. Những tác phẩm lớn là những tác phẩm
đem lại cho người đọc những nhận thức, hiểu biết sâu sắc, mới mẻ về cuộc sống, về
con người. Đặc biệt, với chủ nghĩa hiện thực, phản ánh chân thực cuộc sống đã trở
thành nguyên tắc quan trọng nhất, chi phối mọi sáng tạo nghệ thuật. Có thể khẳng
định chỉ đến chủ nghĩa hiện thực giá trị và tác dụng nhận thức của văn học mới đạt
đến cao độ trong lịch sử. Vì thế, Ăngghen đã đánh giá tác phẩm của Bandắc: “mô tả
toàn bộ lịch sử của xã hội Pháp, trong đó ngay cả đến những chi tiết về kinh tế…tôi
đã học tập được nhiều hơn trong tất cả các sách của các nhà sử học, các nhà kinh
tế học, các nhà thống kê chuyên nghiệp cộng lại” (Mác, Ăngghen bàn về văn học và
nghệ thuật). Lênin khẳng định: “L. Tônxtôi là tấm gương phản chiếu cách mạng
Nga”.
Tuy nhiên, tác phẩm văn học không sao chép, không phản ánh nguyên xi
cuộc sống mà nó đã được khúc xạ qua sự cảm nhận của người nghệ sĩ. Hay nói cách
khác văn học là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”. Hiện thực cuộc sống
trong văn học đã hàm chứa cái nhìn, thái độ, quan điểm, sự đánh giá của nhà văn.
23


Không chỉ phản ánh thế giới khách quan, văn học còn biểu hiện thế giới chủ
quan của con người. Garôđi cho rằng: “Sáng tác văn nghệ có nhiệm vụ không phải
tái hiện thế giới mà là biểu hiện khát vọng của con người” (Về một chủ nghĩa hiện
thực không bờ bến, Paris, 1963, trang 35). Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã quan
niệm: “Văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con

người”. Có thể nói, đối tượng trung tâm của văn học là cuộc sống, sự sống của con
người. Đó là những con người cá thể, cụ thể, có tư tưởng, tình cảm, hành động,
dáng hình, … vừa rất riêng nhưng lại vừa mang những nét chung đại diện cho một
lớp người, một giai cấp, một tầng lớp trong xã hội.
Ngoài ra, văn học còn sáng tạo ra thế giới khác trên cơ sở thế giới thực tại.
Thế giới nghệ thuật mà văn học sáng tạo ra không bao giờ trùng khít với cuộc đời
thực nhưng cũng không bao giờ thoát li hoàn toàn với cuộc đời. Cuộc đời là nguồn
cảm hứng, là cơ sở của mọi sáng tạo nghệ thuật. Khi tìm hiểu, phân tích tác phẩm
văn học, việc so sánh, đối chiếu văn học với đời sống là cần thiết nhưng không nên
đồng nhất chân lí nghệ thuật với chân lí đời sống. Trong Bút kí triết học, Lênin tỏ ý
tán thành ý kiến của Phơbách: “Nghệ thuật không đòi hỏi phải thừa nhận các tác
phẩm của nó như là hiện thực” (Lênin về văn học và nghệ thuật).
Là một loại hình nghệ thuật, văn học không phản ánh, biểu hiện đời sống
trực tiếp mà gián tiếp thông qua hình tượng nghệ thuật. Nói theo cách khác, hình
tượng nghệ thuật là phương tiện để nhà văn nhận thức, phản ánh, khái quát các hiện
tượng đời sống. Qua hình tượng nghệ thuật, người đọc hình dung, tưởng tượng ra
thế giới hiện thực, cảm nhận được quan điểm, thái độ của nhà văn bộc lộ trong tác
phẩm.
1.1.2. Văn học tác động trở lại đời sống
Văn học bắt nguồn từ đời sống, phản ánh, biểu hiện đời sống. Nhưng khi tác
phẩm văn học ra đời được người đọc tiếp nhận và qua người đọc nó tác động trở lại
đời sống, góp phần "cải tạo và sáng tạo thế giới theo chiều hướng tiến lên" [32, 96].
Sở dĩ văn học có thể tác động đến đời sống là bởi văn học là một hình thái ý thức xã
hội đa chức năng. Trong đó, chức năng thẩm mĩ là chức năng cơ bản, bao trùm của
24


văn học. Thông qua chức năng này, tác phẩm văn học mới thực hiện được các chức
năng khác như: chức năng nhận thức, chức năng giáo dục, chức năng giao tiếp, chức
năng giải trí, …

Văn học phản ánh hiện thực trong tính sinh động, toàn vẹn của nó. Bởi vậy,
giống như những bộ bách khoa toàn thư về cuộc sống, văn học “mở ra chân trời
mới”, cung cấp cho người đọc những kiến thức phong phú, đa dạng về thế giới xung
quanh, về con người, về chính bản thân mình, … Những hiểu biết ấy vượt qua giới
hạn của thời gian, không gian giúp cho con người “lớn dần thêm” về trí tuệ, hoàn
thiện thêm về nhân cách.
Không dừng ở chức năng nhận thức, văn học còn “giáo dục phẩm chất
người, giáo dục đạo đức, cách sống, cách ứng xử phù hợp với lẽ phải, tình thương,
trách nhiệm, phù hợp với những yêu cầu chính đáng của những hoàn cảnh lớn nhỏ
có tính lịch sử cụ thể” [32, 222]. Khác với đạo đức, pháp luật, chính trị, … văn học
tác động vào tình cảm, suy nghĩ của con người thông qua hình tượng và bằng con
đường xúc động, lan truyền tình cảm nên chức năng giáo dục của văn học trở thành
chức năng tự giáo dục. Đọc tác phẩm văn học sẽ giúp cho ta biết yêu, biết ghét, biết
vui buồn, cảm thông, sẻ chia với những người xung quanh để ta sống đẹp hơn, có ý
nghĩa hơn. Quả thật, nói như nhà văn Thạch Lam: “Văn chương là một thứ khí giới
thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối
và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Như thế, qua sự tiếp nhận của người đọc, văn học tác động vào nhận thức,
tâm hồn, tình cảm, nhân cách của từng con người, từ đó tác động, thay đổi đời sống
xã hội nói chung.
Có thể khẳng định giữa văn học với đời sống có mối quan hệ khăng khít, mật
thiết, tác động qua lại với nhau. Vì thế, khi nghiên cứu, tìm hiểu, dạy học các tác
phẩm văn học, người nghiên cứu, người dạy và người học không thể tách rời văn
học với đời sống.
1.2. Vai trò của việc kết nối văn học với đời sống trong dạy học đọc hiểu
văn bản văn chƣơng
25



×