Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ BIỆN PHÁP QUẢN lý của HIỆU TRƯỞNG TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ kết QUẢ học tập của học SINH các TRƯỜNG TRUNG học cơ sở HUYỆN KIM bôi, TỈNH hòa BÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (932.06 KB, 95 trang )

1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÍ CỦA HIỆU TRƯỞNG TRONG
HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA
HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.2. Nội dung quản lí của Hiệu trưởng trong hoạt động kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập của học sinh các trường Trung học
cơ sở
1.3. Các yếu tố chi phối đến quản lí của Hiệu trưởng trong hoạt
động kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh các
trường trung học cơ sở
Chương 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÍ CỦA HIỆU TRƯỞNG TRONG HOẠT
ĐỘNG KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC
SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ HUYỆN KIM BÔI,
TỈNH HOÀ BÌNH HIỆN NAY
2.1. Khái quát về giáo dục cấp Trung học cơ sở huyện Kim Bôi,
tỉnh Hòa Bình
2.2. Thực trạng quản lí của Hiệu trưởng trong hoạt động kiểm
tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh các trường Trung
học cơ sở huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình hiện nay
Chương 3 YÊU CẦU VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÍ CỦA HIỆU TRƯỞNG
TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC
TẬP CỦA HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
HUYỆN KIM BÔI, TỈNH HÒA BÌNH HIỆN NAY
3.1. Yêu cầu quản lí của Hiệu trưởng trong hoạt động kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập của học sinh các trường Trung học
cơ sở huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình hiện nay


3.2. Các biện pháp quản lí của Hiệu trưởng trong hoạt động
kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh các trường
Trung học cơ sở huyện Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình hiện nay
3.3. Khảo nghiệm tính cần thiết, tính khả thi của các biện pháp
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Trang
3

15
15

29

33

38

38

42

57

57

60
78

83
86
91


2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở bất cứ quốc gia nào, trong bất cứ thời kì nào thì GD&ĐT luôn là yếu
tố quan trọng hàng đầu trong việc thúc đẩy sự phát triển toàn diện của đất
nước. Ở Việt Nam cũng vậy, Cương lĩnh phát triển đất nước trong thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (Đại hội lần thứ XI), Đảng ta tiếp tục xác định: “Giáo
dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn
hoá và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển
khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo
là đầu tư cho phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo
theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn
hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc
lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học
tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời” [9, tr. 6].
Quá trình dạy học có vai trò then chốt trong việc thực hiện các mục tiêu
GD&ĐT. Nói đến quá trình dạy học là nói đến đội ngũ GV, đối tượng HS,
CSVC, nội dung chương trình, phương pháp dạy học và KT, ĐG. Bàn về KT,
ĐG, tác giả Đặng Huỳnh Mai, nguyên Thứ trưởng Bộ GD&ĐT, trong Hội
thảo về “Vai trò của hoạt động kiểm tra, đánh giá trong đổi mới giáo dục ở
Việt Nam” tại thành phố Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nói đến vấn đề kiểm
tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh có lẽ hầu hết các nhà khoa học, các
nhà giáo dục học đều thừa nhận đó là một phạm trù của lý luận dạy học và là
một lĩnh vực vô cùng quan trọng” [25, tr. 4]. KT, ĐG thực sự là một bộ phận

không thể tách rời của quá trình dạy học, một bộ phận quan trọng của quản lí
chất lượng dạy học và quản lí giáo dục.


3
Kiểm tra, đánh giá KQHT của HS sẽ trở thành động lực để nâng cao chất
lượng dạy học khi được thực hiện đảm bảo đúng quy trình, trung thực, khách
quan, công bằng và chính xác. Khẳng định tầm quan trọng của KT, ĐG, tác
giả Lý Minh Tiên, Phó trưởng khoa tâm lý giáo dục trường Đại học sư phạm
thành phố Hồ Chí Minh đã nêu: “Việc kiểm tra, đánh giá đúng, chính xác kết
quả học tập của học sinh chiếm giữ vai trò rất quan trọng. Nó cung cấp các
thông tin phản hồi đến các chủ thể có liên quan: học sinh, giáo viên, nhà quản
lí giáo dục. Thông tin đánh giá khách quan, trung thực giúp học sinh tự điều
chỉnh việc học tập, giúp giáo viên hiểu được trình độ của học sinh, từ đó điều
chỉnh các bước giảng dạy phù hợp, giúp các nhà quản lí thẩm tra chất lượng
giảng dạy của giáo viên, chất lượng học tập của học sinh” [43, tr. 89]. Như
vậy: “Đánh giá học sinh sẽ có tác động lớn trong việc định hướng và thúc đẩy
hoạt động dạy học” [26, tr. 12].
Tính trung thực, khách quan và chính xác trong KT, ĐG KQHT của HS
phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như: CSVC; nội dung, hình thức, phương pháp
KT, ĐG; ý thức tuân thủ của GV, HS… trong đó, công tác quản lí của HT có ý
nghĩa then chốt. Để kết quả KT, ĐG được trung thực, khách quan, công bằng
và chính xác, đòi hỏi người HT phải có những biện pháp quản lí khoa học,
phù hợp đồng bộ và hiệu quả.
Tuy nhiên, nhìn nhận về vấn đề quản lí hoạt động KT, ĐG KQ HT của
HS các trường THCS trên địa bàn huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình trong những
năm qua, tác giả nhận thấy công tác quản lí của HT đối với hoạt động này vẫn
còn bộc lộ một số hạn chế đó là: một số HT chưa nhận thức hết vai trò, trách
nhiệm của mình nên giao phó toàn bộ hoạt động KT, ĐG cho Phó HT quản lí,
chỉ đạo mà thiếu kiểm tra, giám sát; không xây dựng kế hoạch KT, ĐG; buông

lỏng quản lí ở một số khâu (khâu coi kiểm tra, khâu chấm bài, trả bài, vào
điểm…). Việc quản lí lực lượng KT, ĐG đôi khi chưa chặt chẽ; quản lí kết


4
quả KT, ĐG chưa thật khoa học… dẫn đến kết quả KT, ĐG thiếu chính xác,
chưa phản ánh đúng chất lượng giáo dục; do đó chưa có những điều chỉnh và
định hướng cần thiết, kịp thời để thúc đẩy quá trình dạy học trong những giai
đoạn tiếp theo. Mặt khác, kết quả KT, ĐG không công bằng, chính xác, khách
quan sẽ tạo ra những ảnh hưởng xấu, làm cho GV, HS thiếu niềm tin và mất đi
thái độ tích cực trong hoạt động dạy và học nói chung và hoạt động KT, ĐG
nói riêng.
Vấn đề nêu trên đặt ra yêu cầu cấp thiết phải xây dựng, củng cố và
nâng cao hiệu quả công tác quản lí của HT trong hoạt động KT, ĐG KQHT
của HS. Đây là vấn đề cốt lõi, là giải pháp thiết thực để đảm bảo cho việc KT,
ĐG thu được kết quả khách quan, chính xác, phản ánh trung thực chất lượng
giáo dục, góp phần vào việc nâng cao chất lượng dạy học và thực hiện thành
công các mục tiêu GD&ĐT. Với ý nghĩa đó, tác giả chọn: "Biện pháp quản lí
của Hiệu trưởng trong hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của
học sinh các trường Trung học cơ sở huyện Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình" làm
đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Cùng với sự ra đời của lí luận dạy học, lí luận KT, ĐG và quản lí KT,
ĐG là một phạm trù được các nhà nghiên cứu, các nhà hoạt động thực tiễn về
giáo dục rất quan tâm vì nó có chức năng đặc biệt quan trọng trong hoạt động
giáo dục.
Đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu, bài viết của các tập thể và cá
nhân trong và ngoài nước đề cập đến KT, ĐG và quản lí KT, ĐG. Mỗi công
trình khai thác ở một góc độ khác nhau. Có thể khái quát một số công trình
tiêu biểu như:

* Trên thế giới:
- Về kiểm tra, đánh giá


5
Thời kì tiền tư bản chủ nghĩa (Thế kỉ XV – XVIII), lần đầu tiên trong
lịch sử giáo dục thế giới, nhà sư phạm lỗi lạc của Tiệp Khắc J.A.Comensky
(1592 - 1670) đã đặt nền móng cho lí luận dạy học ở nhà trường và xây dựng
thành một hệ thống vấn đề trong tác phẩm “Lí luận dạy học vĩ đại”. Trong đó,
có nêu ý nghĩa, vai trò của KT, ĐG quá trình lĩnh hội tri thức của HS. Ông lưu
ý việc KT, ĐG phải căn cứ vào mục tiêu học tập và hướng dẫn HS tự KT, ĐG
kiến thức của bản thân [16].
Ở Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông âu trước đây đã có nhiều
tác giả nghiên cứu về KT, ĐG.
Tác giả T.A.Ilina trong cuốn “Giáo dục học, tập II”, đã nghiên cứu và
nhấn mạnh vai trò của KT, ĐG. Bà coi: “Việc kiểm tra và đánh giá kiến thức,
kĩ năng và kĩ xảo là rất quan trọng và là thành phần cấu tạo cần thiết của quá
trình dạy học” [40, tr. 117]. Đồng thời, bà cũng đưa ra hệ thống các phương
pháp KT, ĐG kiến thức trong nhà trường Xô Viết. Về vấn đề đánh giá, bà cho
rằng: “Đánh giá là một phương tiện kích thích mạnh mẽ và có một ý nghĩa
giáo dục to lớn trong điều kiện nếu như nó được giáo viên sử dụng đúng đắn”
[40, tr. 147].
Trong cuốn “Chuẩn bị giờ dạy lịch sử như thế nào”, tác giả N.G.Đairi
khẳng định: “Kiểm tra không chỉ giới hạn ở chỗ phát hiện và cho điểm kiến thức
mà kiểm tra còn thúc đẩy học sinh học tập. Ngoài chức năng kiểm tra và giáo dục,
kiểm tra còn có chức năng giáo dưỡng và phát triển tư duy” [29, tr. 64].
Tác giả N.V.Savin trong cuốn “Giáo dục học, Tập I” đã nêu rõ: “Kiểm
tra là một phương tiện quan trọng không chỉ để ngăn ngừa việc lãng quên mà
còn để nắm được tri thức một cách vững chắc hơn” [30, tr. 231]. Đồng thời,
ông cũng nhận thấy: “Đánh giá có thể trở thành một phương tiện quan trọng

để điều khiển sự học tập của học sinh” [30, tr. 246].


6
Trong một công trình nghiên cứu của mình, các tác giả Nguyễn Thị
Côi, Nguyễn Hữu Trí đã đề cập đến quan điểm của R.F.Mager, một nhà
nghiên cứu người Pháp, trong đó R.F.Mager cho rằng: “Đánh giá là việc miêu
tả tình hình học sinh và giáo viên để quyết định công việc cần phải tiếp tục và
giúp học sinh tiến bộ” [7, tr. 34].
Tác giả Trần Thị Tuyết Oanh, trong giáo trình Đánh giá và đo lường kết
quả học tập, đã dẫn lời của P.E.Griffin: “Đánh giá là đưa ra phán quyết về giá
trị của một sự kiện, nó bao hàm việc thu thập thông tin sử dụng trong việc đánh
giá của một chương trình, một sản phẩm, một tiến trình, mục tiêu hay tiểm
năng ứng dụng của một cách thức đưa ra nhằm mục đích nhất định” [36, tr 8].
Như vậy vấn đề KT, ĐG đã được nhiều học giả nước ngoài nghiên cứu.
Mặc dù mỗi quan điểm đề cập đến KT, ĐG theo một cách khác nhau, nhưng
tất cả các tác giả đều thống nhất trong việc khẳng định vai trò quan trọng của
KT, ĐG trong giáo dục.
- Về quản lí kiểm tra, đánh giá
Trong luận án “Nghiên cứu quản lí kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
trong giáo dục đại học ở Việt Nam” (2011), tác giả Cấn Thị Thanh Hương đã
nghiên cứu, so sánh và chỉ ra rằng: Ở nước ngoài, quản lí KT, ĐG kết quả
học tập, đặc biệt là quản lí KT, ĐG kết quả học tập trong giáo dục ĐH được
các nước rất quan tâm. Những tiêu chí của các cơ quan kiểm định chất lượng
là thước đo hiệu quả hoạt động quản lí KT, ĐG.
* Ở Việt Nam:
- Về kiểm tra, đánh giá
Kế thừa những thành tựu nghiên cứu về KT, ĐG tri thức HS của thế
giới, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu và nhiều bài viết tiêu biểu
của các tác giả về KT, ĐG được công bố.



7
Các bài viết của các tác giả như: “Kiểm tra việc lĩnh hội tri thức của
học sinh”, Lê Khánh Bằng [3], “Đảm bảo tính khách quan trong kiểm tra,
đánh giá kiến thức học sinh” Hà Thị Đức [11], “Đánh giá trong giáo dục”
Trần Bá Hoành [14], “Đánh giá kết quả đào tạo học sinh phổ thông”, Lưu
Xuân Mới [27]... đã xoay quanh thực trạng và giải pháp KT, ĐG của nền giáo
dục nước ta trong vài thập kỉ gần đây.
Tác giả Đặng Vũ Hoạt với tư cách là người nghiên cứu sâu lí luận dạy
học đã trình bày các vấn đề về vị trí, chức năng, các quan điểm KT, ĐG tri
thức của HS dưới góc độ lí luận dạy học hiện nay. Theo tác giả: “Kiểm tra,
đánh giá tri thức là một khâu không thể tách rời của quá trình dạy học. Khi
tiến hành kiểm tra, đánh giá cần thực hiện tốt chức năng phát hiện – điều
chỉnh, chức năng củng cố - phát triển, chức năng giáo dục. Để thực hiện tốt
các chức năng đó, việc kiểm tra, đánh giá cần tuân theo các nguyên tắc sau:
Đảm bảo tính thường xuyên, tính hệ thống, tính toàn diện, tính phát triển và
đặc biệt là tính khách quan” [15].
Tác giả Phó Đức Hoà với luận án “Xây dựng quy trình đánh giá tri thức
củ,a học sinh tiểu học” [13]; tác giả Trần Thị Tuyết Oanh với giáo trình
“Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập” [35], Nguyễn Thị Thanh với công trình
nghiên cứu “Quy trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập” [41], đã đi sâu vào
nghiên cứu một cách có hệ thống những cơ sở lí luận chung về vấn đề KT,
ĐG KQHT của HS. Đây là những công trình nghiên cứu đã được công nhận
và chính thức được sử dụng làm giáo trình giảng dạy trong các trường cán bộ
quản lí và đào tạo, các trường sư phạm.
Theo tác giả Lê Đức Ngọc, Viện nghiên cứu giáo dục, Trường Đại học
sư phạm thành phố Hồ Chí Minh thì: “KT, ĐG là công đoạn quyết định chất
lượng của quá trình giảng dạy và học tập. Đối với GV, KT, ĐG giúp GV biết
được hiệu quả và chất lượng giảng dạy. Đối với người học, kiểm tra, đánh giá



8
giúp cho người học biết được chất lượng học tập. Đối với nhà quản lí, KT,
ĐG giúp cho họ điều chỉnh chương trình đào tạo, điều chỉnh việc tổ chức
giảng dạy và học tập” [44, tr. 117].
Tác giả Bùi Thị Kim Dung trong bài viết “Kiểm tra và thi cử trong nhà
trường phổ thông - Lí luận và thực tiễn”, khẳng định: “Kiểm tra và thi cử là
một bộ phận không thể tách rời của hoạt động dạy - học và đang được sử
dụng như một giải pháp quan trọng thúc đẩy và cải tiến việc dạy học trong
trường phổ thông” [8, tr. 18].
Đăng trên Tạp chí Khoa học - Trường ĐH Sư phạm TP. HCM, tác giả
Hồ Sỹ Anh đã so sánh KT, ĐG theo cách truyền thống (hướng vào nội dung)
với KT, ĐG theo hướng tiếp cận năng lực HS và chỉ ra những hạn chế trong
KT, ĐG ở giáo dục phổ thông hiện nay, đồng thời tác giả cũng đề xuất một số
giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động KT, ĐG và khẳng định đổi mới
KT, ĐG là vấn đề không chỉ đặt ra đối với mỗi GV, mỗi trường học mà còn
với cả hệ thống giáo dục phổ thông [3].
- Về quản lí kiểm tra, đánh giá
Ở nước ta, vấn đề quản lí KT, ĐG cũng đã được các nhà quản lí, các
trường ĐH, các cơ sở giáo dục quan tâm. Mỗi cơ sở giáo dục, mỗi CBQL tiếp
cận theo một khía cạnh khác nhau nên chưa đề xuất được những giải pháp
quản lí một cách thật sự khoa học, đồng bộ, hệ thống. Tuy nhiên, trong một số
nghiên cứu của các tác giả như: “Biện pháp quản lí kiểm tra - đánh giá kết quả
học tập của học viên tại Học viện chính trị - hành chính khu vực III”, Trần Thị
Hạnh, ĐH Đà Nẵng (2011); “Biện pháp quản lí công tác kiểm tra – đánh giá
kết quả học tập của học sinh THPT trên địa bàn thành phố Việt Trì, tỉnh Phú
Thọ”, Nguyễn Tiến Minh, ĐH Sư phạm (2014); “Quản lí hoạt động kiểm tra
đánh giá kết quả học tập của học sinh trường Trung học cơ sở Ngô Quyền
thành phố Hải Phòng”, Trần Thị Kim Xuyến, ĐH Giáo dục (2011), có thể



9
nhận thấy một số điểm chung đó là: các tác giả đã phân tích và đưa ra được cơ
sở lí luận về quản lí KT, ĐG KQHT, nội dung quản lí KT, ĐG KQHT và các
biện pháp quản lí KT, ĐG KQHT của người học.
Tóm lại, từ các công trình nghiên cứu trong nước và ngoài nước về vấn
đề KT, ĐG và quản lí KT, ĐG, tác giả nhận thấy:
Thứ nhất, mặc dù mỗi công trình nghiên cứu, bài viết đề cập đến KT,
ĐG, quản lí KT, ĐG theo một cách khác nhau, nhưng tất cả đều khẳng định
KT, ĐG KQHT của HS và quản lí KT, ĐG là một vấn đề đặc biệt quan trọng,
vừa tác động, vừa định hướng, vừa thúc đẩy hoạt động dạy học.
Thứ hai, KT, ĐG KQHT phải tuân thủ các yêu cầu, các quy trình, các
nguyên tắc để đảm bảo mục tiêu của KT, ĐG. Quản lí KT, ĐG phải được tiến
hành một cách khoa học, đồng bộ và có hệ thống.
Thứ ba, đổi mới KT, ĐG, nâng cao hiệu quả của KT, ĐG, góp phần
nâng cao chất lượng dạy học, đảm bảo các mục tiêu GD&ĐT là một yêu cầu
cấp bách đối với công tác quản lí KT, ĐG và các nhà quản lí giáo dục.
Như vậy, mọi nghiên cứu, luận giải đều nhằm nâng cao hiệu quả của
quản lí KT, ĐG, nâng cao chất lượng việc KT, ĐG KQHT của HS. Những biện
pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lí KT, ĐG cho các nhà quản lí giáo dục nói
chung thì đã có, nhưng biện pháp cụ thể cho HT các trường phổ thông nói riêng
đặc biệt là trường THCS thì còn rất hạn chế. Đề tài: "Biện pháp quản lí của
Hiệu trưởng trong hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học
sinh các trường Trung học cơ sở huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình" của tác giả
sẽ là một nghiên cứu mới góp phần đưa ra giải pháp để nâng cao hiệu quả của
công tác quản lí hoạt động KT, ĐG KQHT của HS trong nhà trường THCS.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn về quản lí của HT

trong hoạt động KT, ĐG KQHT của HS, đề xuất các biện pháp cơ bản nhằm


10
nâng cao chất lượng quản lí của HT trong hoạt động KT, ĐG KQHT của HS
các trường THCS huyện Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận về quản lí của HT trong hoạt động KT,
ĐG KQHT của HS THCS. Đánh giá đúng thực trạng quản lí của HT trong
hoạt động KT, ĐG KQHT của HS, xác định rõ nguyên nhân của thực trạng
quản lí của HT trong hoạt động KT, ĐG KQHT của HS các trường THCS
huyện Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình. Đề xuất những biện pháp quản lí của HT
trong hoạt động KT, ĐG KQHT của HS các trường THCS huyện Kim Bôi,
tỉnh Hòa Bình hiện nay.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quản lí của HT trong hoạt động KT, ĐG KQHT của HS.
* Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lí của HT trong hoạt động KT, ĐG KQHT của HS.
* Phạm vi nghiên cứu
Quản lí của HT trường THCS là phạm vi rộng bao gồm quản lí nhân sự,
quản lí tài chính, quản lí CSVC, quản lí hoạt động dạy - học, quản lí hoạt
động KT, ĐG... Đề tài chỉ đi vào nghiên cứu những biện pháp quản lí của HT
trong hoạt động KT, ĐG KQHT của HS các trường THCS huyện Kim Bôi,
tỉnh Hòa Bình.
Địa bàn nghiên cứu gồm 09 trường: trường THCS Nam Thượng,
trường THCS Hợp Kim, trường THCS Kim Bình; trường THCS Thị trấn Bo,
trường THCS Hạ Bì, trường THCS Vĩnh Đồng, trường THCS Thượng Bì,
trường THCS Tú Sơn, trường THCS Bắc Sơn.
Thời gian điều tra, khảo sát lấy số liệu trong 03 năm học, từ năm học

2011-2012 đến năm học 2013-2014.


11
5. Giả thuyết khoa học
Chất lượng giáo dục của các trường THCS huyện Kim Bôi, tỉnh Hoà
Bình phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó quản lí của HT đối với hoạt động
KT, ĐG KQHT của HS có vai trò then chốt. Nếu HT có nhận thức đúng về
vai trò của hoạt động KT, ĐG, có tinh thần trách nhiệm, có các biện pháp
quản lí khoa học, đồng bộ và hiệu quả thì hoạt động KT, ĐG KQHT của HS
các trường THCS sẽ khách quan, chính xác, phản ánh đúng chất lượng dạy
học, sẽ tạo động lực mạnh mẽ làm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục;
góp phần tích cực trong việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu GD&ĐT.
6. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng Sản
Việt Nam về GD&ĐT và quản lí giáo dục. Đề tài tiếp cận vấn đề nghiên cứu
theo quan điểm hệ thống, quan điểm lịch sử - lô gíc, quan điểm thực tiễn.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp phương pháp nghiên cứu của các khoa học liên
ngành và chuyên ngành, trong đó chú trọng một số phương pháp:
Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Thông qua việc đọc các tài liệu khoa học, phân tích, tổng hợp và khái
quát các vấn đề lý luận liên quan đến KT, ĐG KQHT của HS, nghiên cứu sắp
xếp thành hệ thống để hình thành giả thuyết khoa học định hướng cho quá
trình nghiên cứu vấn đề.
Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra
Tác giả xây dựng bộ phiếu hỏi ý kiến HT và GV các trường THCS.

Thông qua đó, khảo sát thực trạng KT, ĐG KQHT của HS và thăm dò tính


12
cấp thiết, khả thi những biện pháp đề xuất. Trò chuyện với GV, HS để tìm
hiểu, nắm bắt những thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện việc KT,
ĐG để khẳng định vấn đề thu được.
- Phương pháp quan sát
Tác giả tiến hành quan sát hoạt động quản lí của HT trong hoạt động
KT, ĐG KQHT của HS như: Quan sát việc coi kiểm tra, chấm bài, trả bài, ghi
điểm, phê học bạ việc quản lí hồ sơ KT, ĐG của GV, trên cơ sở đó rút ra
những kết luận cần thiết.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Thông qua các ý kiến tham luận, trao đổi tại hội nghị giao ban, sơ kết,
tổng kết năm học của Ngành; thông qua nghiên cứu báo cáo sơ kết, tổng kết
năm học, kinh nghiệm quản lí của các đơn vị, từ đó rút ra kinh nghiệm và áp
dụng trong quản lí hoạt động KT, ĐG KQHT của HS các trường THCS trên
địa bàn huyện.
- Phương pháp chuyên gia
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả thường xuyên xin ý kiến các
chuyên gia, các nhà quản lí giáo dục, các nhà sư phạm có uy tín và các GV
giỏi. Trên cơ sở đó nghiên cứu, xử lý số liệu, đề xuất các biện pháp quản lí
khả thi, hiệu quả đối với hoạt động KT, ĐG KQHT của HS.
- Phương pháp xử lý số liệu
Tác giả sử dụng phương pháp toán thống kê: thu thập và phân tích các
số liệu thống kê, phân tích kết quả điều tra sau khi khảo sát nhằm rút ra những
kết luận xác đáng.
- Phương pháp khảo nghiệm
Phương pháp khảo nghiệm để đánh giá mức độ tin cậy của biện pháp
đồng thời minh chứng tính khả thi của các biện pháp.



13
7. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lí của
HT trong hoạt động KT, ĐG KQHT của HS các trường THCS huyện Kim
Bôi; đề xuất các biện pháp quản lí của HT trong hoạt động KT, ĐG KQHT
của HS các trường THCS huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình. Sản phẩm của đề tài
có thể làm tài liệu tham khảo có giá trị cho cán bộ quản lí các trường THCS
trong và ngoài huyện.
8. Kết cấu của đề tài
Gồm: Mở đầu - 3 chương (8 tiết), kết luận và kiến nghị, danh mục tài
liệu tham khảo, phụ lục.


14
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÍ CỦA HIỆU TRƯỞNG
TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP
CỦA HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh
* Khái niệm kiểm tra
Kiểm tra là thuật ngữ có nội hàm rộng. Hiện nay còn có nhiều khái
niệm, định nghĩa về kiểm tra như:
Tác giả Đặng Bá Lãm quan niệm: “Kiểm tra là quan sát kiểm nghiệm sự
phù hợp quá trình hoạt động của khách thể với các quyết định quản lí, với các
đạo luật, các mục tiêu, đó chính là một loại hoạt động quản lí nhằm đo lường
phát hiện những sai lệch, để chấn chỉnh những công việc đang làm cho phù hợp
với mục tiêu đề ra. Kiểm tra trong quản lí trường học là phương thức thu nhận

thông tin về tình hình chất lượng, về nội dung, về tổ chức của các hoạt động
giáo dục trong nhà trường” [19].
Từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để
đánh giá, nhận xét” [45].
Theo tác giả Trần Bá Hoành, thì “Kiểm tra là cung cấp những dữ kiện
những thông tin làm cơ sở đánh giá” [14].
Tác giả Nguyễn Đức Chính cho rằng: “Kiểm tra là quá trình thu thập
thông tin một cách định lượng và định tính về các đại lượng đặc trưng như
nhận thức, tư duy, kỹ năng và các phẩm chất, nhân cách khác trong quá trình
giáo dục” [6].
Từ các khái niệm, định nghĩa trên, có thể khái quát: Kiểm tra là một
loại hoạt động quản lí nhằm đo lường, phát hiện những sai lệch để chấn
chỉnh thực hiện, nhằm đảm bảo hoàn thành mục tiêu quản lí đề ra.


15
* Khái niệm đánh giá
Đánh giá trong giáo dục là quá trình tiến hành có hệ thống để xác định
mức độ mà đối tượng đạt được qua các mục tiêu giáo dục. Đánh giá căn cứ
vào các số liệu, thông tin thu nhận được trong kiểm tra để ước lượng, nhận
định, phán đoán, đề xuất các ý kiến cho việc dạy và học đạt hiệu quả tốt hơn.
Trong Dự án Kiểm tra - Đánh giá trong dạy học, Bộ GD&ĐT đã đề cập
đến quan điểm của J.M.Deketele, trong đó J.M.Deketele cho rằng: “Đánh giá
có nghĩa là xem xét mức độ phù hợp của một tập hợp các thông tin thu được
với một tập hợp các tiêu chí thích hợp của mục tiêu đã xác định nhằm đưa ra
các quyết định theo một mục đích nào đó” [5].
Tác giả Nguyễn Bá Kim trong cuốn “Phương pháp giảng dạy toán
học” đã dẫn lời của tác giả Trần Bá Hoành cho rằng: “Đánh giá là quá trình
hình thành những nhận định, phán đoán về kết quả của công việc, dựa vào sự
phân tích những thông tin thu được, đối chiếu với những mục tiêu, tiêu chuẩn

đã đề ra, nhằm đề xuất những quyết định thích hợp để cải thiện thực trạng,
điều chỉnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc” [18, tr. 301].
Theo từ điển Giáo dục học: “Đánh giá kết quả học tập là xác định mức
độ nắm được kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo của học sinh so với yêu cầu của
chương trình đề ra” [47].
Tác giả Đỗ Hồng Anh cho rằng: “Đánh giá là quá trình thu thập và xử
lý thông tin để giúp cho quá trình lập kế hoạch hoặc ra quyết định của người
quản lí” [1, tr. 19].
Như vậy, có thể hiểu: Đánh giá trong giáo dục là quá trình thu thập và
xử lý kịp thời, có hệ thống thông tin về hiện trạng, khả năng hay nguyên nhân
của chất lượng và hiệu quả giáo dục căn cứ vào mục tiêu dạy học, mục tiêu
đào tạo làm cơ sở cho những chủ trương, biện pháp và hành động giáo dục
tiếp theo.


16
* Khái niệm kiểm tra, đánh giá
Kiểm tra, đánh giá là một khâu quan trọng, không thể tách rời của quá
trình dạy học. Toàn bộ chất lượng của quá trình dạy học đều được phản ánh
qua kết quả của KT, ĐG.
Nhà nghiên cứu giáo dục N.V.Savin khẳng định: “Đánh giá được thực
hiện trên cơ sở của kiểm tra và kiểm tra, đánh giá là hai hoạt động khác nhau
nhưng có mối quan hệ biện chứng” [30, tr. 246].
Tác giả Lê Nguyên Long cho rằng: “Nếu xem quá trình dạy học là một
chu trình khép kín thì kiểm tra, đánh giá là khâu khép kín chu trình ấy. Kiểm
tra, đánh giá là một bộ phận hợp thành tất yếu và rất quan trọng trong quá
trình dạy học. Đó là khâu cuối cùng, đồng thời khởi đầu cho một chu trình kín
tiếp theo với một chất lượng cao hơn” [21, tr. 6-7].
Theo tác giả Lưu Xuân Mới, thì: “Mọi hoạt động giáo dục đều bắt đầu
từ việc xác định mục tiêu và kết thúc bằng đánh giá. Đánh giá có liên quan

chặt chẽ với kiểm tra, dựa vào kết quả kiểm tra và là kết quả của kiểm tra. Do
đó, kiểm tra, đánh giá thường đi liền với nhau, kiểm tra là để đánh giá và đánh
giá phải dựa vào kiểm tra, là mục đích của kiểm tra” [28, tr. 56].
Từ điển Giáo dục học định nghĩa: “Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
của HS là hai khâu có quan hệ mật thiết với nhau. Kiểm tra nhằm cung cấp
thông tin để đánh giá và đánh giá thông qua kết quả của kiểm tra. Hai khâu đó
hợp thành một quá trình thống nhất” [47].
Như vậy, có thể khái quát: Kiểm tra, đánh giá là hai quá trình có quan
hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau. Kiểm tra là để đánh giá và đánh giá phải
dựa trên cơ sở của kiểm tra.
* Khái niệm kết quả học tập
Có nhiều quan niệm về KQHT của HS (thành tích học tập của HS).


17
Các tác giả Hoàng Đức Nhuận và Lê Đức Phúc đã đưa ra cách hiểu về
KQHT như sau: KQHT là một khái niệm thường được hiểu theo hai quan niệm
khác nhau trong thực tế cũng như trong khoa học. Theo quan niệm thứ nhất, thì
KQHT là thành tích mà một chủ thể học tập đã đạt, được xem xét trong mối
quan hệ với công sức, thời gian đã bỏ ra với mục tiêu xác định (mức độ đạt được
theo tiêu chí). Theo quan niệm thứ hai, thì KQHT là thành tích đã đạt được của
một HS so với các bạn học khác (mức độ đạt được theo tiêu chuẩn) [34].
Theo tác giả Nguyễn Đức Chính: “Kết quả học tập là mức độ kiến thức,
kỹ năng hay nhận thức của người học trong một lĩnh vực nào đó” [6].
Tác giả Trần Kiều thì cho rằng: “Dù hiểu theo nghĩa nào thì kết quả học
tập cũng đều thể hiện ở mức độ đạt được các mục tiêu của dạy học, trong đó
bao gồm ba mục tiêu lớn là: nhận thức, hành động, xúc cảm. Với từng môn
học thì các mục tiêu trên được cụ thể hoá thành các mục tiêu về kiến thức, kĩ
năng, thái độ” [17].
Các quan điểm về KQHT nói trên tuy khác nhau ở cách tiếp cận, nhưng

đều thống nhất ở một điểm, đó là: Kết quả học tập chính là mức độ đạt được
của người học về kiến thức, kĩ năng, thái độ trong một lĩnh vực nào đó.
Kết quả học tập của HS là cơ sở quan trọng nhất để đánh giá kết quả
hoạt động dạy học. KQHT được thể hiện ở mức độ mà người học đạt được so
với các mục tiêu đã xác định hay ở mức độ mà người học đạt được trong
tương quan chung với những người cùng học khác trong lớp.
* Khái niệm kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh
Từ những phân tích trên, có thể hiểu KT, ĐG KQHT của HS như sau:
Kiểm tra, đánh giá KQHT của HS là quá trình tiến hành có hệ thống,
nhằm xác định mức độ đạt được về trình độ nắm kiến thức, sự phát triển trí
tuệ, kỹ năng và thái độ của HS trong học tập các môn học, từ đó điều chỉnh
quá trình dạy học.


18
Kiểm tra, đánh giá KQHT là một khâu quan trọng không thể thiếu của
quá trình dạy học. Theo tác giả Đỗ Hạnh Nga và tác giả Bùi Thị Kim Dung
thì vai trò lớn nhất của KT, ĐG KQHT là đóng góp vào quá trình cải tiến việc
dạy và học. KT, ĐG KQHT đã và đang được sử dụng như một biện pháp cải
tiến quá trình dạy và học trong nhà trường phổ thông [31, tr. 18, 22]. Như vậy,
KT, ĐG KQHT là một biện pháp then chốt trong việc nâng cao chất lượng
dạy học.
Kiểm tra, đánh giá là một khâu quan trọng của quá trình dạy học, thông
qua kiểm tra, đánh giá KQHT của HS giúp cho GV thu được những thông tin
ngược, phát hiện thực trạng KQHT của HS cũng như những nguyên nhân cơ
bản dẫn tới thực trạng kết quả đó. Đó là cơ sở thực tế để GV điều chỉnh, hoàn
thiện hoạt động dạy học và hướng dẫn HS tự điều chỉnh, tự hoàn thiện hoạt
động học của bản thân.
Kiểm tra, đánh giá KQHT giúp HS có cơ hội ôn tập, củng cố tri thức,
phát triển trí tuệ. Đồng thời, thông qua KT, ĐG, HS có điều kiện để tự kiểm

tra về mức độ lĩnh hội tri thức, trình độ tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, phương pháp
học tập, từ đó có thể tự điều chỉnh cách học. KT, ĐG KQHT giúp HS hình
thành nhu cầu, thói quen tự KT, ĐG, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong học
tập, rèn luyện tính kỉ luật, tính tự giác và ý chí vươn lên trong học tập.
Trên cơ sở các kết quả thu được qua KT, ĐG KQHT của HS, các cấp
quản lí đưa ra những quyết định đúng đắn, chỉ đạo kịp thời hoạt động dạy học
trong nhà trường, đảm bảo nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học.
Kiểm tra, đánh giá KQHT của HS luôn được xác định là khâu quan
trọng, không thể tách rời của quá trình dạy học. Cùng với sự phát triển của lý
luận dạy học hiện đại, cùng với yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và
đào tạo, thì đổi mới KT, ĐG là một xu hướng tất yếu và cần thiết.


19
Tài liệu Bồi dưỡng phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên, Cục nhà
giáo và CBQL cơ sở Giáo dục, Bộ GD&ĐT [37] xác định xu hướng KT, ĐG
KQHT hiện nay như sau:
Thứ nhất, chuyển dần trọng tâm từ việc đánh giá kết quả cuối cùng
sang đánh giá cả quá trình, đảm báo cho việc đánh giá toàn diện hơn, đầy đủ
hơn nội dung môn học, giúp HS có nhiều cơ hội hơn để thể hiện mình, và
giảm bớt sức ép từ việc KT, ĐG.
Thứ hai, chuyển từ đánh giá các kĩ năng riêng lẻ sang các kĩ năng tổng
hợp. Không chỉ đánh giá khả năng nhớ, hiểu, mà còn đánh giá khả năng hiểu
sâu, khả năng lập luận, đánh giá kĩ năng vận dụng kiến thức, nhấn mạnh đến
kĩ năng tư duy, làm việc nhóm.
Thứ ba, chuyển từ đánh giá dựa trên ít thông tin sang đánh giá nhiều thông
tin đa dạng, người học tự đánh giá và đánh giá từ các chủ thể khác nhau.
Thứ tư, chuyển từ xem xét đánh giá như là một hoạt động độc lập với
quá trình dạy học sang là một bộ phận tích hợp của quá trình dạy học. Chúng
được tiến hành liên tục trong quá trình giảng dạy nhằm giúp cho GV có

những quyết định phù hợp trong các thời điểm giảng dạy, giúp HS tích cực
hơn trong học tập.
Thứ năm, chuyển từ việc giữ kín tiêu chuẩn, tiêu chí sang công khai
tiêu chuẩn và tiêu chí đánh giá.
Xu hướng KT, ĐG KQHT trên sẽ không chỉ phổ biến ở trong nước mà
còn phổ biến ở nhiều nước trên thế giới.
1.1.2. Khái niệm quản lí hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả học
tập của học sinh trung học cơ sở
* Khái niệm quản lí
Khi xã hội loài người xuất hiện, một loạt các quan hệ như quan hệ giữa
con người với con người, giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với


20
xã hội… đã làm nảy sinh nhu cầu về quản lí. Quản lí trở thành một thuộc tính
gắn liền với xã hội ở mọi giai đoạn phát triển.
Trong một công trình nghiên cứu của mình, tác giả Nguyễn Ngọc
Quang đã đề cập đến quan điểm của Mác cho rằng quản lí là một chức năng
tất yếu của lao động xã hội, nó luôn gắn chặt với sự phân công và phối hợp
[38, tr. 326].
Theo Từ điển Giáo dục học: “Quản lí là hoạt động hay tác động có định
hướng, có chủ định của chủ thể quản lí đến khách thể quản lí trong một tổ
chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích” [47].
Theo tác giả Hồ Văn Vĩnh: “Quản lí là sự tác động có tổ chức, có
hướng đích của chủ thể quản lí đến đối tượng quản lí nhằm đạt được mục tiêu
đã đề ra” [48, tr. 15].
Các tác giả Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt lại đưa ra khái niệm quản lí
một cách cụ thể hơn: “Quản lí là những tác động của chủ thể quản lí trong
việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn
lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một

cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất” [33].
Từ những cách định nghĩa trên, ta có thể quan niệm: Quản lí là sự tác
động một cách có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lí đến đối tượng
quản lí nhằm vận hành tổ chức để đạt được các mục tiêu của tổ chức.
* Khái niệm quản lí giáo dục
Giáo dục là một hoạt động đặc trưng của xã hội. Đây là hoạt động
nhằm thực hiện quá trình truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội
qua các thế hệ, đồng thời là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Giáo
dục được tổ chức thành các cơ sở, tạo nên một hệ thống thống nhất. Điều này
dẫn đến một tất yếu là phải có sự quản lí giáo dục. Quản lí giáo dục là một
hoạt động chuyên biệt để quản lí các cơ sở giáo dục.


21
Theo M.I.Kônđacốp, thì: “Quản lí giáo dục là tác động có hệ thống, có
kế hoạch và hướng đích của chủ thể quản lí đến tất cả các mắt xích của hệ
thống nhằm đảm bảo sự hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ” [24, tr. 10].
Tác giả Nguyễn Gia Quý khái quát: “Quản lí giáo dục là sự tác động có
ý thức của chủ thể quản lí đến khách thể quản lí nhằm đưa hoạt động giáo dục
tới mục tiêu đã định, trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng những quy luật
khách quan của hệ thống giáo dục quốc dân” [39, tr. 12].
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang quan niệm: “Quản lí giáo dục là hệ thống
những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lí
nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối, nguyên lý của Đảng, thực hiện
được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm
hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo dục đến
mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất” [38, tr. 35].
Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng: “Quản lí giáo dục theo nghĩa tổng
quát là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh
công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển của xã hội” [4, tr. 3].

Từ các định nghĩa trên, có thể khái quát: Quản lí giáo dục là những tác
động có chủ định của chủ thể quản lí đến đối tượng quản lí nhằm đạt đến
những mục tiêu đã xác định. Quản lí giáo dục là những yếu tố quan trọng tác
động đến chất lượng đào tạo, là nhân tố quan trọng để phát triển sự nghiệp
giáo dục.
Quản lí giáo dục được xem xét ở hai góc độ: Quản lí vĩ mô và quản lí
vi mô. Quản lí vĩ mô được hiểu là những tác động tự giác của các chủ thể
quản lí đến các mắt xích trong hệ thống giáo dục quốc dân, để hệ thống giáo
dục vận hành có hiệu quả trong thực hiện mục tiêu phát triển giáo dục. Quản
lí giáo dục ở cấp độ vi mô là những tác động của chủ thể quản lí đến quá trình


22
giáo dục trong các nhà trường, các cơ sở giáo dục; nhằm thực hiện có chất
lượng, hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường, của cơ sở giáo dục.
* Khái niệm quản lí nhà trường
Trường học là một bộ phận của xã hội, là tổ chức giáo dục cơ sở của hệ
thống giáo dục quốc dân. Hoạt động dạy và học là hoạt động trung tâm của
nhà trường. Mọi hoạt động phức tạp đa dạng khác đều hướng vào hoạt động
trung tâm này. Như vậy, quản lí trường học thực chất là: “Quản lí hoạt động
dạy - học, tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái
khác để dần dần tiến tới mục tiêu giáo dục” [20, tr. 35].
Tác giả Phạm Minh Hạc đã đưa ra quan niệm khái quát về quản lí nhà
trường: “Quản lí nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng, trong
phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý
giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo
dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh” [12, tr. 22].
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang, thì: “Quản lí nhà trường nhất thiết
phải vừa có tính nhà nước vừa có tính xã hội” [38].
Từ những cách nhìn ở trên cho thấy: Quản lí trường học là hoạt động

của các cơ quan quản lí nhằm tập hợp và tổ chức hoạt động của GV, HS và
các lực lượng giáo dục khác, cũng như huy động tối đa các nguồn lực để
nâng cao chất lượng GD&ĐT trong nhà trường.
* Khái niệm quản lí hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
Quản lí hoạt động KT, ĐG là một nội dung chủ yếu trong quản lí nhà
trường. Quản lí hoạt động KT, ĐG KQHT là quá trình lập kế hoạch, tổ chức,
lãnh đạo và kiểm tra quá trình KT, ĐG nhằm đánh giá chính xác KQHT và
thực hiện tốt nhất những mục tiêu KT, ĐG đã đề ra. Các yếu tố của quản lí
KT, ĐG bao gồm: Quá trình KT, ĐG; Chủ thể quản lí là người lãnh đạo (đề ra
cơ chế, chính sách, quy chế, quy định về KT, ĐG) và CBQL chuyên trách


23
(vừa quản lí nhưng cũng vừa thực hiện trực tiếp); đối tượng bị quản lí (GV,
HS...). Đồng thời, quản lí KT, ĐG có mối quan hệ ràng buộc với các chức
năng quản lí khác như: quản lí chương trình đào tạo, quản lí hoạt động dạy học, quản lí nhân sự, quản lí tài chính...
Như vậy, Quản lí hoạt động KT, ĐG KQHT là tổng hợp các tác động
một cách có khoa học, có tổ chức của chủ thể quản lí đến hoạt động KT, ĐG,
nhằm thực hiện có hiệu quả hoạt động KT, ĐG và nâng cao chất lượng dạy
học trong các nhà trường.
Hoạt động KT, ĐG ở các bậc học khác nhau, cấp học khác nhau có đặc
điểm khác nhau và cùng với đó là có quá trình quản lí khác nhau. Quản lí hoạt
động hoạt động KT, ĐG ở trường THCS phải gắn với chức năng, quyền hạn,
đặc điểm của các trường THCS và quan trọng nhất là phải gắn với đặc điểm
dạy học ở THCS.
Tại Điều 2, Điều lệ Trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và
trường phổ thông có nhiều cấp học (Ban hành kèm theo Thông tư

số:


12/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3 /2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo), đã
chỉ rõ: “Trường trung học là cơ sở giáo dục phổ thông của hệ thống giáo dục quốc
dân. Trường có tư cách pháp nhân, có tài khoản và có con dấu riêng” [10].
Tại Điều 3, Điều lệ Trường trung học cơ sở, trường trung học phổ
thông và trường phổ thông có nhiều cấp học (Ban hành kèm theo Thông tư
số: 12/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3/2011 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT), trường
trung học có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
- Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác theo mục
tiêu, chương trình giáo dục phổ thông dành cho cấp THCS và cấp THPT do
Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành. Công khai mục tiêu, nội dung các hoạt động
giáo dục, nguồn lực và tài chính, kết quả đánh giá chất lượng giáo dục.
- Quản lí GV, cán bộ, NV theo quy định của pháp luật.


24
- Tuyển sinh và tiếp nhận HS; vận động HS đến trường; quản lí HS
theo quy định của Bộ GD&ĐT.
- Thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục trong phạm vi được phân công.
- Huy động, quản lí, sử dụng các nguồn lực cho hoạt động giáo dục.
Phối hợp với gia đình HS, tổ chức và cá nhân trong hoạt động giáo dục.
- Quản lí, sử dụng và bảo quản CSVC, trang thiết bị theo quy định của
Nhà nước.
- Tổ chức cho GV, NV, HS tham gia hoạt động xã hội.
- Thực hiện các hoạt động về kiểm định chất lượng giáo dục.
- Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
- Mục tiêu quản lí của trường THCS tập trung vào nội dung căn bản sau:
+ Mục tiêu về kế hoạch phát triển số lượng từng lớp, HS.
+ Mục tiêu về chất lượng giáo dục toàn diện, chất lượng hạnh kiểm,
học lực, các mặt giáo dục khác.
+ Mục tiêu về xây dựng đội ngũ cán bộ GV.

+ Mục tiêu về xây dựng cơ sở vật chất trang thiết bị trường học.
+ Mục tiêu xây dựng hệ thống chính trị quản lí nhà trường.
+ Mục tiêu tăng cường về quản lí.
+ Mục tiêu xã hội hóa giáo dục.
+ Mục tiêu về bồi dưỡng đội ngũ GV giỏi, HS giỏi.
+ Mục tiêu về kế hoạch xây dựng trường chuẩn quốc gia [10].
Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu quản lí hoạt động KT, ĐG
KQHT của HS THCS như sau:
Quản lí hoạt động KT, ĐG KQHT của HS THCS là tổng hợp các tác
động của chủ thể quản lí đến hoạt động KT, ĐG KQHT của HS ở các trường
THCS, nhằm thực hiện có hiệu quả hoạt động KT, ĐG và mục tiêu, nhiệm vụ
dạy học trong các trường THCS.


25
Mục tiêu của quản lí hoạt động KT, ĐG KQHT của HS THCS là nhằm
thực hiện có hiệu quả hoạt động KT, ĐG; từ đó thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ
giáo dục ở các trường THCS. Đó là thực hiện có hiệu quả việc trang bị kiến
thức, kỹ xảo, kỹ năng, phát triển trí tuệ, giáo dục các phẩm chất nhân cách cho
HS theo chương trình giáo dục THCS và phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi
HS THCS.
Chủ thể quản lí hoạt động KT, ĐG của HS THCS bao gồm: HT, Ban
giám hiệu, tổ trưởng tổ chuyên môn, GV và HS. Trong đó HT có vai trò quan
trọng nhất.
Nội dung quản lí hoạt động KT, ĐG kết quả học tập của HS THCS bao
gồm: quản lí các văn bản quy định, hướng dẫn về KT, ĐG; quản lí lực lượng
tham gia KT, ĐG; quản lí thời gian KT, ĐG; quản lí quy trình KT, ĐG; quản lí
nội dung, phương pháp KT, ĐG; quản lí kết quả KT, ĐG.
1.1.3. Khái niệm biện pháp quản lí của Hiệu trưởng trong hoạt động
kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh

Trong các nhà trường nói chung, trường THCS nói riêng, HT có vị trí
cao nhất, trung tâm nhất trong việc điều hành và xử lý các công việc liên quan
đến mọi hoạt động của nhà trường.
Hiệu trưởng là thủ trưởng của đơn vị, chịu trách nhiệm hoàn toàn về
các mặt hoạt động của nhà trường. HT có thẩm quyền cao nhất về mặt hành
chính và chuyên môn, thay mặt nhà trường xây dựng mối liên kết giữa nhà
trường với cộng đồng, với các lực lượng xã hội nói chung để tạo môi trường
giáo dục lành mạnh, nâng cao chất lượng giáo dục.
Điều 54, Luật giáo dục đã chỉ rõ nhiệm vụ, quyền hạn của HT: HT là
người chịu trách nhiệm quản lí các hoạt động của nhà trường do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền bổ nhiệm, công nhận [23].


×